Thứ Ba, 17 tháng 5, 2022

20220518. SAI PHẠM Ở VIỆN HÀN LÂM KHXH VIỆT NAM (4)

 ĐIỂM BÁO MẠNG


NHỨC NHỐI LUẬN ÁN TS: LÀ MỘT DẠNG THAM NHŨNG, THAM NHŨNG 

BẰNG CẤP ĐỂ THĂNG TIẾN

NGÂN CHI/GDVN 15-5-2022

GDVN- Theo Giáo sư Nguyễn Anh Trí, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần sớm thẩm định lại các luận án tiến sĩ, làm trên diện rộng và ưu tiên những đề tài được dư luận lên tiếng.

Những ngày gần đây, dư luận đang xôn xao về những tên đề tài luận án tiến sĩ mà “nếu chỉ đọc tên sẽ không thấy được hàm lượng khoa học hay ý nghĩa về mặt thực tiễn”. Từ đây, rất nhiều câu hỏi lại đặt ra về chất lượng chuyên môn của các luận án tiến sĩ.

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Đại biểu Quốc Hội, Giáo sư, Anh hùng Lao động Nguyễn Anh Trí đã thẳng thắn bày tỏ góc nhìn về những hiện tượng luận án tiến sĩ chất lượng thấp và nêu một số biện pháp ngăn chặn.

Hiện tượng “đói” đề tài và những luận án nhân bản

Phóng viên: Thưa Giáo sư Nguyễn Anh Trí, vừa qua, dư luận xã hội đang đề cập rất nhiều về vấn đề có những luận án tiến sĩ không bảo đảm chất lượng, về giá trị học thuật cũng như ý nghĩa thực tiễn. Quan điểm của ông đối với hiện tượng trên như thế nào?

Giáo sư Nguyễn Anh Trí: Đúng như vậy! Trong thời gian qua, đang rộ lên rất nhiều tin tức nói về một số cơ sở đào tạo nghiên cứu sinh, đã có những đề tài tồn tại hai vấn đề. Thứ nhất là số lượng luận án hoàn thành rất nhiều trong một khoảng thời gian ngắn và thứ hai là về mặt nội dung, chưa đủ tầm với yêu cầu, đòi hỏi của một luận án tiến sĩ.

Về cách thức, đây thực sự chưa phải là một đề tài nghiên cứu để tạo ra một luận án, mà giống như một bài báo cáo hay tổng kết thì đúng hơn. Về tốc độ “sản xuất” ra những luận án tiến sĩ này, nhanh đến mức khó hình dung nổi.

Giáo sư, Anh hùng Lao động Nguyễn Anh Trí trao đổi với phóng viên về những luận án tiến sĩ đang gây ồn ào trong dư luận. (Ảnh: NVCC).

Đó là những khía cạnh mà tôi đã nghe được. Có thể kể đến một số đề tài luận án đã từng và đang khiến dư luận xôn xao như: “Nghiên cứu giải pháp phát triển môn Cầu lông cho công chức viên chức thành phố Sơn La”; “Đặc điểm giao tiếp với dân của chủ tịch ủy ban nhân dân xã” hay “Hành vi nịnh trong tiếng Việt”, “Hành vi ngôn ngữ thề của người Việt”...

Khi đi sâu vào tìm hiểu, tôi thấy rằng, những điều dư luận nói và báo chí phản ánh có lẽ là đúng, rất cần phải được tìm hiểu thêm và có sự chỉnh đốn.

Phóng viên: Qua thực tiễn, Giáo sư đánh giá như thế nào về chất lượng các luận án tiến sĩ; và về trình độ của nghiên cứu sinh trong giai đoạn vừa qua, có vấn đề gì cần trao đổi?

Giáo sư Nguyễn Anh Trí: Tính đến thời điểm hiện tại, tôi cũng đã có hơn 35 năm giảng dạy ở bậc đại học và sau đại học. Tôi xin có một nhận xét chung như sau:

Nhìn chung, chất lượng luận án tiến sĩ, hay kể cả luận văn thạc sĩ ở các trường đại học, ở các cơ sở nghiên cứu được phép đào tạo nghiên cứu sinh, trong 10 năm trở lại đây, có xu hướng phân thành hai thái cực.

Thái cực thứ nhất, là nhóm những nghiên cứu sinh nghiên cứu những vấn đề hết sức sâu sắc, rất hay, rất cập nhật và ngang tầm với quốc tế. Đặc biệt, trong ngành y, có không ít nghiên cứu sinh nghiên cứu những đề tài, bảo vệ được những luận án thành công rất chất lượng, khiến người làm thầy như tôi cảm thấy rất mỹ mãn, tôi tự hào về họ.

Nhưng thái cực thứ hai lại là nhóm nghiên cứu sinh có những luận án làng nhàng, thậm chí, có thể nói là chất lượng yếu kém, mà chủ yếu lại gặp ở những lĩnh vực mang tính xã hội.

Cũng dễ hiểu thôi. Bởi, ví dụ như trong ngành y, các nghiên cứu có “số đo” về mặt số lượng, chất lượng, có chỉ số do máy móc đo được; còn vấn đề về xã hội, đo lường thái độ, sự quyết tâm, tinh thần... chẳng hạn, tôi nghĩ là khó! Tôi không nói tất cả đều xấu, nhưng rõ ràng là trong lĩnh vực ấy, phải nói thẳng là rất dễ xảy ra hiện tượng: chất lượng không đảm bảo.

Cũng chính vì “số đo” không có, nên dẫn đến một tình trạng, đó là làm luận án theo kiểu nhân bản lên được. Tôi lấy ví dụ, vừa rồi báo chí cũng có đưa một số đề tài luận án cứ “na ná” nhau, cùng mô tip ngay ở tên đề tài khiến dư luận không khỏi băn khoăn.

Bên cạnh đó, tôi thấy có một lý do khá quan trọng, có thể khiến những luận án như vậy vẫn còn “cơ hội” xuất hiện, đó là vấn đề áp lực để thăng tiến. Tôi cho vấn đề này là một tác động rất đáng để suy nghĩ.

Phóng viên: Vâng, Thưa Giáo sư, được biết, ông cũng đã tham gia giảng dạy và hướng dẫn thành công nhiều luận án tiến sĩ. Vậy, Giáo sư đã từng gặp hiện tượng tương tự chưa?

Giáo sư Nguyễn Anh Trí: Cho đến bây giờ, tôi cũng đã tham gia hướng dẫn nhiều luận văn, luận án. Cụ thể, tôi đã hướng dẫn khoảng 28 luận văn thạc sĩ; 5 luận án chuyên khoa II và khoảng 30 luận án tiến sĩ bảo vệ thành công.

Tôi có thể cam đoan, học viên của tôi, không ai làm những luận án tiến sĩ với trình độ như vậy, với chất lượng như vậy và với tốc độ như vậy.

Vì sao lại thế? Thứ nhất, vì tôi rất nghiêm khắc. Trong quá trình giảng dạy, mọi người đều biết rằng, tôi là một người rất nghiêm khắc.

Thứ hai, với cương vị của một Viện trưởng viện đầu ngành (Viện trưởng Viện Huyết học & Truyền máu Trung ương trước năm 2017 - phóng viên), Chủ tịch Hội Huyết học Truyền máu Việt Nam cũng như Chủ tịch nhiều Hội đồng khoa học khác,... tôi có đủ đề tài để đưa cho nghiên cứu sinh làm và có thể hướng dẫn họ làm thành công. Vấn đề về đề tài cũng rất quan trọng, vì tôi biết rằng, có một hiện tượng ở rất nhiều cơ sở là “đói” đề tài, tức là không tìm ra đề tài. Cùng với đó, là thái độ làm việc nghiêm túc, say mê của một người làm khoa học, sẽ không thể để hiện tượng như vậy xảy ra.

Theo Giáo sư Nguyễn Anh Trí, có một hiện tượng vẫn tồn tại ở rất nhiều cơ sở là “đói” đề tài, tức là không tìm ra đề tài. (Ảnh: NVCC).

Một điều nữa, khi tôi hướng dẫn nghiên cứu sinh, thường không có áp lực. Bởi tôi hiểu, nhiều khi, chính bản thân thầy hướng dẫn cũng phần nào chịu áp lực, phải hướng dẫn thành công cho nghiên cứu sinh để đủ “chỉ tiêu” điền vào hồ sơ làm học hàm. Nhìn vậy nhưng áp lực đôi khi cũng quan trọng lắm! Điều đó giống như áp lực thăng tiến ấy.

Gian lận nguy hiểm hơn mọi gian lận khác

Phóng viên: Thưa Giáo sư, có ý kiến cho rằng, yêu cầu luận án tiến sĩ có công bố quốc tế là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để có “tiến sĩ thật” và những đề tài có thể xem là “dễ dãi” kia tồn tại được là do bỏ yêu cầu công bố quốc tế. Giáo sư có đồng tình với quan điểm này không?

Giáo sư Nguyễn Anh Trí: Nhìn chung, đối với tất cả các ngành, kể cả ngành y của chúng tôi, cũng đều có một vấn đề, đó là xu hướng làm cho nghiên cứu sinh dễ hơn, đơn giản hơn, nhẹ nhàng hơn. Xu hướng này tất nhiên cũng có tính ưu việt riêng, song, đây lại là “mảnh đất màu mỡ” để “đẻ” ra những luận án chất lượng kém.

Phóng viên: Được biết, đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho biết, sẽ thẩm định lại chất lượng các luận án tiến sĩ đang gây ồn ào trong dư luận. Giáo sư đánh giá thế nào về động thái này?

Giáo sư Nguyễn Anh Trí: Thông qua thông tin trên báo chí, tôi cũng được biết, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nhận ra được những luận án chất lượng thấp, thậm chí là kém đã “lọt lưới”. Cho nên, Bộ đang có chủ trương thẩm định lại những luận án có phản ánh và có ý kiến của dư luận, theo đúng quy chế hiện hành.

Cá nhân tôi rất ủng hộ chủ trương này. Tôi cho rằng đây là việc rất nên làm, cực kỳ nên làm, để trả lời trước dư luận: Có hiện tượng này không; nếu có, thì trầm trọng đến mức nào? Qua đó, phải tìm ra được nguyên nhân, lý do, từ đó, tìm ra cách thức sửa, tức là phải “tìm đúng bệnh” thì mới ra “phương thuốc chữa”.

Tôi mong, Bộ Giáo dục và Đào tạo sớm thẩm định lại các luận án tiến sĩ, và đề nghị phải làm trên diện rộng. Đặc biệt, phải ưu tiên với những đề tài, nhóm đề tài những lĩnh vực đã được dư luận lên tiếng, bởi đây không phải lần duy nhất dư luận có những băn khoăn này. Bộ phải coi đây là sự thay mặt Chính phủ để giám sát thật tốt, trả lời cho công luận những câu hỏi đang băn khoăn ở trên. Đồng thời, việc làm này cũng góp phần làm lành mạnh hóa vấn đề đào tạo nghiên cứu sinh ở Việt Nam chúng ta.

Tôi cũng xin lưu ý, gian lận này còn nguy hiểm hơn tất cả mọi gian lận khác. Vì sao?

Vì gian lận này “chắp cánh” cho những người chưa tốt, không tốt được tham gia vào bộ máy quản lý, lãnh đạo, nên sẽ rất nguy hiểm. Vì đáng lẽ, những người đó phải là người gương mẫu, phải là những tấm gương, là những người có thể là thầy, là anh, là thủ trưởng trong một đơn vị, thậm chí trong một ngành, một Bộ...

Mà tôi xin khẳng định, một trong những lý do, “động lực” tôi thấy rất nhiều, ở các nghiên cứu sinh, đó là sự thăng tiến, có nghĩa là làm lãnh đạo, làm người quản lý. Nếu người quản lý, lãnh đạo mà không là tấm gương, có thể làm cho cả cơ quan, cả ngành, thậm chí là cả xã hội bị xấu đi. Chính vì vậy, phải làm cho triệt để.

Cần xem lại chính sách bổ nhiệm cán bộ đi cùng với bằng cấp

Phóng viên: Vậy, có biện pháp nào có thể giải quyết căn cơ và ngăn chặn hiện tượng này không, thưa Giáo sư?

Giáo sư Nguyễn Anh Trí: Trong phạm vi một bài báo, để nói vấn đề này thì tôi e là không thể bàn hết được. Vì đây là vấn đề liên quan đến chất lượng đào tạo của cả một đất nước, liên quan đến nhu cầu, yêu cầu, mà nhu cầu thì cũng có nhu cầu lành mạnh, nhu cầu không lành mạnh, thậm chí có thể là nhu cầu xấu. Bên cạnh đó, còn liên quan đến vấn đề thuộc về tính kỷ luật, tính nghiêm minh trong tất cả mọi vấn đề của một quốc gia.

Chúng ta phải hiểu được rằng, việc gian lận đó là bản chất một dạng tham nhũng. Tham nhũng bằng cấp, để thăng tiến. Như vậy, còn liên quan đến vấn đề chính sách. Tôi lấy ví dụ, giống như chuyện đưa tiêu chuẩn là phải có ngoại ngữ mới được bổ nhiệm, thì dẫn đến người người đổ xô đi học ngoại ngữ, trong khi có cả học thật, học giả lẫn lộn.

Đặc biệt, có một quan niệm hết sức sai lầm, cho rằng trình độ thạc sĩ sẽ hơn đại học, tiến sĩ hơn thạc sĩ... Vấn đề này tôi đã từng phản đối trước Quốc hội. Tôi biết, không thiếu người chuyên môn rất giỏi nhưng vì không có điều kiện nghiên cứu, hoặc không có nhu cầu trở thành thạc sĩ, tiến sĩ... Ví như trong ngành y, niềm tự hào là tay nghề chứ không phải chỉ ở học hàm, học vị.

Chính vì trong chính sách vẫn còn đưa học hàm, học vị vào tiêu chuẩn đánh giá cán bộ thì sẽ còn tình trạng đua nhau đi học.

Đối với hiện tượng này, phải tùy theo từng nhóm nguyên nhân mà có cách giải quyết cho phù hợp. Phía trên, chúng ta có đề cập một biện pháp, đó là Bộ Giáo dục và Đào tạo phải tổng thể giám sát lại tất cả những luận án tiến sĩ. Tuy nhiên, đó chỉ là một trong vô vàn biện pháp.

Đầu tiên, phải xây dựng một xã hội học tập lành mạnh, học tập vì kiến thức, vì muốn có kiến thức, tay nghề, chứ không phải học tập vì muốn đối phó. Phải thay đổi được tư duy, coi trọng người có kiến thức chứ không phải chỉ đơn giản coi trọng người có bằng cấp và xem đó là thước đo duy nhất. Đây là cuộc cách mạng về văn hóa, cách mạng về tư tưởng, cho nên phải có thời gian để thay đổi.

Thứ hai, phải xem lại chính sách bổ nhiệm cán bộ đi cùng với bằng cấp, vì vô tình nó trở thành một chất xúc tác để thúc đẩy xã hội chạy theo bằng cấp.

Thứ ba, rất quan trọng, các trường đại học đừng giảng dạy vì tiền. Một số đơn vị được phép đào tạo nghiên cứu sinh vẫn xin thêm chỉ tiêu hằng năm, để được thêm kinh phí; và được thêm “quyền ban phát bằng cấp”, vì lợi ích cá nhân, mà chắc chắn nhẹ thì phong bì phong bao, còn không thì có đổi chác để “mọi việc êm xuôi”. Tôi xin nhấn mạnh, đây là một tiêu cực rất nguy hiểm.

Bên cạnh đó, nhóm các thầy hướng dẫn phải thực sự nghiêm khắc, trách nhiệm, tận tụy hướng dẫn cho nghiên cứu sinh, phải tìm ra được cho nghiên cứu sinh những đề tài hay, có giá trị; đồng thời, thầy và hội đồng phải làm việc thực sự nghiêm túc, hiệu quả. Tôi thấy, bây giờ có một xu hướng là hội đồng “giơ cao đánh khẽ”, nhưng đây là điều rất không nên. Hội đồng cần nghiêm khắc, trách nhiệm, tận tâm tận lực để có những luận án đạt chất lượng.

Kế đến là công tác “hậu kiểm” phải được làm kịp thời, thường xuyên. Chẳng hạn, sau khi bảo vệ xong một luận án, phải đề ra kế hoạch giám sát chất lượng đào tạo, chất lượng luận án đó và phải đánh giá được những đóng góp, tác động của luận án ấy vào thực tiễn cuộc sống. Theo tôi, phải đưa giám sát định kỳ (chẳng hạn sau 5 năm lại đánh giá lại) vào tiêu chuẩn. Chứ còn luận án làm xong mà vô nghĩa, thì làm để làm gì?

Cuối cùng, phải có chế tài rất mạnh, rất nghiêm khắc, để xử lý những gian lận. Bởi vì, như tôi đã nói, những gian lận này rất nguy hiểm, làm băng hoại đạo đức xã hội.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của Giáo sư!

Ngân Chi
NGHỊCH LÝ BẢO VỆ LUẬN ÁN TS: QUY TRÌNH CHẶT CHẼ NHƯNG VÂN ĐỂ LỌT ĐỂ TÀI CÓ 'VẤN ĐỀ'
TRẦN LÝ/GDVN 15-5-2022
GDVN-Theo Giáo sư Đỗ Thanh Bình, để tránh xảy ra những sai sót không đáng có đối với luận án tiến sĩ thì các cơ sở đào tạo giáo dục nên làm chặt chẽ ngay từ bước đầu.

Những ngày gần đây, giới học thuật và dư luận xôn xao về luận án tiến sĩ có tên “Nghiên cứu giải pháp phát triển môn cầu lông cho công chức viên chức thành phố Sơn La”.

Nhiều nhà khoa học cho rằng những luận án tiến sĩ không xứng “tầm”, không thể hiện rõ được nội dung khoa học như trên là thực tế không lạ trong nền giáo dục đại học Việt Nam hiện nay. Ngay sau đó, đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo thông tin tới dư luận rằng với những luận án có phản ánh và có ý kiến của dư luận, Bộ sẽ tiến hành thẩm định theo đúng quy chế hiện hành.

Cần thu hồi những luận án không đủ “tầm”

Để nhìn nhận kỹ hơn về vấn đề này, trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư Đỗ Thanh Bình - nguyên Trưởng Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho biết, đối với những đề tài không đủ “tầm”, không có hàm lượng khoa học cao, không đem lại tính ứng dụng cho xã hội thì sau quá trình hậu kiểm cần phải thu hồi lại.

Tất nhiên, có thể có những trường hợp đã bảo vệ thành công luận án và được công nhận tiến sĩ, tuy nhiên khi hậu kiểm phát hiện đề tài có vấn đề, luận án của nghiên cứu sinh không đạt thì áp dụng theo đúng quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ đó là thu hồi văn bằng này.

Giáo sư Đỗ Thanh Bình - nguyên Trưởng Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (ảnh: NVCC)

Theo Giáo sư Đỗ Thanh Bình, để tránh xảy ra những sai sót không đáng có, các cơ sở đào tạo giáo dục nên làm chặt chẽ ngay từ bước đầu.

Trước tiên, nghiên cứu sinh đề xuất đề tài, người hướng dẫn có nhiệm vụ đánh giá xem xét nhiều yếu tố, đề tài có khả năng phát triển được không. Sau đó, nghiên cứu sinh tiến hành làm đề cương sơ bộ để đưa ra bộ môn giống như ‘hội đồng hẹp’ của chuyên ngành đó.

Thứ hai, khi được ‘hội đồng hẹp’ thông qua thì đăng ký đề tài với cơ sở đào tạo.

Thứ ba, nghiên cứu sinh hoàn thành luận án phải đưa luận án cho những người trong bộ môn, chuyên ngành đó đọc từ ít nhất một tuần đến nửa tháng. Đọc xong, họ mang luận án đó ra tổ bộ môn thảo luận kỹ các vấn đề như nội dung khoa học, ý nghĩa đề tài, cấu trúc triển khai,..

Ngoài ra, luận án sẽ được đưa đến ít nhất 2 người phản biện kín thẩm định lại. Nếu trong 2 người có 1 người kết luận thông qua và người còn lại không thông qua thì luận án sẽ được gửi đến người thứ 3. Sau khi thảo luận và góp ý, nghiên cứu sinh tiếp thu, chỉnh sửa lại và hoàn thiện.

Thứ tư, nghiên cứu sinh chỉnh sửa xong, cơ sở đào tạo có nhiệm vụ thành lập một hội đồng gồm 7 thành viên hay còn gọi là bảo vệ luận án ở cấp bộ môn. Hội đồng đó sẽ xem xét, đưa ra những góp ý, nhận xét về nội dung và hình thức để nghiên cứu sinh chỉnh sửa. Trường hợp đưa đề tài ra cấp cơ sở và hội đồng đánh giá không đạt yêu cầu, khi đó bắt buộc phải làm lại luận án.

Thứ năm, khi chỉnh sửa xong, thầy hướng dẫn báo cáo cơ sở đào tạo để cơ sở bố trí, sắp xếp một hội đồng khác có thể là cấp trường, cấp viện gồm 7 thành viên, 3 phản biện. Họ căn cứ vào điều 20, Thông tư 18/2021/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về quy trình đào tạo tiến sĩ xem xét luận án có đạt yêu cầu không.

Nghịch lý: Quy trình chặt chẽ nhưng vẫn để lọt những luận án có “vấn đề” ?

Nguyên Trưởng Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội nhấn mạnh, quá trình để bảo vệ thành công một luận án tiến sĩ rất kỳ công.

Vây nhiều người thắc mắc, trải qua một quy trình chặt chẽ như vậy thì tại sao vẫn để lọt những luận án tiến sĩ được coi là “không đủ tầm”, “phạm vi hẹp”, “không mang tính khoa học” và “không có tính thực tiễn cao” như luận án “Nghiên cứu giải pháp phát triển môn cầu lông cho công chức viên chức thành phố Sơn La”.

Lý giải vấn đề trên, Giáo sư Đỗ Thanh Bình cho rằng: “Tôi thấy tên đề tài không xứng đáng là tên của một đề tài luận án tiến sĩ. Trước đây, có đề tài tên ‘Tắm giặt tập trung cho các quân đoàn đóng quân phía Bắc’ gây xôn xao dư luận thì đề tài cầu lông này cũng vậy.

Để có thể trở thành một luận án tiến sĩ thực thụ thì ít nhất đề tài phải đáp ứng được hai yếu tố: hàm lượng khoa học cao và có tác động tới xã hội.

Trải qua quá trình bảo vệ chặt chẽ như vậy nhưng vẫn để lọt những luận án không đủ “tầm” như trên thì tôi thấy hội đồng từ cấp cơ sở cho đến hội đồng cấp trường, viện rất dễ dãi hoặc có sự nể nang. Đã ngồi vào vị trí hội đồng bảo vệ luận án tiến sĩ thì phải là những người có trình độ chuyên môn cao, họ biết đề tài có vấn đề nhưng lại dễ dãi cho qua. Đây là vấn đề cần phải lên án.

Từ đấy, nhiều hệ lụy kéo theo như chất lượng tiến sĩ không được đảm bảo, uy tín của bản thân hội đồng đó cũng bị ảnh hưởng. Nếu trường hợp hậu kiểm lại và phát hiện luận án đó không đạt yêu cầu thì coi như 3-4 năm học của nghiên cứu sinh coi như vô ích. Chính vì vậy, hội đồng cần làm đúng trách nhiệm ngay từ đầu để tránh những hậu quả không đáng có về sau”.

Giáo sư Đỗ Thanh Bình chia sẻ thêm: “Quá trình hậu kiểm luận án vẫn diễn ra thường xuyên, Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định mỗi cơ sở giáo dục sẽ có khoảng 20 - 30% những luận án được rút ngẫu nhiên đem đi thẩm định lại. Những luận án này phải xóa hết thông tin từ tên tác giả đến người hướng dẫn, sau đó gửi cho 2 nhà khoa học độc lập thẩm định lại từ tên đề tài, nội dung và hình thức".

Trần Lý
TÔI CHƯA THẤY TRƯỜNG HỢP NÀO 'CHẠY', 'LÓT TAY' ĐỂ BẢO VỆ LUẬN ÁN TIẾN SĨ Ở ĐÀI LOAN
THIÊN NHI/ GDVN 16-5-2022

Chia sẻ với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Trần Thị Lan, giảng viên Đại học Quốc gia Cao Hùng (Đài Loan) cho biết:

"Tôi từng có thời gian học tiến sĩ ở Đại học Quốc gia Thành Công (Đài Loan). Riêng đối với ngành Giáo dục học, hàng năm nhà trường chỉ tuyển khoảng 5 - 7 chỉ tiêu đào tạo tiến sĩ.

Nghiên cứu sinh vừa học vừa làm báo cáo và phải đọc rất nhiều tài liệu, các bài đăng trên tạp chí khoa học để thu thập những thông tin của ngành học, phục vụ quá trình làm báo cáo, bài luận. Chương trình đào tạo có khoảng 36 học phần, bao gồm môn lựa chọn và môn bắt buộc. Các học phần được dạy bằng tiếng Anh còn phần báo cáo trên lớp, nghiên cứu sinh phải thể hiện bằng tiếng Trung.

Tiến sĩ Trần Thị Lan, giảng viên Đại học Quốc gia Cao Hùng (Đài Loan). (Ảnh: Nhân vật cung cấp)

Sau khi hoàn thành các môn học, nhà trường sẽ đưa ra những điều kiện bắt buộc để tốt nghiệp như phải có chứng chỉ tiếng Anh quốc tế Toeic, Toefl đạt ngưỡng quy định. Đặc biệt, các nghiên cứu sinh phải trải qua kỳ thi tư cách với 4 môn thi, trong đó 2 môn chung là phương pháp luận nghiên cứu và tâm lý giáo dục.

Tại Đại học Quốc gia Thành Công, 2 môn này nổi tiếng là khó học và khó thi qua bởi mỗi môn có 5 giảng viên tham gia giảng dạy. Mỗi giảng viên sẽ cung cấp các tài liệu khác nhau để nghiên cứu sinh đọc và nghiên cứu. Không ai hay biết giảng viên nào ra đề thi cuối môn. Đã có rất nhiều người trượt và bỏ cuộc ở kỳ thi tư cách".

Cũng theo Tiến sĩ Trần Thị Lan, tại Đài Loan, để được bảo vệ luận án, nghiên cứu sinh phải có ít nhất 2 bài báo đăng trên tạp chí khoa học. Đối với ngành khoa học xã hội, yêu cầu này không quá khó, nhưng với khối ngành khoa học kỹ thuật, đa phần các nghiên cứu sinh đều đăng bài trên các tạp chí lớn, nổi tiếng thuộc danh mục ISI, Scopus.

"Đến phần công bố bài báo, cũng có người bị đánh trượt vì không có bài đăng tải trên các tạp chí khoa học. Cho đến ngày bảo vệ luận án, cả khóa chỉ còn lại 2-3 người", Tiến sĩ Trần Thị Lan nói.

Nữ giảng viên cho biết, trong thời gian viết và hoàn thành đề tài nghiên cứu, nghiên cứu sinh sẽ tham gia, phát biểu tại các hội thảo khoa học. Ở Đài Loan, Bộ Khoa học Công nghệ sẽ tài trợ kinh phí đi lại, ăn nghỉ cho các nghiên cứu sinh.

Tiến sĩ Trần Thị Lan nhận định, quá trình bảo vệ luận án tiến sĩ của các trường đại học tại Đài Loan rất chặt chẽ. Từ khâu bảo vệ đề cương, hội đồng sẽ chất vấn ứng viên chi tiết từng nội dung, cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu đề tài. Nếu bảo vệ đề cương thành công, ứng viên mới được tiếp tục triển khai đề tài và bảo vệ luận án chính thức. Nếu không thành công, ứng viên phải làm lại cho đến khi được hội đồng phê duyệt.

Đối với buổi bảo vệ luận án chính thức, đề tài nghiên cứu sẽ được chấm bởi hội đồng gồm 5 giáo sư, thường sẽ chỉ có 2 giáo sư trong trường, còn lại là giáo sư ngoài trường.

"Tại buổi bảo vệ, ngay cả giáo sư hướng dẫn nghiên cứu sinh cũng tham gia chất vấn, phản biện nếu như trong quá trình thực hiện luận án có những vấn đề nghiên cứu sinh và giáo sư chưa thực sự thống nhất. Thực tế, người hướng dẫn sẽ không bảo vệ nghiên cứu sinh trước hội đồng. Không ít buổi bảo vệ diễn ra từ sáng đến chiều, rất căng thẳng.

Sau khi bảo vệ, hội đồng sẽ đưa ra những nội dung cần phải chỉnh sửa, bổ sung, ứng viên dựa vào đó để chỉnh sửa luận án. Nếu bản chỉnh sửa được hội đồng thông qua thì ứng viên mới được trao bằng”, nữ giảng viên này chia sẻ.

Tiến sĩ Trần Thị Lan cho hay, người học tiến sĩ ở Đài Loan không nhiều vì thi khó, học khó, đầu ra khó. Quá trình đào tạo tiến sĩ thường kéo dài trong vòng 6 năm. Có trường hợp bảo vệ đề cương, bảo vệ luận án không đạt phải làm lại từ đầu, song cũng nhiều nghiên cứu sinh muốn đăng bài trên các tạp chí nổi tiếng sẽ phải chờ rất lâu mới được xuất bản bài.

"Đặc biệt, tại Đài Loan, tôi chưa từng thấy trường hợp nào "chạy" hay "lót tay" để bảo vệ luận án tiến sĩ, quá trình học cũng như quá trình bảo vệ luận văn đều rất nghiêm túc. Gần như tất cả nghiên cứu sinh khi được giáo sư nhận lời hướng dẫn sẽ có rất nhiều điều kiện thuận lợi như được làm dự án cùng thầy, được trả lương hàng tháng.

Nghiên cứu sinh không phải lo lắng quá nhiều về mặt tài chính, ngược lại họ còn được giáo sư hướng dẫn hỗ trợ chi phí học tập, chi phí sinh hoạt cuộc sống trong suốt thời gian học", Tiến sĩ Trần Thị Lan cho biết thêm.

Thiên Nhi
ĐỂ LỌT ĐỀ TÀI TS VÔ BỔ NÊN 'TREO' HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO, HƯỚNG DẪN TRONG 5 NĂM
TÙNG DƯƠNG/ GDVN 16-5-2022
GDVN- Dư luận có nhiều băn khoăn, lo ngại về chất lượng chuyên môn của các luận án tiến sĩ, và công tác đào tạo nghiên cứu sinh thành tiến sĩ.

Dư luận đang có nhiều băn khoăn, lo ngại về chất lượng chuyên môn của các luận án tiến sĩ cũng như công tác đào tạo nghiên cứu sinh thành tiến sĩ hiện nay.

Trong khi Viện Khoa học Thể dục thể thao xác nhận đề tài "Nghiên cứu giải pháp phát triển môn cầu lông cho công chức viên chức thành phố Sơn La" được hội đồng thẩm định qua nhiều vòng thì giới chuyên gia cho rằng đây giống tham luận hơn là luận án tiến sĩ. Ngoài luận án tiến sĩ trên, Viện Khoa học thể dục thể thao còn hướng dẫn và nghiệm thu cho hàng chục đề tài tương tự,…

Dư luận xã hội đã đặt ra nhiều câu hỏi về vấn đề nghiên cứu khoa học cũng như đào tạo tiến sĩ tại Việt Nam hiện nay. Nhiều ý kiến cho rằng, đề tài trên không thể là một đề tài nghiên cứu khoa học, vậy tại sao lại để lọt những đề tài như thế?

Bà Lê Thị Túy - Nguyên Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Thanh niên. Ảnh: NVCC.

Phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã trao đổi với bà Lê Thị Túy - Nguyên Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Thanh niên. Bà Túy chia sẻ: “Điều tối thiểu của việc làm luận án Tiến sĩ là công trình nghiên cứu khoa học đó mang tính thực tế cao, trên cơ sở am hiểu khoa học thế giới, cần xác định đề tài đủ tầm hay không, có tính khoa học hay không, có tính mới không, hay chỉ là những nghiên cứu và tổng kết rất lặt vặt.

Với đề tài luận án trên nói đến việc phát triển môn cầu lông cho cán bộ công chức, viên chức thành phố Sơn La, theo tôi là quá nhỏ, chưa nổi bật tính đóng góp cho xã hội hay cộng đồng khoa học, do vậy xét về tính học thuật, hàm lượng chất xám lẫn thực tiễn thì đề tài chưa đạt yêu cầu. Hơn nữa, đối tượng nghiên cứu của luận án trên là công chức, viên chức, chứ không phải học sinh hay sinh viên nên đề tài này cũng không liên quan đến chuyên ngành giáo dục, nhưng lại được xếp vào chuyên ngành giáo dục học?

Ngoài ra, tôi thấy hiện nay dư luận chỉ ra có hàng loạt các luận án tiến sĩ liên quan đến giảng dạy giáo dục thể chất cho sinh viên tại các trường đại học,…điều đáng nói, các luận án đó na ná nhau, chỉ khác nhau tên cơ sở giáo dục. Không ít luận án dự báo đánh giá triển vọng kinh tế của nhiều tỉnh thành cùng có mô típ đề tài giống nhau, chỉ khác về địa danh.

Đã là luận án tiến sĩ, phải đáp ứng hai tiêu chuẩn phát kiến mới và tầm quan trọng cho xã hội, có đóng góp mới cho tri thức khoa học. Nếu một luận án không đáp ứng hai tiêu chuẩn này thì không thể xứng tầm tiến sĩ.

Ở Việt Nam, tôi thấy phần lớn nghiên cứu sinh vừa đi làm, vừa đọc, vừa viết, điều kiện để có được tài liệu tham khảo tốt cũng chưa được đầy đủ. Chưa kể, có những giáo sư, giảng viên hướng dẫn cùng lúc đến mấy chục luận văn, luận án khác nhau, thậm chí là không đúng chuyên môn của người hướng dẫn. Với thực trạng như vậy, rất khó có thể đảm bảo được trách nhiệm cũng như chất lượng của đề tài khoa học.

Mục đích chính của đào tạo tiến sĩ là tạo nguồn một đội ngũ nhà khoa học chuyên nghiệp cho đất nước, những người có khả năng làm nghiên cứu khoa học và giảng dạy trong đại học. Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập với thế giới, lĩnh vực khoa học và công nghệ luôn được coi trọng, nhưng trong thực tế tôi thấy rất nhiều người có bằng tiến sỹ mà trong nhiều năm không có một công trình khoa học, hay một bài báo khoa học nào được đăng tải. Từ thực trạng đó, chúng ta cần xem lại cách đào tạo tiến sĩ của nước mình có phù hợp với thực tế hay không?

Trước đây, với yêu cầu các nghiên cứu sinh phải có ít nhất một bài báo đăng trên tạp chí quốc tế được quy định tại Thông tư 08/2017/TT-BGDĐT đã hạn chế được những luận án chỉ ở tầm báo cáo làng nhàng. Tuy nhiên, năm 2021, Thông tư 18 ra đời thay thế Thông tư 08 đã "cắt" đi yêu cầu này, tôi cho rằng các luận án tiến sĩ sẽ trở nên dễ dãi hơn, và chắc chắn sẽ tái diễn tình trạng nhiều luận án “copy” tràn lan, đi đâu cũng gặp tiến sĩ”.

Ảnh minh họa. Laodong.vn

Sai sót ở khâu nào?

Bà Túy băn khoăn: “Để xảy ra tình trạng luận văn tiến sĩ “nở rộ” như hiện nay, tôi cho rằng trách nhiệm chính là các cơ sở đào tạo, đây là nơi quyết định hội đồng đánh giá, phản biện... Muốn đào tạo một tiến sĩ có chất lượng, nhất thiết cơ sở đào tạo phải tuân theo quy trình chặt chẽ, từ khi nghiên cứu sinh trúng tuyển đầu vào cho đến vòng bảo vệ cuối cùng.

Ở các nước tiến tiến trên thế giới, để giữ uy tín của mình trong lĩnh vực học thuật, các giáo sư sẽ ít khi chấp nhận một đề tài nghiên cứu chất lượng thấp, nếu không nói là qua loa không có giá trị thực tế. Chất lượng đào tạo ảnh hưởng lớn đến uy tín của các viện nghiên cứu và trường đại học, do vậy các hội đồng khoa học và hội đồng hướng dẫn thường chú trọng rất nhiều vào các công trình nghiên cứu, chứ không phải chỉ đại khái cho có. Vậy nên, có thể nói với trường hợp cụ thể là đề tài cầu lông, hội đồng và người hướng dẫn nghiên cứu sinh chưa làm hết trách nhiệm”.

Đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo thông tin sẽ thẩm định lại các luận án tiến sĩ bị dư luận phản ánh, bà Túy nói: “Công tác thẩm định luận án, Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn làm thường xuyên hàng năm. Vậy tại sao Bộ không phát hiện ra vấn đề mà phải chờ dư luận lên tiếng mới lên tiếng thẩm định? Hơn nữa, nếu chỉ hậu kiểm với luận án “cầu lông” thôi thì không công bằng. Bộ sẽ xử lý thế nào với khá nhiều luận án kiểu như vậy từ trước đến nay?

Để nâng cao chất lượng tầng lớp tinh hoa, loại bỏ tiến sĩ háo danh, nhà nước cần có chính sách chặt chẽ hơn về thẩm định đề tài từ những vòng xét chọn đầu tiên, nâng cao thêm yêu cầu cần và đủ, như phải có bài báo trên tạp chí quốc tế có uy tín, yêu cầu có công bố quốc tế là tiêu chuẩn khách quan duy nhất vì việc này không thể “chạy chọt” được.

Có chứng nhận là báo cáo viên tại các hội thảo khoa học trong nước và quốc tế về vấn đề liên quan đến nghiên cứu trong luận văn. Cùng với đó, cần công khai tên tuổi chức danh hội đồng và người hướng dẫn luận án để xã hội được biết.

Về trình độ nghiên cứu sinh, cần yêu cầu bắt buộc có trình độ ngoại ngữ giỏi để viết tóm tắt luận án bằng tiếng Anh. Thầy hướng dẫn buộc phải có đề tài nghiên cứu khoa học, và nghiên cứu sinh cũng có tham gia một phần trong đề tài của thầy. Nói không với thầy hướng dẫn chỉ bằng lý thuyết, thiếu thực tế. Nghiên cứu sinh phải thực hiện trợ giảng tại các trường đại học, hoặc tham gia giảng dạy, gắn với phòng thí nghiệm,...

Nghiên cứu sinh phải bảo vệ luận án đó ở vài cơ sở nghiên cứu khoa học khác, để các hội đồng phân tích, cân nhắc phản biện xem vấn đề này ra sao, thật sự có điểm mới, có giá trị chất xám đóng góp cho xã hội, sau đó mới được bảo vệ chính thức. Phải gắn trách nhiệm của thầy hướng dẫn, hội đồng phản biện, cơ sở đào tạo nào có nhiều tiến sĩ với đề tài vô bổ thì trong 5 năm tiếp theo không được phép hướng dẫn, phản biện hay đào tạo tiến sĩ. Có như vậy thì mới quản lý được tốt chất lượng tiến sĩ”.

Tùng Dương
NẾU KHÔNG LÀM NGHIÊM, QUẢN LÝ CHẶT SẼ TẠO RA NHIỀU 'LÒ ẤP',  LẠM PHÁT TIẾN SĨ
NGÂN CHI/ GDVN 17-5-2022
GDVN- Nếu không quản lý chặt chất lượng, sẽ tạo ra nhiều “lò ấp” bằng tiến sĩ và hiện tượng lạm phát tiến sĩ, vì còn ngầm định “có bằng tiến sĩ có năng lực cao hơn”.

Nhiều “tiến sĩ rởm” do “thăng quan tiến chức” gắn với học hàm, học vị?

Thời gian gần đây, dư luận xã hội đang rất quan tâm đến vấn đề đào tạo tiến sĩ kém chất lượng ở một số cơ sở đào tạo. Có ý kiến cho rằng, phải chăng, do tồn tại chuyện bổ nhiệm cán bộ “ưu tiên” học hàm, học vị, nên mới dẫn đến những tiêu cực như vậy.

Trao đổi về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Minh Cương (Phó Viện trưởng, Viện Văn hóa kinh doanh, Hiệp hội Phát triển Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam; nguyên Chuyên viên cao cấp, Vụ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương) nhìn nhận: “Đúng là ở một số ngành hiện nay có biểu hiện, khi muốn “thăng quan tiến chức” đối với cán bộ cấp cao là phải gắn với học hàm, học vị. Nhưng đó không phải là nguyên nhân cơ bản hay chủ yếu của câu chuyện bằng tiến sĩ kém chất lượng bị dư luận xã hội coi thường, phê phán.

Người Việt vốn có truyền thống hiếu học và văn hóa trọng học vấn. Cái này không xấu, song, có mặt trái, dễ dẫn đến tình trạng tự phát đua đòi nhau làm tiến sĩ, tạo ra phong trào chạy theo số lượng, coi nhẹ chất lượng. Đào tạo tiến sĩ có bản chất là giáo dục cấp cao và chất lượng cao, đào tạo chuyên gia khoa học và công nghệ, đào tạo nhân tài... Đối với nước ta, điều kiện và nguồn lực và điều kiện có hạn, công việc này vẫn phải theo quy luật chất lượng tỷ lệ nghịch với số lượng. Nếu không quản lý chặt chất lượng thì sẽ tạo ra nhiều “lò ấp” công nghiệp bằng tiến sĩ và hiện tượng lạm phát tiến sĩ.

Tôi có thể khẳng định rằng nguyên nhân đầu tiên của thực trạng số người có học vị tiến sĩ tăng mạnh trong khi nhiều luận án kém chất lượng hiện nay là do công tác quản lý nhà nước về đào tạo chưa đạt yêu cầu”.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Minh Cương(Ảnh: NVCC).

Phó giáo sư Đỗ Minh Cương dẫn chứng: “Chúng ta hãy nhìn lại lịch sử để chứng minh: Thời kỳ xã hội phong kiến, việc thi cử được tổ chức bài bản, nghiêm túc để chọn tiến sĩ, dù có bị hạn chế về đề tài và lĩnh vực nghiên cứu, song, vẫn đạt được mục tiêu chọn nhân tài cho đất nước. Thời Pháp thuộc, chế độ đào tạo tiến sĩ cũng theo triết lý đào tạo bộ phận/tầng lớp tinh hoa, tạo ra các trí thức, chuyên gia....Chuyện chất lượng, uy tín bằng cấp sụt giảm nhiều và trở thành vấn đề tiêu cực xã hội mới xảy ra cách đây hơn 20 năm, đáng tiếc là trong thời kỳ “đổi mới giáo dục - đào tạo”.

Trách nhiệm đầu tiên của thực trạng này thuộc về công tác quản lý nhà nước. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quản lý nhiều dự án đào tạo hàng chục ngàn tiến sĩ ở trong và ngoài nước, có mục tiêu hội nhập quốc tế, quốc tế hóa… với kinh phí đầu tư đáng kể, song, chất lượng, hiệu quả dường như chưa đạt được mục tiêu đề ra”.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Minh Cương cũng phân tích thêm một số nguyên nhân khác: "Theo tôi, nguyên nhân cơ bản xuất phát từ thể chế, khuôn khổ quản lý và cách thức tổ chức đào tạo, công nhận bằng tiến sĩ hiện nay đang có rất nhiều vấn đề, không đảm bảo chất lượng, không đảm bảo tính khách quan và hiệu quả.

Chẳng hạn, yêu cầu của luận án tiến sĩ gần đây bị hạ chuẩn, không còn yêu cầu về bài báo quốc tế, hay số lượng bài báo uy tín trong nước cũng thấp, khiến tính khoa học của đào tạo thấp hơn."

Theo thầy Cương, nguyên nhân thứ hai thuộc về trách nhiệm và năng lực quản trị đại học của các cơ sở đào tạo, trước hết là của người đứng đầu, của cán bộ lãnh đạo, quản lý các học viện, trường đại học, viện nghiên cứu, của các chủ tịch hội đồng đánh giá và của giảng viên hướng dẫn nghiên cứu sinh… Mặc dù quy định đào tạo tiến sĩ thì giống nhau, nhưng chất lượng đào tạo giữa các cơ sở đào tạo hiện nay lại rất khác nhau. Ví dụ như các đại học, trường đại học lớn và có uy tín thì chất lượng đào tạo cao hơn nhiều so với một số cơ sở bị thanh tra, báo chí khui ra: có những luận án của nghiên cứu sinh với đề tài chưa đủ tầm, chỉ giống như một báo cáo tổng kết, luận án mang tính mô tả chứ không phải công trình nghiên cứu.

Để xảy ra như vậy là do sự không nghiêm túc ở những cơ sở đào tạo ấy, khi mải chạy theo số lượng mà không tuân thủ nghiêm ngặt các quy định đảm bảo tiêu chuẩn khoa học và chất lượng. Thế mới có chuyện số luận án tiến sĩ được “sản xuất” với tốc độ nhanh “chóng mặt”.

Điều đó cho thấy, nhiều lãnh đạo cơ sở đào tạo không gương mẫu, không thực thi nghiêm túc công tác quản trị chất lượng sản phẩm của mình; mục tiêu đào tạo chuyên gia cao cấp và nhân tài bị biến tướng thành mục tiêu kinh doanh, lợi ích kinh tế và chạy theo số lượng.

Nguyên nhân thứ ba thuộc về phía chủ thể sử dụng nhân sự có bằng tiến sĩ hiện nay.

Trong chuyện đánh giá cán bộ, công chức, viên chức thường bị ảnh hưởng, tác động từ hai yếu tố: Một là, dựa vào những tiêu chí chính thức, mang tính quy định của Đảng, Nhà nước. Và thứ hai là vẫn bị ảnh hưởng bởi các nhân tố không chính thức có tính tâm lý, tình cảm, văn hóa tồn tại một cách ngầm định dù không được định nghĩa, không được tiêu chuẩn hóa rõ ràng.

Đó là các ngầm định về ưu tiên, các thiện cảm, ưu ái như về nơi sinh, thành phần, con em cán bộ lãnh đạo...Có sự ngầm định người có bằng tiến sĩ có năng lực cao hơn so với người không có bằng cấp cao, trong công tác tổ chức - cán bộ cũng như vậy.

Nếu quy định rõ, với vị trí công việc đó đòi hỏi tiêu chuẩn, tiêu chí về năng lực cụ thể như thế là đủ rồi, không nhất thiết phải đòi hỏi học hàm, học vị để ưu tiên bầu cử, bổ nhiệm…, thì người ta sẽ không còn chuyện so sánh với nhau rồi đổ xô đi học.

Đào tạo tiến sĩ để có nhân lực chất lượng cao và nhân tài cho đất nước mà nhân tài chỉ phát huy được trong môi trường và vị trí công việc phù hợp.

Nhìn vào các nước phát triển, chúng ta thấy các lãnh đạo, chính khách, công chức cấp cao của họ có tỉ lệ học vấn tiến sĩ không cao; bằng tiến sĩ chỉ được sử dụng nhiều trong các lĩnh vực làm khoa học, công nghệ, giáo dục, y tế… song phải đúng chuyên môn thì mới phát huy có hiệu quả. Nếu hệ thống chính trị có những công việc thực sự cần tuyển chọn tiến sĩ giỏi thì rất tốt; việc bổ nhiệm ưu tiên những người có học vị cũng không phải hoàn toàn xấu, mà xấu khi nó không thể lọc được những người “bằng thật - học giả”, lấy cả những người năng lực thực tế yếu kém có học vị, học hàm cao vào bộ máy lãnh đạo và quản trị quốc gia.

"Tôi muốn nhấn mạnh, trong công tác cán bộ, công tác quản trị nhân sự hiện nay cần có sự phân loại, phân hạng về bằng tiến sĩ để tuyển chọn, bố trí sử dụng một cách phù hợp, hiệu quả. Không nên tư duy đơn giản là bằng tiến sĩ cơ bản là đồng hạng, như nhau. Cần phải biết rõ đối tượng được đào tạo ở trường nào, ai là giảng viên hướng dẫn, học ở đâu, thời gian nào, chuyên ngành gì, đã có cống hiến gì cho khoa học và thực tiễn trong nước, quốc tế?", Phó giáo sư Đỗ Minh Cương nhấn mạnh.

Nguyên nhân thứ tư - nguyên nhân chủ quan và quan trọng nhất là người học chương trình đào tạo tiến sĩ phải nhận thức được sứ mệnh, mục tiêu sự nghiệp của mình và có đủ tiêu chuẩn đạo đức, trách nhiệm xã hội đối với chương trình đào tạo và bằng cấp. Cần xác định lựa chọn làm nghiên cứu sinh tiến sĩ là một khoản đầu tư lớn, lâu dài và học tập vất vả mới thành công. Nếu như bản thân không có tố chất, năng lực nghiên cứu, sáng tạo khoa học, công nghệ, không muốn trở thành chuyên gia thì không nên chọn và không nên a dua chạy theo phong trào.

Hoàn thiện thể chế quản lý, bỏ tính “khép kín”, tăng tính khoa học, công khai, minh bạch

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Minh Cương cũng cho biết, ông cảm thấy buồn và bất bình trong chuyện dư luận vì những trường hợp nổi cộm kia mà đánh đồng, “vơ đũa cả nắm”, cho là tiến sĩ đào tạo tại Việt Nam là chất lượng kém.

“Cần đòi hỏi phải đánh giá khách quan, khoa học và công bằng việc này. Chẳng hạn, tiến sĩ này làm luận án về ngành gì, đề tài như thế nào, ai hướng dẫn, ở đâu, phải làm cho rõ ràng. Người nào hướng dẫn thì người đó phải chịu trách nhiệm cao về chất lượng và năng lực, đạo đức khoa học của học trò.

Đồng thời, trong công tác cán bộ, cũng phải nêu rõ người này là tiến sĩ ngành gì, tốt nghiệp ở đâu? Những trường hàng đầu thì không dễ đánh đổi, tự hạ thấp tiêu chuẩn để chạy theo số lượng. Đào tạo một cách bát nháo như vậy, sẽ bị hạ uy tín và thương hiệu của họ” - ông bày tỏ.

Đề cập đến một số giải pháp để siết chất lượng đào tạo tiến sĩ, vị Phó Viện trưởng, Viện Văn hóa kinh doanh cho rằng: “Trước hết, về thể chế, quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học, nhất là với đào tạo bậc tiến sĩ phải nâng cao tính khoa học, công bằng, minh bạch và quản trị các cơ sở đào tạo chặt chẽ hơn.

Thứ hai, về đánh giá, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức cần có cái nhìn khách quan, khoa học và cụ thể hơn, không thể xếp ngang, xem tất cả tiến sĩ là như nhau; cũng không chạy theo hình thức, coi cứ tiến sĩ là hơn hẳn người không phải là tiến sĩ. Bởi vì, có những người không học lên tiến sĩ, nhưng lại có nhiều cống hiến hơn, làm việc hiệu quả cao hơn.

Ví như, tỷ phú Elon Musk đã từng có ước mơ trở thành nhà vật lý được giải Nobel. Ông đã học chương trình tiến sĩ ở Đại học Stanford danh giá của Mỹ năm 1995, khi ông mới 24 tuổi. Nhưng chỉ sau hai ngày, ông đã bỏ học để theo đuổi sự nghiệp kinh doanh về công nghệ thông tin. Nếu như ông trở thành một nhà vật lý với ước mơ đoạt giải Nobel thì nước Mỹ đã không có một nhà sáng tạo công nghệ giàu nhất thế giới ở tuổi 50.

Theo tôi, làm cán bộ, công chức cho khu vực công, nếu tốt nghiệp học đại học thực chất mà có thái độ, năng lực học hỏi tốt và dám làm việc khó thì có thể trở thành cán bộ lãnh đạo và công chức xuất sắc rồi.

Thứ ba, Bộ Giáo dục và Đào tạo phải nâng cao hiệu quả của công tác quản lý kiểm tra, đánh giá, loại bỏ những hiện tượng tiêu cực đang có ở những cơ sở “đẻ” ra luận án quá nhanh, quá dễ… Nhiệm vụ này đòi hỏi các cán bộ, công chức và nhân viên làm công việc quản lý và quản trị đại học ở cấp vĩ mô và vi mô đều cần có tinh thần thượng tôn pháp luật, liêm chính và trọng khoa học. Nếu họ có thái độ nể nang, xuê xoa và vì lợi ích cá nhân, cục bộ, thì sự suy thoái về đạo đức và trình độ trong giáo dục là không thể tránh khỏi.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Minh Cương, Bộ Giáo dục và Đào tạo phải nâng cao hiệu quả của công tác quản lý kiểm tra, đánh giá, loại bỏ những hiện tượng tiêu cực đang có ở những cơ sở “đẻ” ra luận án quá nhanh, quá dễ… (Ảnh minh họa: Ngọc Diệp).

Cần có các quy định nâng cao tính khoa học, sáng tạo và đạo đức của luận án tiến sĩ trong điều kiện chuyển đổi số. Cơ sở nào mà cố tình cho “lọt” những luận án không đạt chuẩn thì cơ quan quản lý đào tạo có thể chấm điểm tín nhiệm đối với Chủ tịch và các thành viên hội đồng. Với những người thường xuyên dễ dãi, cho điểm như thế cần có dữ liệu số theo dõi và cho điểm tín nhiệm thấp để loại khỏi danh sách hội đồng vì không đủ tín nhiệm. Phải quản lý và quản trị đào tạo đại học khoa học hiện đại, công bằng, và minh bạch hơn”.

“Bên cạnh đó, theo tôi, muốn loại bỏ các hiện tượng đào tạo kém chất lượng thì cần xóa bỏ tình trạng tổ chức công việc mang tính “đóng kín”, tính phản biện thấp, thiếu công khai, minh bạch và thiếu trách nhiệm giải trình. Các cơ sở đó có tính chất ưu tiên “tạo công ăn việc làm cho nhau”, nên việc mời chuyên gia bên ngoài cũng chỉ chọn toàn mời những người quen biết, những người dễ dãi, để họ có thể điều hướng được toàn bộ” - ông Cương thông tin thêm.

Thứ tưquan trọng nhất chính là bản thân những người làm nghiên cứu trình độ tiến sĩ phải có nền tảng đạo đức, văn hóa và hiểu biết pháp luật; phải có lòng tự trọng và thái độ học tập - làm việc nghiêm túc, tập trung. Không nên nghĩ làm tiến sĩ cho oai và dễ thăng nhanh trên con đường quan lộ mà phải chấp nhận khi có danh tiến sĩ là phải làm việc bằng tư duy khoa học, luôn coi trọng các tiêu chuẩn của khoa học, đạo đức và văn hóa đổi mới sáng tạo trong công việc và sự nghiệp của mình” - Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Minh Cương nhấn mạnh.

Ngân Chi
TÔI TỪNG CHẤM LUẬN ÁN TS 4 ĐIỂM VÀ KHÔNG HIỂU TẠI SAO ĐỀ TÀI LẠI ĐƯỢC LỌT VÀO BẢO VỆ
NGÂN CHI/GDVN 18-5-2022
GDVN- Nhiều khi người trong hội đồng mà có tâm, trung thực, dám phản biện thực chất, thì lập tức lần sau sẽ không được mời nữa. Đó là một thực tế rất đáng buồn.

Bắt nguồn từ bệnh thành tích

Những luận án tiến sĩ “không xứng tầm” đang khiến dư luận bức xúc về chất lượng đào tạo tiến sĩ hiện nay.

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam về nội dung này, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Việt Nga (Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội) cho biết: “Qua theo dõi, tôi thấy các luận án mà dư luận phản ánh quả đúng là quá nhiều vấn đề băn khoăn. Bởi, theo quy định của Bộ Giáo dục và đào tạo có yêu cầu đối với luận án tiến sĩ phải có giá trị gia tăng tri thức khoa học ở lĩnh vực nghiên cứu, hoặc đề xuất ý tưởng giải pháp mới giải quyết những vấn đề trong tình hình thực tiễn. Nhưng với những đề tài như dư luận đã phản ánh vừa qua thì nhiều ý kiến chuyên gia đều đánh giá là không xứng tầm, giá trị đóng góp cho xã hội là một dấu hỏi lớn”.

Rõ ràng, một luận án muốn bảo vệ thành công thì nghiên cứu sinh phải học qua chương trình đào tạo và bảo vệ qua rất nhiều vòng, quy trình rất chặt chẽ. Thế mà vẫn để “lọt lưới” những luận án như vậy, chứng tỏ, công tác đào tạo và thẩm định của chúng ta đang có vấn đề".

Phân tích về nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này, nữ Đại biểu cho rằng: “Chuyện không đảm bảo chất lượng của các luận án tiến sĩ, theo tôi, đầu tiên do bắt nguồn từ bệnh thành tích. Bởi vì, chúng ta cứ đua nhau chạy theo thành tích, nên mới nảy sinh ra nhiều vấn đề.

Đặc biệt, hiện nay, không chỉ xuất hiện bệnh thành tích trong môi trường giáo dục (tại các nhà trường), như lâu nay chúng ta vẫn đề cập, mà ngay cả trong các cơ quan hành chính cũng có hiện tượng này, đã có bằng cấp để đáp ứng yêu cầu công việc rồi, nhưng vẫn “chạy đua”, tậm niệm phải có bằng cấp cao hơn, cao hơn nữa. Tiếc là điều đó lại không xuất phát từ yêu cầu công việc.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Việt Nga. (Ảnh: NVCC).

Chẳng hạn, như ở nhiều nước trên thế giới, bằng tiến sĩ chỉ tập trung cho giới nghiên cứu khoa học, hoặc giảng dạy ở bậc đại học trở lên. Tức là đối với những người cần thiết phải học lên cao, phải nghiên cứu sâu, thì sẽ làm luận án tiến sĩ. Còn lại, đối với các đối tượng khác, ví dụ như công tác trong các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, thì bằng tiến sĩ nhiều khi không có nhiều ý nghĩa. Bởi vì, theo quy định bổ nhiệm, những học hàm, học vị đó không cần thiết.

Tuy nhiên, ở Việt Nam, có một hiện tượng, người ta cứ ngầm hiểu với nhau rằng, càng bằng cấp cao càng tốt. Trong khi đó, có trường hợp, bằng tiến sĩ lại không liên quan gì đến công việc hằng ngày của người đi làm tiến sĩ. Chỉ vì quan niệm, “cứ có bằng cấp cao là oai”, nên mới tréo ngoe như vậy...

Và trong công tác bổ nhiệm cán bộ, nhiều khi cũng chạy theo điều đó. Thực tế, bổ nhiệm cán bộ thì phải dựa trên năng lực thực tế của con người; còn bằng cấp thì đương nhiên chỉ cần đáp ứng yêu cầu bổ nhiệm là được, không nhất thiết là phải có bằng cấp cao nhất. Bởi vì, bằng cấp cao nhất đôi khi cũng không liên quan gì đến công việc, và cũng chưa thể hiện rõ năng lực của con người”.

“Tôi cho rằng, xuất phát từ bệnh thành tích, nên dẫn đến rất nhiều người có nhu cầu, đi học, mà lại có chuyện, đã đi học tiến sĩ là phải bảo vệ thành công, luận án nào cũng hoàn thành xuất sắc. Thêm vào đó, việc đào tạo cũng tràn lan, không ít cơ sở lấy số lượng tiến sĩ đã đào tạo được như một sự đảm bảo về chất lượng...” - Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga nhấn mạnh.

Bên cạnh vấn đề tiêu cực nảy sinh từ học vị tiến sĩ, Tiến sĩ Lê Hồng Sơn (Nguyên Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật - Bộ Tư pháp) cũng chỉ ra, ngay cả đến vấn đề học hàm cũng đang bị lạm dụng: “Đáng lẽ, học hàm chỉ liên quan đến lĩnh vực đào tạo, chỉ dành cho những người tham gia công tác đào tạo tại cơ sở giáo dục, đào tạo. Nhưng có một hiện thực đáng buồn đó là rất nhiều người đi dạy “lấy vì”, dạy cho có, để chạy chọt lấy học hàm. Đây là “học giả” mà giả theo đúng nghĩa đen.

Thậm chí, những chức danh trong bộ máy hành chính cũng “đua nhau” lấy học hàm. Đó là một sự tệ hại rất đáng báo động, vì sẽ làm hỏng giáo dục ở trình độ cao”.

Có chuyện Chủ tịch hội đồng đề nghị cho điểm sát nhau?

Theo Tiến sĩ Lê Hồng Sơn, nguyên nhân khiến luận án tiến sĩ không có giá trị như dư luận đang phản ánh, do ngoài cách chọn đề tài của nghiên cứu sinh, còn do cách hướng dẫn và phê duyệt của người hướng dẫn và hội đồng khoa học.

Nguyên Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật cũng không ngần ngại chia sẻ: “Tôi từng ngồi những hội đồng thẩm định tồn tại rất nhiều vấn đề, có cảm giác như các thành viên ngồi đó cho có, luận án nào cũng nói dăm câu ba điều rồi cho qua.

Thậm chí, còn có chuyện thế này: Một lần, tôi gặp trường hợp nghiên cứu sinh bảo vệ luận án mà còn không hiểu gì về nội dung đang bảo vệ, thậm chí quan niệm sai cơ bản, tôi cũng không hiểu vì sao vẫn qua được hết cấp nọ cấp kia để cho ra bảo vệ. Cho nên, tôi cho luận án ấy 4 điểm.

Tiến sĩ Lê Hồng Sơn chia sẻ, có tiêu cực trong chuyện đánh giá của hội đồng.

Lúc này, Chủ tịch hội đồng quay sang thuyết phục tôi thế này: “Anh ơi, chỉ có những nghiên cứu sinh không nói sõi tiếng Việt thì mới cho đến điểm 7 là thấp nhất, còn lại là hội đồng cho 9 điểm trở lên... Thôi thì anh chấm điểm cho sát với hội đồng”... Đó, còn có chuyện như thế cơ mà!”.

“Cũng có một thực tế nữa vẫn còn tồn tại, đó là, nhiều thành viên được ngồi vào ghế hội đồng là do có sự “đôn lên”, nên có sự nương nhau, nể nhau, nhận tiền của nghiên cứu sinh, nên toàn cho điểm từ 9 phẩy trở lên.

Còn người trong hội đồng mà có tâm, trung thực, dám phản biện thực chất, thì lập tức lần sau sẽ không được mời nữa. Đó là một thực tế rất đáng buồn!” - Tiến sĩ Lê Hồng Sơn bày tỏ.

Thẩm định lại chỉ mang ý nghĩa đối phó

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Việt Nga đánh giá: “Động thái Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ thẩm định lại các luận án tiến sĩ đang gây ồn ào dư luận, theo quan điểm của tôi là không có nhiều ý nghĩa, mà chỉ có tính chất trấn an dư luận.

Bởi công tác thẩm định vẫn được Bộ Giáo dục và Đào tạo làm thường xuyên, theo kế hoạch hằng năm với một tỉ lệ nhất định đối với các luận án được bảo vệ thành công.

Chẳng lẽ, trong công tác thẩm định thường xuyên đó, Bộ không phát hiện điều gì bất thường? Hay xác suất ngẫu nhiên những luận án được thẩm định đều là luận án tốt, còn các luận án dư luận phản ánh bị “lọt lưới”? Điều này rất khó tin khi năm nào cũng thẩm định không phát hiện bất thường nhưng khi dư luận lên tiếng lại thẩm định.

Bên cạnh đó, Bộ cũng chưa có thông báo rõ ràng về việc thẩm định xong thì phải làm gì tiếp theo, hay thẩm định xong để đó...

Và điều quan trọng nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng không thể mãi chạy theo dư luận, cứ dư luận phản ánh đến đâu thì thẩm định lại đến đó. Bởi, dư luận cũng chỉ có thể phát hiện ra số ít luận án, tôi cho rằng, đây cũng chỉ là phần nổi của một tảng băng khổng lồ. Vậy còn những luận án mà người dân chưa có điều kiện tiếp cận thì sao? Một tháng, có bao nhiêu luận án tiến sĩ được bảo vệ thành công, dư luận cũng không thể tiếp cận hết 100% những luận án đó”.

Chính vì vậy, theo vị Đại biểu, điều cần nhất là các giải pháp để chấn chỉnh chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học: “Tôi cho rằng, điều đó không chỉ nằm ở sự thẩm định, mà cần có sự nhìn nhận, đánh giá thực sự nghiêm túc, có sự chấn chỉnh trong công tác đào tạo, công tác nghiên cứu khoa học, công tác thẩm định”.

“Để giải quyết được thực trạng này, chúng ta cần những giải pháp căn cơ, giải quyết được “gốc rễ” của vấn đề.

Khi có ý kiến về những luận án mà theo đánh giá của số đông là không xứng tầm, không đạt chất lượng, tôi đã đọc lại các văn bản quy định về chương trình đào tạo, đánh giá chất lượng. Có thể nói, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có một hệ thống văn bản khá chặt chẽ và đầy đủ để quy định về nội dung này.

Vậy hành lang pháp lý đã có, vấn đề nằm ở đâu? Vấn đề nằm ở khâu tổ chức, thực hiện không nghiêm. Nghĩa là những quy định này “chỉ nằm trên giấy”, chưa áp dụng được vào thực tiễn. Chính vì vậy, giải pháp căn cơ là phải thực hiện cho đúng, cho nghiêm, mà muốn vậy, phải gắn trách nhiệm cho cá nhân và tổ chức.

Tôi lấy ví dụ, đối với mỗi nghiên cứu sinh, có ít nhất một người hướng dẫn, và để bảo vệ thành công một luận án tiến sĩ, phải qua rất nhiều vòng khác nhau, mà vẫn để xảy ra tình trạng luận án tiến sĩ không đạt yêu cầu cũng được bảo vệ thành công, thì phải quy trách nhiệm rất lớn cho người hướng dẫn và cả hội đồng. Không thể để tình trạng, ai làm nghiên cứu sinh cũng bảo vệ thành công, ai cũng được đánh giá tốt và xuất sắc, đó là một việc cực kỳ vô trách nhiệm với nền giáo dục đào tạo, với nền học thuật nước nhà.

Để những luận án không chất lượng như thế được bảo vệ thành công, vô tình còn “bóp chết” cả những công trình khoa học nghiêm túc. Bởi vì, có một sự đánh đồng, như một sự xúc phạm đối với những người học hành và nghiên cứu chân chính.

Đồng thời, sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo thẩm định, thấy những luận án không đảm bảo chất lượng, thì không chỉ có hình thức xử lý với nghiên cứu sinh đó, mà phải quy trách nhiệm của cả cá nhân người hướng dẫn, các thành viên trong hội đồng thẩm định, và của cả cơ sở đào tạo. Phải làm thật kiên quyết, thì mới hy vọng sau này, có sự nghiêm túc thực sự đối với việc đào tạo tiến sĩ và công tác nghiên cứu khoa học” - Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga đề cập.

Ngân Chi
ĐỂ CÓ BẰNG TIẾN SĨ Ở NƯỚC NGOÀI VẤT VẢ VÀ TỐN KÉM RA SAO ?
TÙNG DƯƠNG /GDVN 18-5-2022
GDVN- Trong quá trình 4 năm nghiên cứu, tôi phải làm rất nhiều loại thí nghiệm khác nhau, có thí nghiệm thành công, nhưng cũng có không ít thí nghiệm đi vào ngõ cụt.

Thông thường, muốn học Tiến sĩ, bạn sẽ cần phải có bằng thạc sĩ trong một ngành học có liên quan đến chương trình tiến sĩ của bạn. Khi cung cấp thông tin về vấn đề tiến cử, nghiên cứu sinh nên tìm tới những người đã biết đến bạn trong một bối cảnh học thuật và nghiên cứu trước đó.

Tiếp đó, nghiên cứu sinh cũng sẽ phải viết đề cương nghiên cứu trong đó vạch ra những gì bạn có kế hoạch tìm hiểu dựa trên bối cảnh những nghiên cứu trước đây, chứng minh hiểu biết của nghiên cứu sinh về những thảo luận đang được diễn ra trong lĩnh vực, những lỗ hổng kiến ​​thức hiện tại mà người học muốn làm sáng tỏ, phương pháp học của nghiên cứu sinh…

Một số trường đại học sẽ bố trí cho nghiên cứu sinh một người giám sát sau khi được nhận vào học. Các trường khác lại yêu cầu nghiên cứu sinh phải tìm một giáo sư và thuyết phục người này đồng ý là người giám sát của nghiên cứu sinh, điều này đòi hỏi nghiên cứu sinh phải gặp giáo sư trước và thảo luận về đề xuất của người học, nhằm đảm bảo rằng ý tưởng của nghiên cứu sinh phù hợp với các nghiên cứu đang được thực hiện tại khoa.

Phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã trao đổi với Tiến sĩ Nguyễn Văn Hải - Bác sĩ bệnh viện Nhi trung ương để tìm hiểu về vấn đề học Tiến sĩ tại nước ngoài, Tiến sĩ Hải cho biết: “Để làm Tiến sĩ, trước hết cần phải có đề tài nghiên cứu khoa học mới chưa ai nghiên cứu, trong đó có vấn đề cần được giải quyết làm rõ bằng khoa học. Đề tài của tôi nghiên cứu về “tay, chân, miệng”. Với đề tài này, tôi cần phải làm rõ bệnh tay, chân, miệng là do loại virus nào gây ra, có bao nhiêu chủng virus gây ra bệnh này,…

Tôi cũng phải tìm hiểu đặc tính phân bố của các loại virus đó theo từng năm, nó ảnh hưởng đến vấn đề nhân khẩu học, dịch tễ học thế nào, những mùa trong năm dễ mắc bệnh, đối tượng trẻ nào hay bị bệnh, và lứa tuổi nào bị nặng nhất,…Đề tài này nghiên cứu đối tượng trẻ em ở Việt Nam, chính vì vậy tôi sẽ thu thập mẫu bệnh phẩm tại Việt Nam, sau đó mang sang Nhật để nghiên cứu phân tích chuyên sâu.

Vì sao tôi làm ở Nhật? Bởi ở Nhật và một số quốc gia phát triển trên thế giới mới có đủ điều kiện cơ sở vật chất, kĩ thuật giúp cho việc phân tích, làm những thí nghiệm chuyên sâu về virus”.

Trong quá trình 4 năm nghiên cứu, tôi phải làm rất nhiều loại thí nghiệm khác nhau, có thí nghiệm thành công, nhưng cũng có không ít thí nghiệm đi vào ngõ cụt. Ảnh minh họa.

Theo tiến sĩ Hải: “Nghiên cứu sinh cần phải có thầy hướng dẫn đúng với chuyên ngành mình đang nghiên cứu. Bước viết đề cương đề tài, tình hình của bệnh đó ở Việt Nam và trên thế giới, những điều mình biết và chưa biết về virus gây bệnh, rồi lý do mình nghiên cứu để giải quyết mục đích gì, và mình định làm cái gì. Khi làm nghiên cứu khoa học và nhất là đối với Y khoa thì đề tài cần có sự chấp thuận của hội đồng đạo đức ở cả Việt Nam và bên Nhật, khi được hội đồng chấp nhận, nghiên cứu sinh mới tiến hành thực hiện nghiên cứu.

Với những mẫu bệnh phẩm từ Việt Nam đưa sang Nhật, tôi dùng các kĩ thuật để phân tích về loại virus đó, đồng thời làm một số xét nghiệm chuyên sâu như giải trình tự bộ gen để so sánh các chủng virus ở Việt Nam với ở Nhật, và bản thân các loại virus đó với nhau, trên các đối tượng bệnh nhân khác nhau,…để tìm sự khác biệt giữa virus gây bệnh nặng, cũng như gây bệnh nhẹ, cũng như các loại virus đó là gì. Ngoài ra phải làm tiến hành rất nhiều thí nghiệm nữa để xác nhận loại virus đó có vai trò gì trong quá trình gây bệnh, có phải loại virus gây bệnh cho bệnh nhân A, nhưng đồng thời có gây bệnh cho bệnh nhân B hay không?

Có thể nói trong quá trình 4 năm làm nghiên cứu, tôi phải làm rất nhiều loại thí nghiệm khác nhau, có thí nghiệm thành công, nhưng cũng có không ít thí nghiệm thất bại. Có thể nói, làm nghiên cứu sinh vất vả ở điểm đó, mình đặt ra câu hỏi nhưng không phải lúc nào cũng có câu trả lời thỏa đáng, và không phải câu hỏi nào của mình cũng đúng, sau khi làm những thí nghiệm chuyên sâu hơn thì những câu hỏi kia mới được sáng tỏ. Nhiều thí nghiệm tôi phải làm đi làm lại mất rất nhiều thời gian và công sức”.

Hành trình 4 năm học tập nghiêm túc

Tiến sĩ Hải cho biết: “Để tiến hành bảo vệ thành công đề tài Tiến sĩ, công việc trong 4 năm được phân bổ ra nhiều giai đoạn.

Năm thứ nhất, trong 6 tháng đầu tiên, tôi phải học và hoàn thành các tín chỉ bắt buộc gồm nhiều môn như khoa học môi trường, các môn khoa học phục vụ cho việc nghiên cứu,... Việc học này tại giảng đường của trường đại học đối với tất cả các nghiên cứu sinh ở các chuyên ngành khác nhau, và kết thúc bằng các bài luận của người học.

Thời gian còn lại trong 4 năm, tôi tiến hành thực hiện các nghiên cứu của luận án theo tiến độ. Năm thứ nhất thực hiện các thí nghiệm cơ bản, năm thứ hai với nhiều thí nghiệm nâng cao, năm thứ ba làm các thí nghiệm chuyên sâu, năm thứ tư tổng hợp, xử lí phân tích số liệu rồi viết thành bài báo quốc tế. Theo quy định, bài báo quốc tế đó phải được đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên ngành có uy tín đã được thế giới xếp hạng, đây là điều kiện bắt buộc.

Tôi cũng như các nghiên cứu sinh phải nộp bài báo đến một tạp chí quốc tế, ban biên tập tạp chí này sẽ kiểm duyệt qua nhiều vòng. Thứ nhất: Sàng lọc xem đề tài của bài báo này có phù hợp với tạp chí đó hay không bởi họ là tạp chí về Y khoa nhưng đề tài gửi đến lại về thể thao, như vậy sẽ bị loại. Thứ hai: Tạp chí đó rất khắt khe để đánh giá về hàm lượng chất xám, hàm lượng kĩ thuật, nếu đề tài của nghiên cứu sinh đó sơ sài, đơn giản, không thực tế cũng sẽ bị loại.

Nếu đề tài qua được vòng loại đầu tiên, ban biên tập tạp chí đó sẽ chuyển đề tài khoa học đến một hội đồng đánh giá ở cấp cao hơn, gồm nhiều nhà khoa học uy tín trên khắp thế giới về lĩnh vực mà đề tài đề cập đến, hội đồng này sẽ đọc và nghiên cứu đề tài đó xem có vấn đề nào hợp lí, cũng như chưa hợp lí.

Họ phân tích và đồng thời có mấy trường hợp xảy ra: Thứ nhất, họ thấy quá nhiều lỗi và đề tài không có sự chuẩn bị kĩ lưỡng, lập tức họ sẽ không thông qua. Thứ hai, nếu mọi vấn đề khoa học của đề tài đó ở mức tốt thật sự, họ sẽ thông qua. Thứ ba, họ thấy đề tài còn một vài lỗi cần phải sửa hoặc cần làm rõ hơn, bổ sung thêm thí nghiệm chuyên sâu hơn để trả lời câu hỏi của hội đồng, như vậy nghiên cứu sinh phải thực hiện để đáp ứng thật tốt, giải thích được các yêu cầu đó.

Sau khi hội đồng nhận được các phản hồi của nghiên cứu sinh, nếu phù hợp hội đồng sẽ đồng ý thông qua, nếu những câu trả lời vẫn chưa thỏa mãn được hội đồng, họ sẽ yêu cầu tiếp và cũng có thể họ từ chối thông qua. Như vậy, để được thông qua một bài báo khoa học không hề đơn giản, hội đồng có chấp nhận thì bài báo đó mới được đăng tải.

Tờ báo quốc tế được xếp hạng uy tín cao trong giới khoa học, và bài báo của nghiên cứu sinh đăng trên đó sẽ càng uy tín, sẽ được trích dẫn nhiều trong các hội thảo quốc tế, trong nhiều công trình nghiên cứu sau này của các nhà khoa học khác với cùng hướng đề tài.

Khi đã có bài báo được đăng tải trên tạp chí quốc tế uy tín, đó mới là điều kiện cần, nhưng chưa đủ, tôi cần có 12 tín chỉ chứng nhận đã được mời tham gia báo cáo chuyên ngành mà mình đang nghiên cứu tại các hội nghị khoa học trong nước và quốc tế.

Khi đã có bài báo được đăng tải trên tạp chí quốc tế uy tín, đó mới là điều kiện cần, nhưng chưa đủ, tôi cần có 12 tín chỉ chứng nhận đã được mời tham gia báo cáo chuyên ngành mà mình đang nghiên cứu tại các hội nghị khoa học trong nước và quốc tế. Ảnh minh họa.

Bước cuối cùng, tôi phải đưa công trình nghiên cứu khoa học đó ra trước một hội đồng các giáo sư tại trường đại học nơi thực hiện đề tài, đây là các giáo sư đầu ngành có liên quan đến lĩnh vực đề tài nghiên cứu, ví dụ: Đề tài của tôi liên quan đến virus vi sinh thì sẽ có giáo sư về vi sinh vật, một vài liên quan đến vấn đề dịch tễ sẽ có giáo sư đầu ngành về dịch tễ, đề tài nghiên cứu đối tượng là bệnh nhân nhi, sẽ có những giáo sư chuyên ngành về nhi tham gia phản biện, tôi phải bảo vệ thành công đề tài trước hội đồng đó.

Sau khi tôi trình bày, và trả lời các phản biện của hội đồng giáo sư về đề tài khoa học đó, nếu hội đồng chấp thuận thông qua, lúc này tôi đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ. Nói như vậy nhưng việc được sở hữu tấm bằng Tiến sĩ tại nước ngoài không hề dễ dàng, phải qua rất nhiều khâu kiểm duyệt từ đề tài, người hướng dẫn, hội đồng đạo đức,... và cả quá trình học tập nghiên cứu một cách nghiêm túc trong 4 năm. Đây là học thật, thi thật”.

Tấm bằng Tiến sĩ không dễ dàng

Tiến sĩ Hải chia sẻ thêm: “Có thể nói, khó khăn nhất khi làm nghiên cứu khoa học là bản thân tôi cũng như các nghiên cứu sinh không biết được hướng nghiên cứu của mình sẽ dẫn đến đâu, mặc dù biết rất rõ những câu hỏi của mình đặt ra và những câu trả lời là đích đến.

Nhưng trong cả quá trình tôi giải quyết các câu hỏi đó, tôi không biết chắc chắn các thí nghiệm sẽ dẫn dắt mình đến đâu, có thể trong quá trình làm nghiên cứu, nhiều thí nghiệm không thành công, hoặc cho ra kết quả không đúng với suy nghĩ ban đầu của mình, như vậy bắt buộc nghiên cứu sinh phải chuyển hướng nghiên cứu.

Có thể trong 2 năm, tôi làm nhiều thí nghiệm để trả lời các câu hỏi của mình, nhưng kết quả các thí nghiệm đó đi vào ngõ cụt, như vậy công sức 2 năm trời bỏ đi. Đó là lí do tại sao có những thí nghiệm cần rất nhiều thời gian, có nhiều nghiên cứu sinh nghiên cứu trong 7 năm, thậm chí 8 năm vẫn chưa bảo vệ xong tấm bằng Tiến sĩ.

Có thể nói, chi phí để làm nghiên cứu một đề tài Tiến sĩ khoa học trong 4 năm cũng rất lớn. Về phần cứng chi phí đào tạo, mỗi tháng tiền học phí ở trường đại học vào khoảng trên 10 triệu đồng. Ngoài ra còn tiền ăn, ở, chi phí sinh hoạt ở nước ngoài, chi phí ăn ở đi lại khi tham gia các hội nghị khoa học trong nước và quốc tế, vé máy bay đi lại,…Với đề tài của tôi chi phí cũng tới khoảng 1,5 tỷ đồng tiền Việt Nam, tất nhiên đó là mọi việc diễn ra thuận lợi trong 4 năm, còn nếu phát sinh kéo dài thời gian nghiên cứu thì mọi chi phí sẽ bị đội lên thêm rất nhiều”.

Tùng Dương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét