Thứ Ba, 29 tháng 8, 2023

20230830. BỨC XÚC CHUYỆN 'PHÓNG SINH' RẰM THÁNG BẢY

 ĐIỂM BÁO MẠNG


“SƯ”, “ĐẠI CHÚNG” và “PHÓNG SINH”
MẠC VĂN TRANG/FB/TD 28-8-2023

“Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn
Cho nên quân nó dễ làm quan” (Tản Đà, 1928)
Xin phép chép theo Cụ Tản Đà:
Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn
Cho nên quân nó dễ làm … “Sư”!
“Sư” bây giờ “đông như quân Nguyên”, mà họ tài quá, chả biết vận dụng Phật pháp kiểu gì mà “phật tử” cứ như ăn phải bùa mê, thuốc lú, cứ “cúng dường”, nộp tiền “dâng sao giải hạn”, “trục vong”, “phóng sinh” v. v… vô tội vạ. Sư trụ trì chùa Ba Vàng còn bảo: “Càng nghèo càng phải cúng dường để thoát nghèo”!
Sư Thích Thanh Toàn hơn 40 tuổi, có chục năm trụ trì chùa Nga Hoàng ở xã Hợp Châu, huyện Tam Đảo, Vĩnh Phúc - ngôi chùa của một xã vùng quê xa xôi mà đã xây được 800m2 chùa, đúc chuông lớn, tượng to. Ông ta còn sống phè phỡn quen thói, nên “gạ tình” một nữ phóng viên, bị tố cáo, xin xả giới, hoàn tục. Và “Sư Toàn xin giữ tài sản 200-300 tỷ, nói giờ 'lấy vợ thoải mái”... (Tiền phong).
Có người nói, Sư bây giờ là các “phú tăng”, kinh doanh siêu lợi nhuận mà không phải đóng thuế…
“Đại chúng” như thế nào thì “Sư” mới “thoải mái” như vậy chứ!
Nói riêng về chuyện “phóng sinh”.
Phóng sinh là trao cho sinh vật nào đó bị đày ải hay có nguy cơ bị chết được cơ hội tiếp tục sống.
Con người vẫn là sinh vật đáng thương nhất, vì nó hiểu biết hơn muôn loài và có đời sống tâm hồn, tình cảm phức tạp, lại phải sống giữa đồng loại nhiều mưu ma chước quỷ tàn ác nhất. Bao nhiêu con người bị oan khuất tù đày, bị đe dọa sự sống mà sao không thấy các nhà sư và phật tử quan tâm kêu gọi “phóng sinh”? Có nhà sư hay phật tử nào ký vào đơn đòi “phóng sinh” cho hai tử tù oan khuất là Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng không nhi? Sao lòng từ bi trước hết không quan tâm đến đồng loại?
Còn “phóng sinh” hiểu theo nghĩa thông thường là khi gặp một con vật bị nạn, thì ra tay cứu thoát, hoặc nhìn thấy một hoặc nhiều con vật sắp bị giết, thì bỏ tiền ra mua để cứu sống chúng. Thấy những kẻ đánh bẫy muông thú thì khuyên can, ngăn chặn họ; thấy những con muông thú bị thương, bị nhốt thì đưa chúng đến các Trung tâm Cứu hộ động vật để chăm sóc, khi chúng có khả năng tự sống trong môi trường tự nhiên mới “phóng sinh”...
Cách “diễn trò phóng sinh” như các chùa làm hiện nay đã và đang bị rất nhiều người lên án: Đó là tội ác chứ không phải “phóng sinh”!
Những con cá, con chim… đang sống trong môi trường tự nhiên của nó thì bị bắt bằng mọi cách dã man, giam cầm chúng trong môi trường chật chội, hoảng loạn, đói khát rồi tổ chức “phóng sinh”. Muốn “Lễ phóng sinh” thật hoành tráng phải có chỉ đạo, tổ chức, “toàn hệ thống ra quân”: Sư tổ chức, “đặt hàng”, đầu nậu chỉ đạo các đàn em “gom hàng” (nghe nói có sư ở chùa nọ gọi điện cho “đầu nậu” cung cấp 2.000 con chim cho “lễ phóng sinh” dịp này…. Còn “đại chúng” thì “cúng dường” và tham dự thật đông vui cho “Đại Lễ phóng sinh” chùa ta hoành tráng hơn mọi chùa khác, nhất vùng! Các sư và “đại chúng” đều hoan hỉ thả chim!
Nhưng than ôi, chim bay túa ra khỏi lồng, con thì ngã dúi nằm bẹp, con thì lăn quay, con thì bay lên lại rơi xuống, vì cánh gãy; con thì cố bay lên cành cây nhưng không đậu được vì chân què, lại bay bay và rơi; nhiều con bay vật vờ mấy ngày rồi cũng rơi xuống chết vì mệt, đói, rét, không có tổ ấm, không kiếm được mồi trong môi trường lạ…
Trong khi chim bố mẹ bị bẫy, nhốt chờ “phóng sinh” thì mấy con chim con ở tổ há miệng kêu hết hơi rồi chết đói trơ xương! Nhìn cảnh đó thật thương tâm và không thể không lên án kẻ bẫy chim độc ác và những kẻ đồng loã, mua những con chim bị bẫy.
Có CẦU thì mới có CUNG. Nếu không mua chim, cá để “phóng sinh” thì những kẻ bẫy chim, bẫy cá sẽ ít đi, bớt gây tội ác hơn.
Phật giáo ở nước ta thịnh hành từ đời Lý và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử, có bao giờ như “Phật giáo” thời nay không? Có bao giờ làm trò “phóng sinh” dã man như ngày nay không?
28/8/2023
MVT

ĐIÊN ĐẢO PHÓNG SINH
THÁI HẠO/FB / TD 27-8-2023


9 giờ sáng, vừa ra khỏi nhà khoảng 1 cây số, thấy một người đàn ông đang ngồi trên đê bên cạnh chiếc xe máy. Đi qua chừng mươi bước chân bỗng nghe tiếng chim sẻ ríu ran chói tai, nhìn lên cây cột điện trước mặt thấy những que sắt tua tủa, trên đó nhiều con chim đang vùng vẫy. Vòng xe lại:
- Anh đánh bẫy chim phải không?
- Vâng, có gì không?
- Không được bẫy chim, anh gỡ ngay đi.
- Nhưng người ta cho đánh mà?
- Ai cho, tôi gọi công an nhé?
- Nơi cho nơi không, ở đây không được đánh thì thôi, em đi là được mà.
- Anh đánh chim làm gì vậy?
- Phóng sinh.
- Phóng sinh gì, chim đang sống yên ổn, các anh bắt nhốt lại rồi mang đi nơi khác thả ra, đó là giết chim chứ phóng cái gì! Nhìn xem, con thì rụng lông, con thì gãy cánh, phóng cái gì!
- Chùa đặt mua thì bọn em mới bắt bán, anh không tin thì xuống chùa Phúc Long hỏi, sáng qua họ mới phóng sinh 500 con đấy.
- Anh thử nghĩ coi, nếu anh đang đi làm mà bị người ta bắt nhốt lại hàng mấy ngày rồi mang sang châu Phi mà thả, con cái anh ở nhà làm sao?
- Không, chủ yếu chim con, chứ chim bố mẹ ít lắm.
- Thế nếu con cái anh đi chơi, rồi bị người ta bắt nhốt lại, mang đi nới khác “phóng sinh”, anh thấy thế nào?
- Bọn em cũng vì kiếm miếng ăn thôi anh ạ, chùa đặt thì bọn em mới bắt. Thôi em đi...
Thấy tức giận trong lòng. Đây là hành vi sát sinh chứ không liên quan gì đến phóng sinh cả. Với những kẻ gọi là “thầy tu” kia, nên dùng bẫy mà bắt nhốt lại trong những chiếc cũi sắt, bỏ lên xe máy mà chở đi giữa trời nắng, rồi mấy ngày sau thì “phóng sinh” bọn họ ở một nơi khỉ ho cò gáy nào đó. Có lẽ, chỉ có như thế họ mới biết thế nào là khổ nạn của chim trời cá nước đang bị họ hành hạ nhân danh cái sự tu tập quái thai.
Rõ ràng, hành động công khai đặt hàng, mua bán chim trời để “phóng sinh” của các chùa chiền là ngang nhiên vi phạm pháp luật, cần phải bị xử phạt nghiêm khắc chứ không thể để mặc như hiện nay. Chẳng lẽ luật làm ra chỉ để chơi thôi sao?
Phóng sinh hay ăn chay là vì tình yêu với muôn loài mà làm, khi thấy những con vật không may bị giam nhốt hay đang gặp nguy hiểm thì tìm cách cứu giúp nếu có thể, chứ đâu lại ra cái lối bẫy bắt bất nhân như thế. “Phật tử” thì cũng u mê, nghe theo bọn tà sư rồi cứ nẻo ác mà ra tay. Phước đâu không thấy, toàn gây ác nghiệp.
Tu là dùng sự hiểu biết mà luyện tâm cho bình đẳng, nuôi dưỡng tình yêu thương để chung sống với nhau và với muôn loài, chứ không phải bồi đắp cho lòng tham lam u mê ám độn vì mong cầu “được phước báu”. Tu như vậy thì khác gì đồ tể!
Dân, nên tránh xa các chùa quốc doanh và bọn sư hổ mang mới mong bớt dần sự điên đảo đảo điên này.
Thái Hạo

PHÓNG SINH
CHU MỘNG LONG/FB 27-8-2023


KỲ 1
- Chiếp chiếp… Anh ơi, em đói quá!...
- Chiếp chiếp… Em cũng đói quá!...
Tiếng hai con chim nhỏ kêu rên thống thiết làm con chim lớn nhất trong tổ cũng động lòng. Mỗi lần bố mẹ mang mồi về, nó thường há mỏ to hơn và ăn no trước khi bố mẹ mớm cho hai em nhỏ. Nhưng mấy hôm rồi không thấy bố mẹ về, nó cũng bắt đầu đói. Đói rã họng vì mỗi khi có tiếng động là nó há hốc mỏ ra chờ. Chờ mãi cũng chỉ có thể nuốt gió vào trong bụng. Hai con chim bé nhỏ, em nó, đang run lên, hai bên mép đã bắt đầu sùi bọt. Lần đầu tiên con chim anh thấy mình có lỗi với hai đứa em. Giá như những ngày trước đây, nó nhường mồi cho em mình thì hai em nhỏ chưa đến nỗi...
Con chim anh nghếch mỏ qua thành tổ, nhìn xa xăm phía vườn cây, nơi bố mẹ nó vẫn từ đó bay về mang theo mồi cho anh em nó. Chờ mãi cho đến chiều tàn. Cánh rừng vắng tanh. Chỉ nghe tiếng chuông chùa vọng lại và màn đêm ập xuống.
Một ngày, hai ngày, rồi ba ngày trôi qua. Con chim bé nhất đã không còn hơi thở. Con chim bé thứ hai yếu dần, nó rên rỉ lần nữa: "Bao giờ thì bố mẹ về?" Con chim anh chưa kịp động viên đứa em còn lại thì đứa em bé nhỏ ấy cũng đã run lên bần bật và trút hơi thở cuối cùng. Con chim anh xoè đôi cánh với mấy sợi lông ngắn ngủn ấp lên thân hai đứa em nhỏ. Lần đầu tiên nó thấy cái tổ ấm lâu nay của nó lạnh toát. Nó khóc, tiếng khóc não nùng. Không biết bố mẹ nó có nghe không?
Đến hôm thứ tư thì con chim bố mang bộ cánh xác xơ quay về. Chim bố nhìn vào tổ. Chỉ còn một cái mỏ há hốc ra chờ đợi như đã chờ đợi bao nhiêu ngày. Hai cái mỏ còn lại đã bẹp dí dưới đáy tổ. Chim bố vội vã bay đi rồi lại bay về. Mênh mông cánh rừng bạch đàn, không một trái cây, không một con sâu hay cái kiến để có thể tha về làm mồi cho đứa con còn sót lại. Nó nhìn đứa con còn sống sót ấy với cái mỏ há hốc ra, bụng thở thoi thóp mà không biết lấy cái gì để mớm cho con. Nó ngơ ngác nhìn quanh rồi đột nhiên cất cánh bay nhanh về phía chùa. Nhà chùa từng là nơi tập kết hàng trăm loài chim khác nhau trước lễ phóng sinh, cũng là nơi con chim bố vừa sẩy lồng.
"Con của chúng ta sắp chết hết rồi". Chim bố nói với chim mẹ đang bị nhốt trong lồng. Chim mẹ kêu thét lên một tiếng. Nó hiểu chuyện gì đã xảy ra. Nó rỉa lấy thức ăn trong lồng và mớm sang mỏ chim bố thật nhiều. Chim bố bay thẳng về tổ mớm cho con chim non còn sót lại. Mớm xong nó lại bay về phía chùa lấy thức ăn...
Cứ thế, đến lần thứ ba thì chim bố sập bẫy. Chim bố vùng vẫy kêu lên thống thiết, nhưng chỉ nghe mấy tiếng từ bi: "A di đà Phật. Tạm nương nhờ cửa Phật nhé. Đến rằm ta sẽ phóng sinh cho các con".
Ơn Phật, chim bố lần này được nhốt chung lồng với chim mẹ. Chim mẹ nhẩm tính: "Từ nay đến rằm phải mất chục ngày nữa. Mấy đứa con của ta có lẽ chỉ còn cái xác khô". Chim bố thở dài rồi an ủi vợ: "Đành vậy thôi. Tính ra chúng ta vào lồng rồi sẩy lồng cũng đã dăm bận nhưng đã không cứu được con mình. Lần này muộn mằn lắm mới sinh được lứa nữa. Chém cha cái kiếp phiêu bồng, thoát ra rồi lại chui lồng như chơi. Thôi thì chờ vậy, còn nước còn tát. Anh nghe sư thầy nói phóng sinh là thực hiện sứ mệnh cao cả đấy!"
Đợi mòn mỏi rồi ngày rằm cũng đến. Sau lễ cúng Phật, đôi chim kia được phóng sinh cùng hàng trăm con chim khác. Cả hai chấp chới bay về tổ. Khi được thả ra khỏi lồng, cả hai không quên ngậm vào mồm thật nhiều thức ăn, hy vọng có thể cứu được đứa con còn lại của mình. Nhưng khi về đến tổ thì... Đám giòi bọ sau khi để lại di cốt ba đứa con cho vợ chồng nhà chim thì chúng cũng đã hoá kiếp hay siêu thoát hết...
Đôi chim bố mẹ nghẹn ngào nhả hết thức ăn vào tổ như là lần mớm sau cùng tiễn biệt những đứa con. Chiều tàn buông xuống, đôi chim nép vào nhau và rì rầm lời tụng chúng đã thuộc làu trong những buổi lễ cầu siêu: Nam mô An Dưỡng quốc, Cực lạc giới Di Ðà Hải hội Vô Lượng Quang Như Lai. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực lạc giới Di Ðà Hải hội, Vô Biên Quang Như Lai. Nam mô An Dưỡng quốc Cực lạc giới Di Ðà Hải hội Vô Ngại Quang Như Lai. Nam mô An Dưỡng quốc Cực lạc giới Di Ðà Hải hội Vô Ðối Quang Như Lai. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực lạc giới Di Ðà Hải hội, Diệm Vương Quang Như Lai...
KỲ 2
(Ác nghiệp trùng trùng, biết bao giờ thoát?)
Sân chùa tháng cô hồn. Tờ mờ sáng đã đông người. Có những người ăn mặc kín đáo và có những cô gái trẻ khoe bẹn, khoe nội y. Họ đều là Phật tử đi lễ. Dưới những bóng cây cổ thụ, lại có không ít tục tử đi đi lại lại ngó nghiêng với những cạm bẫy trên tay.
Sân chùa náo nhiệt. Nhưng sự náo nhiệt đám đông không át nổi tiếng loa từ mái chùa vang ra. Bài kinh Vu Lan Bồn được tua đi tua lại với những giai điệu đều đều theo tiếng mõ, nhưng nội dung rùng rợn như tái hiện cảnh âm ty: Trong năm đại tội kể ra/ Bất hiếu thứ nhất thật là trọng thay/Sau khi chết bị đày vào ngục/ Ngũ Vô Gián, cũng gọi A-tỳ/ Ngục này trong núi Thiết Vi/ Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề/ Trong ngục này hằng ngày lửa cháy/ Đốt tội nhân hết thảy thành than/ Có lò nấu sắt cho tan/ Rót vào trong miệng tội nhân hành hình/ Một vá đủ cho người thọ khổ/ Lột thịt da đau thấu tâm can/ Lại có chó sắt, rắn gang/ Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhân/ Ở trong ngục có giường bằng sắt/ Bắt tội nhân nằm khắp đó xong/Rồi cho một ngọn lửa hồng/ Nướng quay kẻ tội da phồng thịt thau/ Móc bằng sắt, thương đao, gươm giáo/ Trên không trung đổ tháo như mưa/ Gặp ai chém nấy chẳng chừa/ Làm cho thân thể nát nhừ như tương/ Những hình phạt vô phương kể hết/ Mỗi ngục đều có cách trị riêng/ Như là xe sắt phân thây/ Chim ưng mổ bụng, trâu cày lưỡi le....
Một sân khấu cho đại lễ được chuẩn bị rất chu đáo, trang nghiêm. Cờ phướn rợp trời. Giữa sân là những cái lồng sắt với hàng vạn chúng sinh bị nhốt. Những con chim lớn nhỏ không biết đã vào lồng khi nào. Sau một đêm thức giấc, chúng nhảy loạn xạ, lông lá tả tơi. Có những con tróc mỏ, tróc đầu đỏ lòm lom. Có những con kiệt sức không nhảy nổi, mắt nhắm nghiền, thở thoi thóp dưới cái nắng đã bắt đầu đổ lửa.
- Dậy đi con! - Chim mẹ nói, mắt nhìn lên bầu trời chói gắt và hướng về phía cây cổ thụ - Lát nữa, con hãy cố sức bay đến tán cây kia. Nếu không thì con sẽ mãi mãi ở trong này và chết...
Chim non không buồn mở mắt. Nước mắt ướt nhèm lẫn nước dãi nhểu xuống giữa chừng lõng thõng không chịu rớt. Nó thều thào:
- Mẹ ơi, con có mắc tội đại nghịch bất hiếu đâu mà phải bị nhốt trong lồng sắt thế này? Có khi nào người ta đưa con vào lò nướng không?
Chim non nghĩ đến cảnh bị vặt lông rồi đưa lên lò nướng, da dẻ phồng rộp lên và người ta đưa vào mồm nhai rau ráu. Chim mẹ nhìn chim con. Xem chừng nó không thể vượt qua cái khoảng cách giữa sân chùa để bay đến cái tán cây cao kia. Chim mẹ thở dài:
- Bài kinh con vừa nghe là nói cho loài người. Không nói cho con. Lát nữa chư tăng sẽ phóng sinh con về với núi rừng. Con hãy niệm Phật từ bi cứu độ và đội ơn chư tăng nhón tay làm phúc...
Chim non khẽ kêu mấy tiếng chiêm chiếp và niệm theo lời kinh phát ra từ loa. Nó mơ ước khi được phóng sinh, đôi cánh bé bỏng, non yếu của nó được bàn tay Phật nâng lên bồng bềnh bay thẳng về phía núi xa xa...
Một con chim khác, trông rất mạnh khoẻ, bảnh bao nhưng chẳng thèm nhảy loạn xạ tìm đường thoát ra ngoài như những con chim khác. Nó cứ ung dung ăn uống những thứ đựng sẵn trong lồng, thỉnh thoảng mổ lũ chim hay nhảy loạn xạ kia rồi mắng đồ ngu. Nó ái ngại nhìn con chim non rồi nói với người mẹ tội nghiệp kia:
- Xem chừng đứa bé này không sống nổi chứ đừng nói thoát ra khỏi chỗ này. Mẹ con chị lần đầu tiên vào đây?
- Vâng, nhưng lẽ nào phải vào ra chỗ này nhiều lần?
Cái con chim mạnh khoẻ, bảnh bao kia cất lên một giọng hót véo von như một con chim già rừng, từng trải:
- Luân hồi một kiếp lao đao/ Bay ra rồi lại chui vào như chơi/Trời cao một cõi chơi vơi/ Rừng xanh một chốn cũng dời vào đây...
Hót xong, nó nói:
- Thưa chị, tôi vào ra cái lồng này cũng đã chục lần. Tôi nghe sư thầy bảo bánh xe luân hồi sẽ còn quay mãi không dứt.
Nói đoạn, con chim mạnh khoẻ, bảnh bao chỉ ra vườn cây, ở đó đủ thứ cạm bẫy giăng sẵn, có cố sức bay lên cao cũng khó thoát. Nó xoè đôi cánh cho chị chim mẹ kia xem và giải thích, cái kẹp người ta gài trong mỗi đôi cánh chim kia là để không con nào bay cao, bay xa được.
Chim mẹ giật mình nghĩ đến trong nách mình cũng có một chiếc kẹp, nhưng may quá, hình như người ta không đủ kẹp để kẹp đôi cánh của nó. Nó nghĩ miên man, rằng có khi nào mẹ con ta được thả ra rồi lại bị bắt vào như chơi?...
- Mẹ con chị chưa bị kẹp cánh là may - Con chim khoẻ mạnh, bảnh bao động viên - Nên tĩnh một lúc đi. Đợi khi làm lễ phóng sinh, nếu thấy đủ sức thì bay lủi thẳng vào bụi rậm, tìm chỗ nấp kỹ, đợi khi nửa đêm vắng người thì may ra thoát. Tôi thì bị bắt đi bắt lại chán rồi, không thèm mang ơn phóng sinh nữa.
Đúng lúc đó đại lễ phóng sinh bắt đầu. Sự thầy trụ trì thắp hương khấn nguyện: Hôm nay đông đảo thiện nam tín nữ phát tâm mua chuộc sinh mệnh chúng sinh để phóng sinh. Nguyện mười phương Tam Bảo từ bi phóng quang tiếp độ chúng sinh thoát khỏi luân hồi, an vui Cực Lạc quốc...
Sư thầy đi vòng quanh sân chim, kiểm tra từng cái lồng và quan sát những cánh chim. Ngài thung dung rảo bước ra vườn dặn dò quân săn chim chờ sẵn các gốc cây: "Cẩn thận, đừng cho chúng nó thoát! Thoát con nào là mất tiền con đó đấy" Nói xong, ngài đưa cho mỗi đứa một phong bì trích ra từ tiền cúng của các thiện nam tín nữ rồi mới rảo bước về lại sân chim. Ngài niệm kinh như nói với đám chim bị nhốt:
- Bọn cầm thú lỡ gây ác nghiệp/ Đều là do vô thỉ sân si/ Từ thân miệng ý phát đi/ Hôm nay sám hối để bay về trời. Nam mô quy y Kim Cang thượng sư. Nam mô quy y Phật, Nam mô quy y Pháp, Nam mô quy y Tăng...
Nghe đến đó, chú chim non hỏi mẹ:
- Con chỉ ăn sâu bọ, đã gây ác nghiệp gì mà phải sám hối vậy mẹ?
Chim mẹ không giải thích được, nó nhìn chim con mà ứa nước mắt.
Sư thầy lại đọc chú Vãn phóng sinh:
- Này đây hỡi các loài cầm thú/ Lắng tai nghe cho rõ điều răn/ Dẫu là bơi trước lặn sau/ Bay cao hay thấp cũng chung một nồi...
Nghe đến đó đã phát kinh. Tất cả bọn chim trong lồng đều nhảy loạn xạ. Sư thầy đọc tiếp:
- Thương thay thân phận các ngươi/ Cũng đừng trách bởi ông trời vô luân/ Hôm nay nhờ gặp thiện nhân/ Phóng sinh gieo đức cho quân chúng mày... Diệt định nghiệp chơn ngôn: Án bát ra mạt lân nãnh ta bà ha. Diệt nghiệp chướng chơn ngôn: Án a lỗ lặc kế ta bà ha...
Đọc xong, sư thầy lệnh cho các tăng mở cửa tháo lồng. Hàng loạt con chim tuôn ra rồi lảo đảo bay ra vườn cây. Có con vừa ra khỏi lồng đã lăn ra chết. Sư thầy nhỏ lệ lầm rầm khấn cầu A di đà Phật tiếp độ hương linh chúng sinh bé nhỏ an vui Cực Lạc quốc, rồi tiện tay vứt những con chết dồn về một đống để hoả thiêu.
Trong chiếc lồng kia, chim mẹ dùng hết tàn lực dìu con chim non thoát được ra ngoài, nhưng không cách nào bay xa được. Nó đang lo lắng bị bắt lại và cơ chừng này thì con nó sẽ chết. Nó loay hoay đủ cách, trong khi những con chim khoẻ mạnh bay được xa thì đã bị tóm gần hết. Nó nhìn lại cái lồng thì thấy con chim khoẻ mạnh bảnh bao vẫn không chịu thoát ra ngoài. Ôi, lẽ nào tự do của nó là chiếc lồng? Nó chỉ còn cách tha con của mình lủi đến bụi rậm gần nhất. Nó lê lết lăn lộn nhiều vòng trong đất cát, thỉnh thoảng nhắc con: "Con yêu, cố lên! Sắp tự do rồi. Con chẳng có tội tình gì". Con chim khoẻ mạnh, bảnh bao trong lồng vừa quan sát hai mẹ con cực nhọc vượt qua chặng đường đến bụi rậm vừa ngửa cổ hót véo von: "Chim với người ai là cầm thú/ Kẻ sát sinh sao cứ nhơn nhơn/ Nhốt tù cho thoả nguồn cơn/ Thả ra rồi kể công ơn đạo tràng/ Tự do phải đâu miền Cực Lạc/ Là mênh mông bát ngát trời xanh...
Trong lúc sư thầy và mọi người chăm chú vào tiếng hót lạ của con chim còn lại trong lồng thì mẹ con nhà kia đã lủi vào bụi rậm an toàn, không ai nhìn thấy. Nửa đêm hai mẹ con tẩu thoát về rừng. Chim con hỏi chim mẹ: "Như vậy là mẹ con mình được phóng sinh hả mẹ?" Chim mẹ lắc đầu: "Đó không phải là được phóng sinh. Mẹ con mình vừa chạy giặc". Trong xa thẳm nơi núi rừng hoang dã, mẹ con chim nhà kia vẫn nghe văng vẳng lời hót của con chim khoẻ mạnh, bảnh bao từng ở cùng lồng. Chim mẹ nói với chim con: "Không nhờ anh ấy thì mẹ con ta đã bị bắt lại. Anh ấy hiểu nghĩa lý của tự do, nhưng đã hy sinh cho chúng ta tự do. Ơn này không phải do kẻ nhốt ta rồi thả ra mà nhờ sự hy sinh cao cả ấy".
Hai tháng Chín và Rằm tháng Bảy,
Chu Mộng Long

THẢ CHIM
Nguyễn Thùy Dương/BVN 28-8-2023
Mấy ngày nay, mình thấy người ta chửi nhau chuyện thả chim hay mặc kệ chim.
Bên mặc kệ chim thì nói thả chim (phóng sinh) là tiếp tay cho tội ác. Càng thả thì tụi bẫy chim càng bắt nhiều chim để bán. Thả chim tạo ra nhu cầu cung, nên bên bán sẽ mua vô nhiều cho người ta thả. Hại loài chim càng khổ đau và bị tiêu diệt nhiều hơn.
Bên thả chim thì nói tụi phản đối thả chim là ngăn chặn phóng sinh, độc ác. Kẻ ngăn chặn người khác thả một loài đang bị giam cầm thì tương lai cũng sẽ trả quả cho hành động đó.
Nhìn chung, hai bên đều có lý. Nhưng cả hai bên không bên nào tự hỏi nhau: Nhà Nước đâu?
Chim càng ngày càng ít, lạm dụng thuốc trừ sâu càng ngày càng nhiều. Tại sao không ban hành lệnh hoặc đưa vào Luật để bảo vệ các loài chim nhỏ khỏi bị săn bắt, đánh bẫy và cấm buôn bán chim? Cứ cấm đi và ai bán sẽ bị lập biên bản xử phạt, tổ kiểm tra thả chim ngay lập tức khi phát hiện chim bị nhốt bán. Làm vậy ai còn muốn buôn bán chim nữa. Tổ kiểm tra cũng tạo công đức không kém mấy ông tụng kinh cả tiếng đồng hồ mới thả chim.
Nhưng phải làm thường xuyên liên tục, mang tính triệt để chứ không phải hù rồi thôi. Hoặc ra Luật để cán bộ có cớ vòi tiền người bán chim, có tiền thì khỏi bị phạt, không bị thả chim. Hay nặng hơn là xử lý hình sự khi vi phạm nhiều lần.
Vấn đề ở đây nằm ở tầm nhìn của các vị Quản lý nhà nước. Chim là thước đo môi trường không khí, cá là thước đo môi trường nước. Các vị phải tự có chính sách bảo vệ chim cá cho phù hợp chứ không phải để mỗi năm đến dịp dân cãi nhau vì chuyện này. Đây không phải chỉ là chuyện tâm linh công đức mà còn là chuyện môi trường sống của con người.
Trong khi các nước văn minh nhường đường cho một bầy vịt qua đường thì nước ta nhốt chim từng lồng trước cổng đình chùa. Ngay cả trước lăng Ông Bà Chiểu cũng lồng lồng.
Rồi du khách nước ngoài họ nhìn ta như thế nào đây? Lãnh đạo văn minh tự sẽ xây dựng được con đường văn minh cho Dân tộc. Còn để dân cứ tranh cãi mãi vẫn không ra vấn đề của hành động văn minh thì cần lãnh đạo để làm gì?
N.T.D.
Nguồn: FB Nguyễn Thùy Dương

Thứ Hai, 28 tháng 8, 2023

20230829. 62 NĂM SỰ KIỆN XÂY BỨC TƯỜNG BERLIN

    ĐIỂM BÁO MẠNG

BỨC TƯỜNG BERLIN
NGUYỄN THỌ/FB 13-8-2023


BÀI 1: Nước Đức chia cắt

Vào ngày này cách đây 60 năm, đêm 12, rạng sáng ngày 13.08.1961, bức tường Berlin đã bất ngờ được dựng lên, chia thành phố này ra Đông và Tây, gây đau khổ cho hàng vạn gia đình Đức.
Sáu năm sau, hè 1967, tôi đến Berlin với quan niệm Địch-Ta khá rõ ràng. Chúng tôi được dạy dỗ rằng bức tường Berlin là bức tường chống phát xít, bức tường bảo vệ hòa bình, rằng các bạn Đông Đức, Bắc Triều Tiên là những người đồng chí cùng cảnh ngộ, đang cùng đấu tranh thống nhất đất nước như người Việt mình.
Sau khi học xong tiếng Đức tôi nhận thấy nước Cộng hòa Dân chủ Đức không hề muốn thống nhất. Họ chỉ muốn được công nhận như một nhà nước bình đẳng với CHLB Đức ở phía Tây. Tây Đức thì ngược lại, luôn đòi xóa bỏ biên giới, hiệp thương hai miền. Phía CHDC Đức coi đó là âm mưu thôn tính mà họ phải chống lại bằng mọi cách. Mấy ông cán bộ Việt Nam hay quen mồm „Chúc các đồng chí mau chóng thống nhất đất nước“ làm họ rất khó chịu.
Tôi hiểu rằng CHDC Đức muốn chia cắt đất nước. Nhưng vì coi nửa kia nước Đức là tư bản, là đế quốc nên chàng trai 17 tuổi thấy chia cắt là tốt.
Chúng tôi ở Königs Wusterhausen, cách Berlin 30km về phía Nam nên mỗi khi chạy trên đường cao tốc (Autobahn-Berliner Ring) tôi vẫn thấy hàng rào thép gai bao bọc Tây Berlin. Bên trong thấp thoáng những chiếc xe ô tô đẹp, bóng loáng, khác hẳn những chiếc xe Trabant khiêm tốn của các thầy cô tôi.
-Ừ, trong đó giàu có thật. Nhưng ác và xấu như tư bản thì thì vứt - Thằng tôi tự nhủ vậy.
Là kẻ luôn đi sâu vào bản chất của sự việc, tôi đã đọc, xem rất nhiều tài liệu về quá trình chia cắt nước Đức và lịch sử của bức tường.
Trước khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Liên Xô và Mỹ, Anh đã định đoạt tương lai châu Âu tại các hội nghị Teheran và Yalta. Theo đó, châu Âu, nước Đức và cả thành phố Berlin đều sẽ được chia thành các vùng chiếm đóng của ba cường quốc này. Mục tiêu công khai là chia nhỏ nước Đức nhằm triệt tiêu Chủ nghĩa Quốc xã và xóa bỏ mọi âm mưu tái vũ trang của người Đức. Nhưng mục tiêu ngầm là giấc mộng thống trị thế giới của cả Stalin, Churchill và Roosevelt.
Kết quả của những thỏa thuận này là một bản đồ chi tiết cho sự chiếm đóng của Liên Xô ở Đông Âu, Mỹ và Anh ở phía Tây.
Trong những tháng cuối cùng của cuộc chiến, Hồng Quân Liên Xô đã chiếm sang cả những vùng ở Bắc Âu [1]. Ngược lại, Mỹ cũng giải phóng khu vực quanh Leipzig[2]. Sau này hai bên rút về theo đúng bản đồ đã thỏa thuận.
Sau khi Đồng minh đổ bộ vào Normandie hè 1944, quân Pháp của tướng de Gaulle cùng với phong trào kháng chiến (Résistance) trong nước chia lửa mạnh mẽ với quân Anh-Mỹ nên Pháp cũng được chia phần chiếm đóng nước Đức. 50.000 quân Bỉ cai quản vùng Cologne-Bonn từ tháng 8.1945 đến tận 2003 chỉ là lực lượng hỗ trợ cho quân đội Anh chứ Bỉ không được coi là lực lượng chiếm đóng.
Thế là nước Đức bị chia cắt thành bốn vùng. Liên Xô giữ 1/4 nước Đức ở phía đông là vùng trù phú và phát triển nhất với hơn 20 triệu dân, bao gồm các trung tâm công nghiệp như Dresden, Magdeburg, Berlin, Chemnitz v.v.
Ngoài ra, thủ đô Berlin nằm lọt thỏm trong lòng Đông Đức cũng bị chia làm bốn phần. Liên Xô kiểm soát phần Đông Berlin, sau này thành thủ đô nước CHDC Đức.
Ba phần tư nước Đức còn lại do Mỹ, Anh, Pháp quản với 62 triêụ dân. Ba vùng chiếm đóng này không trở thành ba miền khác nhau vì Đồng minh thỏa thuận để cho người Đức tự quản.
Ba vùng này đều duy trì nền kinh tế tự do trong thể chế dân chủ tư sản nên đã cùng nhau lập ra nước Cộng hòa Liên bang Đức vào ngày 23.5.1949. Lực lượng chính trị được đồng minh hỗ trợ ở đây là các phong trào dân chủ chống Hitler. Những người lập quốc như Konrad Adenauer, Willy Brandt, Kurt Schumacher hay Theodor Heuss đều từng bị Hitler truy bức, bắt giam hoặc phải đi tỵ nạn ở nước ngoài nên họ đã làm ra một bản hiến pháp rất tiến bộ, đưa việc bảo vệ nhân quyền và dân chủ lên hàng đầu. Về mặt nhân quyền, hiến pháp Đức 1949 đã vượt qua hiến pháp Mỹ và Pháp. Điều 16a khẳng định quyền tỵ nạn chính trị tại Đức là một ví dụ.
Vì ở miền Đông đang hình thành một nhà nước công nông theo mô hình XHCN của Liên Xô nên những người lập quốc Tây Đức chưa coi nhà nước CHLB Đức là quốc gia hoàn chỉnh. Do đó bản hiến pháp 1949 được những người soạn thảo đặt tên là „Bộ luật cơ bản“ (Grundgesetz). Họ dành việc viết hiến pháp (Verfassung) cho nước Đức thống nhất sau này.
Ngày 7.10.1949 nước CHDC Đức, nhà nước công nông đầu tiên của dân tộc Đức ra đời ở miền đông. Tại sao trong một nước Đức phát triển cao lại có một chính quyền công nông?
Bên cạnh việc Liên Xô chiếm đóng Đông Đức còn có nhiều yếu tố địa chính trị thú vị.
Về địa lý, toàn bộ lãnh thổ CHDC Đức là trung tâm của nước Phổ (Prussia, Preussen), nước mạnh nhất trong các nhà nước Đức phong kiến trước khi được thống nhất thành Đế chế Đức vào năm 1871.
Từ đó cho đến lúc Hitler lên cầm quyền 1931, nước Phổ vẫn được coi là „Nhà nước tự do“ (Freistaat), là „Thành trì của nền dân chủ“(Bollwerk der Demokratie), nơi mà cánh tả luôn chiếm thượng phong. Từ sau cách mạng Đức 1918, các chính đảng cánh tả như đãng Xã hội (SPD) và đảng Cộng sản (KPD) luôn chiếm số lượng ghế lớn trong quốc hội Đức. Thủ tướng Phổ là Bismarck đã đưa ra chế độ bảo hiểm xã hội toàn dân từ cuối thế kỷ 19. Phụ nữ Phổ được đi bầu từ 1918, sớm nhất châu Âu. Từ năm 1840 ở Đông Đức đã có vườn trẻ. Từ đó danh từ „Kindergarten“ được dùng nguyên thể trong nhiều thứ tiếng…
Tóm lại:Tư tưởng XHCN đã có chỗ đứng rất vững chắc ở Đông Đức. (Đó là chưa kể đến 85% dân Đông Đức theo đạo Tin lành, cách tân hơn những đồng bào Thiên chúa giáo ở miền Tây.)
Nước Phổ bên cạnh việc phát triển cao về công nghiệp và phúc lợi xã hội, còn có nền hành chính kỷ cương nhất thế giới. Sự kỷ cương này không chỉ tạo ra cung cách quản lý chặt chẽ, rất khoa học (mà bộ máy STASI sau này là một ví dụ). Nó còn tạo ra đức tính chấp hành mệnh lệnh tuyệt đối trong dân chúng (gehorsam = vâng lời). Đức tính này là đất sống cho các nền chuyên chế. Chủ nghĩa quân phiệt Phổ cũng thừa hưởng đức tính này.
Nước Phổ từng trải rộng đến sát nước Nga, quan hệ khăng khít với Nga. Rất nhiều tướng lãnh, quý tộc Phổ phục vụ các triều đại Sa hoàng, có huyết thống với người Nga. Sau cách mạng tháng 10, toàn bộ tinh hoa của nước Nga phong kiến chạy sang Phổ. Các yếu tố lịch sử, văn hóa này giúp cho mối liên kết Đông Đức-Liên Xô chặt chẽ hơn là giả sử Liên Xô chiếm đóng Tây Đức.
Có người coi CHDC Đức thực chất là nước Phổ hiện đại mang học thuyết XHCN. Tuy gọi là nhà nước công nông, nhưng quốc huy của nó không có lưỡi liềm của nhà nông. Thay vào đó là cái compa của trí thức.
Bên cạnh các yếu tố địa chính trị nói trên, vai trò của phong trào Cộng sản Đức vô cùng quan trọng. Là nước công nghiệp nặng, Đức có một giai cấp công nhân khổng lồ, tạo chỗ đứng vững chắc cho đảng Cộng sản Đức (KPD). Vì đảng NSDAP của Hitler và KPD đều muốn độc quyền lãnh đạo đất nước nên Hitler khủng bố, tiêu diệt đảng Cộng sản tàn khốc nhất. Nhiều người cộng sản chạy sang Liên Xô, thành lập Ủy ban Quốc gia nước Đức Tự do (National Kommitee Freies Deutschland NKFD) [3]. Ủy ban này thu phục thêm nhiều tướng lĩnh tù binh Đức, giúp Hồng quân và Đồng minh giải phóng nước Đức. NKFD gồm 5000 người được tổ chức chặt chẽ, trang bị tốt đã trở thành nòng cốt vũ trang của nhà nước CHDC Đức.
Liên Xô cũng giải phóng nước Áo, cũng chiếm phần lớn nước Áo và một phần thủ đô Vienna từ năm 1945 y như Đức. Khổ nỗi người Áo sống bằng nhạc, lễ hội, ít công nghiệp, không có phong trào cộng sản nên Liên Xô loay hoay mãi không xây dựng được nhà nước XHCN ở đó. Năm 1955, Moscou đành trao trả độc lập cho nước Áo trung lập, sau khi đã bóc hết nhà máy, đường sắt, tàu hỏa v.v. để trả nợ chiến tranh[4]. Người Áo mừng húm vì „Của đi thay người“. (Chỉ người Việt hơi buồn vì sau này không ai được đi „Hợp tác lao động“ ở Áo.)
Trong khi đó nước Đức bị chia hai. Biên giới Đức-Đức (innerdeutsche Grenze) dài 1400 km chia cắt hai miền cũng hình thành từ tháng Mười 1949, ngay sau khi nước CHDC Đức ra đời.
Nhưng Berlin vẫn là một thành phố thống nhất, vẫn chung một hệ thống nhà đèn, một hệ thống cấp thoát nước, một mạng lưới giao thông v.v Hai bên đông tây thành phố vẫn qua lại bình thường.
(Còn tiếp)
Bài sau:
---


BÀI 2: Biên giới Đức-Đức

Nhiều người nhầm lẫn, coi bức tường Berlin là biên giới Đức-Đức. Lý do là bức tường đó được bất ngờ dựng lên trong một đêm, như một quả bom hạt nhân nổ khiến cả thế giới nói về nó, coi nó như một biểu tương của chiến tranh lạnh. Còn biên giới Đức-Đức thì khổng lồ hơn nhiều, cứ ngấm ngầm len lỏi, lớn dần lên giữa các làng mạc trong vòng 7 năm liền nên ít ai để ý đến nó.
Sau hội nghị Potsdam tháng 8.1945, quân đội các bên rút về những đường biên đã thỏa thuận và thiết lập chế độ quân quản. Ba vùng quân quản phía tây chỉ kiểm soát giấy căn cước đi lại để bắt các tội phạm Nazi còn ẩn náu. Sau khi ba vùng thống nhất tiền tệ vào năm 1948, dùng chung đồng DM thì tự do thông thương hoàn toàn.
Giữa vùng Xô Viết và 3 vùng còn lại cũng có một đường ranh. Nhưng bên cạnh việc truy lùng tội phạm chiến tranh (thông qua căn cước), Liên Xô còn kiểm soát hành chính bằng giấy thông hành (Passierschein). Lúc đầu, khi lính Liên Xô còn kiểm soát, mọi việc nhiêu khê nhưng vẫn ụ xọe cho xong. Đến khi chính quyền được trao dần cho những người cộng sản Đức thi công việc trở nên khắt khe hơn. Công an đông Đức biết rõ lý lịch của từng người làng nên việc cấp giấy thông hành trở nên khó khăn. Thế là dân chúng bắt đầu vượt biên, đi qua các con suối, các đường mòn để sang bên kia chơi, mua sắm, thăm nom. Để chống lại việc này, chính quyền miền Đông cứ dần chăng thêm thép gai hết đoạn này đến đoạn khác, buộc người dân phải đi qua các cửa khẩu, giờ đây do công an người Đức kiểm soát.
Câu chuyện có thật của làng Mödlareuth ở miền nam CHDC Đức được đài truyền hình ZDF làm thành phim với tên „Làng Tannbach“[1] là một khắc họa điển hình của quá trình chia cắt nước Đức. Đường biên giữa hai khu vực Xô-Mỹ là một con suối chạy qua giữa làng. Sau chiến tranh, cả hai bên đều đói khổ, điêu tàn như nhau.
Trong khi cuộc sống ở bên Đông bị xáo trộn bởi cải cách ruộng đất, quốc hữu hóa, thì ở bên Đoài bọn cựu Nazi lại làm loạn. Những kẻ như lão địa chủ Schober lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng nịnh người Mỹ để thâm nhập vào chính quyền, quân Mỹ thì ú ớ. Nhưng Schober không ngờ rằng có người giữ được tấm thẻ đảng NSDAP (đảng Quốc xã) của gã. Thế là cuộc truy tìm tấm thẻ đảng của Schober trở nên đẫm máu.
Có thể nói thời kỳ mới hòa bình, cuộc sống ở hai miền Đông-Tây Đức đều khốn khổ như nhau. Người ta đi lại vì kinh tế thì ít, mà vì thăm nom là chủ yếu. Nhưng việc cái hàng rào ngăn chặn người dân đi từ Đông sang Tây cứ cao dần lên khiến người Đông Đức hoảng sợ và ngày càng có nhiều người bỏ sang phía Tây. Dòng người càng tăng thì cái hàng rào thép gai đó càng dài ra và cao lên. Nhưng nó chưa phải là biên giới. Nước Đức vẫn là một, cùng đói khổ đổ nát như nhau.
Sau ngày 7.10.1949 khi nước CHDC Đức ở miền Đông ra đời để trả lời việc hình thành nước CHLB Đức ở phía Tây thì cái hàng rào thép gai đó được Đông Đức đơn phương xây thành biên giới. Khi đó nó đã dài 1400km với hàng trăm chòi canh có đèn pha và các trạm chó săn. Cho đến năm 1952, nó được mở rộng thành hai hàng rào thép gai, ở giữa là đường đi của lính biên phòng. Hàng rào dây thép gai được gắn các loại cảm biến để khi có người động vào sẽ báo động. Lại còn có loại mìn tự động phát hỏa về phía có tiếng động [2]. Không biết loại mìn có chân tay này đã giết chết người nào chưa, nhưng lợn, hươu rừng thì rất nhiều.
Năm 1970, tôi thực tập ở đài truyền hình Rostock, chơi thân với ông Parschen, người phụ trách chương trình săn bắn và lâm nghiệp „Weidmannsheil“ nên hay được đi theo quay phim ở vùng sát biên giới Đông-Tây Đức.
Tuy chỉ đứng từ xa nhìn vào, nhưng tôi bị ấn tượng mạnh bởi hệ thống hàng rào dây thép gai hùng vỹ này. Người Đức làm cỗ máy giết người đó cũng rất chỉnh tề, chỗ nào cũng có biển báo: hoặc là sẽ bị bắn, hoặc sẽ có mìn. Người ta đã rải 1,3 triệu trái mìn trên nhiều tuyến biên giới[3]. Sau ngày thống nhất nước Đức, việc tháo gỡ các bãi mìn này cũng nhanh vì công binh có các bản đồ chính xác đến từng cm.
Dải đất chết 1.400km này chạy qua rất nhiều làng mạc, ấp trại như làng Tannbach nói trên, cắt đứt mọi liên hệ máu mủ, mọi mối tình. Nhưng ngôi làng như Rüterberg sau đây thì chỉ có một. Tôi đã may mắn đến đó [4].
Quân Anh và Hồng quân quy định chia vùng quản lý dọc theo sông Elbe, Liên Xô ở bờ Đông, Anh ở bờ Tây. Vì đoạn sông Elbe đi qua Rüterberg lại gấp khúc hình chữ V nên khi chia ranh giới người ta trót kẻ thẳng, để cho quân Anh lấn sang bờ đông sông Elbe, quản luôn cả làng Rüterberg. Tranh chấp mãi, về sau quân Anh rút khỏi Rüterberg, nhưng đóng quân xung quanh để tối tối vào làng uống bia, tán tỉnh chị em thôn nữ. Hồng quân tiếp quản Rüterberg, biến nó thành một vùng thuộc CHDC Đức, nằm lọt thỏm 3 mặt trên lãnh thổ Tây Đức.
Vì lọt thỏm trong lãnh thổ Tây Đức nên nhiều người Đông Đức vẫn đến làng này du lịch và tranh thủ ban đêm, trốn sang bên kia. Năm 1961, CHDC Đức xây hai lớp hàng rào bao quanh 3 mặt làng, ở giữa là đường đi có đèn pha chiếu sáng, có lính biên phòng đi tuần. Vậy mà thỉnh thoảng vẫn có người cắt được dây thép gai, lừa được lính biên phòng để chạy qua bên kia. Tức quá, công an Đông Đức rào béng cả mặt thứ tư, xây một cái cổng sắt to đùng và chỉ cho người làng được ra vào. Ở giữa làng, người ta xây một tháp canh cao vút, có đèn pha chiếu sáng bốn mặt. Họ hàng, bè bạn ở nơi khác muốn đến thăm, phải làm đơn xin phép trước cả tháng. Lá đơn phải được cơ quan công an ở Rüterberg và ở nơi ông họ hàng kia chứng nhận. Xe cộ, máy móc nông nghiệp của dân làng Rüterberg mỗi khi đi qua cổng làng đều bị kiếm soát chặt chẽ như ra vào một căn cứ hạt nhân. Từng đống rơm rạ đều bị khui ra xem có ai nằm trong đó không. Dân làng có một loại căn cước riêng. Cuộc sống ở đó cũng khá giả hơn các nơi khác vì là bộ mặt của CHDC Đức lọt thỏm trong Tây Đức giàu có…. Từ đó hình thành ra „Làng Cộng hòa Rüterberg“, kẹp giữa hai nước Cộng hòa Dân chủ và Liên Bang Đức.
Những ví dụ trên cho thấy chính quyền CHCD Đức chi một phần rất lớn GDP cho biên giới. Giá như không có cái đó thì đời sống dân Đông Đức chắc sướng lắm. Mà quả thật, tới đầu những năm 1960, khoảng cách về kinh tế giữa hai miền chưa lớn. Nhìn sang Tây Đức người ta chỉ thèm những cái ô-tô đẹp, những loại cà phê, thuốc là thơm, rượu ngon, nói chung là đồ xa xỷ. Dân chúng Đông Đức ăn uống no đủ, có nhà cửa bao cấp, trường học, vườn trẻ, y tế miễn phí, không lo thất nghiệp v.v. Đối với tôi CHDC Đức là thiên đường XHCN, không có lý do gì để dân bỏ đi.
Vì vậy tôi tin là cái biên giới kiểu dinh lũy đó, được canh phòng bởi 45.000 quân nhằm chống lại một cuộc xâm lăng từ bên kia, chứ không nhằm ngăn chặn làn sóng di dân về phía tây.
Sau này tôi mới vỡ ra rằng: Người dân Đông Đức không thiếu ăn, thiếu mặc, không lo sợ thất nghiệp, nhưng thiếu tự do. Đó là lý do khiến họ bỏ về miền Tây. Chính quyền coi đó là tội bỏ trốn (Republikflucht) trong khi người dân coi là đi tỵ nạn.
Nhưng giải đất chết người đã chặn đứng dòng người tỵ nạn.
Trong khi đó thành phố Berlin vẫn tiếp tục hưởng quy chế đặc biệt của Đồng minh. Việc đi lại giữa bốn vùng uỷ trị ở Đông và Tây Berlin vẫn bình thường. Tàu điện, tàu nhanh (S-Bahn), xe Bus vẫn chở khách qua lại. Ở mỗi checkpoint (cửa khẩu), cảnh sát vẫn kiểm tra căn cước. Ở cái thành phổ mênh mông này còn muôn vàn ngõ ngách mà bọn trẻ con vẫn chạy sang chơi với nhau, đám thanh niên vẫn sang bên kia phố tán gái, nhảy đầm mà không cần check point. Người Đông sang được Tây Berlin mà muốn ở lại bên đó sẽ được chấp thuận ngay và được máy bay đồng minh chở về Tây Đức định cư.
Cửa thoát này khiến dòng tỵ nạn qua Berlin ngày càng nhiều. Ngày cao điểm nhất có đến 20.000 người đổ sang Tây Berlin.
Ước tính từ tháng 10.1949 đến hè 1961 có khoảng 3 triệu công dân CHDC Đức bỏ sang Tây Đức, phần lớn là qua ngả Tây-Berlin[5].
(Còn tiếp)
Bài trước:
---
[5] Từ sau 13.8.1961 đến đầu năm 1990 có thêm khoảng 500.000 công dân CHDC Đức bỏ sang CHLB Đức. Trong suốt 45 năm chia cắt, tổng số người Đông chạy sang Tây Đức là 3,5 triệu người. Có 400.000 người từ Tây Đức chạy sang Đông Đức.
BÀI 3: Ngày 13.08.1961
Tại sao một nhà nước cảnh sát hùng mạnh như CHDC Đức, thừa sức xây 1400 km biên giới bất khả xâm nhập từ 1949 mà không khóa nổi mấy chục cây số đường biên Đông-Tây-Berlin suốt bao nhiêu năm, khiến 3 triệu người di tản qua đó?
Vấn đề nằm ở quy chế đặc biệt của thành phố Berlin trong các thỏa thuận ở Yalta và Potsdam. Ở đó việc chia tư nước Đức và thành phố Berlin là những điều khoản khác nhau, khiến Berlin trở thành một lãnh thổ đặc biệt.
Chỉ riêng việc Liên Xô huy động 2 triệu rưởi quân, 7500 máy bay và 6000 xe tăng, tổn thất 80.000 người để chiếm trọn Berlin rồi sau đó nhường 3/4 thành phố cho Mỹ, Anh, Pháp đã nói lên tầm quan trọng của Berlin trong cục diện chính trị lúc đó.
Khác với nước Đức, Berlin được coi là „Thành phố tự do“, cai quản bởi „Ban quân quản đồng minh“. Ban này do tư lệnh quân đồn trú Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô thay nhau điều khiển. Sau 1948, Liên Xô đơn phương rút ra khỏi cơ quan này thì ba ông kia họp vẫn phải để cái ghế trống có cờ búa liềm bên cạnh.[1] Ngoài ra còn có Ủy ban quốc tế giám sát bao gồm 16 nước đồng minh (Military missions MM). Do đó mọi quyết định đơn phương của từng bên về Berlin luôn gặp rắc rối.
Mặc dù Đạo luật cơ bản 1949 của CHLB Đức coi Tây Berlin là một bang của mình, nhưng Liên Xô, CHDC Đức cùng hai thành viên của MM là Ba-Lan và Tiệp Khắc cực lực phản đối. Vì vậy nhiều đạo luật của CHLB Đức không có giá trị ở Tây Berlin, ví dụ như nghĩa vụ quân sự. Thanh niên Tây Đức trốn lính hay sang Tây Berlin sống. Máy bay dân sự của Tây Đức không được bay qua lãnh thổ Đông Đức để sang Tây Berlin, mọi đường bay Tây Đức-Tây Berlin đều do đồng minh đảm nhiệm.
Chính quyền Đông Đức một mặt coi Đông-Berlin là thủ đô của mình, mặt khác không chấp nhận Tây Berlin như một bang của CHLB Đức, mà chỉ là „Thành phố tự do“. Thái độ mâu thuẫn này gây khó khăn cho chính họ: Không có lý gì để xây biên giới với một thành phố tự do. Chủ tịch CHDC Đức Walter Ulbricht vì vậy mà phải tuyên bố: Không ai có ý định xây tường!
Nhưng trở ngại chính của việc xây tường đến từ lãnh tụ Liên Xô Nikita Kruschev. Ông chủ trương xây dựng một CNXH nhân đạo và phồn vinh, chủ trương giải quyết câu hỏi „Ai Thắng Ai“ bằng tính ưu việt của CNXH. Dưới thời ông, Liên Xô đã có những thắng lợi quan trọng trong chạy đua vũ trang và vũ trụ với Mỹ, văn học, nghệ thuật được cởi trói, đời sống nhân dân nâng cao [2]. Vì vậy Krushev không cho phép Ulbricht xây tường Berlin mà đòi hỏi thành công trong kinh tế để chặn dòng người ra đi. Đối với Krutshev, bức tường sẽ phá tan giấc mơ XHCN tươi đẹp.
Krushev có chính sách riêng cho Berlin. Tuy mềm mỏng hơn người tiền nhiệm, nhưng ông cũng sử dụng lý lẽ cứng của Stalin ngày trước “Tớ đã tốn nhiều máu để giải phóng Berlin, sau cho các cậu „mượn“ quyền quân quản 3 vùng để giữ hòa hiếu. Nay chế độ quân quản đã hết (từ 1948), tớ muốn bàn lại“.
Một mặt, ông dùng vũ lực đe dọa phương Tây, mặt khác đưa ra sáng kiến „Hiệp định hòa bình“ mà bốn nước thắng trận sẽ ký với hai nước Đức, công nhận chủ quyền lãnh thổ của hai nước này. Khi đó quyền kiểm soát các ngõ ra vào „Thành phố tự do Berlin“ hoàn toàn nằm trong tay CHDC Đức. Ông hy vọng, mặc dù Đông-Tây Berlin vẫn đi lại tự do, nhưng chính sách bao vây xung quanh sẽ khiến cái ao tư bản khô cạn và phương tây sẽ chán nản từ bỏ dần Tây Berlin.[3]
Đầu năm 1961 Kennedy lên cầm quyền, khẳng định ý đồ giữ Berlin bằng mọi giá. Chính sách đó phá sản.
Trong khi đó sự tụt hậu của miền Đông so với miền Tây ngày càng nặng. Người Đông Đức ồ ạt kéo về Đông Berlin rồi tìm cách sang Tây Berlin xin tỵ nạn. Mặc dù không được Liên Xô đồng ý, nhưng chính quyền Ulbricht vẫn ngấm ngầm chuẩn bị xây bức tường. Kế hoạch này bí mật đến mức ông Hans Modrow, thủ tướng cộng sản cuối cùng của CHDC Đức, tháng 8.1961 đã là cán bộ đảng cấp quận, cũng không được biết.[4]
Kế hoạch này phải giải quyết hàng loạt bài toán. Nếu như xây 1400km biên giới Đức-Đức là chia cắt một gia đình, thì chia cắt Berlin là cuộc giải phẫu tách hai đứa bé song sinh. Một cuộc giải phẫu không có thuốc mê vì cả hai đứa sẽ cùng giãy dụa, chống lại.
Trẻ song sinh vì các mạch máu kinh tế, xã hội đan xen nhằng nhịt giữa hai bên. Thành phố gần 4 triệu dân này không chỉ sử dụng chung hệ thống cấp điện, cấp nước, thoát nước, một mạng giao thông công cộng, mà từng tế bào kinh tế cũng phụ thuộc vào nhau. Rất nhiều dân Đông ngày sang Tây làm việc, tối về nhà ngủ. Tiền lương DM đổi ra DDR-M (Ostmark) nuôi cả nhà. Rất nhiều cá nhân và hãng Tây mang đồ sang Đông gia công, giá rẻ như bèo. Vải lụa Tây may bởi thợ Đông ra cái váy tuyệt cú mèo. Hàng ngàn nông trại Đông Đức sống nhờ vào cung cấp rau quả cho Tây Berlin. Hai bên cứ dính vào nhau mà sống như vậy.
Các nhà „thiết kế“ bức tường đã tính toán mọi chi tiết liên quan. Từ việc cân phụ tải khi cắt đôi mạng lưới điện, đến việc thay đổi dòng chảy các cống ngầm. Đó là chưa kể đến việc vận chuyển hàng ngàn tấn dây thép, bê tông, vật liệu xây dựng đến gần các đường biên mà không để ai biết.
Ngày 3.6.1961, tại cuộc gặp thượng đỉnh Vienna, Khrushev vẫn tìm cách thuyết phục Kennedy về kế hoạch hóa giải Berlin của ông, nhưng thất bại.
Mãi đến ngày 20.06.1961, Khi N. Schelepin, phụ trách KGB ở Đức báo cáo cho Krushev về sự nguy kịch của Berlin, ông ta mới thay đổi ý kiến. Đây có lẽ là quả đắng lớn nhất mà Krushev phải nuốt. Các đơn vị đồn trú Liên Xô được lệnh giúp đồng minh xây tường. Lẽ ra đây mới là ngày ra đời của bức tường.
Chiến dịch „Hoa Hồng“ (Aktion Rose) lập tức được tư lệnh quân đồn trú Liên Xô cùng các đồng nghiệp Đức soạn thảo. Người Nga ngạc nhiên vì mọi việc đều đã được người Đức chuẩn bị xong hết.
Nửa đêm thứ bảy 12.08 rạng sáng chủ nhật 13.08.1961 Erich Honecker, nhân vật thứ hai của CHDC Đức phát lệnh ra quân. Hàng vạn binh sỹ, dân quân tự vệ được các sư đoàn xe tăng của Hồng quân và Quân đội Nhân dân Quốc gia Đức (NVA) yểm trợ dựng lên các hàng rào bằng dây thép gai và gỗ. Một số nơi được củng cố bằng cột bê tông. Xung quanh các công trường xây dựng này là những đám đông dân chúng hỗn loạn chen lấn để vượt qua tường, người thì muốn về chỗ ở bên này hoặc bên kia, người thì muốn thoát thân, người thì chỉ chạy đi tìm người thân đang còn kẹt ở đâu đó bên kia. Bên phía Đông, môt hàng rào dân quân tự vệ dàn ra để ngăn cản người dân vượt qua những chỗ rào chưa kín. Bên phía Tây, cảnh sát được điều đến hàng rào để cứu giúp những người vượt dây thép gai chạy sang. Cũng có những người đang mải chơi bên Tây, nay sống chết phải về với gia đình ở bên Đông. Người ta xô đẩy giành giật từng người sang phía mình. Những ai đã sang bên kia vạch trắng thì dù nửa mét cũng coi như thoát. Hai bên rất quân tử tây, không ăn gian.
Bộ phịm tài liệu “Một ngày trong tháng 8”[4] do đài truyền hình ZDF mới sản xuất đã ghi lại những câu chuyện thật của nhiều nhân chứng ngày 13.8.1961. Tất cả họ đều bị sốc vì hành động nhanh chóng và lạnh lùng của các lực lượng xây tường. Ai cũng đoán là sẽ có điều gì xảy ra, nhưng với một bức tường thép gai chia cắt mọi tế bào của cuộc sống thì không ai tính tới.
Phương Tây bị bất ngờ hoàn toàn, nhưng không hề có phản ứng xứng đáng. Vài xe tăng Mỹ kéo ra checkpoint Charly đối đầu với tăng Liên Xô. Công binh Đông Đức vẫn cần mẫn kéo dây thép gai ở giữa. Chỉ thể rồi tăng Mỹ lại rút. Không có lệnh gì từ nhà trắng. Báo chí lá cải đổ tội cho ngày chủ nhật.
Kennedy khi được tin thậm chí còn thấy nhẹ nhõm vì vấn đề người tỵ nạn đổ vào Tây Berlin sẽ biến mất, trong khi nguyên tắc “Three essentials” (3 trọng yếu) [5] mà ông đang đấu với Krushev không hề bị phá vỡ.
1- Dân Tây Berlin không bị tấn công,
2- Quân đồn trú Mỹ, Anh, Pháp vẫn ở lại,
3- Các tuyến giao thông transit từ Tây Đức đi Tây Berlin vẫn còn nguyên
Số phận của người dân Đông Berlin không có trong “3” điều này.
Bà Ingrid Taegner, ngày đó là một cô gái Đông Berlin, nhớ lại: Bố tôi hét từ bên kia hàng rào. “Con đừng sợ, người Mỹ sẽ không để trò này kéo dài. Bố sẽ về với con”.
Lâu lâu cô lại thấy ông đến bên kia hàng rào để tìm cô, nhưng cô không dám lộ diện. Ingrid không bao giờ gặp lại bố mẹ nữa, kể cả khi ông bà mất ở Tây Đức.
(Còn tiếp)
Bài sau:
Bài trước:
---
[2] Liên xô phóng tầu Sputnik, đưa chó Laika, đưa ngươi (Gagarin) vào vũ trụ đều trước Mỹ. Mỹ làm ra máy bay U2 bay cao 22km, tưởng LX chịu thua. Nhưng LX dùng tên lửa SAM2 bắn hạ U2 năm 1961…. Thời kỳ này những phim “Đàn sếu bay qua”, hay “Người thứ 41” của LX nói về tình người trong chiến tranh rất hay, nhưng bị cấm chiếu ở VN và TQ.

BÀI 4: Những đứa con của bức tường

Những ngày sau khi bức tường thép gai tạm thời được dựng lên, hàng trăm người Đông Berlin vẫn tìm cách lọt qua các kẻ hở để chạy trốn. Có những nơi người ta nhảy qua cửa sổ sang bên kia. Dân Tây Berlin giăng vải bạt hứng được hàng chục người nhảy cửa sổ, không có tai nạn nào xảy ra. [1]
Dần dần chính quyền Đông Đức xây hoàn chỉnh thành những bức tường cao 3m, có một dải đất phân cách cho xe biên phòng đi tuần, có tháp canh, đèn pha chiếu sáng. Nhưng người dân vẫn tìm cách đào những con đường hầm từ những khu nhà gần đường biên để sang bên kia. Rồi dần dần những hộ ở gần đường biên cũng bị di dân đi nơi khác và các ngôi nhà đó bị san ủi thành bãi hoang.
Ngày 13.8.1961 được coi là ngày chính thức hoàn thành việc chia cắt nước Đức. Một sự chia cắt không cân xứng. Người dân miền Tây vẫn sang Đông được. Nhà nước Tây Đức cho dân tự do đi lại. Phía Đông Đức thì coi người Tây là nguồn ngoại tệ quan trọng. Người Tây Đức vẫn đi xe ô tô qua 3 tuyến đường cao tốc để sang Tây Berlin. Họ chỉ được dừng lại ở những cây xăng dành cho họ, không được rẽ ngang tắt. Nếu có lý do chính đáng (thăm thân, định cư hay công tác), họ sẽ được vào lãnh thổ CHDC Đức.
Nhưng người dân Đông Đức thì không được đi sang phía Tây. Sau ngày 13.8.1961, họ chỉ còn cách liều chết vượt biên hoặc xếp hàng đặt đơn đi thăm thân, xin xuất ngoại. Đơn thăm thân rất ít khi được xét, và chỉ xét cho những cán bộ đáng tin cậy. Mà tin cậy đến đâu thì chỉ có vợ hoặc chồng được đi, phần kia của gia đình phải ở lại làm con tin.
Những người xin xuất ngoại mới khốn khổ. Họ luôn bị coi là kẻ „có vấn đề“ trong suốt thời gian chờ đợi đơn được cứu xét. Nhiều người mất việc, bị bạc đãi, sống trong sự dè bỉu của hàng xóm, đồng nghiệp. Có những người như bà Ingrid Taegner được kể ở cuối bài trước, cam chịu cả đời không được sang bên kia.
Những người không cam chịu được thì tìm cách vượt biên. Để vượt qua 155km biên giới bao quanh Tây Berlin hay 1400km biên giới Đưc-Đức đầy mìn và thiết bị điện tử, được canh gác vô cùng chặt chẽ, người ta đã sáng tạo ra muôn vàn cách thoát thân. Ở Đức có rất nhiều „bảo tàng vượt biên“, trình bày từ những cách đào hầm, đóng xe tải thành xe tăng để phá hàng rào, làm xe ô tô nhiều lớp vỏ, bay bằng khinh khí cầu, vượt biển Baltic bằng ca nô v.v.
Bà Liane Weinstein sinh ở Tây Berlin mới được 2 tháng. Dịp cuối tuần bố mẹ bà bận sửa nhà nên gửi cháu bé cho ông bà ngoại ở Đông Berlin. Bức tường dựng lên sáng chủ nhật 13.08 đã khiến bé phải ở lại với ông bà bên phía Đông. Bố mẹ bé ở bên kia gần như phát điên vì mất con. Họ nhờ người đào một đường hầm để đưa bé về phía tây. Kế hoạch bại lộ, những người đào hầm và ông bà ngoại bị bắt giam. Cô bé bị đưa vào trại mồ côi. 11 năm sau, nhờ sự can thiệp của chính quyền Tây Đức, cô được trả về phía Tây với bố mẹ, những người đối với cô rất xa lạ.
Trong 11 năm qua cô luôn được nghe kể rằng: bố mẹ đã nhẫn tâm bỏ con lại để hưởng lạc ở miền Tây, mặc dù chính quyền luôn mời họ về miền Đông với con gái.[2]
Thế hệ người Đức như bà Weinstein được gọi là những đứa con của bức tường. Dù gia đình họ có bị xé nát hay không, dù ở Đông hay ở Tây thì ai cũng bị ảnh hưởng bởi sự chia cắt đất nước.
Chính phủ CHDC Đức luôn tuyên bố: "Bức tường là sự lựa chọn của nhân dân". Đầu tháng 10.1989, hàng trăm ngàn người Đông Đức biểu tình với khẩu hiệu: „Chúng tôi là nhân dân“, „Hãy mở cổng thành“. Sau hơn một tháng liên tục đấu tranh bất bạo động, đêm 9.11.1989, bức thành bị dỡ bỏ.
Người ra lệnh mở cổng thành lại chính là Trung tá an ninh STASI Harald Jäger[3]. Ngày nay người ta đặt câu hỏi. Nếu vào giờ phút lịch sử đó Jäger ra lệnh nổ súng vào đám đông quần chúng đang đòi mở cổng thành thì sẽ ra sao? Lịch sử cuối cùng cũng vẫn sang trang, vì lòng dân đã rõ, nhưng sẽ tốn máu. Viên sỹ quan STASI Jäger biết tiếc máu của dân mình vì anh cũng là nhân dân, cũng là người con đau khổ của bức tường.
Tôi có thể viết hàng trăm bài về nước Đức chia cắt, vì tôi là đứa con miền Nam tập kết ra Bắc, chơi thân với nhiều bạn bè Đông và Tây Đức, chứng kiến nhiều số phận của họ. Tôi xin tạm dừng ở đây với các tóm tắt như sau:
-Tháng 5.1945. nước Đức thua trận bị phân chia thành 4 vùng chiếm đóng của Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô. Thủ đô Berlin nằm lọt thỏm trong vùng Liên Xô ở miền Đông nước Đức cũng bị chia 4. Chia nhưng chưa bị cắt, vì giữa các vùng vẫn đi lại được.
-Tháng 5.1949, ba vùng ở Tây Đức tập hợp thành nước CHLB Đức, kinh tế tư bản, dân chủ đại nghị.
-Tháng 10.1949, nước CHDC Đức ra đời ở miền Đông, lấy Đông Berlin làm thủ đô. Biên giới Đức-Đức dài 1400km hình thành, chia cắt nước Đức thành 2 miền XHCN và TBCN.
-Trong khi đó Tây Berlin vẫn là thành phố tư bản, tự do. Đi lại giữa đông-tây Berlin vẫn „bình thường“. Tây Đức và Tây Berlin liên hệ với nhau qua các đường sắt, đường cao tốc và hàng không xuyên qua lãnh thổ CHDC Đức (theo thỏa thuận của đồng minh).
-Lỗ hổng này giúp cho 3 triệu người bỏ Đông Đức đi sang Tây Đức qua đường Tây-Berlin. Những người này được gọi là dân tỵ nạn. Lý do ra đi có thể là kinh tế, là chính trị (đòi tự do dân chủ) hoặc đoàn tụ gia đình.
-Để tránh việc chảy máu chất xám, ngày 13.9.1961 CHDC Đức bất ngờ xây bức tường Berlin, chính thức chia cắt hoàn toàn nước Đức.
-Từ sau 13.8.1961, dòng người tỵ nạn giảm hẳn. Vượt biên trở nên nguy hiểm chết người. Từ tháng 8.1961 đến ngày 9.11.1989, chỉ còn khoảng 500.000 công dân CHDC Đức sang được CHLB Đức. Trong đó hơn 300.000 người được cấp phép xuất cảnh định cư, đoàn tụ gia đình.
-Chính phủ CHLB Đức đã chi 5 tỷ DM để „mua giấy phép xuất ngoại“ cho 250.000 đồng bào trong số 300.000 nói trên. Ngoài ra CHLB Đức chi 3,5 tỷ DM để „mua tự do“ cho 33.700 tù chính trị từ các nhà tù CHDC Đức. [4]
-140 người bị bắn chết trong khi vượt tường trốn từ Đông sang Tây Berlin.
-Số người chết vì bị bắn, vì vấp mìn khi vượt qua biên giới Đức-Đức là 327.
-Nếu kể cả hơn 200 người bị chết khi vượt biển Baltic để sang Bắc Âu hoặc Tây Đức và khoảng 300 người bị chết khi vượt qua biên giới các nước XHCN khác thì có khoảng 1000 người Đức đã chết chỉ vì muốn đi từ vùng đất này đến vùng đất khác của tổ quốc mình.
Hết
Bài trước:
PS: Ai cần có thể đọc một số tư liệu khác về "Chia cắt nước Đức":
Bài viết khác về bức tường Berlin và số phận những con người: https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/3195284190489632
Bài viết về những ngày phong tỏa Berlin: "Máy bay ném bom nho": https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/3184493994901985
Bài viết về vụ vượt biên bằng khinh khí cầu "Gió bay về miền tây": https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/3340344989316884
Bài viết về những cầu thủ bóng đá CHDC Đức: https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/4734892423195460
Viết về những gì xảy ra sau ngày thống nhất đất nước: Về những bức tường trong đầu (3 bài) https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/2549301718421219
---
Chú thích
[1] https://www.zdf.de/.../zdfzeit-ein-tag-im-august..., (Bắt đầu từ phút thứ 01:12:30)
[3] https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/1414934981857904 (bài viết về trung tá Harald Jäger)