Thứ Tư, 30 tháng 6, 2021

20210701. BÀN VỀ CHỐNG BỆNH TRÌ TRỆ

 ĐIỂM BÁO MẠNG


BÀI 1: CHỮA BỆNH TRÌ TRỆ ĐỂ ĐẤT NƯỚC CẤT CÁNH 

HẢI LỘC/ TVN 29-6-2021

Thủ tướng Phạm Minh Chính ngay từ ngày đầu nhậm chức rất quan tâm thúc đẩy bộ máy công quyền thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, nhất là đúng tiến độ các trọng trách được giao. 

Thủ tướng luôn nhấn mạnh cả bộ máy và từng cán bộ phải “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”.

Những phát ngôn và hành động của Thủ tướng Phạm Minh Chính thể hiện quyết tâm chống lại căn bệnh trì trệ đã bén rễ, ăn sâu vào bộ máy công quyền.

Xin được mượn lời của nguyên Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói nhiều lần trong năm 2020 để đặt tên khác cho căn bệnh trì trệ là “virus trì trệ”.

“Gán” cho căn bệnh trì trệ cái tên như vậy, khá phù hợp, bởi nó biến chủng khá phức tạp, lây lan rất nhanh, gây tác hại ghê gớm.

Trì trệ là một trong những nguyên nhân làm chậm quá trình phát triển của đất nước. Bởi đường lối có hay, có phù hợp đến mấy; giải pháp có tốt đến bao nhiêu…mà triển khai chậm chạp thì sẽ khó mang lại hiệu quả như mong muốn, thậm chí không ít trường hợp còn biến “cơ” thành “nguy”.

Lúc này hơn lúc nào hết, nếu chưa tiêu diệt được ngay thì ít nhất phải hạn chế tối đa tác động gây hại của căn bệnh “trì trệ”.

Nếu không, ngay những công việc điều hành hàng ngày của Chính phủ, Thủ tướng, như phòng, chống đại dịch Covid 19; giải ngân nhanh vốn đầu tư công; triển khai nhanh việc cổ phần hóa DNNN… khó thành công như mong muốn.

Nếu không, rất khó lòng đạt được các mục tiêu phát triển của khát vọng 2025, 2030 và 2045 vừa được Đại hội Đảng thông qua. 

Chủ đề rất rộng, rất phức tạp, tại bài viết ngắn này, tác giả chỉ xin nêu một vài khía cạnh về căn bệnh “trì trệ” đến từ đâu và thử gợi đôi điều về hướng xử lý.

Chữa bệnh trì trệ để đất nước cất cánh
Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5

Theo người viết, lâu nay chúng ta chưa “truy vết” đến tận cùng virus trì trệ, nên chữa căn bệnh này chưa đạt kết quả như mong muốn. Vấn đề ở chỗ, sự trì trệ nhiều khi được ra đời ngay trong chính sách phát triển.

Trong hơn 35 năm qua, nếu chỉ tính từ 1986, Đảng và Nhà nước đã ban hành vô số đường lối, chính sách, văn bản pháp quy… cụ thể. Đó là hệ thống công cụ tuyệt vời góp phần thúc đẩy đất nước phát triển như ngày nay.

Tuy nhiên, phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, bên cạnh những công cụ tuyệt vời, đâu đó vẫn còn những công cụ tạo ra không ít “virus trì trệ”, hạn chế sự phát triển của đất nước, ít nhất là tăng trưởng kinh tế chậm dần. Và tính chung 20-30 năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp xa so với các nước xung quanh ta. Chỉ bàn về hình thức thể hiện thì thấy ngay không ít đường lối, chính sách còn chung chung, ai hiểu thế nào cũng được và trong quá trình triển khai, phải mất quá nhiều thời gian để bàn luận.

Hầu hết các luật của ta, sau khi được Quốc hội thông qua thì có những điều còn chờ văn bản dưới luật hướng dẫn. Hệ quả là trong nhiều trường hợp có luật mà cũng như không, làm cho cả nhà nước, người dân và doanh nghiệp không biết đâu mà lần. Và đây chính là nơi trú ngụ quan trọng của không ít con “virus trì trệ” quái ác.

Sự trùng lặp, chồng chéo về nội dung giữa các văn bản pháp quy là nguồn gốc phát sinh và địa bàn lý tưởng đã níu kéo bao nhiêu bước phát triển. Vấn đề này đã, đang và sẽ còn xuất hiện rất nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Một ví dụ khác, nội hàm của cơ chế “kinh tế thị trường định hướng XHCN” hơn 30 năm bàn luận vẫn chưa đi đến sự thống nhất về nhận thức ngay trong đội ngũ cán bộ ở cấp làm chính sách. Chẳng hạn, Báo cáo kinh tế trình Đại hội 12 đánh giá sự nghiêm trọng của vấn đề này đến mức, xem đây là nguyên nhân số 1 gây ra các yếu kém trong quản trị quốc gia.

Báo cáo kinh tế trình Đại hội 12 ghi: “Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa […], chưa đủ rõ, còn khác nhau, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới về phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế…”.

Nghị quyết 11 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường năm 2017 tiếp tục nêu các yếu kém trong quản trị là chủ yếu do nguyên nhân chủ quan, đặc biệt là do: Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa đủ rõ. Tư duy bao cấp còn ảnh hưởng nặng nề. Năng lực xây dựng và thực thi thể chế còn nhiều bất cập, chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Việc quán triệt, tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở các cấp, các ngành, nhất là người đứng đầu thiếu quyết liệt, hiệu quả thấp và chưa nghiêm.

Và Báo cáo kinh tế trình Đại hội 13 cũng nhắc lại gần như nguyên văn nguyên nhân gây trì trệ này: “Về nhận thức: Nhận thức một số vấn đề về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa sâu sắc, thống nhất, nhất là quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, sở hữu đất đai, phân bổ nguồn lực, vai trò của doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tập thể, hợp tác xã, tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.”

“Nhận thức là một quá trình”. Hơn 35 năm đã trôi qua kể từ Đổi mới là một quá trình dài, và đủ cho một số quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản tiến lên thế giới thứ nhất, mà sao chúng ta vẫn chưa thống nhất được “nhận thức”? 

Hải Lộc 

BÀI 2: QUY HOẠCH CÁN BỘ CŨNG TẠO RA TRÌ TRỆ

HẢI LỘC/ TVN 29-6-2021

Như phần trước đã nêu, sự “trì trệ”, chậm chạp đã bén rễ ở rất nhiều lĩnh vực, mà công tác cán bộ, đặc biệt là khâu quy hoạch cán bộ, cũng không phải là ngoại lệ.

Không dám chịu trách nhiệm

Mặt tích cực của công tác quy hoạch cán bộ có rất nhiều, nhất là công bố danh sách cán bộ được quy hoạch sớm, như có đủ thời gian để bồi dưỡng, đào tạo thêm về kiến thức, kỹ năng quản trị quốc gia, quản lý ngành; có đủ thời gian để thực hiện việc luân chuyển cán bộ…

Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, vẫn tồn tại một số mặt gây trì trệ. Chỉ tính từ khi công bố danh sách cán bộ được quy hoạch thường có những mặt chưa ổn sau đây:

Một bộ phận cán bộ được quy hoạch tìm mọi cách bảo vệ sự “an toàn” cho bản thân nhằm tránh “nhỡ may”. Giữ “an toàn” bằng việc tránh xa tham nhũng, tiêu cực là điều tốt, cần khuyến khích, nhưng giữ “an toàn” cho bản thân bằng việc cố né tránh, trì hoãn việc ban hành các quyết định điều hành nhằm tránh “rủi ro” là điều đáng phê phán.

Cán bộ đối mặt với không ít rủi ro cho bản thân khi đưa ra các quyết định điều hành là chuyện có thật và là chuyện bình thường. Cuộc sống đã chứng minh, người càng làm được nhiều việc thì càng mắc nhiều sai lầm, khuyết điểm và ngược lại.

Nhưng “sợ trách nhiệm”, “sợ rủi ro” mà “né tránh, trì hoãn…” trong việc đưa ra các quyết định điều hành, gây hại cho dân, cho nước lại là chuyện khác. Điều đáng nói thêm là bệnh “sợ trách nhiệm” đã thành “nguy cơ” như Thủ tướng cảnh báo. Từ đó, ai cũng có thể rút ra kết luận: Hành vi “né tránh, trì hoãn…” vừa nêu chính là một chủng loại cụ thể khác nữa của con “virus trì trệ”.

Quy hoạch cán bộ cũng tạo ra trì trệ
Cán bộ đối mặt với không ít rủi ro cho bản thân khi đưa ra các quyết định điều hành là chuyện có thật và là chuyện bình thường.

Hơn nữa, một bộ phận trong số những người không được đưa vào danh sách quy hoạch cán bộ cho nhiệm kỳ tiếp theo do hết tuổi; hết nhiệm kỳ… thường có tâm lý buông xuôi. Họ không dại gì mà dám nghĩ, dám làm và nhất là dám chịu trách nhiệm như trước vì nhỡ đâu đến chữ “nguyên” cũng không còn.

Bên cạnh đó, các quyết định điều hành được các cơ quan quản lý nhà nước đưa ra theo các quy định, quy trình khá chặt chẽ. Điều đó là cần thiết. Nhưng có nhận xét chung là “quy trình” vốn khá phức tạp, không cần thiết đến như vậy, làm mất quá nhiều thời gian, công sức của các cơ quan… vẫn tồn tại. Nhiều quy trình cụ thể không còn thích hợp trong tình hình mới, nhưng chậm sửa đổi.

Đã là “quy trình còn hiệu lực pháp luật” thì mọi người phải chấp hành. Thậm chí, có ai đó, để được việc, bỏ qua một vài khía cạnh của quy trình, còn có thể bị kết tội “cố ý làm trái”. “Quy trình”, chẳng khác gì sợi dây thừng trói chặt chân tay của những người thực hiện nhiệm vụ ra quyết định điều hành một cách kịp thời, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.

Minh định chức năng và thẩm quyền

Từ lâu Đảng đã xác định định hướng tổ chức lại hệ thống quản trị quốc gia là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, dân làm chủ. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp lại không minh định về chức năng, thẩm quyền của “lãnh đạo” và “quản lý”.

“Lãnh đạo”, theo định nghĩa ghi trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, là “đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện”. Còn Nhà nước quản lý hay quản lý nhà nước bao gồm hoạt động lập pháp của cơ quan lập pháp, hoạt động hành pháp của Chính phủ và hoạt động tư pháp của cơ quan tư pháp.

Trong khi đó, trong cuộc sống không phải ở đâu và lúc nào cũng diễn ra như định nghĩa của từ điển, mà trong nhiều trường hợp tình trạng lẫn lộn giữa “lãnh đạo” và “quản lý” ngày càng nhiều hơn.

Một văn bản điều hành cơ quan trình phải thông qua nhiều nơi. Chẳng hạn, ở cấp Trung ương thì có nghị quyết, quyết định, chỉ thị về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm, và về nhiều các lĩnh vực phát triển khác. Đó là chủ trương, đường lối để phát triển. 

Vấn đề đặt ra là, do nhiều nguyên nhân, nội dung rất nhiều nghị quyết, quyết định, chỉ thị lại mang tính chất “điều hành”, giống hoàn toàn như văn bản điều hành của cơ quan quản lý nhà nước.

Lấy ví dụ, báo cáo của Chính phủ (Ủy ban nhân dân) về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và phân bổ ngân sách hàng năm trình Ban chấp hành Trung ương và trình Quốc hội thường có nội dung y hệt, có khác chăng chỉ là một số chi tiết như nơi gửi, nơi nhận; ngày, tháng, năm...

Chỉ một văn bản điều hành, cơ quan trình phải mất thời gian thông qua nhiều nơi chính là làm mất thêm thời gian, công sức của rất nhiều người.

“Xin ý kiến chỉ đạo” đã trở thành “vấn nạn”. Kể từ Đổi mới, Đảng và Nhà nước từng bước thực hiện việc xóa bỏ tình trạng tập trung quá mức và gắn liền với nó là thực hiện việc phân cấp, phân quyền cho các cấp hành chính. Đây là chủ trương đúng. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, trong không ít trường hợp việc phân cấp, phân quyền này vẫn còn “nằm trên giấy”.

Đây là nguyên nhân rất quan trọng gây ra sự trì trệ trong quản lý phát triển đất nước vì đã phân cấp, phân quyền nhưng khi thực hiện “quyền được phân” vẫn phải xin ý kiến theo quy định. Ở cả trung ương lẫn địa phương danh mục những vấn đề phải xin ý kiến còn quá dài.

Mặc khác, trên thực tế, để giảm bớt rủi ro, để yên tâm hơn trong việc ra các quyết định điều hành, vô số trường hợp người ta thực hiện việc “xin ý kiến” hết sức tràn lan với rất nhiều nội dung không nằm trong danh mục phải xin ý kiến.

Mà để nhận được câu trả lời thì mất hàng tháng, hàng năm, làm doanh nghiệp và người dân dài cổ ra chờ đợi, không ít lần lỡ mất cơ hội phát triển.

Hải Lộc 

BÀI 3: NHỮNG GỢI Ý CHỐNG TỆ TRÌ TRỆ 

HẢI LỘC/ TVN 1-7-2021

Cuộc đấu tranh chống virus trì trệ của bộ máy công quyền là vô cùng khó khăn, phức tạp nhưng không thể không làm, và cần cả hệ thống phải vào cuộc.

Để nhanh chóng đưa được đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển quốc gia đi vào cuộc sống thì trước hết “đường lối”, “chính sách”, “giải pháp”… phải được trình bày một cách hết sức rõ ràng, rành mạch, dễ hiểu, tránh tình trạng chung chung ai hiểu thế nào cũng được.

Đồng thời, các văn bản trình các cấp có thẩm quyền quyết định về  “đường lối”, “chính sách”, “giải pháp”… (Báo cáo của Trung ương trình Đại hội Đảng toàn quốc; Báo cáo Chính phủ trình Quốc hội…) phải có phần “giải thích thuật ngữ” đi kèm. Khi thông qua văn kiện ở Đại hội Đảng, cấp thông qua văn kiện quyết định luôn cả nội dung “giải thích thuật ngữ”. Xin kiến nghị trong thời gian ngắn nhất bổ sung điều vừa nêu.

Làm được điều này thì những người có trách nhiệm triển khai thực hiện đường lối, chính sách tiết kiệm được rất nhiều thời gian, như một vài thí dụ tôi nêu trong các bài trước.

Những gợi ý chống tệ trì trệ
Ở góc độ lập pháp, cần cải tiến, thậm chí cải cách việc tổ chức các kỳ họp Quốc hội

Ở góc độ lập pháp, cần cải tiến, thậm chí cải cách việc tổ chức các kỳ họp Quốc hội theo hai hướng: (i) Kéo dài thời gian họp để mỗi khóa Quốc hội và kỳ họp thông qua được nhiều văn bản pháp luật nhất. (ii) Tiết kiệm thời gian nhiều nhất có thể cho từng đại biểu, nhất là đại biểu kiêm nhiệm.

Mặc dù tỷ lệ đại biểu chuyên trách đã tăng lên khá cao, nhưng tỷ lệ đại biểu kiêm nhiệm vẫn còn rất lớn, lại rơi vào những người giữ trọng trách trong hệ thống chính trị nước nhà, ở cả trung ương lẫn địa phương. Vậy mà mỗi năm họ phải vắng mặt tại cơ quan ít nhất 2 tháng để dự họp Quốc hội. Dù muốn hay không, điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ xử lý công việc của các đại biểu đó.

Hiện nay trên thế giới, còn rất ít nước họp Quốc hội theo cách của ta. Một số nước vẫn họp Quốc hội tại trụ sở như ta, nhưng thời gian mỗi kỳ họp rất ngắn.

Chẳng hạn ở Trung Quốc có 3.000 đại biểu Quốc hội, nhưng kỳ họp chỉ kéo dài khoảng 1 tuần. Rất nhiều nước Quốc hội họp gần như quanh năm, nhưng chỉ bắt buộc từng dân biểu đến trụ sở Quốc hội, trong thời gian Quốc hội họp để tự mình bỏ phiếu, sau đó về cơ quan làm việc.

Vì vậy, không ngạc nhiên khi nhìn hội trường họp Quốc hội thì rất vắng người, nhưng khi công bố kết quả bỏ phiếu thì bao giờ cũng đủ số đại biểu, thậm chí, chỗ ngồi trong hội trường ít hơn số đại biểu. Quốc hội nước Anh có 650 dân biểu và tất cả thành viên nội các phải là đại biểu Quốc hội, nhưng hội trường họp chỉ có 450 ghế.

Từ đó, nên chăng Quốc hội ta nên kéo dài thêm nhiều hơn nữa số ngày mỗi kỳ họp và chia làm hai phần: Phần 1, chỉ có đại biểu chuyên trách tham dự. Và phần 2, tất cả đại biểu tham dự với thời gian vừa đủ để thực hiện các công việc liên quan đến bỏ phiếu, bao gồm cả phiên họp dành cho đại biểu chất vấn thành viên Chính phủ cũng được xem là hình thức bỏ phiếu.

Chống trì trệ trong môi trường kinh doanh 

Theo quan sát của người viết, nhánh hành pháp hiện là nơi trú ngụ nhiều tệ “trì trệ” và quan liêu. Xin nêu vài gợi ý nhỏ.

Thứ nhất, các loại “giấy phép con” là những con “virus trì trệ” bự đang tác oai, tác quái gây nên sự chậm trễ trong phát triển kinh tế đất nước. Vấn đề này đã được nói nhiều, viết nhiều, làm nhiều, đặc biệt là Văn phòng Chính phủ, nhưng chủ yếu là mới “tìm diệt”.

Văn phòng Chính phủ thừa ủy quyền Thủ tướng đến các bộ xem có bao nhiêu giấy phép, rồi ra quyết định xóa các giấy phép con “thừa”. Nay cần truy tận gốc để giảm thiểu sự ra đời giấy phép con. Hiện nay đây là việc rất cấp bách, bởi do đại dịch Covid-19, số doanh nghiệp rời khỏi thị trường rất lớn; số doanh nghiệp cần thay đổi ngành nghề kinh doanh để tồn tại quá nhiều.

Theo tôi, về mặt pháp luật, trong vòng khoảng 6 tháng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem thật kỹ để kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng trình cấp có thẩm quyền sửa mấy điều như thêm, bớt ngành nghề cấm kinh doanh. 

Bên cạnh đó là xem thật kỹ nhóm ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Xóa bỏ bớt danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện vì hiện nay quá nhiều, quá tràn lan. Những ngành nghề bắt buộc phải kinh doanh có điều kiện, chẳng hạn ngân hàng… thì xem kỹ những “điều kiện” ghi trong luật và nhất là văn bản dưới luật để xóa bỏ càng nhiều càng tốt các “điều kiện” vốn đã “thừa” ngay từ đầu hoặc không còn phù hợp trong điều kiện mới.

Thứ hai, theo quy định, nhiều báo cáo của Chính phủ trước khi trình Quốc hội, cần phải trình Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương. Nên chăng không làm theo cách “hai trong một”, tức 2 báo cáo cùng một nội dung như hiện nay, mà báo cáo trình Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương viết thật ngắn, rõ ràng những vấn đề cần xin ý kiến chỉ đạo, chủ yếu là mục tiêu cần đạt; phương hướng chính; dự báo những mặt trái, rủi ro khi thực hiện để có phương án xử lý khi “sự cố’ xảy ra.

Khi phân công nhiệm vụ, nhất là nghị quyết của Chính phủ hàng tháng, cần ghi ngắn gọn, dễ hiểu, nhưng phải đầy đủ, rõ ràng các yếu tố: việc gì; ai làm; làm trong thời gian bao lâu; kết quả, mục tiêu cần đạt. Khi kiểm điểm công tác cũng phải nêu đủ bấy nhiêu yếu tố. Phải khắc phục nhanh tình trạng chung chung bằng các từ “cần”; “phải”; “nên”… từ việc giao nhiệm vụ đến kiểm điểm kết quả công việc.

Trong điều hành, nhất là những lúc nước sôi lửa bỏng như hiện nay, khi giao nhiệm vụ cần ghi kèm các điều kiện “rút gọn” quy trình, tức phải thực hiện đủ các bước, các khâu công việc theo quy định, nhưng giảm tối đa thời gian thực hiện.

Trong quá khứ cũng như hiện tại, chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm làm việc này, chẳng hạn, chọn nhà thầu cung cấp vắc xin vừa qua, hay cơ chế nhân đôi công trình…

Hải Lộc

QUỐC HỘI KHÓA 15 VÀ SỰ ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC:

 ĐÔI ĐIỀU LẠM BÀN

VŨ TRỌNG KHẢI */  VĂN VIỆT 10-6-2021

*Vũ Trọng Khải, chuyên gia độc lập về kinh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn

Trước hết, phải nói rằng, tôi chỉ luận bàn vấn đề này trong khuôn khổ Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn đang còn là một tổ chức chính trị duy nhất lãnh đạo toàn diện, trực tiếp, tuyệt đối, đối với mọi hoạt động kinh tế – xã hội, văn hoá, an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường của đất nước. Do vậy cần xây dựng một hệ tư duy mới để thực hiện công cuộc đổi mới này. Việc làm này là chưa có tiền lệ, nên sẽ gây ra sự tranh cãi và hoài nghi tính khả thi của nó.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam của ai?

Nền kinh tế thị trường nhiều thành phần sở hữu đương nhiên sinh ra các nhóm lợi ích khác nhau, cùng tồn tại, phát triển theo pháp luật. Do vậy, hầu hết các nước đều đa nguyên về chính trị, từ đó sinh ra các đảng phái khác nhau, đại diện cho các nhóm lợi ích khác nhau, vừa đấu tranh vừa hợp tác, cùng phát triển trong khuôn khổ pháp luật.

Nhưng ở Việt Nam, không có đa nguyên chính trị và đa đảng, nên Đảng Cộng sản không thể là của riêng giai cấp công nhân, mà dứt khoát phải là đảng của dân tộc, đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích của giai cấp công nhân. Hơn nữa, không có một quốc gia, một tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội nào phát triển lại không do tầng lớp tinh hoa của dân tộc, của mỗi tổ chức đó, lãnh đạo và quản lý.

Tầng lớp tinh hoa ấy được hình thành và phát triển do sự kết tinh của vốn học vấn, kinh nghiệm thực tiễn, văn hóa truyền thống của dân tộc, của mỗi tổ chức, mỗi gia tộc và gene của mỗi cá thể. Họ đương nhiên không thuộc về một giai cấp nào, mà thuộc về dân tộc.

Đảng nói chung và cơ quan lãnh đạo đảng nói riêng, phải và chỉ bao gồm những con người thuộc tầng lớp tinh hoa của dân tộc. Chỉ có như vậy, đường lối chính trị, pháp luật, chính sách do đảng đề ra mới bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các nhóm người khác nhau của dân tộc, trong nền kinh tế thị trường đa nguyên về sở hữu, về lợi ích, về khát vọng, về năng lực.

2. Cần có luật về Đảng Cộng sản

Vì Đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, trực tiếp đối với cả ba nhánh quyền lực nhà nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp, nên để tránh lạm quyền, nói như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, là “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”, phải có luật về tổ chức hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vậy có thể có một đạo luật như vậy không? Điều này cũng chưa có tiền lệ.

3. Đổi mới cấu trúc của Đảng để có thể “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”

3.1 Luật về Đảng trước hết phải bảo đảm triệt để dân chủ, mọi đảng viên đều bình đẳng trước luật và điều lệ Đảng: được quyền phát biểu, tranh luận, bảo lưu ý kiến, quan điểm của mình, nếu thuộc thiểu số trong tổ chức đảng, mà không bị quy chụp là thoái hóa, biến chất; mọi đảng viên đều có quyền tự do ứng cử, tranh cử bằng chương trình hành động và bầu cử các cấp lãnh đạo của Đảng.

3.2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng nên có cơ cấu và chức năng, nhiệm vụ như là Thượng viện ở các nước theo chế độ đại nghị. Các ủy viên trung ương hoạt động chuyên trách, hưởng lương thượng nghị sĩ và có kinh phí hoạt động thực thi nhiệm vụ. Do đó đương nhiên Tổng Bí thư sẽ kiêm chức Chủ tịch Thượng viện. Các ban giúp việc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng chuyển thành các ủy ban chuyên trách của Thượng viện và được nhận lương từ ngân sách nhà nước. Do đó, các ủy viên Bộ Chính trị sẽ đảm nhiệm chức vụ chủ nhiệm các ủy ban của Thượng viện.

3.3 Ủy ban Kiểm tra của Đảng do đại hội Đảng trực tiếp bầu ra (không do Ban Chấp hành Trung ương bầu ra như hiện nay), để có thể xóa bỏ tất cả vùng cấm trên thực tế, tương tự như Ban kiểm soát của công ty cổ phần. Do vậy, Chủ tịch Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng sẽ kiêm nhiệm Chánh tòa Bảo hiến, các ủy viên Ủy ban Kiểm tra là Thẩm phán của Tòa án này và đương nhiên Ủy ban Kiểm tra Đảng sẽ không ăn lương của Đảng. Việc xử lý sai phạm của thành viên Ủy ban Kiểm tra do một Tòa án đặc biệt được thiết lập cho từng trường hợp cụ thể, theo luật định.

4. Đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước

4.1 Thành lập Hạ viện

a. Quốc hội hiện nay nên đổi thành Hạ (nghị) viện. Số đại biểu Quốc hội (Hạ nghị sĩ) được bầu với số lượng phụ thuộc vào dân số của mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và có ưu tiên cho các tỉnh có nhiều người thuộc nhiều sắc tộc thiểu số khác nhau.

b. Các đoàn thể chính trị – xã hội – nghề nghiệp đương nhiên có trách nhiệm và quyền cử đại diện của mình làm ứng cử viên Hạ nghị sĩ theo luật định; mặt khác, mọi công dân từ 21 tuổi trở lên đều có quyền tự do ứng cử Hạ nghị sĩ theo luật định.

c. Hạ nghị sĩ phải hoạt động chuyên nghiệp, được hưởng lương, tuyệt đối không được tham gia làm việc có thù lao của bất kì tổ chức hành pháp, tư pháp các cấp, từ trung ương đến xã, thôn, ấp, bản. Mỗi Hạ nghị sĩ và các thành viên của ủy ban chuyên trách các lĩnh vực được cấp một khoản kinh phí để tự soạn thảo hay thuê tư vấn soạn thảo, phản biện các dự án luật trước khi trình Hạ viện thảo luận, biểu quyết.

d. Các Hạ nghị sĩ và Chủ tịch Hạ viện không nhất thiết phải là đảng viên Đảng Cộng sản.

e. Các ứng viên được tự do tranh cử bằng mọi cách theo luật định, nhất là bằng các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội.

g. Hạ nghị sĩ có thể đồng thời là thành viên của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh hay thành phố, nơi họ cư trú thường xuyên.

h. Xoá bỏ Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, uỷ viên của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũ sẽ đảm nhận chức vụ Chủ nhiệm của các Uỷ ban của Hạ viện.

4.2 Quốc Hội

Quốc hội bao gồm lưỡng viện, thượng viện và hạ viện. Quốc hội không có cấp trên, cấp dưới. Các nghị sĩ đều bình đẳng và có một phiếu biểu quyết hay bầu cử. Do vậy, Quốc hội không có Ủy ban Thường vụ và không ban hành pháp lệnh như hiện nay.

Mỗi viện chỉ cần một Phó Chủ tịch để giúp Chủ tịch điều hành khi Chủ tịch vắng mặt. Văn phòng Thượng viện và Hạ viện chỉ có chức năng hành chính, hậu cần, bảo đảm điều kiện cho lưỡng viện và các nghị sĩ hoạt động. Các ủy ban chuyên môn của mỗi viện đảm trách soạn thảo, phản biện các dự án luật được trình lưỡng viện biểu quyết. Mọi công dân, tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp đều có quyền soạn thảo và phản biện các dự án luật.

4.3 Chủ tịch nước và Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ

a) Cần xóa bỏ định chế của Chủ tịch nước. Bởi vì vai trò Chủ tịch nước theo Hiến pháp nước ta qui định rất lớn (Tổng chỉ huy lực lượng vũ trang, Trưởng ban cải cách tư pháp, đại diện Nhà nước về đối nội đối ngoại, kí quyết định phong hàm cấp tướng và các danh hiệu khen thưởng cấp quốc gia…), nhưng không rõ thuộc hệ lập pháp, hành pháp, tư pháp, hay trên tất cả các nhánh quyền lực này.

b) Thủ tướng Chính phủ đứng đầu cơ quan hành pháp ở cấp trung ương do hai viện bầu ra trong số thượng nghị sĩ, thông qua thể thức ứng cử và tranh cử bằng chương trình hành động của mỗi ứng viên. Các Bộ trưởng không thể đồng thời là nghị sĩ ở lưỡng viện và không nhất thiết phải là đảng viên Đảng Cộng sản. Thủ tướng Chính phủ đệ trình lưỡng viện phê duyệt và bãi miễn thành viên Chính phủ. Lưỡng viện có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm cả Chính phủ hay từng thành viên Chính phủ. Như vậy, Chính phủ sẽ bao gồm các thành viên là những nhà kỹ trị, không những có phẩm chất tốt mà phải có đủ năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực do mình phụ trách. Chính phủ và các bộ không có chức năng chủ trì soạn thảo các dự án luật để trình Quốc hội như hiện nay, nhưng cần tham gia góp ý và phản biện các dự án luật trong quá trình soạn thảo và phê chuẩn.

c) Bộ trưởng với tư cách là thành viên Chính phủ phải là cấp trên của cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Bộ trưởng không có chức năng tham mưu cho Chính phủ như hiện nay, mà phải là người thay mặt Chính phủ quản lý ngành, chịu trách nhiệm trước hai viện của Quốc hội, trước Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.

4.4 Phó Thủ tướng và các Thứ trưởng

Nếu Bộ trưởng có vai trò như trên, thì không cần có các Phó Thủ tướng phụ trách khối ngành như hiện nay. Bởi vì, không có Phó Thủ tướng nào phụ trách khối ngành lại giỏi hơn Bộ trưởng trong lĩnh vực của họ. Chỉ cần một Phó Thủ tướng kiêm Tổng thư ký Chính phủ để giúp Thủ tướng điều hành, mang tính hành chính. Còn chuyên môn thuộc lĩnh vực nào do Bộ trưởng phụ trách lĩnh vực đó thực thi. Như vậy, Thủ tướng Chính phủ mới không trở thành một vị “đốc công cấp cao”, hàng ngày xử lý việc vặt như hiện nay.

Đối với các bộ cũng chỉ cần một đến hai Thứ trưởng để giúp Bộ trưởng thực thi công vụ, do đó cần phân quyền và nâng cao vị thế của các cục quản lý chuyên ngành trong bộ. Tương tự như ở cấp chính phủ, không thể có một vị Thứ trưởng nào phụ trách khối ngành trong bộ như hiện nay, có thể giỏi hơn các Cục trưởng. Các Cục trưởng quản lý chuyên ngành khi đã được phân quyền thì nhân danh chính mình để thực thi công vụ, không phải với tư cách thừa lệnh hoặc theo uỷ quyền của Bộ trưởng như hiện nay.

4.5 Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân các cấp

a) Hội đồng Nhân dân: chỉ tổ chức Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, không có Hội đồng Nhân dân cấp quận, huyện, xã.

b) Ủy ban Nhân dân: Thay định chế Ủy ban Nhân dân các cấp hiện nay bằng định chế Tỉnh trưởng, Thị trưởng, Quận (Huyện) trưởng, Xã trưởng, Thôn (ấp, bản) trưởng, do người đứng đầu cấp hành chính cấp trên trực tiếp bổ nhiệm và kỉ luật, bãi miễn theo đề nghị của Hội đồng Nhân dân. Bí thư tỉnh uỷ và Bí thư thành uỷ giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Nhân dân. Tất cả các vị trí cấp trưởng của bộ máy quyền lực thuộc các cấp nhà nước địa phương phải do người không cùng quê hương với “tứ thân phụ mẫu” của mình đảm trách.

4.6 Tổ chức tư pháp

a) Bộ Tư pháp

Bộ Tư pháp quản lý hệ thống trại giam theo Luật và qui chế quản lí trại giam như thời kỷ 1945-1960.

Hiện nay, ngành công an các cấp từ Bộ đến quận, huyện đều có quyền khởi tố, bắt tạm giam nghi can, điều tra, xét hỏi, giam giữ cả nghi can và tù nhân đã thành án, thì chẳng khác gì một người vừa là thủ trưởng, vừa là kế toán viên, vừa làm thủ kho, thủ quỹ trong một tổ chức cực lớn là quốc gia. (Tệ hại hơn cả trường hợp một người vừa là cầu thủ, vừa là trọng tài trong một trận thi đấu bóng). Do vậy, điều gây bức xúc lớn trong xã hội ta hiện nay là việc công an không chỉ bắt ‘nóng’, mà bắt cả nghi can, khi chưa có lệnh Tòa án; ép cung, bức cung, mớm cung, tra tấn nghi can để đạt thành tích phá án nhanh; thậm chí khi đã thành án, còn bắt tội nhân nhận thêm tội này tội khác để được giảm án, dẫn đến nhiều vụ án oan, chết oan ngay khi nghi can còn đang trong giai đoạn tạm giam.

Nếu các trại giam thuộc ngành Tư pháp quản lý thì sẽ hạn chế tối đa, thậm chí xóa bỏ tình trạng nêu trên. Bộ Tư pháp cần có tổ chức cảnh sát tư pháp, có quyền cưỡng chế buộc bên bị phải ra hầu tòa, buộc bên bị kết tội hay thua kiện thực thi bản án đã có hiệu lực.

Mặt khác, Bộ Tư pháp còn quản lý cả thẩm phán xử tội, lẫn thẩm phán buộc tội (công tố viên), từ khâu bồi dưỡng chuyên môn, đề xuất bổ nhiệm, khen thưởng, kỉ luật (đối với thẩm phán cấp cao), bổ nhiệm, kỉ luật thẩm phán cấp thấp theo luật định. Do vậy, không cần mỗi cơ quan như Tòa án Tối cao, Viện Kiểm sát tối cao, Bộ Tư pháp, đều có học viện bồi dưỡng thẩm phán và luật sư như hiện nay.

b) Tòa án

b.1 Trong điều kiện một đảng lãnh đạo như hiện nay, muốn độc lập xét xử, không bị chính quyền, cấp ủy đảng can thiệp trái luật, Tòa án nên tổ chức theo hướng:

Bỏ tổ chức Tòa án theo các cấp hành chính là huyện (quận), tỉnh (thành phố thuộc trung ương) và Tòa án tối cao như hiện nay.

Thành lập Tòa án sơ cấp liên huyện (quận), qui mô nhiều hay ít huyện (quận) theo số dân và điều kiện giao thông.

* Tòa án phúc thẩm liên tỉnh cùng thuộc một vùng kinh tế sinh thái tự nhiên và nhân văn (hiện nay, nước ta được chia thành bảy vùng sinh thái).

* Thẩm phán cấp liên huyện do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm; Thẩm phán toà án liên tỉnh do Thủ tướng chính phủ bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

* Tòa án tối cao xử giám đốc thẩm. Toà án tối cao chỉ có Chánh án và một Phó Chánh án chuyên trách để quản lý hoạt động của toà án với sự giúp việc của văn phòng toà án. Còn các thẩm phán khác của toà án tối cao sẽ đồng thời là thẩm phán của toà án phúc thẩm ở các địa phương mà mình cư trú. Thẩm phán toà án tối cao do Thượng viện bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

* Chỉ có Tòa án các cấp và do một thẩm phán đại diện mới có quyền kí lệnh bắt tạm giam, hay cấm đi lại khỏi nơi cư trú đối với nghi can. Trường hợp bắt “nóng”, trong 24 giờ sau khi bắt, công an phải xin lệnh bắt tạm giam của Tòa án.

b.2 Thực hiện chế độ thẩm phán suốt đời, gồm cả thẩm phán xét xử và thẩm phán buộc tội (công tố viên). Họ chỉ bị miễn nhiệm khi không đủ sức khỏe thực thi công vụ hoặc phạm tội và bị một tòa án được thành lập riêng, xét xử và tuyên án bãi miễn. Việc khen thưởng, nâng bậc lương của thẩm phán xét xử và thẩm phán buộc tội (công tố viên) ở Toà án Tối cao do Thủ trướng Chính phủ quyết định, còn tại tòa án phúc thẩm và toà án cấp liên huyện do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định. Riêng với Tòa Bảo hiến, bên cạnh các thành viên của Ủy ban Kiểm tra có nhiệm kì của đại hội Đảng, lưỡng viện cần phê chuẩn số thẩm phán suốt đời theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ, với số lượng tương đương với số thành viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương.

c) Viện Kiểm sát

Bỏ định chế Viện Kiểm sát vừa giữ quyền công tố (buộc tội) vừa giữ quyền giám sát thực thi pháp luật như hiện nay; thành lập Viện Công tố ở mỗi cấp Tòa án như nêu trên. Bên cạnh Toà án Tối cao có Tổng Chưởng lý phụ trách viện công tố. Các thẩm phán buộc tội (công tố viên) cao cấp do Thượng viện bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ. Bên cạnh toà án phúc thẩm và toà án sơ thẩm có một biện lý phụ trách viện công tố cùng cấp. Thẩm phán buộc tội (công tố viên) cấp phúc thẩm do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Bên cạnh toà án liên huyện cũng có viện công tố cùng cấp. Biện lí và các thẩm phán buộc tội (công tố viên) ở cấp liên huyện do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm.

5. Thực hiện dân chủ theo hiến pháp hiện hành và các công ước quốc tế mà Việt Nam đã kí kết.

Không có dân chủ thì không có sáng tạo “Một xã hội không có phản biện là một xã hội chết lâm sàng” (Gs Ngô Bảo Châu). Do vậy, căn cứ vào Hiến pháp hiện hành, Quốc hội cần ban hành luật biểu tình, luật về hội, luật bảo vệ quyền con người, luật tự do ngôn luận trước các vấn đề nảy sinh của đất nước.

6. Tổ chức lại nền kinh tế

6.1 Thành lập Hội đồng Kinh tế vùng

Cấp tỉnh không thể là một đơn vị kinh tế, mà chỉ quản lý hành chính trên các lĩnh vực an ninh, nội chính, văn hóa – xã hội, bảo vệ môi trường, không có chức năng quản lý kinh tế, càng không có đủ thẩm quyền và khả năng tổ chức liên kết kinh tế giữa các tỉnh trong một vùng kinh tế sinh thái. Thay vào đó, thành lập Hội đồng quản lý phát triển kinh tế theo vùng kinh tế sinh thái tự nhiên và nhân văn (bảy vùng) trực thuộc Chính phủ trung ương, gọi tắt là Hội đồng Kinh tế vùng. Thành phần hội đồng này bao gồm đại diện các bộ ngành ở cấp trung ương, tỉnh trưởng các tỉnh thuộc vùng (có thể tỉnh trưởng của một tỉnh đồng thời là thành viên của hai hay ba hội đồng kinh tế, do điều kiện sinh thái qui định). Nhiệm vụ của hội đồng này là đề xuất Chính phủ phê duyệt các sản phẩm chiến lược quốc gia, quy hoạch kinh tế – xã hội của mỗi vùng kinh tế sinh thái gồm cả kết cấu hạ tầng kinh tế – kĩ thuật, xã hội của vùng, đặc biệt chú trọng quy hoạch xây dựng đô thị trung tâm vùng và đô thị “vệ tinh”, với đầy đủ cơ sở vật chất tạo mức sống của ngươi dân ở đó cao hơn ở nông thôn. Nhờ đó, nông dân có thể trở thành thị dân một cách bền vững; giám sát, đôn đốc các đơn vị có nhiệm vụ thực thi chiến lược sản phẩm, dự án (đã được duyệt gọi là đề án), đầu tư công, công tư kết hợp, BOT và BT do Chính phủ hay Bộ ngành quyết định, theo thẩm quyền do luật định; tổ chức chuỗi giá trị ngành hàng chiến lược của vùng. Như vậy, Hội đồng Kinh tế vùng là một cơ quan quản lý nhà nước. Hội đồng chỉ có bộ máy hành chính, giúp việc hội đồng hoạt động. Việc nghiên cứu xây dựng chiến lược sản phẩm, qui hoạch phát triển kinh tế – xã hội vùng do các viện, trường, các tổ chức nghề nghiệp thực hiện thông qua đấu thầu và được một hội đồng tư vấn độc lập do Hội đồng Kinh tế vùng thành lập thẩm định, đánh giá kết quả nghiên cứu (có thể mời tổ chức quốc tế có kinh nghiệm). Trên cơ sở đó, hội đồng kinh tế vùng trình Chính phủ phê duyệt, rồi giám sát thực hiện các quyết định này của Chính phủ.

6.2 Các ngành kinh tế chiến lược trọng yếu ở nước ta

a) Công nghệ thông tin

Nguồn nhân lực Việt Nam đủ sức để phát triển công nghệ thông tin, nhất là phần mềm. Việt Nam chỉ có thể nhanh chóng đứng trong tốp đầu của thế giới trong lĩnh vực này, từ khâu sáng tạo công nghệ nguồn đến sản xuất và thương mại trên thị trường trong và ngoài nước, nếu có chính sách đúng. Chỉ trên cơ sơ phát triển công nghệ thông tin đạt trình độ quốc tế, Việt Nam mới có thể phát triển số hoá tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, bảo vệ môi trường đạt trình độ của một nước văn minh hiện đại.

b) Du lịch nghỉ dưỡng và chữa bệnh theo phương pháp Đông – Tây y kết hợp

Dọc bờ biển miền Trung, Sapa và Đà Lạt… có thể trở thành nơi phát triển nhanh, mang lại hiệu quả cao trên lĩnh vực này, do có cả điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ngành này có thể tạo việc làm và giá trị chiếm tỉ trọng cao trong cả GDP và GNP.

c) Nông nghiệp công nghệ cao và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm theo hướng hữu cơ, trên mỗi vùng nông nghiệp sinh thái (7 vùng). Có thể nêu vài ví dụ: vùng đồng bằng Bắc bộ, bắc Khu 4 cũ có thể xác định sản phẩm chiến lược quốc gia là rau, quả phục vụ đô thị trong nước và xuất sang thị trường Đông Bắc Á, như Bắc Trung Quốc, Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản, Siberi của Nga, nhất là các nông sản vụ đông; vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên có lợi thế sản xuất các loại thảo dược quí, hoàn toàn hữu cơ, được chế biến bằng công nghệ hiện đại, theo các bài thuốc y học cổ truyền, bản địa và theo các bài thuốc mới là kết quả nghiên cứu dược khoa, thành các loại thuốc và thực phẩm chức năng có giá trị gia tăng rất cao…

Mỗi vùng nông nghiệp sinh thái cần được xác định loại nông sản chiến lược quốc gia và xây dựng kết cấu hạ tầng tương ứng để phát triển bền vững, phục vụ cho thị trường hơn 100 triệu dân Việt Nam và xuất cảng sang thị trường thế giới. Nền nông nghiệp công nghệ cao Việt Nam có thể học tập Israel hay Đài Loan, nhưng phải được Việt Nam hóa.

Muốn vậy, cần thay đổi căn bản chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện hành theo các hướng sau đây:

Sửa đổi căn bản Luật đất đai hiện hành theo hướng đa chủ thể sở hữu: nhà nước, các tổ chức (doanh nghiệp, nhà chung, nhà chùa…), tư nhân và cá nhân, để hình thành thị trường đất đai đích thực, tạo điều kiện thuận lợi cho tích tụ và tập trung ruộng đất, hình thành các trang trại gia đình, trang trại cá nhân (một chủ sở hữu, không có cấp quản lý trung gian) và trang trại gia đình dự phần, sản xuất nông sản hàng hóa qui mô lớn bằng công nghệ cao, theo hướng hữu cơ, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm mà các thị trường yêu cầu (đặc biệt là yêu cầu của các thị trường khó tính, nhưng mang lại giá trị gia tăng cao), cả trong và ngoài nước.

Trước mắt, cần sửa đổi, bỏ điều 62 của Luật đất đai hiện hành cho phép chính quyền các cấp có quyền thu hồi đất theo qui hoạch phát triển kinh tế – xã hội của mình và đền bù cho người dân theo biểu giá do cấp tỉnh qui định. Phải xác lập quyền sử dụng đất của người dân theo Luật đất đai hiện hành là quyền tài sản, được mua – bán như các loại hàng hóa khác. Chính phủ chỉ quy định mục đích sử dụng của từng loại đất và quyết định thay đổi mục đích sử dụng đất theo luật định. Nhà nước cần đất vì mục đích an ninh quốc phòng có quyền trưng mua nhưng với giá trị cao hơn giá thị trường ít nhất 3%.

Đào tạo đội ngũ “thanh nông tri điền”, thay thế cho “lão nông tri điền”, nông dân chuyên nghiệp thay thế nông dân cha truyền con nối, thông qua các cơ sở đào tạo hiện có, bằng ngân sách nhà nước.

Quản lý theo chuỗi giá trị ngành hàng nông sản ở mỗi vùng và tiểu vùng nông nghiệp sinh thái. Trong đó, chủ thể là doanh nghiệp mua, chế biến, tiêu thụ nông sản bằng công nghệ cao phải đóng vai trò lãnh đạo chuỗi với chính sách thích hợp. Chủ thể là các trang trại nói trên do các nông dân trẻ, chuyên nghiệp làm chủ và quản lý, thực hiện các khâu sản xuất mang tính sinh học, bằng công nghệ cao, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường và có thể sản xuất theo hướng hữu cơ.

Cả hai chủ thể này tạo ra mối liên kết sản xuất theo hợp đồng với nhau và với các chủ thể khác, cung ứng các dịch vụ khác ở cả đầu vào và đầu ra, theo cơ chế phân chia lợi ích và rủi ro một cách công bằng, bảo đảm nguyên tắc các bên cùng thắng. Các chủ trang trại có nhu cầu và khả năng tự nguyện thành lập các hợp tác xã của mình, để thực hiện dịch vụ đầu vào – đầu ra cho mình và làm cầu nối liên kết với doanh nghiệp trong chuỗi giá trị nông sản.

Nhà nước các cấp, gồm chính quyền và tòa án, phải xét xử các mâu thuẫn phát sinh giữa các chủ thể tham gia chuỗi giá trị theo luật định một cách công khai, minh bạch, và bản án hay kết luận của chính quyền đã có hiệu lực phải được thực thi triệt để, nhanh chóng.

6.3 Các thành phần kinh tế

a) Các doanh nghiệp thuộc các chủ sở hữu khác nhau đều là tế bào của nền kinh tế thị trường, hoạt động bình đẳng theo pháp luật, không có cấp trên chủ quản. Do vậy, trong kinh tế thị trường, không có loại doanh nghiệp nào có thể đóng vai trò chủ đạo, dẫn dắt hay là động lực quan trọng của sự phát triển kinh tế theo luật định. Chỉ có doanh nghiệp giỏi, có qui mô kinh doanh lớn, đa ngành, đa quốc gia, nên tự nhiên có khả năng dẫn dắt các doanh nghiệp khác theo chuỗi cung ứng. Nhưng khi chúng phát triển đến mức có thể độc quyền lũng đoạn thị trường thi nhà nước sẽ buộc chúng chia nhỏ thành nhiều doanh nghiệp, theo luật định.

Doanh nghiệp FDI chỉ được đầu tư và hoạt động theo những điều kiện do luật định, như: sử dụng công nghệ cao, tiết kiệm năng lượng, không gây ô nhiễm môi trường, chủ yếu sử dụng sức lao động Việt Nam; không được đóng trên địa bàn trọng yếu về an ninh quốc phòng; phải có chính sách đào tạo nghề và an sinh xã hội cho người lao động, tránh tình trạng bóc lột sức lao động trẻ với giá rẻ mạt và cường độ lao động cao rồi sa thải khi họ mới 30-40 tuổi đời, cái tuổi chưa già nhưng rất khó đào tạo lại để chuyển đổi sinh kế.

b) Kinh tế nhà nước

Kinh tế nhà nước bao gồm hai bộ phận chính:

Các cơ sở nhà nước làm dịch vụ công, như các loại rừng đóng vai trò kết cấu hạ tầng sinh thái tự nhiên (rừng đầu nguồn, phòng hộ, bảo vệ đa dạng sinh học, vườn quốc gia, khu sinh quyển, rừng ngập mặn ven biển, đều thuộc quốc gia công thổ), bệnh viện, trường học công lập, một số cơ sở kết cấu hạ tầng kinh tế – kĩ thuật trọng yếu. Những cơ sở này phải giao cho một chủ thể quản lý theo luật pháp.

* Doanh nghiệp nhà nước (có ít nhất 51% vốn chủ sở hữu thuộc nhà nước). Nhà nước chỉ thành lập một số doanh nghiệp thuộc lĩnh vực và  ở địa bàn mà tư nhân không đầu tư, vì không hay ít có lợi nhuận, nhưng lại có ý nghĩa thúc đẩy phát triển cả nền kinh tế của mỗi vùng kinh tế sinh thái, do sức lan tỏa của nó, hoạt động theo cơ chế đặc biệt. Nhưng khi hoạt động của nó có lợi nhuận, thì phải giải tư, bán cho các chủ sở hữu phi nhà nước, rút vốn nhà nước để đầu tư cho các lĩnh vực và vùng cần thiết khác.

Các tổ chức thuộc lực lượng vũ trang (công an và quân đội) không được hoạt động kinh doanh. Lực lượng này chỉ được thành lập các đơn vị sản xuất vũ khí, khí tài quân sự thuộc danh mục bí mật quốc gia. Các tổ chức doanh nghiệp hiện nay thuộc Bộ Công an và Bộ Quốc phòng phải chuyển sang Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước và thực hiện cổ phần hoá.

6.4 Bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên và nhân văn

a) Tất cả các khu, cụm công nghiệp đều phải có cơ sở xử lý chất thải (khí, rắn, lỏng) tập trung trước khi thải ra môi trường; Nếu không có cơ sở xử lí chất thải đạt chuẩn quốc gia thì nhất quyết không được hoạt động.

Tất cả các công xưởng, trang trại, các hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp bắt buộc phải xử lý chất thải bảo đảm vệ sinh môi trường. Ngành tư pháp các cấp phải nghiêm trị bất cứ ai xả thải chất độc hại chưa được xử lý ra môi trường, bằng cả xử lý hành chính, như phạt tiền, yêu cầu dừng hoạt động hay đóng cửa vĩnh viễn và xử lý hình sự đủ sức răn đe. Cảnh sát môi trường nên trực thuộc Bộ Tài nguyên – Môi trường, có đủ thẩm quyền và điều kiện vật chất để buộc mọi cá nhân tổ chức chấp hành luật bảo vệ môi trường.

Đổi mới công nghệ, sử dụng những thiết bị hiện đại trong xử lý chất thải, đặc biệt lả phải cải thiện ngay điều kiện lao động cho công nhân vệ sinh môi trường ở các đô thị hiện nay; áp dụng rộng rãi ở cả đô thị và nông thôn công nghệ xử lý rác hiện đại theo mô hình kinh tế tuần hoàn; chính quyền các cấp, theo luật, phải thường xuyên, định kì kiểm tra các cơ sở sản xuất kinh doanh có xả thải, nếu cần thiết thuê các tổ chức độc lập, chuyên nghiệp về đánh giá tác động môi trường đối với các cơ sở này.

b) Bảo vệ môi trường sinh thái nhân văn theo vùng miền và sắc tộc, như một loại sức mạnh mềm để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa.

* Khôi phục tiếng nói và chữ viết đã có của các sắc tộc và dịch sang tiếng Việt phổ thông các tác phẩm của họ.

* Xây dựng chữ viết cho các sắc tộc có tiếng nói riêng, nhưng chưa có chữ viết.

* Khôi phục và phát triển các hoạt động văn hóa, văn nghệ của các sắc tộc ít người.

* Dạy ngôn ngữ và chữ viết của mỗi sắc tộc cho con em họ.

6.5 Ngân hàng

Thành lập Ngân hàng Trung ương, thay thế Ngân hàng Nhà nước hiện nay, trực thuộc Quốc hội, có chính sách tiền tệ bảo đảm cân đối vĩ mô như các nước có nền kinh tế thị trường trên thế giới.

7. Giáo dục và đào tạo các nguồn lực

Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự phát triển của đất nước theo các nội dung đổi mới nêu trên. Thực hiện chế độ phổ cập giáo dục miễn phí từ cấp mẫu giáo đến cấp trung học cơ sở.

Là nước đi sau, Việt Nam có lợi thế là học tập các nước đã phát triển cả về tri thức, kinh nghiệm, nội dung, phương pháp, cách tổ chức giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cập nhật kiến thức, kĩ năng, từ giáo dục mầm non đến đại học, trên đại học, đào tạo nghề bậc cao, cho tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, bảo vệ môi trường, quản trị kinh doanh và cả quàn trị quốc gia. Tất nhiên nội dung và cách làm phải tính đến yếu tố văn hoá, lịch sử của Việt Nam. Ví dụ, có thể mua bản quyền chương trình, sách giáo khoa về khoa học tự nhiên, cách tổ chức thực hiện đối với giáo dục phổ thông…

Việc đào tạo ở cấp đại học, trên đại học và dạy nghề cũng nên làm như vậy. Cần đầu tư ngân sách nhà nước cho du học sinh Việt Nam ở các lĩnh vực mà trong nước chưa đào tạo tốt. Có thể học cách làm của Singapore trong đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực quản trị quốc gia.

Ở tất cả các vị trí quản trị quốc gia, mọi công chức đều phải được đào tạo, bồi dưỡng cập nhật kiến thức, kĩ năng nghề theo chuẩn chức danh. Kiên quyết không bầu hay bổ nhiệm những người chưa qua đào tạo, bồi dưỡng đạt chuẩn quốc gia…

Kết luận: Việc thực hiện được các nội dung nêu trên là một bước quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường đầy đủ, nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, thượng tôn pháp luật và xã hội dân sự. Trên cơ sỏ đó, đất nước ta mới có thể hướng tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, xã hội văn minh; đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các chủ thể và con người thuộc các tầng lớp và sắc tộc khác nhau của dân tộc Việt Nam.

Tháng 4/ 2021