Thứ Hai, 14 tháng 6, 2021

20210615. TRAO ĐỔI Ý KIẾN VỀ 'ĐỀ ÁN 89' (2)

 ĐIỂM BÁO MẠNG  


ĐÃ CÓ MỘT SỐ LƯỢNG ĐÁNG KỂ HỌC VIÊN THAM GIA 2 ĐỀ ÁN NGHÌN TỶ
 KHÔNG VỀ NƯỚC

TẤN TÀI/ GDVN 14-6-2021

LTS: Tiếp tục chia sẻ về thực tiễn triển khai các đề án 322 và 911 của Đại học Đà Nẵng cũng như những bài học rút ra để thực hiện tốt đề án 89 lần này, Phó Giáo sư Lê Thành Bắc - Phó Giám đốc Đại học Đà Nẵng đã có những góp ý để đề án đạt được mục tiêu đề ra.

Tòa soạn trân trọng giới thiệu đến độc giả.

Phóng viên: Nhiều trường hợp các học viên tham gia đề án nhưng khi học xong thì định cư ở lại nước ngoài, hoặc làm việc cho các công ty nước ngoài (phá vỡ cam kết ban đầu), vậy hướng xử lý những trường hợp này ra sao?

Đã có nhiều trường hợp khởi kiện ra Tòa để thu hồi tiền ngân sách và thực tiễn tại Đại học Đà Nẵng đã thu hồi đối với các giảng viên phá vỡ cam kết (đề án 911) bằng cách nào, thưa thầy?

Phó Giáo sư Lê Thành Bắc - Phó Giám đốc Đại học Đà Nẵng cho biết, đã có ba trường Đại học thành viên gửi đề án tham gia đào tạo theo đề án 89. Ảnh: TT

Phó Giáo sư Lê Thành Bắc: Theo tôi được biết thì đã có một số lượng đáng kể học viên tham gia đề án 322, 911 học xong không về nước theo cam kết.

Tuy nhiên việc xử lý các trường hợp phá vỡ cam kết tại các cơ sở đào tạo khác cụ thể ra sao thực sự tôi không có thông tin. Cụ thể với các học viên của Đại học Đà Nẵng tham gia đề án 322 và 911 thì số lượng phá vỡ cam kết không đáng kể.

Cụ thể, trong đề án 322 từ 2000-2010, Đại học Đà Nẵng đã cử đi 109 người đi học tập ở các nước tiên tiến trên thế giới, phần lớn đã hoàn thành chương trình đào tạo và trở lại đơn vị tiếp tục công tác.

Trong số này, có 4 trường hợp gồm: một người không hoàn thành khóa học do sức khỏe, 1 người định cư ở nước ngoài không thể liên lạc được, 2 người (gồm 1 Tiến sĩ và 1 Thạc sĩ) tự ý bỏ về.

Đại học Đà Nẵng đang phối hợp với các đơn vị để xét bồi hoàn kinh phí đào tạo theo quy định hiện hành. Đề án 911 được phê duyệt vào năm 2010, khởi động từ tháng 8-2011, chính thức tuyển sinh từ năm 2012-2017.

Đại học Đà Nẵng đã cử đi 133 người, đến nay 106 người hoàn thành chương trình đào tạo, về lại đơn vị công tác, còn 18 người đang học, 9 người không hoàn thành khóa học (vì một số lý do: sức khỏe, bị trường buộc thôi học).

Trong đó 3 trường hợp đã bồi hoàn; 2 trường hợp đau yếu về nước và Hội đồng xét bồi hoàn đề nghị miễn; 1 trường hợp Bộ báo về ngày 25/5/2021 đang làm thủ tục Hội đồng để xem xét và 1 trường hợp bỏ việc không thể liên lạc được.

Phóng viên: Vấn đề thu hồi học phí của học viên đề án đi học không về được xem là vấn đề khó khăn, phức tạp đối với các trường Đại học. Ngay trong đề án 89 cũng có nêu rõ nếu học viên đi học không về thì nhà Trường phải chịu trách nhiệm thu hồi.

Theo quan điểm của thầy thì quy định như vậy liệu có ổn không? So với các đề án trước đây thì trách nhiệm của nhà trường trong đề án này có gì khác?

Phó Giáo sư Lê Thành Bắc: Đúng là việc thu hồi học phí của các học viên không tuân thủ các cam kết khi đi học bằng học bổng ngân sách thực tế những năm qua rất khó khăn, phức tạp (với đề án 911 khi xảy ra trường hợp người cử đi học phá vỡ cam kết, Bộ gửi công văn về để trường thành lập Hội đồng xét đền bù).

Nay trong đề án 89 thì ghi rõ Trường cử đi phải chịu trách nhiệm thu hồi, có phân rõ trách nhiệm, nhưng đây là nhiệm vụ không đơn giản.

Để hoàn thành được nhiệm vụ này, theo tôi ngoài nỗ lực của các trường trong việc rà soát tuyển chọn đúng đối tượng, có những cam kết rõ ràng quyền lợi/nghĩa vụ với người học (nên có sự Bảo lãnh của gia đình, có xác nhận và chứng thực của địa phương nơi cán bộ đang cư trú).

Cần hợp đồng cụ thể với đơn vị cử đi đào tạo, có cam kết khi trở về bố trí công việc đúng chuyên môn. Trường nên căn cứ kết quả năm trước để cấp học bổng và học phí năm sau, tăng vai trò quản lý của Khoa, Bộ môn có người học giữ liên hệ thường xuyên…

Ngoài ra, thì cần có sự phối hợp của các cấp với nhà trường (ví dụ sứ quán hỗ trợ các trường tìm trường đối tác, hỗ trợ quản lý lưu học sinh, địa phương hỗ trợ giải quyết vi phạm hợp đồng…) cũng như quy định pháp lý rõ ràng hơn để nếu xảy ra cam kết của người học với nhà trường bị phá vỡ phải được xử lý hiệu quả.

Tuy nhiên với đối tượng là các học viên chưa phải là viên chức của trường, chỉ cần có cam kết tốt nghiệp về trường phục vụ trường (đây là điểm mới của đề án 89), nếu họ phá cam kết thì việc trường thu lại kinh phí sẽ khó khăn hơn nữa.

Trong những năm qua, tại Đại học Đà Nẵng triển khai những quy định bắt buộc với viên chức trước khi được cử đi học là phải có bản cam kết với có 7 nội dung (từ mẫu của Bộ có sửa đổi), quan trọng nhất nội dung 5 và 7 như sau:

Cam kết công tác tại Đại học Đà Nẵng với thời gian gấp 3 lần so với tổng thời gian của khóa đào tạo, tính từ thời điểm được cử đi đào tạo;

Nếu không thực hiện đúng các điều cam kết trên, gia đình người học hoàn toàn chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và bồi thường toàn bộ chi phí đào tạo.

Những giảng viên được cử đi đào tạo, khi trở về Đại học Đà Nẵng công tác đã phát huy tốt năng lực của mình, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng viên giảng dạy và nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng giảng viên trong toàn Đại học Đà Nẵng.

Nhiều cán bộ là lực lượng nòng cốt của các khoa, bộ môn, trưởng các nhóm nghiên cứu giảng dạy, giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý.

Nhiều ý kiến đóng góp được gửi về Bộ Giáo dục và Đào tạo để đề án 89 đạt được mục tiêu đề ra. Ảnh minh họa: TT

Phóng viên: Việc triển khai đề án 89 tại Đại học Đà Nẵng diễn ra như thế nào rồi, thưa thầy?

Phó Giáo sư Lê Thành Bắc: Về việc triển khai đề án 89 của Đại học Đà Nẵng thì trong năm 2019 Đại học Đà Nẵng đã gửi Bộ Giáo dục và Đào tạo Báo cáo năng lực và nhu cầu đào tạo trình độ Tiến sĩ/Thạc sĩ trong đó có dự kiến rõ số giảng viên cần đào tạo của từng giai đoạn:

Giai đoạn 2019-2024: 540 giảng viên đào tạo trình độ Tiến sĩ, Giai đoạn 2025-2030: 495 giảng viên đào tạo trình độ Tiến sĩ.

Thực hiện đề án 89 Đại học Đà Nẵng đã triển khai, phổ biến đến các trường đại học thành viên, các đơn vị thuộc và trực thuộc Đại học Đà Nẵng.

Hiện nay, Đại học Đà Nẵng đang rà soát, tổng hợp danh sách ứng viên đủ điều kiện đăng ký dự tuyển theo đề án 89 năm 2021 và năm 2022 để gửi Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Có 3 trường thành viên của Đại học Đà Nẵng gồm trường Đại học Bách khoa, trường Đại học Kinh tế và trường Đại học Sư phạm đã gửi đề án tham gia đào tạo theo đề án 89.

Tuy nhiên Đại học Đà Nẵng đang chờ Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố danh sách phê duyệt những cơ sở đào tạo trong nước và nước ngoài tham gia đào tạo theo đề án 89 để triển khai các bước tiếp theo.

Xin cảm ơn thầy về cuộc trao đổi!

TẤN TÀI (thực hiện)
5 BẤT CẬP LỚN CỦA HAI ĐỀ ÁN NGÀN TỶ À ĐỀ ÁN 89 PHẢI TRÁNH  ĐI VÀO 'VẾT XE ĐỔ'
TẤN TÀI/ GDVN 13-6-2021

LTS: Từng trải qua hai đề án 322 và 911, Đại học Đà Nẵng đã thu về được những “quả ngọt” khi thu hút được đội ngũ giảng viên, nghiên cứu chất lượng cao từ nước ngoài về.

Tuy nhiên, hai đề án trên cũng để lại nhiều bất cập, thiếu sót và nhiệm vụ của đề án 89 là giải quyết những tồn tại đó.

Liên quan đến vấn đề này, Tạp chí Điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Phó Giáo sư Lê Thành Bắc – Phó Giám đốc Đại học Đà Nẵng về sự chuẩn bị của các trường trước khi triển khai đề án.

Tòa soạn trân trọng giới thiệu đến độc giả.

Phóng viên: Thưa thầy, hiện Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai đề án 89 nhằm mục tiêu đào tạo đội ngũ Thạc sĩ, Tiến sĩ cho các trường Đại học, theo quan điểm của thầy thì việc bỏ ngân sách ra đào tạo giảng viên cho các trường có còn phù hợp? Và đề án này có ý nghĩa gì với các trường đại học hiện nay?

Phó Giáo sư Lê Thành Bắc: Để xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học bảo đảm về chất lượng, hợp lý về cơ cấu (Tiến sĩ, Thạc sĩ cho ngành đặc thù, chuyên môn cho cán bộ quản lý), đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và phát triển khoa học, công nghệ cho đất nước, gắn với yêu cầu khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của công nghiệp 4.0.

Theo tôi thì việc nhà nước đầu tư ngân sách cho mục tiêu đào tạo giảng viên là phù hợp và cần thiết (vấn đề là triển khai ra sao để đạt hiệu quả cao mà thôi).

Hiện nay, theo tôi biết thì tỷ lệ Tiến sĩ/giảng viên trung bình tại các trường Đại học Việt Nam khoảng trên dưới 27%, đây là một tỷ lệ còn khá khiêm tốn so với các nước đang phát triển (khoảng trên 50%).

Tỷ lệ giảng viên trình độ cao ảnh hưởng mang tính quyết định đến chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học (2 nhiệm vụ cơ bản của một Đại học), số lượng công bố khoa học và xếp loại thứ hạng mỗi trường đại học.

Chính vì vậy, đề án với mục tiêu tăng số lượng tiến sĩ (dự kiến thêm lên 10%) mang ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Ngoài ra các cơ sở giáo dục đã được Bộ Giáo dục và Đào phê duyệt tham gia đề án 89 được tự chủ trong việc tuyển sinh và tổ chức đào tạo.

Điều này thêm cơ hội cho giảng viên và những người có nguyện vọng trở thành giảng viên có điều kiện để được học Tiến sĩ. Giúp cho các trường tham gia đề án tăng chất lượng và số lượng đào tạo sau đại học.

Phó Giáo sư Lê Thành Bắc – Phó Giám đốc Đại học Đà Nẵng nêu ra những điểm mới của đề án 89 so với các đề án trước đó. Ảnh: TT

Phóng viên:Thực tế trước đây đã có hai đề án đào tạo trình độ Tiến sĩ là đề án 322 và 911 nhưng cả hai đề án này đều tồn tại nhiều bất cập. Trong đó có vấn đề giảng viên nhận tiền ngân sách đi học nước ngoài xong không về.

Có trường hợp trở về công tác nhưng không nhận được mức đãi ngộ xứng đáng (mức lương thấp) nên bỏ ra ngoài. Hoặc phân công bố trí công tác giảng dạy không phù hợp…

Vậy, đề án 89 phải khắc phục những bất cập này ra sao? Theo quan điểm của thầy thì để giải quyết các vấn đề trên, bản thân các trường Đại học cần phải làm gì?

Phó Giáo sư Lê Thành Bắc:Đúng là việc triển khai đề án 322 và 911 ngoài những hiệu quả tích cực đã mang lại là đã góp phần tăng đội ngũ trình độ cao (Tiến sĩ, Thạc sĩ), đây là thực tế không thể phủ nhận, tuy nhiên cả hai đề án này cũng đã cho thấy tồn tại khá nhiều bất cập.

Có thể kể đến 5 bất cập lớn là:

Thứ nhất, cơ chế tài chính không hấp dẫn bằng các chương trình học bổng nước ngoài khác, mức sinh hoạt phí cho lưu học sinh còn thấp, hay chuyển chậm gây ít nhiều khó khăn.

Thực tế nhiều giảng viên dù quan tâm đến đề án 911 nhưng khi nhận được học bổng nước ngoài khác, họ sẽ chọn học bổng nước ngoài trước, sau mới đến học bổng đề án.

Thứ hai, phương thức đào tạo phối hợp gặp khó khăn do nhiều người học hạn chế về ngoại ngữ, việc hỗ trợ bồi dưỡng ngoại ngữ cho ứng viên chưa được chú trọng đúng mức.

Dẫn đến phương thức đào tạo phối hợp chưa cho thấy có sự khác biệt đáng kể so với đào tạo tiến sĩ trong nước.

Thứ ba, số Tiến sĩ sau tốt nghiệp trở về nước làm việc còn ít, cải thiện chưa nhiều tỷ lệ Tiến sĩ/giảng viên. Quy định trong việc cử người đi học còn cứng quá nên đã không khuyến khích được nhiều ứng viên tham gia.

Thứ tư, đã xảy ra việc giảng viên hoàn thành chương trình học về nước xin thôi việc, một số học tại nước ngoài ở lại không về nước, một số giảng viên không hoàn thành khóa học vì lý do khách quan (sức khỏe, bị trường buộc thôi học…). Các trường hợp này đã làm hạn chế mục tiêu ban đầu của các đề án.

Thứ năm, sau khi về nước phần nhiều chưa phát huy được năng lực của mình, thiếu môi trường để phát triển nghiên cứu tiếp.

Chưa cùng nhau phối hợp nghiên cứu tạo thành các nhóm nghiên cứu mạnh để giải quyết nhiệm vụ khoa học lớn của đất nước đang đặt ra.

Chế độ đãi ngộ cho viên chức sau khi hoàn thành chương trình đào tạo về còn thấp, dẫn đến 1 số xin thôi việc hoặc xin chuyển công tác (đây có lẽ là bất cập lớn nhất).

Để đề án 89 khắc phục được những bất cập, hạn chế của các đề án trước, thì phải cần sự nỗ lực của tất cả các Bộ, ngành liên quan đến đề án chứ chỉ các trường Đại học thì cũng không thể nào giải quyết được.

Theo tôi thì đề án 89 đã được Ban soạn thảo xem xét tới những hạn chế của 322, 911 cho nên bổ sung có một số điểm mới:

Đó là, trên cơ sở số lượng ứng viên trúng tuyển theo đề án 89 đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, các cơ sở giáo dục đại học tự chủ trong công tác tuyển chọn ứng viên cử đi đào tạo, quản lý kinh phí, theo dõi quá trình đào tạo cho tới việc sử dụng giảng viên sau đào tạo và bồi hoàn kinh phí (nếu có).

Việc giao cho trường trực tiếp quản lý học viên thì với mỗi trường số lượng ít nhiều so với Bộ trực tiếp quản sẽ góp phần tăng hiệu quả hơn.

Đề án đã tăng kinh phí cho việc đào tạo trong và ngoài nước đáp ứng chi phí đào tạo, nghiên cứu khoa học, thực hành, thí nghiệm, thực tập và công bố kết quả trên các tạp chí uy tín.

Điều này đã tạo ra sự hấp dẫn của đề án với ứng viên, qua đó có thể cạnh tranh với các hổng bổng khác.

Đề án cho phép các cơ sở giáo dục Đại học đủ điều kiện sẽ tự chủ trong tuyển sinh và tổ chức đào tạo với số đào tạo trong nước (khoảng 30% chỉ tiêu), trên nguyên tắc chia sẻ kinh phí giữa nhà nước và cơ sở cử giảng viên đi tham gia đào tạo.

Việc này đã tạo thêm nguồn sau đại học cho các trường do hiện tại nguồn tuyển sau đại học trong nước đều giảm.

Trong đề án quy định các đối tác nước ngoài được lựa chọn để cử đi đào tạo là những ngành có uy tín, trong top 500 trong các bảng sếp hạng uy tín quốc tế.

Điều này sẽ tăng chất lượng đào tạo, tuy nhiên có ý kiến là Bảng xếp hạng cụ thể nào. Bởi hiện nay có khá nhiều bảng xếp hạng các trường Đại học trên thế giới;

Ngoài ra, theo tôi thì ngay với việc lựa chọn các trường trong nước để tham gia đào tạo thì Bộ cũng nên lưu ý chọn các cơ sở đã được kiểm định, có thứ hạng cao trong nước, các ngành có chương trình đào tạo được kiểm định bởi các Tổ chức kiểm định uy tín.

Để thực hiện tốt đề án, trước tiên các trường nghiêm túc triển khai đúng yêu cầu của đề án, đặc biệt chú trọng công tác giới thiệu ứng viên, xây dựng các cam kết (với người học, với cơ sở nhận đào tạo).

Theo dõi thường xuyên quá trình học tập của ứng viên mình cử đi học, trường cam kết bố trí công tác hợp lý khi hoàn thành khóa học.

Trường cần xây dựng quy định riêng về quản lý, cấp phát tài chính, xử lý đền bù… đối với các ứng viên theo đề án 89.

Ngoài ra, theo tôi, các trường nên chọn cử nhóm ứng viên (thay vì riêng lẻ) đi nghiên cứu theo hướng lĩnh vực ưu tiên của trường để khi trở về sớm có được nhóm nghiên cứu mạnh.

Trong số tiếp theo, Phó giáo sư Lê Thành Bắc - Phó giám đốc Đại học Đà Nẵng sẽ đề cập đến vấn đề khá nhạy cảm trong các đền án là việc thu hồi kinh phí đào tạo đối với các học viên không hoàn thành cam kết.

Cũng như những chứng cứ pháp lý cần ràng buộc chặt chẽ để đảm bảo nguồn ngân sách của nhà nước không bị hao hụt, lãng phí.

TẤN TÀI (thực hiện)
GIAN NAN BỒI HOÀN KINH PHÍ, LÀM SAO ĐỀ ÁN 89 TRÁNH ĐƯỢC 'VẾT XE ĐỔ' ?
TẤN TÀI/ GDVN 10-6-2021

Thực tế đã có nhiều phiên tòa giải quyết tranh chấp yêu cầu bồi hoàn kinh phí đào tạo giữa các Trường Đại học, địa phương với học viên được cử đi học theo các đề án.

Trong đó, điển hình là việc Đà Nẵng đã khởi kiện hàng loạt “nhân tài” đề án 922 (đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của địa phương này) ra Tòa để buộc bồi hoàn kinh phí do phá vỡ cam kết ban đầu.

Tuy nhiên, việc thu hồi kinh phí theo con đường (ra Tòa án giải quyết) này cũng khó khăn và gây ra nhiều tranh cãi. Nhiều ý kiến cho rằng, cần phải có chính sách ngăn ngừa từ đầu, nhằm hạn chế tối đa việc học viên vi phạm cam kết.

Nên công khai danh tính học viên đi học… không về

Giáo sư Trần Văn Nam – nguyên Giám đốc Đại học Đà Nẵng cho rằng: “Hầu hết, các em tham gia các đề án của nhà nước đều chọn con đường trở về nước cống hiến, chỉ một số ít ở lại vì nhiều nguyên nhân khác nhau.

Đề án 89 tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục chất lượng trong nước tuyển sinh, đào tạo Tiến sĩ, Thạc sĩ. (trong ảnh: Đại học Đà Nẵng trao bằng Tiến sĩ). Ảnh: TT

Đương nhiên, dù ở lại nước ngoài thì về mặt đào tạo nhân tài ở đâu cũng phục vụ cho đất nước. Ở ngoài phục vụ cho đất nước thì cũng tốt thôi.

Nhưng khi mình đã có cam kết ban đầu rồi nên phải giữ đúng theo cam kết đó và phải trở về. Thực ra, lúc đi có nhiều đơn vi, các tỉnh cũng ký kết, cũng buộc phụ huynh bảo lãnh... nhưng rồi các em cũng phá vỡ, cũng bỏ đi luôn, không kéo lại được.

Tất nhiên, khi làm đề án thì phải chấp nhận một số rủi ro, và đây là số ít thì mình phải chịu”, thầy Nam nói.

Tuy nhiên, để răn đe thì Giáo sư Nam cho rằng, bản thân các học viên đi học nước ngoài cũng có nhiều điều kiện ở lại phát triển, nếu chọn con đường đó thì cũng nên công khai danh tính những học viên đó trên mạng (có thể là website của Trường, của Bộ... - phóng viên).

Bởi thực tế có một số em bỏ đi luôn, cắt đứt mọi liên lạc, nhà trường phải nhờ sứ quán tìm kiếm nhưng rất khó khăn.

"Còn thời buổi bây giờ, khi mạng internet đã phủ sóng thì việc công bố danh sách đó bao gồm tên tuổi, trường học ở nước ngoài của học viên... sẽ buộc họ phải giữ uy tín.

Nếu họ chấp nhận ở lại thì buộc phải chấp nhận tên tuổi của mình trên danh sách đó và phải thực hiện việc bồi hoàn kinh phí. Các học viên cũng nên hiểu rằng, việc đền bù lại để cho các em khác có nguồn kinh phí để thế hệ sau đi học. Bởi đây là nguồn tiền ngân sách.

Còn phương án giữ tiền giữ bạc các em như một số nơi đã làm hay phải bắt cược tiền từ ba mẹ, trong khi các em đã đến tuổi trưởng thành thì cũng không phải là phương án hay,

Ví dụ, có một số em có kết hôn ở nước ngoài rồi ở lại nên khó có thể trở về công tác. Nếu hoàn cảnh như vậy thì phải đền bù lại.

Việc đền bù cũng tính toán bằng một giá trị nào đó phù hợp chứ không thể đền bù gấp mấy lần như hồi trước mình làm thì rất khó khăn cho học viên. Ít nhất đề nghị đó là bồi hoàn theo quy định".

Theo Giáo sư Nam, việc đòi bồi hoàn kinh phí trong trường hợp nào cũng là một vấn đề khá nan giải. Mà theo đề án 89 thì nhiệm vụ nặng nề này lại được giao lại cho các trường quản lý nhưng các trường cũng rất khó.

"Nhiều địa phương đã chọn phương án khởi kiện ra Tòa. Dù đây là cách làm nặng nề nhưng cũng là phương án cuối cùng phải chấp nhận để thực hiện", thầy Nam nói.

Thay vì cấp thì cho học viên vay đi học

Phó Giáo sư Lưu Trang – Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng cũng chung nhìn nhận, việc thu hồi kinh phí đào tạo cho giảng viên nếu không trở về cũng là một vấn đề nan giải.

Bởi trường hợp đó là giảng viên của Trường thì dễ hơn. Nhưng còn không phải giảng viên của Trường thì Trường chỉ cam kết nhận họ thôi, còn việc thu hồi khó khăn.

Theo đề án 89 thì ngoài nguồn học viên là giảng viên của các trường cử đi học thì còn có nguồn bên ngoài nhưng được trường đăng ký và cam kết tiếp nhận sau khi học xong.

“Chỉ có cách theo phương án như cho sinh viên vay vốn. Tức là có sự bảo lãnh của địa phương, gia đình và học viên đó. Nếu học viên vi phạm cam kết, tự ý cắt đứt mọi liên lạc thì gia đình phải đứng ra chịu trách nhiệm cho các khoản vay này.

Ngoài ra, cũng có nhiều phương án khác, kể cả việc chọn con đường ngoại giao... để yêu cầu học viên học xong phải trở về. Hoặc các trường có văn bản đồng thuận với Trường Đại học ở nước ngoài để học xong thì họ sẽ trả học viên về", thầy Trang gợi ý.

Còn theo Phó giáo sư Đoàn Quang Vinh - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng, vấn đề được các trường quan tâm hiện nay trong đề án 89 là giao trách nhiệm cho các trường cử giảng viên đi học thu hồi kinh phí đào tạo nếu giảng viên đó không trở về hoặc không hoàn thành việc học.

"Để quản lý vấn đề này một cách thiết thực thì trong đề án 89 giao trách nhiệm cho các trường. Tuy nhiên, để trường thực hiện tốt thì cần cơ chế phối hợp với các bộ, cơ quan liên ngành.

Cụ thể là Bộ Ngoại giao trong trường hợp giảng viên ở bên nước ngoài không về nước, Cục xuất nhập cảnh (bộ công an) trong trường hợp giảng viên về nước nhưng không thực hiện nghĩa vụ trong việc bồi hoàn kinh phí đào tạo. Chứ mình trường thì không có cơ chế để thu hồi kinh phí đào tạo", thầy Vinh cho hay.

TẤN TÀI
CỬ CÁN BỘ HỌC TIẾN SĨ NƯỚC NGOÀI CẦN CHỌN NGÀNH CÓ 'ĐẤT SỐNG' TRONG TƯƠNG LAI
TRUNG DŨNG/ GDVN 9-6-2021
GDVN- Khi cử người đi học cần cân nhắc đến những bộ môn buộc phải nâng cao trình độ theo định hướng. Đặc biệt là theo các ngành nghề thu hút sinh viên trong tương lai.

Liên quan đến việc thực hiện “Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030”, hay còn gọi là Đề án 89 thì ngày 13/5 vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo có Công văn hướng dẫn, yêu cầu các trường muốn tham gia đào tạo đăng kí trước ngày 20/5, gửi danh sách ứng viên trước ngày 15/6 và Bộ sẽ thông báo danh sách trúng tuyển trước ngày 30/6/2021.

Hiện tại, Đề án này vẫn đang thu hút được nhiều sự quan tâm của dư luận. Nhiều ý kiến băn khoăn, liệu ngành nghề mà các trường chọn cán bộ đi đào tạo liệu có còn phù hợp sau thời gian những giảng viên này đi học. Các trường nên cân nhắc điều gì để việc triển khai Đề án này sẽ có được lộ trình phù hợp tình hình thực tiễn phát triển đất nước ta.

Và hơn hết, nhiều người quan tâm đến chuyện các Tiến sĩ sau khi dùng tiền ngân sách để đi học xong nhưng không quay trở về nước để tiếp tục cống hiến sẽ được các trường xử lý như thế nào, cần có chế tài nào mạnh hơn trước đây để cải thiện tình hình hay không.

Trao đổi về vấn đề này với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, thầy Đậu Xuân Thoan – Phó viện trưởng Viện Khoa học phát triển tài sản trí tuệ (IPDI) cho rằng: “Những dự án liên quan đến việc cử giảng viên ra nước ngoài để học lên trình độ Tiến sĩ hoặc cao hơn thì trước đây chúng ta đã từng áp dụng rồi, chứ không phải đến thời điểm này chúng ta mới đưa vào thực hiện.

Tuy nhiên, chính vì những thiếu sót không đáng có đã xảy ra từ những Đề án trước trong quá trình triển khai nên tâm lý e ngại, hoài nghi trong lần thực hiện này là không tránh khỏi.

Thầy Đậu Xuân Thoan – Phó viện trưởng Viện Khoa học phát triển tài sản trí tuệ. Ảnh: Trung Dũng

Nhất là việc nhiều cán bộ được cử đi, tiêu tốn rất nhiều tiền của ngân sách của nhà nước nhưng không trở về đúng thời hạn. Việc này không chỉ gây mất lòng tin trong nhân dân với việc cử cán bộ đi học nước ngoài, mà trong việc này còn khiến nhiều trường còn lâm vào cảnh khốn đốn vì thiếu giáo viên trình độ cao để phục vụ cho nhu cầu thực tiễn giảng dạy.

Bên cạnh đó, từ trước đến nay nhiều người đi học chỉ cũng chỉ mong có được cái mác là tốt nghiệp các trường ở nước ngoài, sẽ có nhiều thuận lợi trong sự nghiệp khi họ quay trở về nước làm việc.

Khi mang nặng tư tưởng cố hữu này đi học, thường thì các cán bộ cử đi họ sẽ không đặt việc học tập, đúc rút kiến thức cho bản thân lên đầu tiên. Thậm chí, nhiều người còn lấy cơ hội được đi học để kết hợp với việc buôn bán, kinh doanh. Khi gốc kiến thức của họ lĩnh hội đã bị rỗng thì dù có tốt nghiệp được ở các trường danh tiếng ở nước ngoài, khi về nước giảng dạy họ cũng chỉ giống như những chiếc máy nói”.

Nêu quan điểm về việc làm thế nào để hạn chế được các giáo viên bị sức hút của tiền bạc, danh vọng mà không quay trở về khi hoàn thành khoá học, thầy Đậu Xuân Thoan bày tỏ: “Đầu tiên đó là khâu chọn người, làm sao phải đảm bảo được sự minh bạch và đúng thực chất.

Vấn đề nữa là yêu cầu các trường cần tính toán kỹ trong việc giải ngân, giải ngân như thế nào, chọn trường cho các giảng viên này đi học ở đâu cho hợp lý.

Đồng thời, khi cử người đi học cũng cần được các trường cân nhắc đến việc làm sao chọn đúng được các bộ môn cần nâng cao trình độ theo định hướng. Đặc biệt là theo các ngành nghề có chiến lược và thu hút nhiều sinh viên trong tương lai.

Chẳng hạn, ngày trước chúng ta cũng đã có một thời điểm cho các giảng viên ra nước ngoài học bộ môn: Cơ khí tự động hoá, chế tạo máy. Thế nhưng, khi học xong trở về nước họ lại không có điều kiện để áp dụng. Vì thời điểm ấy đất nước còn nghèo, đâu có nhiều máy móc thiết bị hiện đại để thực hành. Như vậy, nó không chỉ lãng phí nguồn ngân sách để cho một cán bộ đi học, mà các ngành nghề đó nếu được đào tạo ra thì sinh viên thế hệ đó cũng chật vật khi đi xin việc”.

Đó là chưa kể đến việc nhiều trường còn cử đi đào tạo những ngành nghề mang tính lạc hậu. Sau 3 – 5 năm đi học nước ngoài về, các ngành nghề ấy gần như khai tử hoặc thị trường không thiết yếu nữa nên không có sinh viên theo học. Việc này khiến cho không ít giảng viên sau khi về nước công tác thấy chán nản, thậm chí là chuyển ngành khác trái sở trường, cho dù họ từng rất tâm huyết và chăm chú học tập, rèn luyện ở nước ngoài.

Cũng có một giải pháp nữa mà các cơ quan quản lý nên lưu tâm đó là việc đánh giá, xét duyệt các cán bộ được cử đi cần thông qua các đợt sát hạch, thi tuyển một cách công khai và độc lập. Có được sự công khai minh bạch với danh sách những người trong kế hoạch được cử đi để tất cả mọi người được lựa chọn theo số đông thì bao giờ cũng là cách đảm bảo dân chủ và chọn đúng đối tượng.

Việc này cứ đưa thành chỉ tiêu, công khai tỉ lệ chọi như các cuộc thi thông thường của học sinh, sinh viên thì chắc chắn những người tham gia tuyển chọn cũng sẽ có ý thức và tinh thần hơn”.

Phóng viên cũng đặt ra câu hỏi về việc, không chỉ những người ở lại nước ngoài không về mà cũng đã từng có tình trạnh nhiều cán bộ trở về nhưng không cống hiến với trường đã cử mình đi mà chạy sang trường khác trong nước để làm việc với mức lương cao hơn.

Đó có phải là do các chế tài và mức xử phạt của các trường trong nước không đủ mạnh để “giữ chân” những giảng viên này ngay cả trong nước hay không. Việc này được thầy Đậu Xuân Thoan nhận định: “Theo tôi, chính các cơ quan quản lý, đặc biệt là Bộ Giáo dục cũng nên đặt ra tiêu chí cụ thể và chế tài với những cá nhân được cử đi học. Đó là, khi đi học về thì cần phải tiếp tục phụng sự, cống hiến với trường trong thời gian là bao nhiêu năm.

Nếu không thực hiện thì bồi thường lại bằng mức kinh phí như thế nào, ai là người đứng ra thực hiện các chế tài đó và nguồn kinh phí sau khi thu về thì được nộp vào đâu. Có như vậy thì mới không gây sự thắc mắc trong dư luận khi Đề án này đi vào triển khai.

Ngoài áp dụng chế tài mạnh và cứng rắn hơn thì cần công khai danh sách cán bộ đã hoàn thành khoá học trở về, cùng với quá trình học tập của người đó có tốt hay không cho các trường khác trong nước biết. Việc này cũng là cách để các trường không bị “loá mắt” bởi mác Tiến sĩ nước ngoài để tuyển lựa những giảng viên không đủ tâm, đủ tầm giảng dạy.

Vì với tâm lý hám lợi thì trước hay sau người đó cũng tìm cách để trốn chạy và tìm những chỗ khác “ngon lành” hơn. Thậm chí, các trường có thể mạnh tay trong việc không ký giấy chuyển trường với những giảng viên chưa hoàn thành đầy đủ cam kết.

Chung quy lại, trong sự việc này thì ý thức của những cán bộ được cử đi học vẫn là điều quyết định mọi việc. Bởi khi họ đã nhận thức được việc mình đi học bằng ngân sách của nhà nước, đó chính là mồ hôi, nước mắt của nhân dân, trong đó có của chính những người thân họ đóng góp nữa thì họ mới có tinh thần và động lực học tập và cống hiến”.

Trung Dũng
KHÔNG THỂ ĐẠT ĐƯỢC DANH DỰ BẰNG PHƯƠNG THỨC THẤP HÈN
CAO KIM ANH/ GDVN 14-6-2021
GDVN- “Học vị, học hàm là điều cao quý cho người được phong tặng. Mà đã là cao quý thì không được thực hiện bằng hành vi thấp hèn”, Tiến sĩ Nghiêm Vũ Khải khẳng định.

Cần bỏ tư tưởng sính bằng cấp

Trong buổi làm việc với Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 6/5, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh yêu cầu “học thật, thi thật, nhân tài thật”. Đây được xem là một yêu cầu rất quan trọng, định hướng chấn hưng nền giáo dục nước nhà.

Trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam về vấn đề này, Tiến sĩ khoa học Nghiêm Vũ Khải cho biết: “Tư tưởng trọng bằng cấp đã nảy sinh mạnh mẽ trong xã hội của chúng ta vài chục năm trở lại đây. Lúc đầu, người ta đề ra đề ra yêu cầu bắt buộc đối với những vị trí việc làm phải được đào tạo và có chứng chỉ về trình độ đào tạo. Đây là yêu cầu chính đáng, ở quốc gia nào cũng vậy.

Ví dụ, trong ngành khám chữa bệnh thì có các cấp đào tạo như y sỹ, bác sỹ; trong ngành công nghệ - kỹ thuật thì phân ra các bậc học như trung cấp kỹ thuật, cao đẳng kỹ thuật, kỹ sư; trong giáo dục phổ thông thì phân cấp giáo viên theo cấp học; trong giáo dục đại học thì phân loại giảng viên, giảng viên chính, giảng viên cao cấp…

Ngoài ra, để xây dựng xã hội học tập người ta khuyến khích công daan học tập suốt đời theo phương châm “Học, học nữa, học mãi” (V. I. Lenin). Tất nhiên ở đây là học thật, thi thật, nhân tài thật

Dần dà, tư tưởng hám danh, hám bằng cấp trong xã hội cứ thế phát triển đến mức mất kiểm soát; trở thành hội chứng bằng cấp”.

Tiến sĩ khoa học Nghiêm Vũ Khải (Ảnh quochoi.vn)

Theo Tiến sĩ khoa học Nghiêm Vũ Khải, người học thì cần có bằng, càng cao càng tốt, thường xem nhẹ kiến thức. Thuê học, thuê thi, thuê viết luận văn… dần dà lây lan như một căn bệnh nan y. Thậm chí có những trường hợp không cần học, không cần thuê, mà mua luôn bằng cấp.

Xã hội có cầu ắt có cung. Trong một số ngành đào tạo vì chạy theo lợi ích trước mắt nên đã đào tạo ồ ạt, xem nhẹ yêu cầu chuyên môn, cấp bằng quá dễ dãi.

Tiến sĩ khoa học Nghiêm Vũ Khải cho rằng, các hiện tượng tiêu cực này tồn tại trong xã hội nước ta là một thực tế, còn mức độ phổ biến đến đâu thì phải do cơ quan chức năng điều tra, đánh giá. Tuy nhiên, cái hại mà nó mang lại cho xã hội là không hề nhỏ.

Đó cũng là một trong những nguyên nhân tạo ra tham nhũng. Việc lợi dụng chức vụ, vị trí công tác để biến tài sản công, tài sản xã hội thành của riêng mình, gia đình mình, thân hữu và bè cánh mình.

“Về hình thức thì bằng cấp là sự ghi nhận, chứng nhận cho trình độ văn hóa, chuyên môn. Vậy thì sử dụng bằng giả hoặc bằng thật nhưng kiến thức giả để mưu đồ được ưu tiên bố trí, đề bạt vào những vị trí có quyền lực hoặc để khoe khoang thì nên được xem xét, đánh giá là hành vi gì?

Liệu đó có phải là sự thiếu trung thực, man trá, lừa dối, ganh đua thấp hèn? Chắc rằng hành vi đó xứng với bất cứ tên gọi nào vừa liệt kê ở trên, tùy theo mục đích, mức đọ hậu quả mà nó gây ra”, ông Khải nhận định.

Khi nào số bằng cấp phản ánh đúng tầm vóc và năng lực?

Tiến sĩ khoa học Nghiêm Vũ Khải có 12 năm học tập và nghiên cứu ở các nước tiên tiến. Ông cho biết, tại các nước đó, người học tự xét thấy cần thiết hoặc có hứng thú, đam mê thì học lên trình độ sau đại học. Cần trình độ nào thì học theo cấp học tương ứng.

Tiến sĩ khoa học Nghiêm Vũ Khải cho rằng nên khuyến khích việc học tập, nghiên cứu.

Tiến sĩ khoa học Nghiêm Vũ Khải kể, một số bạn nghiên cứu sinh người Nhật cùng thời ông chỉ học hết thạc sỹ rồi đi làm. Họ nói rằng tiêu chuẩn việc làm mà họ dự định đảm nhận chỉ cần đến trình độ thạc sỹ. Nếu học lên tiến sỹ sẽ mất cơ hội hoặc bị từ chối vì người sử dụng lao động sẽ phải chi lương cho người có trình độ tiến sỹ cao hơn thạc sỹ, kỹ sư trong khi không cần thiết trình độ đó. Vì vậy, có những người phải “giấu” bớt bằng cấp đi để được nhận việc.

“Tại các nước tiên tiến, học vị tiến sỹ cần cho các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp; học hàm giáo sư, phó giáo sư cần cho những người làm việc giảng dạy, đào tạo; chức danh kỹ sư trưởng, tổng công trình sư…cần cho những người làm việc thiết kế, chế tạo, xây dựng các công trình.

Trong số các chính trị gia, nhà quản lý, công chức thì tỷ lệ những người có học vị, học hàm cao không nhiều.

So với các nước Đông Nam Á hiện nay, Việt Nam có số lượng tiến sĩ thuộc tốp đầu. Tuy nhiên, nếu đề cập đến phát minh, đổi mới sáng tạo, các sáng chế được cấp bản quyền thì lại không tương xứng. Tỷ lệ cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ ngành kỹ thuật, công nghệ thấp, mất cân đối”, ông Khải nói.

Như vậy để thấy được rằng, việc cấp bằng dễ dàng, sở hữu bằng cấp không đúng với năng lực không thể phản ánh đúng tầm vóc, thực lực của người học, cùng không thể đánh giá được tiềm năng của nền giáo dục quốc gia.

Phương châm “Học thật, thi thật, nhân tài thật” và việc chấn hưng nền giáo dục thời đại 4.0

Tiến sĩ khoa học Nghiêm Vũ Khải cho rằng chúng ta nên khuyến khích việc học tập, nghiên cứu, bởi ai cũng có quyền học tập, học tập suốt đời, có học có hơn.

Mặt khác, việc bảo đảm “học thật, thi thật, nhân tài thật” sẽ tạo ra một xu thế lành mạnh, thực sự tôn trọng kiến thức, trọng dụng hiền tài. Sự tôn vinh của xã hội là động lực vô cùng mạnh mẽ để mọi người thi đua học tập, nhất là thanh niên.

Tiến sĩ khoa học Nghiêm Vũ Khải cũng đề nghị cơ quan chức năng nên chỉnh đốn tình trạng bất cập hiện nay trong đào tạo, thi cử, cấp bằng, chứng chỉ hiện nay.

Trước hết, tiếp tục rà soát để chuẩn hóa tiêu chí, yêu cầu chuyên môn, thời gian học tập và nghiên cứu, quy trình đào tạo, đánh giá, cấp chứng chỉ ở các cấp học.

Thứ hai, đề ra định mức cho cơ sở đào tạo, người hướng dẫn luận án, luận văn để tránh trường hợp đào tạo ồ ạt, thực nghiệm sơ sài, không bảo đảm chất lượng.

Thứ ba, bố trí công việc, đề bạt cán bộ cần đặt ra yêu cầu chuyên môn; tuy nhiên lĩnh vực chuyên môn phải gắn với tính chất công việc và người đó phải được đào tạo thực chất về kiến thức và kinh nghiệm. Kiên quyết loại bỏ việc lợi dụng danh nghĩa học hàm, học vị thiếu thực chất, vụ lợi.

Thứ tư, cần kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm thường xuyên; khen thưởng kịp thời những cơ sở đào tạo, cấp bằng đáp ứng yêu cầu chất lượng cao; tiến tới xếp hạng năng lực đào tạo một cách dân chủ, khách quan, khoa học nhằm khuyến khích, tạo điều kiện các cơ sở đào tạo phấn đấu đạt chuẩn và nâng cao thương hiệu, uy tín.

Thứ năm, tăng cường tuyên truyền, nâng cao lòng tự trọng và danh dự của những người trí thức chân chính; những cơ sở đào tạo và cấp bằng; kiên quyết chống và đẩy lùi những vi phạm pháp luật về đào tạo, thi cử, cấp chứng chỉ.

“Trí thức chân chính là những người coi trọng danh dự. Mà danh dự thì không thể đạt được bằng phương thức thấp hèn. Vì vậy, ‘học thật, thi thật, nhân tài thật’ là định hướng chắc chắn sẽ được giới trí thức hưởng ứng và đồng hành”, Tiến sĩ khoa học Nghiêm Vũ Khải khẳng định.

Cao Kim Anh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét