Thứ Năm, 31 tháng 12, 2020

20210101. QUANH CHỦ ĐỀ NHÂN SỰ TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI XIII

 ĐIỂM BÁO MẠNG

'NẾU CHỌN NHẦM CÁN BỘ, ĐỂ LỌT NGƯỜI CƠ HỘI VÀO TRUNG ƯƠNG THÌ SẼ LÀ ĐẠI HỌA'
NHẬT MINH /GDVN 26-12-2020

Tại Hội nghị Trung ương 14 vừa qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định triệu tập Đại hội XIII từ ngày 25-1-2021 đến ngày 2-2-2021.

    Từ nay đến Đại hội còn hơn một tháng và có rất nhiều việc phải làm. Và một trong những việc được các đảng viên cả nước quan tâm là vấn đề nhân sự của Đại hội nhiệm kỳ tới.

    Ông Ngô Văn Sửu – nguyên Vụ trưởng Vụ 1, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương cho rằng, vấn đề nhân sự đang được Đảng làm kỹ càng, cẩn trọng.

    Nhiệm kỳ Đại hội vừa qua, đã có hơn chục quyết định, quy định, chỉ thị do Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành, xoay xung quanh công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và xây dựng Ban Chấp hành Trung ương…

    Ông Ngô Văn Sửu - nguyên Vụ trưởng Vụ 1, Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Ảnh: Nhật Minh

    Ông Sửu dẫn lời Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nói: "Nếu chọn cán bộ đúng thì dân tộc, nhân dân được nhờ, còn chọn sai thì không biết hậu họa như thế nào; Trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào, ở bất kỳ lĩnh vực, địa phương nào, cán bộ bao giờ cũng đóng vai trò quyết định; công tác cán bộ không chỉ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng mà còn là mắt xích trọng yếu trong toàn bộ hoạt động của Đảng, nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng.”

    Với Quy trình 5 bước của Quy định 214, các Quy định 205 và Quy định 90 của Bộ Chính trị, Quy định 08 của Ban Chấp hành Trung ương… công tác nhân sự được thực hiện qua nhiều vòng, nhiều bước.

    "Lãnh đạo Đảng cũng đã nhiều lần nhấn mạnh, ai không đủ tiêu chuẩn thì nhất định không được vào Trung ương.

    Lần này, Trung ương, Bộ Chính trị nhấn mạnh hai tiêu chuẩn của nhân sự, gồm: Bản lĩnh chính trị vững vàng và phẩm chất đạo đức trong sáng, tiêu biểu, không được có những biểu hiện tham nhũng, tiêu cực, chạy chức, chạy quyền. Nó thể hiện sự quyết tâm rất lớn để chọn được cán bộ đủ đức, đủ tài vào Trung Ương, Ban Bí thư, Bộ Chính trị", ông Sửu phân tích.

    Đó là sự chuẩn bị đại lược, còn quyết định cuối cùng lớn nhất của công tác cán bộ chắc chắn sẽ còn tiếp tục cho đến khi Đại hội XIII kết thúc, tức là việc tuyển lựa nhân sự vẫn đang tiếp tục.

    Ông Sửu chia sẻ: "Các đảng viên như tôi đều có chung tâm tư, kỳ vọng là làm sao nhân sự Đại hội 13, cụ thể là các vị Ủy viên Trung ương, Ban Bí thư, Bộ Chính trị là những người thực tài, thực đức để đưa đất nước phát triển".

    Ông Sửu nhắc lại bài học về vấn đề cán bộ khi tổng kết thì nhiệm kỳ Đại hội 12, chúng ta xử lý hơn 110 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có nhiều ủy viên, nguyên ủy viên Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, hơn 30 tướng lĩnh. Đó là kinh nghiệm, là bài học lớn cho việc chuẩn bị nhân sự khóa mới.

    Đội ngũ cán bộ đảng viên đều trông chờ với sự chuẩn bị kỹ càng, các bước tiến hành chọn lựa khoa học, dân chủ thì chất lượng nhân sự của Đại hội 13 sẽ đảm bảo.

    “Tốt nhất là công khai nhân sự quy hoạch vào các vị trí quan trọng tới đây để minh bạch, dân chủ trong lựa chọn cán bộ cùng là để người dân biết, thậm chí có ý kiến, phản ánh nếu cần thiết. Lúc đó, sẽ chọn được người tài, người có năng lực phù hợp nhất.

    Đặc biệt là các đại biểu dự Đại hội 13 có đầy đủ thông tin, báo cáo chi tiết của các nhân sự được giới thiệu xem họ đã làm được những gì để chọn cho đúng, trúng.

    Công tác chuẩn bị nhân sự, cần phải được xem xét một cách kỹ lưỡng, cẩn thận đối với từng ứng viên, đảm bảo không bỏ sót người tài nhưng cũng không để người không đủ tư cách vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng khóa tới.

    Càng minh bạch, càng đầy đủ thông tin thì mới chặn được cán bộ cơ hội lọt vào Trung ương. Nếu chọn cán bộ sai, để lọt người cơ hội thì sẽ là đại họa”, ông Sửu nói.

    Nhật Minh
    'CÓ NHỮNG CÁN BỘ THA HÓA, BIẾN CHẤT, RẤT KHÉO CHE ĐẬY'
    CAO KIM ANH /GDVN 30-12-2020

    Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đang đến gần và vấn đề được người dân hết sức quan tâm đó là phải lựa chọn được những cán bộ có tâm và đủ tài để cùng góp sức đưa đất nước vượt qua những giai đoạn khó khăn, phát triển nhanh hơn.

    Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư - Tiến sĩ Bùi Thị An (Đại biểu Quốc hội khoá XIII) bày tỏ: “Năm năm qua, Đảng đã lãnh đạo đất nước giành được nhiều thành tựu quan trọng, giữ ổn định chính trị, kinh tế tăng trưởng và đời sống của nhân dân được cải thiện.

    Điểm nhấn quan trọng trong mấy năm qua là các đồng chí lãnh đạo Đảng rất quyết liệt trong công tác xây dựng Đảng, làm trong sạch Đảng, củng cố lại tổ chức Đảng vững mạnh.

    Công tác tổ chức cán bộ là then chốt quan trọng nhất, nếu chọn được người đủ đức đủ tài thì đó là điều rất đáng mừng, chọn cán bộ năng lực yếu kém, đạo đức tồi thì sẽ là đại họa. Chúng ta đều biết điều đó, nhưng trước kia thì việc xử lý cán bộ vi phạm còn mờ nhạt, còn tại khóa XII này đã làm rất mạnh, hiệu quả”.

    Phó Giáo sư - Tiến sĩ Bùi Thị An: “Để lọt cán bộ tha hóa, biến chất, sẽ ảnh hưởng tới niềm tin của nhân dân, uy tín của Đảng”. Ảnh: Cao Kim Anh.

    Cũng theo Phó Giáo sư Bùi Thị An, trong thực tế không ít cán bộ lúc còn trẻ rất tốt, quá trình phấn đấu có nhiều thành tích ấn tượng, nhưng khi có chức vụ cao thì lại bị tha hoá, không giữ nổi mình.

    “Có những cán bộ tha hoá, biến chất nhưng che đậy rất giỏi, đến khi bị xử lý thì mới thấy những gì họ nói và làm chỉ như diễn kịch, có những cán bộ nói mà không làm, không tạo nên được dấu ấn gì đáng kể trong cả một nhiệm kỳ.

    Trước kia, chúng ta ít thấy cán bộ đã nghỉ hưu bị xử lý, hiếm thấy cán bộ cấp cao bị xử lý, nhưng nhiệm kỳ vừa qua thì rất nhiều cán bộ cấp Trung ương quản lý đã bị xử lý nghiêm khắc.

    Từ trước đến nay, chúng ta đã nhiều lần đề cập tới việc chỉnh đốn lại công tác cán bộ, nhưng chưa làm đến nơi đến chốn và vẫn để lọt lưới những người mắc khuyết điểm lớn. Thế nên ở khoá XII các đồng chí lãnh đạo đã chú trọng vào công tác xây dựng Đảng và bước đầu loại khỏi bộ máy nhiều kẻ tha hóa, biến chất, hại dân, hại nước”, bà An nói.

    Nhìn lại lịch sử phát triển của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng suốt 90 năm qua thì thấy rằng, niềm tin của nhân dân với Đảng luôn được giữ vững và ngày càng được nâng cao. Niềm tin của nhân dân là vấn đề cốt lõi, là điểm tựa vô cùng quan trọng để Đảng lãnh đạo xây dựng đất nước đạt được nhiều thành tựu lớn.

    Nêu ý kiến kỳ vọng ở Đại hội XIII, Phó Giáo sư Bùi Thị An nói: “Chúng ta đang chuẩn bị cho đội ngũ mới, nhiệm kỳ mới, công tác chuẩn bị mặc dù đã tốt, tuy nhiên tôi vẫn mong rằng phải chặt chẽ hơn, cẩn trọng hơn nữa trong việc tuyển chọn cán bộ.

    Hiện nay, những việc làm tha hóa, biến chất của một số cán bộ thể hiện tinh vi hơn, sử dụng nhiều công cụ hơn để che dấu sai phạm, thế nên hy vọng rằng trong nhiệm kỳ mới không còn lọt vào Trung ương những cán bộ biến chất, tha hóa. Với rất nhiều bước và các quy trình chặt chẽ như vậy mà lại để lọt cán bộ tha hóa thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, lòng tin của nhân dân”.

    Phải tiếp tục chú trọng kiểm soát quyền lực

    Theo Phó Giáo sư Bùi Thị An, đã có quá nhiều bài học về vấn đề kiểm soát quyền lực trong những năm qua, nhiều cán bộ sai phạm và thậm chí vướng vòng lao lý cũng có nguyên nhân xuất phát từ lạm dụng quyền lực, mất tập trung dân chủ.

    “Chọn được cán bộ tốt, giỏi rồi thì chúng ta vẫn phải giữ vững nguyên tắc kiểm soát quyền lực, không thể giao cho một vị trí mà quá nhiều quyền lực mà kiểm soát lại lỏng lẻo thì có thể mắc sai lầm. Như vậy thì vừa mất cán bộ lại vừa ảnh hưởng tới uy tín của tổ chức, gây thiệt hại cho nhân dân, đất nước.

    Tôi rất mừng là Đại hội vừa qua đã bổ sung cụm từ là dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra, dân giám sát và dân hưởng thụ. Như vậy, Đảng ngày càng coi trọng vai trò giám sát của nhân dân. Tuy nhiên, khi triển khai vào thực tế thì có những nơi chưa thực hiện được nhưng làm sao phải có cơ chế để quyền lực của dân giám sát để được tăng lên.

    Những cán bộ vì nước vì dân họ sẽ thực sự lắng nghe dân, đi vào đời sống thực tế và mọi việc làm đều hướng tới nhân dân. Như thế thì bộ máy tự nhiên sẽ mạnh lên, nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng”, bà An chia sẻ.

    Ông Trịnh Xuân Thanh là một trong số nhiều cán bộ vi phạm các quy định của pháp luật, gây thiệt hại cho đất nước. ảnh: TTXVN.

    Nói về vấn đề phòng chống tham nhũng tại Việt Nam, Phó Giáo sư Bùi Thị An nhận định: “Muốn tham ô, tham nhũng thì phải là những người có quyền lực, dân thường thì không thể tham nhũng được. Chính vì thế lòng tham bắt nguồn từ việc muốn có quyền lực phải chạy. Sau khi tham ô được quyền lực mới tham nhũng về kinh tế. Đây là vấn đề mà các đồng chí lãnh đạo đứng đầu Đảng ta kiên quyết xử lý, vì đó là mầm họa khôn lường cho đất nước sau này.

    Có nhiều người đặt ra câu hỏi tại sao quy trình tuyển chọn cán bộ chặt chẽ như vậy nhưng vẫn phát hiện ra có những cán bộ vi phạm, thậm chí đến mức phải bị xử lý?

    Đó là vì quy trình thì đủ nhưng những người thực hiện lại cố ý bóp méo đi, tạo ra kẽ hở để tuyển dụng cán bộ không minh bạch, để lọt lưới người cơ hội chạy chức, chạy quyền, trèo rất cao, chui rất sâu vào bộ máy nhà nước, với mục đích đạt được một số vị trí rất quan trọng để có thể tham nhũng được”.

    Theo Phó Giáo sư Bùi Thị An, ngoài khâu tuyển chọn cán bộ ban đầu, sau đó còn phải liên tục giám sát hậu đề bạt, hậu bổ nhiệm, vì có không ít trường hợp che giấu kín đến vài năm sau mới phát hiện ra. Vậy liệu rằng tự bản thân họ có che đi nổi sai phạm để tiếp tục thăng tiến không, hay là giống như nhiều người đã nói rằng “nhất quan hệ, nhì tiền tệ”?

    Bà An thẳng thắn: “Lợi ích, tiền bạc, của nả, đổi chác là những phép thử khắc nghiệt nhất với con người, nhất là những người có chức vụ. Giới hạn từ một cán bộ xuất chúng trở thành một tội đồ thế kỷ cũng vì thế mà trở nên rất mong manh. Thực ra rất đơn giản, nếu làm việc gì cũng hướng tới mục tiêu vì dân vì nước, không tư lợi, luôn đặt lợi ích của tập thể cao hơn cá nhân thì chắc chắn sẽ rất thận trọng. Còn làm việc mà cứ cài cắm lợi ích cá nhân vào rồi bẻ cong hết quy định thì ngay từ đầu họ đã tự tạo ra cái thòng lọng cho chính mình rồi.

    Lòng tham có thể biến những con người đã từng là lãnh đạo ở các vị trí cấp cao trở thành bị cáo trước vành móng ngựa, nhận sự trừng phạt thích đáng của pháp luật. Vì tham vọng quyền lực, vì lòng tham chiếm cho được nhiều tài sản, tiền của để rồi hủy hoại thanh danh, nhân cách, để người đời khinh bỉ thì cuộc sống còn có ý nghĩa gì nữa”.

    Cao Kim Anh
    NHÂN SỰ LÃNH ĐẠO ĐẢNG CĂNG THẲNG ĐẾN PHÚT CHÓT TRƯỚC ĐẠI HỘI ĐẢNG ?
    RFA 29-12-2020

    Tại hội nghị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 15, dự kiến diễn ra ngày 15/1/2021, Bộ Chính trị sẽ báo cáo các ‘trường hợp đặc biệt’ để Trung ương quyết định, giới thiệu ra Đại hội XIII của Đảng.

    Đó là thông tin ông Nguyễn Đức Hà, chuyên gia Xây dựng Đảng thuộc Ban Tổ chức Trung ương, cho biết hôm 28/12 tại hội nghị tập huấn tuyên truyền Đại hội lần thứ XIII của Đảng cho các cơ quan báo chí.

    Liệu nhân sự đảng sẽ được quyết tại Hội nghị Trung ương 15?

    Trả lời RFA hôm 29/12, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu cao cấp thuộc Viện nghiên cứu Đông Nam Á - Iseas, Singapore, nhận định:

    “Ngay từ Hội nghị Trung ương 12 họ đã định ra cái 13, 14... 15 làm gì, chứ không phải là bất ngờ. Vào ngày 28/12 lại cho đưa lên báo thì tôi cho rằng chỉ là tình cờ chứ không thay mặt cho Ban chấp hành Trung ương Đảng. Điều này đã được thông báo từ trước, từ ngày cuối Hội nghị 14 họ cũng có nói, nhưng họ sẽ để Hội nghị 15, và nếu vẫn không xử lý được, thì bắt buộc họ phải có Hội nghị 16... Thế nhưng họ tin rằng Hội nghị 15 họ sẽ chốt được những cái tên của những người đặc biệt quá tuổi để ở lại.”

    Đại hội lần thứ 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ ​​diễn ra từ ngày 25/1/2021 đến ngày 2/2/2021, tại Hà Nội với 1.590 đại biểu, tăng 80 người so với Đại hội XII. Trong số này có 194 đại biểu đương nhiệm, 1.381 đại biểu được bầu và 15 đại biểu chỉ định. Các thay đổi nhân sự được thông qua tại đại hội đảng, thông thường sẽ nằm trong nhóm lãnh đạo chính phủ mới được thành lập ngay sau đại hội, để lãnh đạo đất nước cho đến năm 2026.

    Tuy nhiên, chỉ các ủy viên Bộ Chính trị mới được xem xét cho 4 vị trí đứng đầu đất nước, hay còn gọi là ‘tứ trụ’. Theo chỉ thị số 35 của Bộ Chính trị, thời điểm tính độ tuổi tham gia các cấp trực thuộc trung ương là tháng 9/2020. Do đó, các ủy viên Bộ Chính trị hiện tại đã đủ 65 tuổi trước thời điểm tháng 9/2020 sẽ phải nghỉ hưu, ngoại trừ người được chọn để giữ vị trí tổng bí thư nhiệm kỳ tiếp theo. Vậy liệu sẽ có bao nhiêu vị lãnh đạo quá tuổi được tiếp tục ở lại sau Đại hội 13?

    Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp đưa ra suy đoán của mình:

    “Có một số khả năng sẽ có 2 trường hợp đặc biệt, khóa 12 chỉ có 1, lần này thậm chí có thể có 3 thậm chí 4 trường hợp. Nếu mà suy đoán thì những trường hợp đặc biệt ở lại là sẽ làm trong ‘Tứ trụ’, chứ không làm nhỏ hơn. Có thể xảy ra trường hợp quá tuổi như ông Nguyễn Xuân Phúc, Trần Quốc Vượng, còn nếu trường hợp 3 người thì có thể có thêm Nguyễn Thị Kim Ngân, nếu 4 trường hợp hay 3 rưỡi thì có thể có thêm ông Nguyễn Phú Trọng.”

    Tuy nhiên Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cho rằng, ông Nguyễn Phú Trọng nếu có ở lại, cũng có thể sẽ không ở lâu mà chỉ một thời gian ngắn. Do đó ông cho rằng dư luận có thể đã nói sai, khi nói về việc nếu ông Trọng muốn ở lại thì Bộ Chính trị phải sửa Điều lệ Đảng. Ông giải thích:

    “Họ nói ông ấy làm 2 khóa rồi thì không thể ở lại theo điều lệ Đảng, điều này đúng... Thế nhưng ông Trọng có làm hết khóa 13 đâu mà phải sửa điều lệ. Vì Đại hội 13 này chắc chắn người ta không sửa điều lệ, người ta sẽ nói nếu cần ông Trọng ở lại thì không cần ở hết nhiệm kỳ, chẳng hạn 1 năm rồi bàn giao, thì không phải sửa điều lệ nhưng vẫn có thể để ổng ở lại. Bởi vì có thể họ chưa tin tưởng người mới nên để ông Trọng ở lại một thời gian rồi bàn giao chức Tổng Bí thư. Còn một khả năng nữa là ông Trọng không ở lại ngày nào nhưng vẫn giữ chức Bí thư Quân ủy Trung ương, thì không phải sửa điều lệ Đảng và cũng không phải sửa Luật Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đó là những phỏng đoán của tôi.”

    Hình minh hoạ: Các Uỷ viên Bộ Chính trị Đảng Cống sản VN đã quá mức tuổi giới hạn theo quy định. RFA Edited.

    Ngay từ nhiều tháng trước, rất nhiều thông tin được báo chí nhà nước Việt Nam loan tải mà dư luận cho rằng là đang ‘rào trước, đón sau’ việc ông Nguyễn Phú Trọng sẽ tiếp tục tại vị. Đơn cử như vào ngày 27/5/2020, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Hồng Diên, khi phát biểu tại Hội nghị thông báo kết quả hội nghị lần thứ 12 đã nói: “Một số đồng chí được xem là trường hợp quá tuổi, đã thể hiện rất xuất sắc trong công việc, đặc biệt là người đứng đầu, đồng chí Tổng bí thư, Chủ tịch nước. Có thể nói trường hợp đặc biệt này là hạnh phúc của Đảng, dân tộc.”

    Hay vào ngày 24/6/2020, tại buổi tiếp xúc cử tri của đoàn Đại biểu Hà Nội, bà Nguyễn Xuân Thắng - một cử tri từ quận Hoàn Kiếm – được truyền thông trong nước dẫn lời là “mong muốn ông Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng sẽ tiếp tục lãnh đạo đất nước thêm một nhiệm kỳ nữa”.

    Nhà báo Lê Trung Khoa, chủ bút trang Thoibao.de tại Đức, khi trả lời RFA liên quan việc này vào tháng 6 năm 2020 cho rằng:

    “Đây là sự giáo điều, rào trước của ông Nguyện Phú Trọng đối với các Ủy viên Trung ương khác. Có thể ổng vẫn ở lại làm thêm một nhiệm kỳ nữa... các bạn cũng đã biết, lòng tham của những người đứng đầu đảng cộng sản thì vô cùng lắm, nhất là về tham nhũng quyền lực, nó còn tệ hơn tham nhũng. Nó loại gần 100 triệu người dân ra khỏi việc điều hành đất nước, chỉ có một nhóm nhỏ trong đảng, họ nắm cái này, họ tham nhũng cái này. Điều này rất tệ hại vì sẽ dẫn đến đường lối không dân chủ, mất tự do và ngày càng trở nên độc tài.”

    Theo Nhà báo Lê Trung Khoa, ông Nguyễn Phú Trọng có thể cũng muốn ở lại, nhưng có được hay không còn do những phe cánh trong đảng cộng sản, liệu họ có cách nào để thay đổi những mong muốn của ông Trọng hay không thì phải đợi thêm một thời gian nữa.

    Cũng tại hội nghị tập huấn tuyên truyền Đại hội lần thứ XIII của Đảng cho các cơ quan báo chí, ông Nguyễn Đức Hà cho biết, về quy trình công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII, các cơ quan sẽ chuẩn bị nhân sự khóa mới với cơ cấu 3 độ tuổi để đảm bảo kế thừa. Cụ thể, nhân sự tham gia Trung ương lần đầu không quá 55 tuổi; nhân sự tham gia Bộ Chính trị, Ban Bí thư lần đầu không quá 60 tuổi; Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XII tái cử không quá 65 tuổi; ‘trường hợp đặt biệt’ là nhân sự trên 65 tuổi.

    Liên quan đến việc quy định độ tuổi này, Giáo sư Nguyễn Đình Cống, một đảng viên đã từ bỏ đảng khi trả lời RFA hôm 29/12 từ Hà Nội, giải thích:

    “Tại sao cái Đảng cộng sản này lại khắt khe về tuổi tác như vậy, trong lúc đó nhiều nước trên thế giới người ta rất thoải mái, như Mỹ chẳng hạn, lớn tuổi nhưng nhân dân vẫn tín nhiệm bầu như thường... Còn Việt Nam như thế là do có vấn đề lịch sử, vài chục năm trước đây các ông đi làm cách mạng, khi thành công thì tranh nhau chức quyền, trình độ không có nhưng cứ ngồi giữ chức đấy không chịu về hưu. Nhưng không đẩy ra được vì họ là chiến sĩ kỳ cựu có thành tích... nên người ta mới nghĩ ra mẹo dùng tuổi để khống chế, 60 tuổi bắt buộc phải về hưu, chỉ có trường hợp đặc biệt mới cho phép kéo dài thêm.”

    Giáo sư Nguyễn Đình Cống cho rằng đó là một điều không hay, vì tại sao phải dùng tuổi tác khống chế nhau mà không đưa ra năng lực? Ông nói tiếp:

    “Bây giờ họ lại dùng trò ưu tiên kéo dài tuổi cho một số nào đấy, đó chẳng qua là thủ đoạn đối với nhau thôi. Theo tôi, quan trọng là năng lực, người ta nếu giỏi thì dù tuổi trẻ thì cũng có thể dùng, còn tuổi già rồi mà sức khỏe vẫn tốt, vẫn được tín nhiệm bình bầu... thì vì sao không chấp nhận người ta. Ở đây có một vấn đề phản dân chủ rằng, Trung ương cũ phải quyết định danh sách Trung ương mới, Bộ chính trị mới. Vì giành quyền nên mới ngần ngại chỗ này chỗ kia, còn nếu dân chủ thoải mái thì cứ ứng cử trước Đại hội, có già mà khỏe được tín nhiệm thì được làm thôi.”

    Vì vậy Giáo sư Nguyễn Đình Cống cho rằng, việc kéo dài độ tuổi để xem xét tiếp tục giữ vị trí lãnh đạo, chỉ là một trò để bịp bợm và chẳng hay ho gì.

    PHƯƠNG ÁN NHÂN SỰ TỔNG BÍ THƯ, CHỦ TỊCH NƯỚC, THỦ TƯỚNG LÀ 'TUYỆT MẬT' 
    PHƯƠNG THẢO/ DÂN TRÍ 30-12-2020
    Dân trí

     Theo danh mục bí mật Nhà nước của Đảng, báo cáo, tờ trình, kết luận... của Trung ương Đảng về phương án nhân sự Ủy viên Bộ Chính trị giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt thuộc độ "Tuyệt mật".

    Danh mục bí mật Nhà nước của Đảng được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký ban hành tại Quyết định số 1722/QĐ-TTg đầu tháng 11 vừa qua. Quyết định 1722 có 3 điều khoản cơ bản, quy định danh mục bí mật nhà nước của Đảng theo các mức độ: "Tuyệt mật", "Tối mật", "Mật".

    Theo đó, Điều 1 của Quyết định quy định 6 loại thông tin bí mật độ "Tuyệt mật".

    Trước hết, đó là thông tin về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, gồm: Kết luận, tờ trình, báo cáo, thông báo, biên bản, công văn của Trung ương Đảng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương về kết quả kiểm tra, xác minh khi có dấu hiệu vi phạm, đề nghị thi hành kỷ luật đảng, giải quyết tố cáo đối với các Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa công khai.

    Phương án nhân sự Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng là Tuyệt mật - 1

    Nhấn để phóng to ảnh

    Thông tin về phương án nhân sự các Ủy viên Bộ Chính trị là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, Thường trực Ban Bí thư thuộc danh mục bí mật ở mức "Tuyệt mật" của Đảng.

    Tiếp theo là các thông tin về công tác xây dựng Đảng. Nội dung điều khoản này liệt kê hai loại thông tin. Loại thứ nhất là các quyết định, kết luận, tờ trình, kế hoạch, báo cáo, thông báo, công văn của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tiểu ban Bảo vệ Chính trị nội bộ Trung ương về kết quả kiểm tra, xác minh vấn đề chính trị của các Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa công khai.

    Loại thông tin thứ 2 là các báo cáo, tờ trình, thông báo, quyết định, kết luận, công văn của Trung ương Đảng về quá trình chuẩn bị, đề án, phương án nhân sự Ủy viên Bộ Chính trị là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, Thường trực Ban Bí thư chưa công khai.

    Ngoài ra, Điều 1 của Quyết định 1722 cũng liệt kê danh mục thông tin về công tác đối ngoại đảng, đối ngoại nhân dân, thông tin về kinh tế - xã hội, thông tin về công tác dân vận, thông tin về quốc phòng - an ninh cũng thuộc danh mục bí mật nhà nước độ "Tuyệt mật".

    Căn cứ quy định này, các quyết định, kết luận, báo cáo, kế hoạch, đề án, phương án, tờ trình, công văn của Trung ương Đảng về chiến lược đối ngoại liên quan đến an ninh quốc gia, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; quan hệ đối ngoại của Đảng ta với các đảng, các nước lớn, các nước láng giềng về vấn đề biên giới lãnh thổ, chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên đất liền, vùng trời, vùng biển, hải đảo, thềm lục địa của nước ta; Đề án chính trị, báo cáo kết quả hội đàm của Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Thường trực Ban Bí thư đi thăm, làm việc với các đảng, các nước và đón các đoàn cấp cao các đảng, các nước vào thăm, làm việc tại Việt Nam có nội dung về quan hệ chính trị đặc biệt với nước ta; Báo cáo, đề án, tờ trình của Ban Đối ngoại Trung ương kiến nghị Trung ương Đảng các chủ trương, chính sách của Đảng về vấn đề đối ngoại và quan hệ của Đảng ta với các đảng, các nước lớn, các nước láng giềng có nội dung liên quan đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và biên giới nước ta; Chỉ thị, nghị quyết, quyết định, thông báo, kết luận, biên bản, công văn của Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương, ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư về xử lý các tình huống chiến tranh, phòng thủ đất nước, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; Chỉ thị, nghị quyết, quyết định, thông báo, kết luận của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương về hoạt động, phương hướng hoạt động của lực lượng tình báo, kỹ thuật nghiệp vụ trong bảo vệ an ninh quốc gia; xác định các đối tượng, phương án, đối sách đấu tranh, quy trình xử lý tình huống nghiệp vụ đối với các đối tượng, thế lực thù địch… phải tuân thủ quy định quản lý thông tin "Tuyệt mật".

    Bên cạnh đó, các loại văn bản để trình xin ý kiến Trung ương Đảng về về kinh phí đặc biệt dành cho quốc phòng, an ninh; chủ trương thu, đổi tiền, phát hành tiền chưa công khai; các văn bản của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về vấn đề dân tộc, lĩnh vực công tác dân tộc liên quan đến lợi ích quốc gia, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia; chủ trương chỉ đạo, biện pháp xử lý đối với các vấn đề phức tạp về tôn giáo cấp nhà nước chưa công khai cũng thuộc diện "Tuyệt mật".

    Phương án nhân sự Trung ương khóa mới thuộc độ "Tối mật"

    Các thông tin bí mật nhà nước độ "Tối mật", tương ứng, cũng được xác định trong từng lĩnh vực như thông tin về lãnh đạo, chỉ đạo, thông tin về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, thông tin về công tác tổ chức xây dựng Đảng, thông tin về công tác đối ngoại, công tác nội chính, về quốc phòng an ninh…

    Theo danh mục được liệt kê ở điều khoản quy định này (Điều 2), phương án nhân sự Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và các bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy cấp tỉnh quản lý chuẩn bị cho nhiệm kỳ khóa mới chưa công khai thuộc diện thông tin "Tối mật".

    Tại Điều 3 của Quyết định 1722, quy định danh mục Bí mật nhà nước độ "Mật", phần về công tác nhân sự, xây dựng Đảng liệt kê những thông tin như: phương án nhân sự, thẩm định, quy hoạch, luân chuyển, điều động, bổ nhiệm, phân công, giới thiệu ứng cử, từ chức, miễn nhiệm, kỷ luật đối với cán bộ thuộc diện Ban Bí thư, ban thường vụ cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện quản lý chưa công khai; văn bản của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cơ quan đảng, đảng ủy trực thuộc trung ương về quá trình phong thăng quân hàm đối với cán bộ diện trung ương quản lý trong quân đội, công an chưa công khai; các văn bản của Trung ương Đảng, cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện về chủ trương thành lập, giải thể, sáp nhập, nhập chia, điều chỉnh, phân định địa giới hành chính khu vực biên giới, biển đảo và khu vực có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh chưa công khai…

    Phương Thảo

    TỪ HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 15 TỚI ĐẠI HỘI XIII, SẼ CÓ KẺ 'CHẾT TRÊN CHẤM PHẠT ĐỀN'
    LÊ VĂN ĐOÀNH/ TD 26-12-2020

    Hội nghị Trung ương 14 khép lại hôm 18/12/2020 mà không đạt kết quả. Xem như “bán kết 1” bất phân thắng bại. Nhân sự mà Bộ Chính trị trình, đã bị BCH Trung ương yêu cầu soạn lại, tiếp thu, bổ sung và sửa đổi vì chưa phù hợp. Chỉ có 19 vị tai to mặt bự sẽ lọt vào “ngôi vua tập thể”, trong khi có đến 61 tỉnh thành đều muốn có đại diện của mình, cho nên không gay cấn mới là lạ.

    Những gì Tổng – Chủ Nguyễn Phú Trọng phán ra, hệ thống tuyên truyền khổng lồ của Đảng ra rả, nhưng thực tế nó đi ngược. Yêu cầu không dính tham nhũng thì nó ăn hết, không chừa thứ gì. Cấm chạy chức chạy quyền, nó công khai bán ghế. Đưa ra tiêu chuẩn đạo đức lối sống trong sáng, nó lại xây lâu đài, biệt phủ, vợ lẽ, bồ nhí… đủ cả. Bảo không được tham vọng quyền lực, nó lại chia phe đánh nhau một mất một còn.

    Suốt cả năm, vua quanh quẩn trong cung. Bên ngoài, quan lại cường hào ác bá lộng hành, trăm họ ai oán, chỉ có trời biết.

    Hội nghị 14 bế mạc với những khuôn mặt nặng nề… Nguồn: VOV

    Mạng xã hội lan truyền danh sách Bộ Chính trị trình, không có tênn Vũ Đức Đam, nhưng có Đào Ngọc Dung. Thế là hội nghị 14 nhiều người không đồng tình. Dân chúng thấy tiếc, nhưng Đam “không có võ” thì làm sao đấu nổi với Dung. Sau “bức màn đỏ” có thể nhìn thấy rõ thân thế của Dung:

    Bố Dung là ông Đào Trọng Hằng, cố Phó bí thư huyện uỷ Lý Nhân, Hà Nam. Anh cả, Đào Trọng Hùng, thiếu tướng, cựu Cục trưởng an ninh BCA. Anh kế, Đào Trọng Dũng cựu đại tá quân đội. Em trai, Đào Ngọc Dinh, thiếu tướng BCA, từng là tham tán đại sứ quán VN tại Canada, thư ký riêng của bí thư Nguyễn Thiện Nhân (đến tháng 9/2020). Em gái út, Đào Thanh Quyên, vụ phó Ban Tuyên giáo Trung ương. Chồng Quyên là Trần Doãn Tiến, Tổng biên tập báo điện tử Đảng Cộng sản, một đồ đệ của ông Trọng.

    Hội nghị 14 bế tắc, gần bốn ngày quần thảo, trận “bán kết 1” vẫn không chốt được danh sách ứng viên Bộ Chính trị và Ban bí thư. Cho nên khoảng một tuần nữa, Hội nghị Trung ương 15 khai mạc. Sẽ có ba ngày để các bên so găng “bán kết 2”.

    Tại Hội nghị 15 này, Ban Chấp hành Trung ương cũng phải giải quyết dứt nội dung “nhân sự đặt biệt”. Các Uỷ viên Trung ương phải bỏ phiếu kín để gạt ai ra và giữ ai.

    Thông tin đồn đoán lan truyền nội bộ, ba nhân vật có khả năng rất cao được giữ lại trong Bộ Chính trị khoá XIII, có cả yếu tố vùng miền, gồm: Nguyễn Xuân Phúc, Trần Quốc Vượng và Trương Hoà Bình. Nếu đúng như vậy, thì danh sách đề cử mới nhất, 22 ứng viên Bộ Chính trị chọn 19 dưới đây, cái gọi là “chết trên chấm phạt đền” sẽ là có thật:

    1.- Trần Quốc Vượng, sinh năm 1954, quê Thái Bình: UVBCT, Thường trực Ban bí thư; ứng cử chức Tổng Bí thư

    2.- Nguyễn Xuân Phúc, sinh năm 1954, quê Quảng Nam: UVBCT, Thủ tướng chính phủ; ứng cử chức Chủ tịch nước

    3.- Trương Hoà Bình, sinh năm 1955, quê Long An: UVBCT, Phó thủ tướng thường trực CP; ứng cử chức Thủ tướng Chính phủ

    4.- Tô Lâm, sinh năm 1957, quê Hưng Yên: UVBCT, Đại tướng, Bộ trưởng BCA; ứng cử ghế Thường trực Ban bí thư

    5.- Vương Đình Huệ, sinh năm 1957, quê Nghệ An: UVBCT, Bí thư Hà Nội; tái cử Bí thư Hà Nội

    6.- Phạm Minh Chính, sinh năm 1958, quê Thanh Hoá: UVBCT, Trưởng BTC Trung ương; ứng cử Trưởng Ban Nội chính Trung ương

    7.- Phạm Bình Minh, sinh năm 1959, quê Nam Định: UVBCT, Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; ứng cử ghế Chủ tịch quốc hội

    8.- Võ Văn Thưởng, sinh năm 1970, quê Vĩnh Long: UVBCT, Trưởng ban Tuyên giáo; tái cử Trưởng ban Tuyên giáo

    9.- Trương Thị Mai, sinh năm 1958, quê Quảng Bình: UVBCT, Trưởng ban Dân vận; tái cử Trưởng ban dân vận

    10.- Nguyễn Hòa Bình, sinh năm 1958, quê Quảng Ngãi: Bí thư Trung ương, Chánh án Tòa án Tối cao; ứng cử Phó Thủ tướng Chính phủ

    11.- Trần Cẩm Tú, sinh năm 1961, quê Hà Tĩnh: Bí thư trung ương, Chủ nhiệm UBKT; tái cử Chủ nhiệm UBKT Trung ương

    12.- Lương Cường, sinh năm 1957, quê Bắc Giang: Bí thư trung ương, Thượng tướng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị BQP; ứng cử Bộ trưởng Bộ quốc phòng

    13.- Phan Đình Trạc, sinh năm 1958, quê Nghệ An: Bí thư Trung ương, Trưởng ban Nội Chính Trung ương; ứng cử Bộ trưởng BCA

    14.- Nguyễn Văn Nên, sinh năm 1957, quê Tây Ninh: Bí thư trung ương, Bí thư thành uỷ TP HCM; tái cử Bí thư thành uỷ TP HCM

    15.- Trần Thanh Mẫn, sinh năm 1962, quê Hậu Giang: Bí thư trung ương, Chủ tịch MTTQ VN; tái cử Chủ tịch MTTQ VN

    16.- Dương Thanh Bình, sinh năm 1961, quê Cà Mau: UVTW, Trưởng ban dân nguyện Quốc hội; ứng cử Phó Chủ tịch quốc hội

    17.- Đào Ngọc Dung, sinh năm 1962, quê Hà Nam: Uỷ viên Trung ương, Bộ trưởng Bộ LĐ-TB-XH; ứng cử Trưởng Ban dân vận Trung ương

    18.- Trần Tuấn Anh, sinh năm 1964, quê Quảng Ngãi: UVTW, Bộ trưởng Bộ Công thương; ứng cử Phó Thủ tướng chính phủ

    19.- Bùi Thanh Sơn, sinh năm 1962, quê Hà Nội: UVTW, Thứ trưởng thường trực Bộ ngoại giao; ứng cử Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ ngoại giao

    20.- Bùi Minh Hoài, sinh năm 1965, quê Hà Nam: UVTW, Phó Chủ nhiệm thường trực UBKT trung ương; ứng cử Trưởng Ban nội chính Trung ương

    21.- Đinh Tiến Dũng, sinh năm 1961, quê Ninh Bình: UVTW, Bộ trưởng Bộ tài chính; ứng cử Trưởng Ban kinh tế Trung ương

    21.- Dương Thanh Bình, sinh năm 1961, quê Cà Mau: UVTW, Phó BTC trung ương; ứng cử Trưởng ban Tổ chức Trung ương

    22.- Nguyễn Quang Dương, sinh năm 1962, quê Hà Nội: UVTW, Phó Trưởng BTC Trung ương; ứng cử Trưởng Ban tổ chức Trung ương

    Ai sẽ vào tứ trụ?

    Danh sách 6 ứng viên Ban Bí thư (không phải ủy viên BCT), chọn 4:

    1.- Nguyễn Xuân Thắng, Bí thư trung ương, GĐ học viện chính trị quốc gia; tái cử GĐ Học viện

    2.- Nguyễn Trọng Nghĩa, sinh năm 1962, quê Tiền Giang: UVTW, Thượng tướng, Phó chủ nhiệm TCCT; ứng cử Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phòng

    3.- Lê Minh Hưng, sinh năm 1970, quê Hà Tĩnh: UVTW, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng; tái cử Chánh văn phòng Trung ương Đảng

    4.- Lê Hồng Quang, sinh năm 1968, quê Kiên Giang: UVTW, Phó Chánh án Toà án Tối cao; ứng cử Chánh án Toà án Tối cao

    5.- Nguyễn Hồng Lĩnh, sinh năm 1964, quê Long An: UVTW, Phó Ban dân vận Trung ương

    6.- Nguyễn Hồng Diên, sinh năm 1965, quê Thái Bình: UVTW, Phó Ban tuyên giáo Trung ương

    ***

    Tháng 8/2011, kỳ họp khai mạc Quốc hội khóa 13, tân TBT Nguyễn Phú Trọng lẫy Kiều “Chén vui nhớ bữa hôm nay/ Chén mừng xin hẹn ngày này… 5 năm sau”. Lúc đó ông Trọng nói với người kế nhiệm, rằng tân Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng có một “đội hình đẹp”. Có hai nữ cấp phó “bà thì bề thế, bà thì xinh đẹp”, ám chỉ bà Phóng và bà Ngân.

    Đúng “5 năm sau”, tháng 3/2016, Nguyễn Sinh Hùng lại chỉ định Nguyễn Thị Kim Ngân kế nhiệm mình vào ghế Chủ tịch Quốc hội.

    Nguyễn Thị Kim Ngân tuyên thệ (ảnh trên) và Nguyễn Sinh Hùng 
    tặng hoa chúc mừng bà Ngân (ảnh dưới)

    Năm ấy, thiên hạ xôn xao khi giật mình liên tưởng tứ trụ triều đình Trọng- Quang- Ngân- Phúc ứng với lời sấm 500 năm trước của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585)

    炳 燭無明光盡滅

    重 銀薄福産消亡

    (Bỉnh chúc vô minh, quang tự diệt

    Trọng ngân bạc phúc, sản tất vong)

    Đúng sai, linh ứng thế nào chưa rõ, nhưng từ khi xuất hiện bóng hồng trong “tứ trụ” khoá XII, thì hoạ liên tiếp xảy ra. Bộ Chính trị kẻ đột tử, người ung thư đến hoá điên, kẻ ngồi tù án chồng án, người “đứng trước giá treo cổ”…

    Có lẽ vì vậy, nên Tổng – Chủ Nguyễn Phú Trọng cả kinh. Sợ nhà nước cộng sản bị tiêu vong, khoá XIII này, ngại dớp, ông Trọng không đồng ý cơ cấu nữ vào “tứ trụ”.

    Nhưng cho dù không đưa một phụ nữ nào vào tứ trụ, nhưng khó có thể tránh được chữ “vong”. Hư hỏng ăn tàn phá hoại từ trung ương đến địa phương thì núi cũng đổ. Tướng lĩnh bất tài, chỉ tham nhũng mà không giỏi bảo vệ biên cương, liệu xã tắc có thái bình?

    Cho nên việc có phụ nữ hay không trong “tứ trụ”, bốn chức danh quyền lực nhất của nhà nước cộng sản, cũng không ăn nhập gì khi thể chế đang trên đà suy vong.

    TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN, CƠ CẤU QUYỀN LỰC THẬT SỰ, QUÝ TỘC HAY DÂN DÃ ?

    JACKHAMMER NGUYỄN/ TD 28-12-2020

    Ngày 26/12/2020, Lê Văn Đoành, cây bút chuyên về bình luận chính trị nội bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) trên báo Tiếng Dân, cho biết, có một danh sách mới các ứng cử viên cho Bộ Chính trị ĐCSVN tới đây gồm 22 người, sẽ chọn ra 19 người.

    Danh sách này khác biệt ba người so với danh sách trước đây được tác giả Phạm Vũ Hiệp đưa ra trước khi Hội nghị trung ương 14 kết thúc. Ba người khác biệt đó là ông Vũ Đức Đam, đương kim phó thủ tướng, được thay bằng ông Đào Ngọc Dung, hai người khác là ông Nguyễn Xuân Thắng và bà Lê Thị Nga không còn nằm trong danh sách.

    Ông Nguyễn Xuân Thắng được đưa xuống danh sách ứng cử vào Ban Bí thư, còn bà Lê Thị Nga biến mất. Ông Đam cũng biến mất.

    Cả hai ông bà Thắng và Nga đều là dân khu tư cũ, tức là vùng đất từ Thừa Thiên ra Nghệ An. Có thể đây là một sự điều chỉnh để cân đối vùng miền hay chăng?

    Đặc biệt, trong hai danh sách đều không thấy tên bà Nguyễn Thị Kim Ngân, một người miền Nam, một gương mặt sáng giá mà trước hội nghị trung ương 14, có lời đồn rằng sẽ ở lại Bộ Chính trị, tiếp tục chia sẻ quyền lực tứ trụ (tổng bí thư, thủ tướng, chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội).

    Cũng không thấy tên ông Nguyễn Phú Trọng, mà thay vào đó người ta thấy ông Trần Quốc Vượng, nhân vật thân cận với ông Trọng luôn đứng đầu danh sách.

    Có khả năng là danh sách này sẽ tiếp tục được tranh cãi trong hội nghị trung ương 15, hội nghị cuối của khóa 12, sắp diễn ra và sẽ còn có sự thay đổi trong Đại hội XIII.

    Quốc hội De facto

    Sự thay đổi liên tục như vậy chứng tỏ quyền lực của Ủy ban Trung ương đảng (TW) đã tăng lên khá nhiều. Việc TW tăng quyền lực đã có từ khá lâu. Vào năm 2016, với sự khéo léo chuyển dịch nhân sự ở TW mà ông Nguyễn Phú Trọng đã thành công cho ông Nguyễn Tấn Dũng về vườn làm người “tử tế”.

    Có thể nói rằng TW chính là một loại quốc hội de facto của nước Việt Nam cộng sản hiện nay. Hiện cấu trúc này có gần 200 người, kể cả những người dự khuyết, bao gồm người từ tất cả các tỉnh thành và các bộ quan trọng của chính phủ. Nói không ngoa, TW chính là cái lỏi của Quốc hội Việt Nam. Trung ương có quyền lực thật sự, còn Quốc hội chỉ làm chuyện thủ tục.

    Bộ phận TW này được chọn từ các đảng bộ ở tỉnh và thành phố. Khoảng 20 năm trở lại đây, các nhân vật khi được “cơ cấu” vào TW thường được luân chuyển giữa các tỉnh thành và các bộ của chính phủ.

    Thái tử đảng và đoàn phái

    Trong cơ cấu đi lên hàng dọc như vậy, có thể phân biệt được hai nhóm, nhóm thái tử đảng và nhóm đoàn phái. Các thái tử đảng là con cái các nhân vật lãnh đạo thế hệ đi trước, chẳng hạn như ông Trần Tuấn Anh là con ông Trần Đức Lương, từng làm chủ tịch nước, ông Nguyễn Xuân Anh, nay đã thất sủng, là con ông Nguyễn Văn Chi từng nắm chức vụ cao ở TW.

    Nhóm đoàn phái có thể kể đến các ông Đinh La Thăng, Tất Thành Cang (cả hai đang ngồi tù), ông Võ Văn Thưởng,… Các ông này đi lên từ đoàn thanh niên, tổ chức của ĐCSVN, khống chế tầng lớp thanh niên.

    Hai nhóm này có khi lại lẫn lộn vào nhau, khi các thái tử đảng được đưa vào cơ cấu của đoàn để đi lên.

    Có thể nói nhóm đoàn phái, trong chừng mực nào đó dân dã hơn nhóm thái tử đảng, rõ ràng là một tầng lớp quý tộc cộng sản.

    Có những nhân vật cũng vươn lên từ tầng lớp không phải là thái tử đảng, như ông Nguyễn Phú Trọng, hay Vũ Đức Đam hiện nay, nhưng việc này có vẻ ngày càng khó, khi bộ máy đã thiết lập thì cơ cấu thái tử đảng có lợi hơn rất nhiều, nhờ vây cánh và thân tộc.

    Nếu ta không thấy rõ thân tộc của những nhân vật nào đó theo kiểu Trần Tuấn Anh, Nguyễn Xuân Anh, Nguyễn Thanh Nghị (con trai cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng)… thì có thể họ thuộc một dòng tộc cán bộ địa phương nào đó. Trường hợp ông Vũ Đức Đam có thể bị loại, chứng minh cho việc không vây cánh, thân tộc là rất khó khăn để theo con đường hoạn lộ của đảng.

    Trở lại với danh sách các ứng viên Bộ Chính trị mà tác giả Lê Văn Đoành đưa ra, thông thường, các nhân vật thành viên Bộ Chính trị khóa trước, nếu được chọn ở lại trong danh sách được đưa ra để bầu cho khóa mới, được xem là đương nhiên đắc cử. Một trường hợp “chết vào phút cuối” là ông Nguyễn Tấn Dũng bất ngờ từ chức trong đại hội lần thứ 12, vì không tiên liệu được những nước cờ vây của đối thủ Nguyễn Phú Trọng. Theo phỏng đoán của Lê Văn Đoành, sẽ còn có những người tiếp tục “chết trên chấm phạt đền”, tức là sẽ còn có tranh cãi ngã giá nữa vào hội nghị TW 15 tới đây.

    Theo thông tin từ ông David Brown, một nhà ngoại giao Mỹ từng làm việc ở Việt Nam, vào tháng 10/2020, ý định đưa ông Trần Quốc Vượng làm người kế tục chức tổng bí thư của ông Nguyễn Phú Trọng bị thất bại, vì số ủy viên TW ủng hộ ông Nguyễn Xuân Phúc nhiều hơn.

    Tất cả những đồn đoán đều có thể sai, nhưng chắc chắn một điều là, TW có quyền lực thật sự ngày càng mạnh, không có những nhân vật mạnh kiểu cá nhân như Lê Duẩn, Võ Văn Kiệt, hay thậm chí Nguyễn Tấn Dũng trước đây, Nguyễn Phú Trọng hiện nay nữa. Và bộ phận TW này nắm giữ, kiểm soát rất chặt toàn bộ xã hội Việt Nam từ thấp đến cao.

    Cơ chế đoàn phái của TW ĐCSVN trong chừng mực nào đó, có cho phép một số người đi lên từ tầng lớp bình dân, nhưng như đã phân tích trên kia, việc này ngày càng khó khăn hơn, TW đã, đang, và sẽ bị kiểm soát bởi các thái tử đảng.

    Sẽ rất thú vị nếu ta so sánh TW của ĐCSVN với hai viện của Quốc hội Anh hiện nay, Viện quý tộc (House of Lords) và Viện thứ dân (House of Commons), trong đó các vị quý tộc là do chỉ định hoặc thừa kế.

    Nhưng điều khác cơ bản là Viện thứ dân của người Anh là do dân chúng bầu lên, trong khi nhóm đoàn phái của ĐCSVN cũng được chọn lựa từ cơ cấu đảng. Viện quý tộc của Anh ngày càng bị hạn chế về quyền lực, trong khi nhóm thái tử đảng ĐCSVN ngày càng tung hoành.

    TRƯỜNG HỢP VŨ ĐỨC ĐAM: THẤT BẠI CỦA ẢNH HƯỞNG PHƯƠNG TÂY ĐỐI VỚI LÃNH ĐẠO VIỆT NAM

    JACKHAMMER NGUYỄN/ TD 30-12-2020

    Hàng nội được trọng hơn hàng ngoại

    Đương kim phó thủ tướng Vũ Đức Đam là một người được phương Tây tư bản chủ nghĩa đào tạo. Sau khi học hết trung học tại Việt Nam ông được sang Vương quốc Bỉ học kỹ sư. Nước Bỉ nằm ngay sát trung tâm tư bản chủ nghĩa và thị trường chứng khoán đầu tiên trên thế giới, Amsterdam.

    So sánh với các ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, ông Đam là người duy nhất được đào tạo như thế, dù ông không phải là UV Bộ Chính trị. Các ông khác, nếu có học ở nước ngoài thì học ở các nước cộng sản cũ, trước khi bức màn sắt sụp đổ, như các ông Nguyễn Phú Trọng (Liên Xô), Vương Đình Huệ (Slovakia), Phạm Minh Chính (Rumani), Nguyễn Thiện Nhân (CHDC Đức).

    Đa số các vị khác đều là sản phẩm nội hóa Made in Vietnam cộng sản cả. Một số vị có sang các quốc gia tư bản tham gia một số khóa huấn luyện nào đó, nhưng chủ yếu là dung dăng dung dẻ, vui là chính mà thôi.

    Theo tác giả Ranna Mitter, trong bài Thế giới mà Trung Quốc muốn, thì tại Hoa lục, sau vài chục năm mở cửa thông thương với phương Tây, đã có một số lượng đông đảo người được đào tạo từ phương Tây, nhưng ảnh hưởng của họ lại không có bao nhiêu so với tầng lớp cán bộ chính trị trưởng thành trong nước.

    Nhân vật được xem là bộ óc lý luận ý thức hệ của Trung Quốc hiện đại là Vương Hổ Ninh, một người tuy thành thạo tiếng Pháp, nhưng hoàn toàn là một sản phẩm nội địa.

    Giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay cũng không nằm ngoài mô hình Trung Quốc này. Tin hành lang trước đại hội đảng thứ 13 nói rằng, ông Vũ Đức Đam được đưa vào danh sách đề cử Bộ Chính trị, nhưng cuối cùng bị gạt ra.

    Trước đây có trường hợp ông Phan Thanh Bình, một người được đào tạo ở Pháp, chỉ mon men vào đến Ủy viên Trung ương đảng.

    Biệt lệ ngoại giao

    Có một biệt lệ để khẳng định quy luật trên, đó là trường hợp một số viên chức cao cấp của bộ ngoại giao, như đương kim bộ trưởng Phạm Bình Minh. Ông Minh là con trai của cựu bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, được đào tạo tại trường Luật Quốc tế và Ngoại giao Fletcher, trực thuộc Đại học Tufts của Hoa Kỳ. Ông Minh cũng là đương kim ủy viên Bộ Chính trị của đảng Cộng sản.

    Ông Nguyễn Quốc Cường, từng là đại sứ Việt Nam tại Mỹ, cũng học ở Fletcher, tạo nên nhóm Fletcher trong Bộ Ngoại giao Việt Nam.

    Thế nhưng Bộ Ngoại giao là bộ không có tiếng nói quan trọng trong chính trị Việt Nam. Đường lối đối ngoại đã được Đảng Cộng sản vạch ra, thậm chí công việc hàng ngày của các cán bộ ngoại giao ở nước ngoài cũng phải chịu lệ thuộc vào Ban Đối ngoại Trung ương của Đảng.

    Chừng nào phương Tây sẽ có người của chúng ta?

    Trong hệ thống cộng sản trước đây, gồm 13 quốc gia, có nhiều vị lãnh đạo Việt Nam được các nước cộng sản “anh em” đào tạo. Các vị cựu du học sinh này lên tới những chức vụ rất cao, chẳng hạn như ông Trần Đức Lương (học địa chất học tại Nga) làm chủ tịch nước. Còn những người giữ chức thấp hơn thì rất đông.

    Hệ thống cộng sản Liên Xô và Đông Âu sụp đổ trong ba năm 1989-1991, làm sụp đổ luôn cái lò đào tạo cán bộ lãnh đạo cộng sản Việt Nam, cũng như các kỹ sư, kỹ thuật viên. Phương Tây dần thay thế vị trí đào tạo người cho Việt Nam, nhưng đến ba mươi năm sau, ảnh hưởng của phương Tây vào giới lãnh đạo Việt Nam chỉ lên đến mức cao nhất là ông Vũ Đức Đam. Có thể gặp rất đông kỹ sư, nhân viên tài chính trong các công ty ở Việt Nam, nhưng cán bộ chính trị thì rất hiếm.

    Người ta cũng đã từng nghĩ rằng, tầng lớp con cái các viên chức cao cấp, trung cấp của Đảng sẽ được phương Tây đào tạo ngày càng đông, sẽ dần thay thế ý thức hệ xã hội chính trị ở Việt Nam. Nhưng điều đó đã không, hay là chưa xảy ra.

    Tất cả những người con của cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đều được đào tạo ở phương Tây, nhưng phe phái của họ đã thất bại trong tranh chấp quyền lực vừa qua. Trường hợp ông Nguyễn Xuân Anh ở Đà Nẵng cũng tương tự như vậy.

    Có vẻ như trong hệ thống được gọi là “dân chủ tập trung” của đảng Cộng sản, các cán bộ cần có nhiều vây cánh từ các đảng bộ địa phương để leo lên, vì thế các viên chức được đào tạo ở phương Tây hiện nay chỉ quanh quẩn ở các trung tâm đô thị lớn, không có được môi trường để tạo vây cánh như thế.

    Ông Vũ Đức Đam được xem là một cán bộ có năng lực khi ông điều hành tốt việc chống dịch Covid-19, và cũng không có điều tiếng gì về nhũng lạm, nhưng từ Bỉ về nước, ông được chọn ngay vào các vị trí trong bộ máy ở tầng trên, ở Hà Nội, không có thời gian tạo vây cánh từ bên dưới.

    Hơn 30 năm kể từ khi Cộng sản Việt Nam thật sự giao thương với phương Tây, hàng chục ngàn người Việt đã được phương Tây đào tạo và về nước. Ảnh hưởng quyền lực mềm của phương Tây lên xã hội trong nước cũng ngày càng mạnh, nhưng ảnh hưởng đó lên tầng lớp lãnh đạo lại rất chậm.

    Sau thất bại Vũ Đức Đam, liệu phương Tây có tiếp tục mở rộng được ảnh hưởng lên tầng lớp lãnh đạo Việt Nam?

    CHUYỆN MUỐN NÓI  VỚI 200 ỦY VIÊN TRUNG ƯƠNG TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI

    BÙI QUANG VƠM/ BVN 31-12-2020

    Phát biểu khai mạc hội nghị trung ương 13, ngày 5/10/2020, gọi là Hội nghị «Dự thảo báo cáo chính trị», ông Trọng nói:

    ... «Trước diễn biến phức tạp khó dự báo của năm 2020, cần cập nhật, phân tích, đánh giá lại tình hình, điều chỉnh bổ sung một số mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cho phù hợp hơn với thực tế….Dự báo tình hưống để định ra sách lược đối phó thích hợp.

    Ý của vị Tổng bí thư đảng là Trung ương nhận diện những thay đổi để có tư duy phù hợp. Bài viết có tâm nguyện trao đổi với 200 ủy viên trung ương theo tinh thần đó.

    1. Thế giới đã thay đổi

    - TQ đã bộc lộ bản chất, chiếc mặt nạ đạo đức giả đã bị gạt bỏ. Dã tâm bá chủ toàn cầu đã thất bại. Trung Quốc không đến gần thế giới khi vượt khỏi đói nghèo, Phát triển chỉ để TQ thực hiện khát vọng nung nấu ngàn năm. Chiến lược đánh chặn của các nước lớn, đứng đầu là Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Úc, Canada đã buộc TQ phải thay đổi chiến lược từ chiếm đoạt thị trường toàn cầu sang chiến lược Tuần hoàn kép, lấy tuần hoàn nội địa làm chủ yếu. Với khoảng 700 triệu người TQ có thu nhập dưới 2 đô la/ngày, chiến lược dựa vào tiêu thụ nội địa của Tập Cận Bình không hứa hẹn điều gì.

    - TQ không thể dẫn dắt thế giới kể cả khi chiếm vị trí số một kinh tế thế giới thay chân Mỹ, vì TQ không phải là quốc gia dân chủ, không có hệ thống chính trị đa đảng, hệ thống chính trị kết cấu trên nền một hệ thống giá trị đối kháng với hệ thống giá trị phổ quát của thế giới dân chủ toàn cầu. Đó là yếu tố tạo nên sự cô lập của TQ.

    - Thông qua các phát hiện của Mỹ, các chính sách chống thâm nhập của ĐCSTQ vào mọi lĩnh vực, từ kinh tế tài chính, khoa học công nghệ, an ninh quốc phòng, bí mật quân sự, ý thức hệ tư tưởng tới bộ máy quản trị hành chính, hệ thống đảng phái chính trị v.v... đang có xu hướng trở thành chính sách chung chống Cộng sản trên quy mô toàn cầu, bắt đầu từ các quốc gia lớn, như Mỹ, Anh, Pháp, Đức và liên minh châu Âu, Úc, New Zealand, Nhật Bản, Ấn Độ... đe dọa cô lập thế giới các quốc gia cộng sản.

    - Sự nhất quán trong các chính sách chống lại thủ đoạn bành trướng, chiếm đoạt Biển Đông một cách phi pháp của TQ, bao gồm Tứ giác Kim cương, gồm Mỹ Nhật, Úc và Ấn Độ, cùng các quốc gia lớn thuộc khối NATO, như Anh Pháp Đức, Canada, kể cả New Zealand... đang hình thành liên minh quốc tế công khai bao vây, ngăn chặn và cô lập TQ. Trong một cuộc phỏng vấn với tờ Times Now (Ấn Độ) hôm thứ Ba (27/10), Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo nói rõ, các xung đột toàn cầu hiện nay là biểu hiện của cuộc chiến giữa tự do và độc tài. Không chỉ Ấn Độ mà cả thế giới hiện đều đang ở tuyến đầu chống lại tham vọng của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Việt Nam là một trong số 5 quốc gia cộng sản, sớm hay muộn cũng trở thành đối tượng của cuộc chiến đó.

    - Toàn cầu hóa đã bộc lộ mâu thuẫn. Năng suất lao động đem lại thu nhập từ việc tự động và robot hóa chưa đủ để cân bằng thu nhập do việc làm mất đi. Xung đột nảy sinh từ mâu thuẫn giữa phương thức sản xuất truyền thống và phương thức mới làm phát sinh các khủng hoảng xã hội, và xung đột giữa các quốc gia. Xung đột giữa TQ với hầu hết các quốc gia lớn trên thế giới sẽ không dừng lại. Nông thôn của thế giới hình thành tại khu vực thứ hai của thế giới, TQ và Đông Nam Á, trở thành công xưởng, thay thế và chiếm đoạt việc làm của các quốc gia công nghiệp. Xung đột này sẽ ngày càng gay gắt dẫn đến các chính sách bảo hộ khắc nghiệt hơn, sẽ nhanh chóng không còn là «lộc trời» cho không với các nước sống nhờ vào gia công và xuất khẩu. VN cùng với các quốc gia thế giới thứ hai sẽ kết thúc vận may của mình trong khoảng 10 năm nữa, để hoặc nhường chỗ cho khu thu nhập thấp hơn là châu Phi, hoặc quay trở lại cuộc sống nghèo đói, nhằm duy trì giá lao động có tính cạnh tranh. Trong khoảng 10-15 năm nữa, nếu cách mạng robot hóa chưa đủ hoàn thành thì châu Phi sẽ thay thế châu Á làm công xưởng. Lao động đã dần biến mất tại các quốc gia công nghiệp, sẽ biến mất dần tại VN bắt đầu từ năm 2030-2035. Chỉ sống bằng gia công thuê và xuất khẩu hộ các doanh nghiệp nước ngoài, VN không tránh được sụp đổ.

    - Tính độc lập hay độ bền vững của nền kinh tế phụ thuộc năng lực làm chủ công nghệ. Làm chủ công nghệ với một quốc gia yếu kém như VN, phụ thuộc chủ yếu vào nhận chuyển giao từ nước ngoài. Chuyển giao công nghệ dựa căn bản trên sự tương đồng và gắn kết của hệ thống giá trị. Hệ thống giá trị phản ảnh thể chế chính trị. Nói tóm lại, muốn có chuyển giao công nghệ phải có đồng nhất về thể chế chính trị. Với một thể chế độc đảng cộng sản, thuộc khối 5 quốc gia cộng sản không có gì chung với thế giới, VN không thể trông đợi các cuộc chuyển giao công nghệ thực thụ và hiệu quả, chưa kể công nghệ cao cấp chỉ được chuyển giao giữa các quốc gia đồng minh, đặc biệt các công nghệ quốc phòng còn cần một hiệp định an ninh chung. Không có hoặc không làm chủ công nghệ, một quốc gia vĩnh viễn chỉ làm thuê, vĩnh viễn lạc hậu và phụ thuộc. Không có sự chia sẻ về hệ thống giá trị và tương đồng về thể chế chính trị, VN không có bạn, sẽ cô độc như TQ.

    - VN có ước vọng trở thành quốc gia giữ vai trò dẫn dắt ASEAN, nhưng VN cùng với Lào lạc lõng và ngô nghê trong tương tác với các cơ chế lập pháp và hành pháp theo thể chế dân chủ đa nguyên của 8 quốc gia còn lại. Không có cơ chế kiểm soát dân chủ trong quy trình ra quyết định, thì không thể là người hướng đạo.

    2- Không có chủ nghĩa Cộng sản

    - Ngược lại quan điểm của C.Marx, Cách mạng kỹ thuật lần thứ 4 đã chứng minh xã hội không có tính giai cấp. Xã hội không phân chia thành các giai cấp đối kháng. Lợi ích của người lao động gắn kết hữu cơ với chủ doanh nghiệp trong quan hệ sản xuất. Xã hội là một tổng thể thống nhất và cân bằng lợi ích. Không có doanh nghiệp, không có nhà đầu tư sẽ không có sản xuất, không có việc làm, không có tăng trưởng, không có tái phân phối phúc lợi. Lợi ích không cân bằng sẽ kìm hãm tăng trưởng, kìm hãm lợi ích tổng thể và của từng thành phần. Trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra, nhân tố tạo ra động lực thay đổi xã hội là chất xám, lao động trí tuệ. Mỗi cá nhân có khả năng lao động độc lập. Vai trò cá thể là hình thức chủ đạo trong lực lượng sản xuất. Giới trí thức, các tập đoàn công nghệ lớn, chủ thể của các sản phẩm trí tuệ sẽ là những lực lượng quyết định chính sách. Quan hệ sản xuất đã thay đổi về chất. Lực lượng sản xuất là trí óc. Chủ sở hữu của lực lượng sản xuất là tầng lớp trí thức. Hình thái Tri thức chủ nghĩa ra đời. Tuy vậy, bản chất của xã hội không thay đổi. Bất kể hình thái nào, động lực của phát triển, mục đích cuối cùng của phát triển vẫn là lợi nhuận. Từ nguyên thủy, loài người luôn bị thúc đẩy bởi cuộc truy tìm lợi nhuận hiểu theo nghĩa làm ít hưởng nhiều. Đó là bản chất của tiến hóa. Khi định nghĩa chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa lợi nhuận, thì chủ nghĩa tư bản tồn tại từ nguyên thủy và không bao giờ biến mất. Nhân loại chỉ có một hình thái duy nhất là chủ nghĩa lợi nhuận. Tuy nhiên, nhà nước trong giai đoạn kinh tế tri thức sẽ là nhà nước của liên minh các đại công nghệ, hoặc ít nhất là đại biểu của đại công nghệ. Cần cập nhật nhận thức này để có một tư duy phù hợp.

    Không có chủ nghĩa cộng sản, vì ở xã hội cộng sản không còn sản xuất hàng hóa, không còn lợi nhuận, không còn tăng trưởng. Xã hội loài người dừng tiến hóa. Thế giới ngừng chuyển động và loài người kết thúc. Điều này trái với nguyên lý «vô thủy vô chung» của vạn vật.

    Không có thời kỳ quá độ XHCN, vì từ cách mạng kỹ thuật lần thứ tư, trí tuệ là hạt nhân của động lực phát triển, Sản xuất không cần tới nhà xưởng và thiết bị, không cần tới lao động sức người, không thể quốc hữu hóa chất xám, một thứ tài sản vô hình. Vì vậy không thể bằng cách quốc hữu hóa để xóa bỏ các doanh nghiệp tư nhân. Giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, theo định nghĩa là nền công nghiệp phát triển cộng với sở hữu toàn dân là không thể thực hiện vào giữa thế kỷ. Tiến hóa của xã hội loài người là quá trình song song với sự hoàn thiện của cá thể con người. Vai trò cá nhân tăng dần và ngày càng trở nên quyết định trên trục tiến hóa, từ trông chờ may rủi thời nguyên thủy tới làm chủ và điều khiển tất cả. Tự do cá thể và sở hữu tư nhân là động lực của phát triển, là mục đích của tiến hóa. không một ý chí nhân tạo nào tiêu diệt được.

    2. Nguyên nhân tiềm ẩn nguy cơ phá hủy bền vững là khác biệt thể chế

    - Điều kiện để duy trì ổn định chính trị và ổn định xã hội là tăng trưởng kinh tế. Ổn định hay sự bền vững của tăng trưởng của nền kinh tế VN phụ thuộc vào xuất khẩu và đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Xuất khẩu và đầu tư từ nước ngoài (FDI) phụ thuộc vào sự gắn kết hữu cơ của nền kinh tế với kinh tế thế giới. Sự gắn kết hữu cơ phụ thuộc vào sự tương đồng, hòa hợp giữa luật pháp, các cơ chế chính sách quốc gia với luật pháp và các cơ chế chính sách của các quốc gia khác, cơ chế chính sách của VN do thể chế chính trị VN quyết định. Thể chế nào, cơ chế đó. Tổng bí thư Trọng từng nói: «Hiến pháp là thể chế hóa cương lĩnh đảng».

    Nguyên nhân các xung đột dẫn đến đổ vỡ của các hiệp định kinh tế, tiềm ẩn sự bất ổn của nền kinh tế, chính là sự khác biệt về chất giữa luật pháp VN và Luật pháp các nước. Sự khác biệt về chất của luật pháp bắt nguồn từ sự khác biệt thể chế chính trị. Triệt tiêu tận gốc các nguy cơ đổ vỡ của các hiệp định là triệt tiêu các khác biệt thể chế. Thể chế độc đảng cộng sản chỉ chia sẻ được với 5 quốc gia khác trên thế giới, là những quốc gia không có mặt trong các hiệp định thương mại với VN.

    - Trung tâm của mâu thuẫn thế giới hiện nay là sự lũng đoạn của nền kinh tế «giả thị trường» của TQ. Bản chất của cuộc khủng hoảng hiện nay là sự biến dạng các quy tắc thị trường, vô hiệu hóa cơ chế bàn tay vô hình của thị trường bằng sự luồn lách, bóp méo, lợi dụng các kẽ hở thị trường trục lợi thông qua các mánh lới chính trị. Nguyên nhân chính là sự lũng đoạn chính sách do cơ chế độc đảng. Chính sách là sản phẩm của ý chí không bị kiểm soát. TQ đang bị thế giới tẩy chay, bao vây và cô lập, có khả năng bị loại ra khỏi WTO.

    -Kinh tế VN có bản chất là sự sao chép khuôn mẫu TQ, biến thái từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với nền tảng là hệ thống các doanh nghiệp nhà nước được thống nhất quản lý một cách chính trị hóa thông qua hệ thống nhân sự bắt buộc phải là đảng viên, được chỉ định theo các tiêu chuẩn chính trị, các giải pháp kinh doanh bắt buộc phải tuân thủ các mệnh lệnh chính trị căn cứ trên các mục tiêu đề ra từ nghị quyết của đảng, sớm hay muộn cũng bộc lộ những xung đột với Thế giới.

    -Tất cả mọi FTA đều bao gồm các yêu cầu sự thống nhất về hệ thống giá trị phổ cập toàn cầu, sự đồng nhất của pháp luật với hệ thống pháp luật phổ quát quốc tế. Sự khác biệt thể chế của VN tạo ra những khác biệt với các tiêu chuẩn quốc tế là nguy cơ tiềm ẩn sự bất ổn của hiệp định, ảnh hưởng tới tính bền vững của nền kinh tế.

    -Chế độ cộng sản VN đang cùng với ĐCSTQ trở thành nguy cơ số 1 đối với an ninh toàn cầu, tác động tới chính sách đối ngoại và chính sách kinh tế của hầu hết các quốc gia phát triển. Danh nghĩa Cộng hòa XHCN cùng với chế độ độc đảng cộng sản của VN chứa đựng nguy cơ trở thành đối tượng của các cuộc chiến chính trị. VN được xếp vào hàng ngũ 5 quốc gia nguy cơ gây bất ổn thế giới, đứng đầu là TQ, Triều Tiên, Cu Ba, VN, Lào… Bất cứ cuộc khủng hoảng chính trị nào trên thế giới đều có thể tác động tới ổn định chính trị tại VN. Nguyên nhân là sự khác biệt thể chế với toàn bộ phần còn lại của thế giới.

    3- Đảng có chống tham nhũng không

    Cuộc chiến chống tham nhũng được phát động chính thức từ đại hội VII, năm 1991, nhưng sau 30 năm, tham nhũng vẫn là khối u nhức nhối. Không thiếu công sức trí tuệ của những bộ óc siêu việt. Không thiếu quyết tâm của toàn hệ thống, nhưng tham nhũng đeo đẳng, sống dai như một tế bào gắn kết hữu cơ với thể chế. Nó không thể bị tiêu diệt hoặc chỉ chết cùng một lúc với chế độ. Tại sao?

    Chỉ có những người có quyền mới tham nhũng. Chỉ có tài sản công, tài sản XHCN, tài sản thuộc nhà nước thống nhất quản lý mới là tài sản bị tham nhũng.

    Như vậy có hai việc phải làm. Một là kiểm soát quyền lực, hai là hủy hoặc giới hạn tối thiểu tài sản công.

    Quyền lực chỉ có thể được kiểm soát bằng quyền lực tương xứng «le pouvoir arrête le pouvoir» Montesquieu nói như vậy từ năm 1748. Nếu ba thứ quyền của bộ máy nhà nước là Lập pháp, Tư pháp và Hành pháp, chỉ là 3 bộ phận được phân công và chịu sự kiểm soát của đảng, thì có một quyền lực thứ tư là quyền lực Đảng, đứng trên ba quyền lực nhà nước, và không chịu sự kiểm soát của bất cứ quyền lực nào. Quyền lực không được kiểm soát là quyền lực tham nhũng. Nguyên nhân của tham nhũng có nguồn gốc từ cơ chế thoát ly kiểm soát của đảng.

    Tất cả mọi trường hợp tham nhũng đều gắn liền với tài sản công cộng, tài sản nằm trong các tập đoàn kinh tế nhà nước, các tổng công ty, các doanh nghiệp nhà nước, có tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Đó là sự lợi dụng quyền lực để chiếm dụng sở hữu đất đai, biến sở hữu nhà nước thành sở hữu cá nhân. Tài sản công hay tài sản XHCN thuộc sở hữu nhà nước, là thứ tài sản không có chủ sở hữu xác định. «Nhà nước là tất cả, nhưng chẳng là ai». Nguyên nhân biến các loại tài sản công thành mục tiêu tham nhũng chính là tài sản không có chủ sở hữu. Nếu tất cả đều có chủ thì không có tham nhũng. Mọi chuyện chuyển đổi sở hữu phải theo luật thị trường, thuận mua, vừa bán. Mọi chuyện cưỡng đoạt quyền sở hữu đều là tội phạm pháp luật.

    30 năm chống tham nhũng, nhưng đảng vẫn kiểm soát quyền lực bằng «sống và làm việc theo gương Hồ Chủ Tịch», «Kinh tế nhà nước là lực lượng chủ lực, ngày càng phát triển về quy mô và chất lượng», và «Đất đai vẫn thuộc nhà nước thống nhất quản lý».

    Như vậy, thực chất đảng có chống tham nhũng không?

    4- Đại hội để làm gì?

    5 năm một lần làm đại hội, mỗi lần đại hội đều «đổi mới», nhưng báo cáo chính trị là bản «cop» điện tử của các báo cáo trước, sửa từ ngữ, chọn chữ mới, thêm chữ mới vào bản có sẵn, người biên soạn chủ yếu thao tác «copier et coller» (chép và dán), nền tảng hầu như không thay đổi.

    Người viết báo cáo chủ yếu quan tâm để không một lĩnh vực nào không được nhắc đến, ngụ ý nói rằng đảng lãnh đạo toàn diện. Hầu như tất cả, chữ có thể nhiều hơn, nhưng nội dung chẳng có gì mới. Báo cáo mỗi kỳ, số trang lại nhiều lên, và đọc cũng mệt hơn. Sẽ chẳng có ai nghe. Không ai đủ sức để có thể nghe được một giọng đọc không cảm xúc, gây buồn ngủ suốt mấy tiếng. Không ai muốn nghe vì mọi thứ đều nhạt thếch những điều «...khổ lắm nói mãi». Trong khi đáng lẽ báo cáo phải xốc dậy mọi sức mạnh, tạo hứng khởi mọi cảm xúc, thì nó trở thành một cái trò hình thức nhất, buồn tẻ nhất và tra tấn nhất. Ai cũng biết, ngay cả người viết báo cáo cũng biết, nhưng không ai dám làm khác. Chỉ viết những điều cần thảo luận, chỉ nói những điều cần nghe, mà chưa từng được nghe. Ai có thể viết như vậy và ai chấp nhận?

    Dùng ông Phùng Hữu Phú, một ông già 73 tuổi, đã quá tuổi về hưu làm chủ biên, thì một là ông Trọng đã chủ trương không đổi mới, sợ đổi mới, hai là Hội đồng lý luận không còn người. Hay người trẻ không còn hiểu «nền tảng» nữa?

    Có một điều không mới nhưng được nhắc đến như trung tâm của cái mới trong đại hội lần này là các mục tiêu:

    - Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.

    - Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.

    - Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

    Việc đặt ra các mục tiêu cho tới năm 2045, ngụ ý đảng có tầm nhìn! Sáng suốt vào bậc «siêu» như Tổng bí thư Trọng mà «đến cuối thế kỷ này, không biết đã có CHXN hoàn thiện chưa», thì biết năng lực «nhìn» của đảng đến đâu.

    Theo một định nghĩa trước đây, thì giai đoạn quá độ hoàn thành khi có nền công nghiệp hiện đại và xã hội có cuộc sống sung túc, như vậy ứng vào năm 2030 như mục tiêu đề ra. Nhưng báo cáo lại không nói gì về việc, tới năm 2030, liệu kinh tế cá thể, tức các doanh nghiệp ngoài nhà nước có còn tồn tại không. Nếu Quá độ XHCN đã xong thì bắt đầu một giai đoạn mới, Giai đoạn phát triển chủ nghĩa cộng sản. Nhà nước Cộng hoà XHCN VN đổi tên thành VN Cộng sản chủ nghĩa? Và khi thời kỳ quá độ hoàn thành, chắc chắn nền tảng của chủ nghĩa cộng sản phải đã sẵn sàng, nghĩa là chỉ còn kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Không biết cuộc chiến tiêu diệt kinh tế tư nhân bắt đầu khi nào, và bị tiêu diệt dưới hình thức nào? Có quốc hữu hóa không, có tịch biên, hay trưng thu, trưng mua không? Có cần phải cho ông Đỗ Mười sống lại để làm «cải tạo tư bản tư doanh» không? Sau khi bị «tịch» hết tài sản, thì những thành phần này sống bằng gì? Sau năm 2030, nghĩa là sau «Quá độ», thì nền kinh tế thuộc loại gì? Trở lại kinh tế kế hoạch hóa tập trung, tự sản tự tiêu, không hàng hoá, không có xuất nhập khẩu? Nếu vậy, đến năm 2045, «trở thành nước phát triển, thu nhập cao» bằng cách nào? Trong ba cái mục tiêu đó chứa đựng hòn đá không tưởng, hai trăm cái đầu tinh hoa dân tộc thảo luận thế nào?

    Báo cáo đề ra mục tiêu, nhưng khi bàn tới phương pháp thực hiện lại không hề nhắc tới nguy cơ phá sản. Đó là sự thất bại của mô hình TQ, khi chế độ cộng sản trở thành trung tâm gây bất ổn định toàn cầu, khi WTO phải thay luật đẩy TQ ra khỏi thị trường chung thế giới, và mọi mũi dùi sẽ tập trung tấn công vào các quốc gia cộng sản. Mọi sự gian lận, giả dối, mọi sự lắt léo sẽ bị bóc trần, mọi thủ đoạn chính trị sẽ bị vô hiệu, thì nền kinh tế «giả thị trường» của VN sẽ tất yếu sụp đổ.

    Đại hội lần này vẫn chưa chịu từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, VN vẫn là 1 trong 5 quốc gia cộng sản còn lại trên mặt địa cầu, một trong 5 đối tượng đối diện với nguy cơ bị chuyển động của thế giới văn minh loại bỏ.

    Những cái đáng bàn, đáng xem xét, suy ngẫm, lại không có trong nội dung bản báo cáo, thì Đại hội để làm gì?!

    B.Q.V.

    Tác giả gửi BVN