Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2018

20181130. DỰ BÁO VỀ KÝ EVFTA

ĐIỂM BÁO MẠNG
VÌ SAO XÁC SUẤT KÝ EVFTA ĐỘT NGỘT TRỞ VỀ  MỐC ...50/100 ?

PHẠM CHÍ DŨNG / BVN 25-11-2018

Thân mẫu nhà hoạt Ä‘á»™ng Lê Ä Ã¬nh Lượng chạm vào hình con mình trên má»™t banner treo phía trÆ°á»›c nhà thá»  gần tòa án Vinh, 18 tháng 10, 2018. (Facebook Nguyen Xoan) 
Thân mẫu nhà hoạt động Lê Đình Lượng chạm vào hình con mình trên một banner treo phía trước nhà thờ gần tòa án Vinh, 18 tháng 10, 2018. (Facebook Nguyen Xoan)
Cho dù EVFTA có được Cộng đồng châu Âu cho phép ký kết, nhưng tại cuộc họp vào tháng Ba năm 2019, rất có thể Nghị viện châu Âu sẽ bỏ phiếu phản bác hiệp định này, đưa mối quan hệ giữa châu Âu và Việt Nam về thời… tiền sử.
Nhân quyền trước hết!
Kỳ vọng còn nước còn tát của ‘Tổng Chủ’ Nguyễn Phú Trọng và chuyến công du ba nước châu Âu của Thủ tướng Phúc vào tháng Mười năm 2018 để ‘quốc tế vận’ cho Việt Nam được ký kết và triển khai EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - châu Âu), cùng một chiến dịch truyền thông đồng loạt, ồn ào và tốn kém của hệ thống báo đảng về ‘EVFTA sẽ được ký kết’ và ‘Việt Nam thành công với EVFTA’, rất có thể sẽ trở nên công cốc bởi một nghị quyết về nhân quyền được Nghị viện châu Âu bất ngờ tung ra vào ngày 15/11/2018.
Gần một tháng sau khi chính thể độc đảng ở Việt Nam đã tưởng như chắc ăn khi Ủy ban châu Âu đồng thuận làm tờ trình cho Hội đồng châu Âu để xem xét việc ký kết EVFTA với Việt Nam, nghị quyết 2018/2925(RSP) của Nghị viện châu Âu đã đẩy kỳ vọng ‘EVFTA được ký kết’ từ xác suất cao hoặc rất cao về mốc 50/50.
Khác nhiều với quan điểm không mấy rõ ràng và dứt khoát của Ủy ban châu Âu, ngay phần đầu của nghị quyết 2018/2925(RSP) đã khẳng định: “Quan hệ giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam phải căn cứ trước hết trên nền tảng tôn trọng nhân quyền, dân chủ và pháp quyền; và trên cơ sở bảo đảm các tiêu chuẩn quốc tế về lĩnh vực này”.
Bản ‘cáo trạng’
Toàn bộ nội dung của bản nghị quyết 2018/2925(RSP) giống hệt một cáo trạng toàn diện và đang thép lên án chính thể độc đảng ở Việt Nam về rất nhiều hành vi vi phạm nhân quyền trầm trọng:
- Lên án ‘tình trạng vi phạm nhân quyền đang tiếp diễn’ trong đó có việc kết án, đe dọa, theo dõi, sách nhiễu, hành hung và xét xử không công bằng nhắm vào các nhà hoạt động chính trị, nhà báo, blogger, những người bất đồng chính kiến và bảo vệ nhân quyền.
- Lên án các đạo luật của Việt Nam ‘cản trở quyền con người và quyền tự do cơ bản’, trong đó là đạo luật như Bộ luật Hình sự, luật An ninh mạng và Luật Tín ngưỡng Tôn giáo.
- Nghị viện châu Âu kêu gọi đối với chính quyền Việt Nam phải phóng thích tất cả các tù nhân chính trị ‘ngay lập tức và vô điều kiện’. Trong danh sách được Nghị viện châu Âu yêu cầu trả tự do có các nhà hoạt động Hoàng Đức Bình, Nguyễn Nam Phong, Nguyễn Trung Trực và Lê Đình Lượng.
- Nghị quyết này cũng yêu cầu Việt Nam ‘hủy bỏ hoặc sửa đổi tất cả các điều luật mang tính đàn áp’ và ‘đảm bảo rằng mọi quy định pháp luật phải phù hợp với tiêu chuẩn và nghĩa vụ quốc tế về nhân quyền’. Nghị quyết còn kêu gọi Việt Nam xây dựng luật biểu tình.
- Đối với các nhà hoạt động nhân quyền, Nghị viện châu Âu yêu cầu Việt Nam chấm dứt mọi hành vi cản trở và sách nhiễu trong khi đối với những người đang bị giam giữ, cơ quan này yêu cầu phải đối xử với họ phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo họ không bị tra tấn và ngược đãi và được quyền tiếp xúc với luật sư…
Những đòi hỏi mới
Không chỉ có thế, nghị quyết 2018/2925(RSP) còn nêu ra những đòi hỏi mới so với những bản nghị quyết nhân quyền trước đây cũng của Nghị viện châu Âu:
- Kêu gọi Việt Nam đưa ra lời mời không thời hạn đối với các Quy trình Đặc biệt của Liên hiệp Quốc, cụ thể là Đặc sứ về Quyền Tự do Chính kiến và Tự do Biểu hiện, và Đặc sứ về Những Người Bảo vệ Nhân quyền;
- Kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam công nhận các công đoàn độc lập;
- Kêu gọi Cơ quan Đối ngoại EEAS và Ủy ban châu Âu hỗ trợ các nhóm xã hội dân sự và cá nhân đang bảo vệ nhân quyền ở Việt Nam một cách tích cực, bao gồm việc kêu gọi phóng thích các nhà bảo vệ nhân quyền và tù nhân lương tâm trong tất cả các lần liên hệ với nhà cầm quyền Việt Nam; kêu gọi Phái đoàn EU ở Hà Nội cung cấp mọi sự hỗ trợ thích đáng đối với những nhà bảo vệ nhân quyền đang bị cầm tù và tù nhân lương tâm, bao gồm việc sắp xếp các chuyến thăm ở trại giam, giám sát phiên tòa xét xử và cung cấp hỗ trợ pháp lý;
- Kêu gọi các quốc gia thành viên EU tăng cường nỗ lực gây sức ép để đạt được những cải thiện cụ thể về nhân quyền ở Việt Nam, bao gồm đợt đánh giá định kỳ toàn cầu UPR sắp tới của Việt Nam tại Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp Quốc;
- Nhắc lại lời kêu gọi ban hành trên toàn thể EU lệnh cấm xuất khẩu, bán, nâng cấp và bảo trì tất cả các dạng thiết bị an ninh có thể hoặc đã được sử dụng để đàn áp nội bộ, trong đó có cả kỹ thuật giám sát trên mạng, đối với các quốc gia có hồ sơ nhân quyền đáng lo ngại;
- Hoan nghênh mối quan hệ đối tác đang được củng cố và Đối thoại Nhân quyền giữa EU và Việt Nam, và nhắc lại tầm quan trọng của Đối thoại trong vai trò thiết chế mấu chốt có thể sử dụng một cách hữu hiệu để đồng hành và cổ vũ Việt Nam thực hiện các cải cách cần thiết; khuyến khích mạnh mẽ Ủy ban châu Âu giám sát các bước tiến bộ căn cứ trên Đối thoại bằng cách thiết lập các mốc đánh giá và cơ chế giám sát;
- Kêu gọi chính quyền Việt Nam và EU, với tư cách là các đối tác quan trọng của nhau, cam kết cải thiện sự tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do cơ bản ở Việt Nam, vì đó là một mấu chốt của quan hệ song phương giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu, đặc biệt là liên quan tới việc thông qua Hiệp định Thương mại Tự do EU – Việt Nam (EVFTA) và tới Hiệp định Đối tác và Hợp tác EU – Việt Nam (PCA);
2018/2925(RSP) mang hàm ý gì?
Theo lộ trình xem xét và phê chuẩn EVFTA, sau khi Ủy ban châu Âu làm tờ trình về hiệp định này cho cơ quan cấp trên là Cộng đồng châu Âu, Cộng đồng châu Âu sẽ xem xét và quyết định có cho phép Ủy ban châu Âu ký EVFTA với Việt Nam hay không vào tháng Mười Một hoặc tháng Mười Hai năm 2018.
Nếu EVFTA được Cộng đồng châu Âu cho phép ký kết, hồ sơ hiệp định này sẽ được trình cho Nghị viện châu Âu để tổ chức này quyết định có phê chuẩn hay không. Mốc thời điểm xem xét việc phê chuẩn là vào tháng Ba năm 2019, trước khi diễn ra cuộc bầu cử Nghị viện châu Âu mới hai tháng sau đó - tháng Năm năm 2019.
Từ trước khi hồ sơ EVFTA được Ủy ban châu Âu tổ chức điều trần tại Brussels vào tháng Mười năm 2018, đã xuất hiện nhiều cảnh báo từ giới quan chức châu Âu về việc nếu EVFTA không kịp được phê chuẩn trước khi Nghị viện châu Âu tổ chức bầu cử, sẽ không có gì chắc chắn là nghị viện mới của châu Âu - với nhiều gương mặt nghị sĩ mới và quan điểm cũng khác biệt - sẽ dễ dàng thông qua EVFTA. Thậm chí trong trường hợp ‘xấu nhất’, bản hiệp định này sẽ bị một nghị viện mới bộn bề công việc, trong đó bao gồm cả quan điểm chiếm số đông về không thể chấp nhận cho một nhà nước Việt Nam vi phạm nhân quyền trầm trọng được hưởng lợi từ thị trường chung châu Âu, gạt phắt sang một bên để số phận của EVFTA cũng hẩm hiu tương tự như Hiệp định TPP vào đầu năm 2017 khi bị Mỹ rút ra.
Không chỉ có chuyến công du ba nước châu Âu của Thủ tướng Phúc để ngầm vận động cho EVFTA, nghe nói còn có cả một chiến dịch của Việt Nam - với một khoản tiền lớn từ tiền đóng thuế của dân Việt - được tung ra nhằm thông qua các cơ quan ngoại giao và thương vụ của mình tại những quốc gia ‘có truyền thống xã hội chủ nghĩa anh em’ như Hungary, Romania, Ba Lan, Czech để tác động những nước này góp thêm tiếng nói ủng hộ EVFTA đối với Cộng đồng châu Âu và Nghị viện châu Âu. Khoảng thời gian vài tháng cuối năm 2018 được giới quan chức Việt Nam xem là ‘đẹp nhất’ để EVFTA được ký.
Song động thái tung ra bản nghị quyết nhân quyền của Nghị viện châu Âu vào ngày 15/11/2018 đã hàm ý như một thông điệp trực tiếp cho Cộng đồng châu Âu về quan điểm ‘nhân quyền trước hết’, trước khi cơ quan này họp để quyết định có cho phép Ủy ban châu Âu ký EVFTA với Việt Nam hay không.
Bản nghị quyết trên cũng chính thức xác lập quan điểm rất rõ ràng của Nghị viện châu Âu về EVFTA. Điều đó có nghĩa là cho dù EVFTA có được Cộng đồng châu Âu cho phép ký kết, nhưng tại cuộc họp vào tháng Ba năm 2019, rất có thể Nghị viện châu Âu sẽ bỏ phiếu phản bác hiệp định này, đưa mối quan hệ giữa châu Âu và Việt Nam về thời… tiền sử.
Vào lúc này đây, giới chóp bu Việt Nam đang đứng trước một ngã rẽ quyết định và sống còn cho sự tồn tại được ngày nào hay ngày đó của thể chế này: nếu không thực tâm cải thiện nhân quyền và cả cải cách chính trị, sẽ chẳng có bất kỳ tương lai nào cho EVFTA - cả về ký kết lẫn triển khai hưởng lợi sau ký kết.
P.C.D.
Tác giả gửi BVN

Thứ Năm, 29 tháng 11, 2018

20181129. NHÌN LẠI CÁC CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP

ĐIỂM BÁO MẠNG
NHÌN LẠI CÁC CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP

NGUYỄN NGỌC TRÂN/ ĐẤT VIỆT 26-11-2018

(Diễn đàn trí thức) - 250 năm, bốn cuộc cách mạng công nghiệp. Đâu là động lực, những đặc trưng nổi bật, những tác động lên sản xuất, giao thương, môi trường, xã hội?

Bài viết dưới đây nhìn lại các cuộc cách mạng công nghiệp đã và đang diễn ra để thử trả lời các câu hỏi trên.
Nhìn lại các cuộc cách mạng công nghiệp
Cho tới hiện nay nhân loại đã chứng kiến bốn cuộc cách mạng công nghiệp. Cuộc cách mạng lần thư tư được đề cập tại Diễn đàn kinh tế thế giới Davos năm 2016 với chủ đề “Làm chủ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” và kể từ đó được nói đến nhiều.
250 năm, bốn cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN). Bài viết này nhìn lại bốn cuộc cách mạng đó với ý định thấy được chúng đã diễn ra như thế nào và rút ra những gì cần thiết để chuẩn bị việc đáp ứng những yêu cầu, thời cơ và thách thức mà cuộc cách mạng lần thứ tư đặt ra.
Mỗi cuộc CMCN được nhìn lại từ các góc độ (1) động lực; (2) thời điểm khởi đầu [1]; (3) đặc trưng; các tác động lên (4) sản xuất, (5) giao thông vận tải, (6) thương mại và dịch vụ, (7) môi trường, (8) về mặt xã hội; và (9) quan hệ với giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Kết quả nhìn lại các cuộc CMCN được trình bày trong Bảng 1 mà cột là các cuộc CMCN từ lần thứ nhất đến lần thứ tư, và dòng là 9 đề mục nêu trên đây.
Các ô đọc theo cột liên quan đến một cuộc CMCN. Một ô tại một cột của một đề mục từ (4) đến (8) là tác động của cuộc CMCN tương ứng với cột lên đề mục đó. Có thể có nhiều tác động vì vậy các nội dung được ghi trong ô là những nội dung quan trọng nhất được tác giả chọn ra.
Khi đọc nội dung các ô cần nhớ hai điều: (a) cuộc CMCN tương ứng không phải là tác nhân duy nhất lên đề mục; (b) nội dung của các đề mục dọc theo một cột không độc lập với nhau mà có liên quan với nhau.
Đọc các ô theo dòng là theo dõi diễn tiến của một đề mục qua các cuộc CMCN theo thời gian. Khi đọc cũng cần nhớ hai điều (a) và (b) nói trên.
Bảng 1.
Nhin lai cac cuoc cach mang cong nghiep

Mặc dù trong mỗi ô chỉ ghi những ý chính, có rất nhiều điều để nói về các tác động của các cuộc CMCN. Dưới đây, chỉ bình luận một số tác động mà tác giả cho rằng cần được nhấn mạnh.Nhìn nhận và bình luận về một số tác động của các cuộc CMCN
(1) Cột CMCN lần thứ nhất cho thấy nền sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển đã tới hạn nếu chỉ dựa vào sức người, tính cả sức của nô lệ. Máy hơi nước, mà James Watt đã phát minh mở ra thời kỳ cơ giới hóa sản xuất, mạnh nhất ở hai ngành dệt và in, và giao thông vận tải đường sắt và đường thủy. Thương mại và dịch vụ phát triển mạnh là kết quả tất yếu. Sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chuyển dần sang nền sản xuẩt công nghiệp và thương mại. Tầng lớp những người tư sản công nghiệp và tầng lớp những lao động công nghiệp được hình thành. Nhờ công nghiệp in phát triển, nạn mù chữ bị xóa dần. Rõ ràng gọi cuộc cách mạng lần thứ nhất là CM công nghiệp là chính xác.
(2) Đọc cột kế tiếp, gọi cuộc cách mạng lần thứ hai là CM công nghiệpcũng chính xác. Khác lần thứ nhất là ở quy mô. Quy mô phát triển đến mức phải đi tìm thuộc địa để cung ứng nguồn nhân lực và nguyên liệu, phải tranh giành thị trường bằng chiến tranh, kể cả hai cuộc thế chiến (1914-1918) và (1939-1945). Giai cấp công nhân được tổ chức để đấu tranh chống bóc lột và bảo vệ quyền lợi của mình. Cách mạng Tháng 10 bùng nổ trong bối cảnh kinh tế, xã hội toàn cầu như vậy.
(3) Cuộc CMCN lần thứ ba khởi đầu nhằm vào tự động hóa quá trình sản xuất. Phát minh của Alan Turing về thuật toán cho bài toán quyết định (decidability), máy Turing, và số hóa (digitalisation) các thông tin, trên nền của đại số Boole, khiến cho các tác động vượt xa mục tiêu tự động hóa sản xuất ban đầu, và mở ra một lĩnh vực khoa học mới, Tin học, khoa học xử lý tự động thông tin [2].
Tầm tác động của cuộc CMCN lần thứ ba không còn giới hạn trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Khoảng cách không gian được rút ngắn với tiến bộ công nghệ trong giao thông vận tải và truyền thông. Internet ra đời vào những năm 1980 càng rút ngắn khoảng cách không gian và thời gian.
Giao thông vận tải và thương mại toàn cầu phát triển. Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ra đời để quy định về thương mại toàn cầu nhưng còn nhiều tranh cải. Các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và khu vực vẫn tồn tại.
Cuộc CMCN lần thứ ba xuất phát từ tin học và số hóa thông tin. Tầm tác động của nó vượt ra xa lĩnh vực công nghiệp. Vì vậy nó còn được gọi là cuộc cách mạng tin học hay cách mạng số với khởi điểm là sự ra đời của máy tính điện tử vào các năm 1947 – 1950.
(4) Cột kế tiếp cho thấy cuộc CMCN lần thứ ba ra đời được khoảng 40 năm thì cuộc CMCN lần thứ tư đã tới. Nhiều ý kiến cho rằng CMCN lần thứ tư bắt đầu vào cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI với sự ra đời của internet đám mâyinternet kết nối vạn vật và điện thoại thông minh.
Các ô trong Bảng 1, cột CMCN lần thứ tư cho thấy tầm tác động của cuộc CM lần này còn vượt xa hơn cả cuộc CMCN lần thứ ba, cả về đối tượng, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Sự khác biệt cơ bản nhất đó là đối tượng của cuộc CM lần thứ tư là các loại hình hệ thống rất đa dạng được điều khiển và đối thoại.
Chính vì lẽ này, nhiều ý kiến cho rằng cuộc CMCN lần thứ tư là cuộc CM điều khiển học (cybernetic). Từ này đã được Norbert Wiener sáng tác để đặt tên cho một lĩnh vực khoa học mới, cybernetics, “khảo cứu khoa học về điều khiển và giao tiếp trong động vật và máy” [3], [4].
(5) Các cuộc CMCN tiếp nối nhau với nhịp điệu ngày càng nhặt. Cuộc cách mạng lần thứ hai nối tiếp cuộc CMCN lần thứ nhất sau 110 năm [5], và được tiếp nối bởi cuộc CMCN lần thứ ba sau 70 năm. Cuộc CMCN lần thứ tư chỉ sau bốn thập kỷ đã tới, “gối đầu” lên cuộc CMCN lần thứ ba trong khi cuộc CM này vẫn đang tiếp diễn. Klaus Schwab cho rằng “Một cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang được xây dựng trên cuộc cách mạng lần thứ ba, nhưng không phải là sự nối dài của cuộc cách mạng lần thứ ba” [6].
(6) Không chỉ có nhặt hơn mà tính chất công nghiệp của các cuộc cách mạng ngày càng bị vượt quá và hầu như chỉ còn trong tên gọi. Với số hóa và khả năng xử lý thông tin, tác động của cuộc cách mạng lần thứ ba đã thâm nhập vào các lĩnh vực kinh tế, xã hội và nhân văn. Các công nghệ được tích hợp với nhau để giải quyết các bài toán của cuộc sống, của vật chất ở quy mô ngày càng vi mô và vĩ mô. Xu thế này càng được khẳng định và vượt quá khi mà đối tượng của cuộc cách mạng lần thứ tư là các hệ thống có thể điều khiển và đối thoại.
(7) Đọc đề mục “Thương mại và Dịch vụ” ta thấy rõ tác động của các cuộc CMCN. Sở hữu trí tuệ ngày càng trở thành hàng hóa được đặc biệt bảo vệ trong các quy định của WTO và trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) thê hệ mới. Thậm chí các “ý tưởng” cũng đã được đăng ký bảo hộ. Tài sản công (public goods), dịch vụ công (public services) ngày càng được tư hữu hóa.
(8) Về mặt xã hội, ở các nước phương Tây nhiều đảng phái chính trị truyền thống mất nhiều ảnh hưởng đối với cử tri và trên chính trường, khi không trả lời được bóc lột, công nhân, vô sản là gì ngày nay? K.Schwab còn tiên liệu CMCN lần thứ tư sẽ “thay đổi cách chúng ta sống, làm việc và quan hệ với nhau”.
(9) Về “Môi trường” qua các cuộc CMCN môi trường ngày càng xấu đi. Có phải là hậu quả của các cuộc CMCN, hay là hậu quả của việc chạy tìm lợi nhuận tối đa, sử dụng lãng phí tài nguyên, từ chối áp dụng tiến bộ KHvCN để giảm phát thải khí nhà kính, … Một nhà kinh tế học người Mỹ, Jeremy Rifkin, cho rằng cuộc CMCN lần thứ ba phải kết hợp tin học và các nguồn năng lượng tái tạo để giảm bớt sự tăng tốc của biến đổi khí hậu vì phát triển bền vững [7].
(10) Quan hệ giữa các cuộc CMCN với giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học là một nội dung vô cùng quan trọng. Xin được đề cập trong một bài viết tiếp theo.
Nhận xét và khuyến nghị
Những thay đổi từ CMCN lần thứ ba diễn ra ngày càng nhiều và càng dồn dập. Những đột phá của CMCN lần thứ tư và những vấn đề toàn cầu nảy sinh, được dự báo sẽ diễn ra còn nhanh, rộng và sâu hơn nữa.
Không chỉ có thách thức. Còn có thời cơ nếu biết nắm bắt. Khiêm tốn và không ngừng học hỏi, sẵn sàng tiếp thu và áp dụng cái mới sao cho có lợi nhất là thái độ cần có để đồng hành cùng với CMCN lần thứ tư.
Tốc độ và gia tốc của quá trình diễn ra các đột phá sẽ nhanh đến mức lực ly tâm sẽ gạt ra bên lề những quán tính, nếp tư duy lỗi thời và sự tự mãn về kiến thức.
Chú thích:
[1] được ước lệ là năm mà phát minh hay sự kiện nhận biết cuộc CMCN đã diễn ra. Khi nói một cuộc CMCN bắt đầu vào một thời điểm, đó là nhìn vĩ mô trên bình diện thế giới. Trên thực tế, các cuộc CMCN bắt đầu tại những địa bàn và thời điểm khác nhau, trên thế giới cũng như tại mỗi nước, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể ở mỗi nơi.
[2] Năm 1962, Viện Hàn Lâm khoa học Pháp công nhận từ Informatique với định nghĩa là khoa học về xử lý tự động thông tin. (Traitement automatique de l’Information). Trước đó chỉ có từ tiếng Anh computer science.
[3] Norbert Wiener, Cybernetics or Control and Communication in the Animal and the Machine, Librairie Hermann & Cie (Paris) (1948)
[4] Hiện nay có định nghĩa mở rộng là “một tiếp cận xuyên ngành nhằm khám phá các hệ thống điều tiết - các cấu trúc, các ràng buộc, và các khả năng của chúng”. https://en.wikipedia.org/wiki/Cybernetics.
[5] Nếu lấy năm 1880, năm phát minh ra điện năng.
[6] Klaus Schwab, 2016, The Fourth Industrial Revolution, World Economic Forum.
[7] Jeremy Rifkin, 2011, The Third Industrial Revolution, St Martin’s Press, New York
GS. TSKH Nguyễn Ngọc Trân, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy Ban Khoa học Kỹ thuật nhà nước, Đại biểu Quốc hội các khóa IX, X, XI, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy Ban Đối ngoại Quốc hội.

CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP VÀ GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO, NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

NGUYỄN NGỌC TRÂN/ ĐẤT VIỆT 27-11-2018

(Diễn đàn trí thức) - Việc đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực là nhiệm vụ hết sức quan trọng, là sống còn đối với mọi quốc gia trong thời đại CMCN lần thứ tư.

Nhìn lại các cuộc cách mạng công nghiệp cho thấy vai trò mở đường của giáo dục, đào tạo, và nghiên cứu khoa học đối với CMCN và ngược lại CMCN tạo điều kiện cho đổi mới công tác đào tạo, và mở ra những lĩnh vực mới cho giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Trong bối cảnh mới của CMCN lần thứ tư và hội nhập quốc tế, đào tạo con người có tinh thần làm chủ, năng động, có tư duy độc lập, và sáng tạo, và Nhà nước có chiến lược, chính sách để vun đắp nguồn nhân lực quốc gia là hai yêu cầu bức thiết để đất nước đi lên trong một thế giới nhiều đột phá.
Quan hệ giữa các cuộc cách mạng công nghiệp với GD, ĐT và NCKH

Cach mang cong nghiep va giao duc, dao tao, nghien cuu KH



Cach mang cong nghiep va giao duc, dao tao, nghien cuu KH

Bảng trên đây được trích ra từ Bảng 1 trong một bài viết trước [1]. Đọc bảng trên đây chúng ta sẽ thấy một mối quan hệ kép hết sức thú vị: vai trò mở đường của giáo dục, đào tạo, và nghiên cứu khoa học đối với cách mạng công nghiệp (CMCN) và ngược lại, CMCN tạo điều kiện cho đổi mới công tác đào tạo, và mở ra những lĩnh vực mới cho giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
1. Quan hệ kép giữa GD, ĐT và NCKH với CMCN
Chính sự tương tác này đã thúc đẩy hai đối tác GD, ĐT và NCKH và CMCN cùng tiến rất nhanh kể từ cuộc CMCN lần thứ ba.
Vào cuối thế kỷ XVII, Gottfried W. Leibniz (1646-1716), từ kết quả khảo sát với công cụ mà ông sáng tác, đã phát biểu:
Dấu hiệu là quan hệ: nó thiết lập một mối liên hệ giữa đối tượng và thế giới của thực nghiệm, thực hay ảo”, và “sự phổ cập hóa và đại chúng hóa tri thức cần đến các sơ đồ”.
Năm 1642, Blaise Pascal (1623-1662) tạo ra một hộp bánh răng cho phép ông đếm bằng số răng của một bánh xe, và đi xa hơn: khi mà bánh xe răng đã hoàn thành một vòng, nó giữ lại dấu vết và chuyển thông tin này đến bánh xe bên cạnh. Nói cách khác, B. Pascal là người đầu tiên đã vật chất hóa ký ức và truyền thông tin.
Có thể nói, Gottfried W. Leibniz và Blaise Pascal đã tạo ra những công cụ có tính khai phá của tư duy và cho xử lý thông tin thời bấy giờ.
Cach mang cong nghiep va giao duc, dao tao, nghien cuu KH
Thiết bị sáng tác của G.W.Leibniz
Cach mang cong nghiep va giao duc, dao tao, nghien cuu KH
Hộp bánh xe răng của B. Pascal



George Boole (1815-1864) đã phát triển lôgic nhị nguyên và năm 1854 ra đời đại số Boole, một nền tảng của tin học một thế kỷ về sau.
Công trình của Boole đã mở đường cho các nghiên cứu tiếp theo của Alan Turing. Năm 1936 Alan Turing (1912-1954) cho rằng có thể giải bài toán về tính có thể quyết định (decidability) bằng một thuật toán (algorithm) chỉ dựa trên hai giá trị 0 và 1, và chứng minh điều này bằng máy Turing. Một máy Turing gồm có một chương trình thuật toán, một bộ nhớ, một bộ điều khiển, và các bộ phận đọc và viết. Máy Turing như vậy là tiền thân của máy tính điện tử ra đời lần đầu tiên vào khoảng 1947 – 1950.
Các thành tựu của A. Turing, cùng với điện tử, vi điện tử và tự động hóa là những động lực để CMCN lần thứ ba ra đời mà các đặc trưng chính là số hóa thông tin, máy tính điện tử, vi điện tử và tốc độ xử lý thông tin ngày càng nhanh. Chúng mở ra một lĩnh vực nghiên cứu mới: truyền thông.

Cach mang cong nghiep va giao duc, dao tao, nghien cuu KH


Claude Shannon (1916-2001) và một cộng sự, W. Weaver, có nhiệm vụ lọc nhiễu trong điện thoại. Ông đã thiết lập sơ đồ Shannon. Năm 1948 ông đã xuất bản “A Mathematical Theory of Communication” (Một lý thuyết toán về truyền thông), một tài liệu cơ bản về lý thuyết và thực hành về truyền thông cho tới hiện nay.
Hầu như cùng lúc, năm 1942, Norbert Wiener (1894-1964) đã lập nên một sơ đồ tương tự với sơ đồ Shannon có thêm vòng phản hồi (feedback) khi được giao nhiệm vụ “theo dõi đối tượng trên quỹ đạo bay của nó”. Chính vòng phản hồi đã cho phép Wiener đã đặt nền móng cho ngành điều khiển học (cybernetics), mở ra khả năng điều khiển và kết nối Người – Máy, đã được đề cập trong bài báo đã dẫn.
Cach mang cong nghiep va giao duc, dao tao, nghien cuu KH


Điều khiển học và lý thuyết truyền thông là động lực chính dẫn đến CMCN lần thứ tư cùng với sự lan tỏa nhanh của số hóa thông tin, tiến bộ về độ phủ và tốc độ truyền số liệu.
Các đặc trưng chính của CMCN lần thứ tư là sự xóa mờ ranh giới giữa các khoa học, sự tích hợp (integration) hay hợp nhất (fusion) công nghệ, lưu trữ và xử lý “dữ liệu lớn” (big data) về các hệ thống điều tiết (regulatory systems).
Với những tri thức tích lũy được từ các cuộc CMCN trước, CMCN lần thứ tư chấp cánh cho toán học rời rạc (Discrete Mathematics), lý thuyết về mô phỏng số các hiện tượng vật lý ngày càng phức tạp, thực sự phát triển.
Tuy nhiên một thuật toán cho dù có tinh vi đến mấy, nhưng nếu số liệu đầu vào (input data) về điều kiện ban đầu, về điều kiện biên không chính xác, kết quả mô phỏng (output data) khó mà sát với thực tế và được chấp nhận.
Trong các bài toán từ thế giới tự nhiên chúng ta thiếu rất nhiều thông tin, mà nếu có cũng không thể “chính xác”. Những nghiên cứu trong lĩnh vực khí tượng thủy văn, về biến đổi khí hậu là những ví dụ.
Vì vậy từ đầu thập kỷ của thế kỷ XXI, nhiều nhà khoa học tìm cách xây dựng các thuật toán trong điều kiện thông tin như thế, kết hợp lý thuyết về sự phức tạp [2] với thống kê học, những thuật toán mà họ gọi là thuật toán trong thế giới thiên nhiên (ecorithm) [3], [4]. Một ngành học mới, một lĩnh vực nghiên cứu mới ra đời.
Cybernetics (điều khiển học) là một ví dụ CMCN lần thứ tư làm mờ ranh giới giữa các khoa học, hình thành những môn học “xuyên ngành”. Lĩnh vực đào tạo mới này, cơ bản và các “chân rết” trong toán học, tin học, trong các ngành kỹ thuật, trong sinh học, trong khoa quản lý, tâm lý học, xã hội học, luật học, trong kiến trúc, và trong hệ thống khoa học về trái đất [5].

Thứ Tư, 28 tháng 11, 2018

20181128. BÀN VỀ PHÒNG CHỐNG 'TỰ DIỄN BIẾN', 'TỰ CHUYỂN HÓA'

ĐIỂM BÁO MẠNG
'TỰ DIỄN BIẾN', 'TỰ CHUYỂN HÓA' VỀ TƯ TƯ TƯỞNG TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN: NHẬN DIỆN VÀ PHÒNG CHỐNG

PHÙNG NGỌC BẢO, PHẠM NGUYỄN NGỌC ANH / TCCS     22-11-2018

Hội nghị Trung ương 4 khóa XII chỉ rõ mối quan hệ giữa suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cũng như hậu quả của nó - Nguồn: vov.vn

Nhận diện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng
Có thể nói, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong nội bộ đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên là điều kiện, cơ hội cho chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (4-1994), Đảng ta xác định 4 nguy cơ đối với chế độ ta là: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, tốc độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch”(1) . Đánh giá về “nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa” và “nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu” về thực chất đã chỉ ra nguyên nhân có thể dẫn đến "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị. Nhận định của Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII về những nguy cơ đối với chế độ ta tiếp tục được các đại hội của Đảng, từ Đại hội lần thứ VIII đến Đại hội lần thứ XII khẳng định lại với tinh thần đánh giá những nguy cơ này chẳng những vẫn đang tồn tại mà có phần còn nghiêm trọng hơn.
Từ thực tiễn cuộc sống, chúng ta có thể hiểu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là quá trình tự thay đổi tư duy, nhận thức của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng tiêu cực, từ đúng thành sai, từ tin tưởng đến hoài nghi, phủ định tính khoa học, tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để chuyển sang sùng bái, tin theo các luận điểm tư sản, sai trái, phản động. 
Đâu là nguyên nhân?
Quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có thể khái quát qua một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, do những tác động trái chiều của quá trình toàn cầu hóa và kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường cùng với quá trình toàn cầu hóa là xu thế tất yếu, tác động đến mọi mặt về kinh tế - xã hội của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Đối với nước ta, quá trình này bên cạnh những tác động tích cực thì còn chứa đựng những tác động tiêu cực, là nguyên nhân dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, đó là việc truyền bá những giá trị dân chủ, nhân quyền, đạo đức, lối sống không phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể hiện nay của Việt Nam. Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự bùng nổ thông tin qua internet đã tác động trực tiếp đến nhận thức của mỗi người. Cùng với sự lan tỏa những điều tốt đẹp trong xã hội đến từ các quốc gia trên thế giới còn có sự xâm nhập những lối sống thiếu lành mạnh, phản tiến bộ, hoặc là công cụ của các thế lực thù địch. Và, những hoài nghi, dao động không được định hướng kịp thời được cộng hưởng bởi sự xuyên tạc của các thế lực thù địch thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình” đã tác động tiêu cực đến một bộ phận cán bộ, đảng viên có lập trường không vững vàng, tự nguyện rời bỏ lý tưởng của Đảng, công khai chỉ trích lý tưởng, con đường chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, do những thách thức của hoàn cảnh lịch sử, âm mưu “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong, ngoài nước. Sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu buổi đầu là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự suy giảm lòng tin của một số cán bộ, đảng viên đối với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Mặc dù sự sụp đổ này đã diễn ra gần ba thập kỷ, tuy nhiên trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên đã và hiện có những người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, tính khoa học của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ngày nay, các nước tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội còn lại sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu trong đó có nước ta đang đối mặt với những khó khăn thách thức mới, đó chính là sự phân hóa giàu nghèo, những cản trở từ chính quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đối mặt từ bên trong như: tham nhũng, lãng phí, các tệ nạn xã hội, lối sống bị tha hóa, những cám dỗ vật chất tầm thường, lợi ích nhóm... Vì vậy, các thế lực thù địch đã lợi dụng để xuyên tạc, hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế mà chúng ta đang dày công xây dựng trong tiến trình đổi mới đất nước.
Chiến lược “Diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch vẫn không ngừng thay đổi nội dung và phương thức hoạt động. Ngoài các chiêu bài cũ như: phổ biến tuyên truyền các giá trị “dân chủ”, nhân quyền, thể chế “tam quyền phân lập”, “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”… hiện chúng đang sử dụng các phương thức mới như: tán dương, ủng hộ và dựa vào các đối tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để thực hiện ý đồ chuyển hóa chế độ xã hội ta…
Thứ ba, do những yếu kém từ chính nội bộ đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quá trình lãnh đạo thực hiện sự nghiệp đổi mới. Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong hơn 30 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời khẳng định tính đúng đắn, khoa học của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng thì Đảng còn tồn tại những hạn chế nhất định, làm “mảnh đất” cho “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hình thành. Đó là:
- Hạn chế trong đổi mới tư duy, phát triển lý luận và công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng. Có thể nhận thấy rằng, thực tiễn luôn vận động và phát triển trong khi đó công tác nghiên cứu, phát triển lý luận của chúng ta chưa theo kịp được với sự vận động, phát triển này. Tình trạng giáo điều, rập khuôn cùng với hiện tượng phủ nhận hệ thống lý luận Mác - xít của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị khiến cho lĩnh vực tư tưởng lý luận trở nên phức tạp; công tác tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận còn chậm, hiệu quả thấp. Mặt khác, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên còn nhiều hạn chế về nội dung và phương pháp nên hiệu quả tuyên truyền chưa cao, chưa đủ sức “đề kháng” trước những luồng tư tưởng độc hại, đây là nguyên nhân dẫn đến sự sa sút niềm tin, xuất hiện tâm lý tiêu cực.
- Hạn chế trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị, thể chế nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là, việc chưa phân định rõ ràng, rành mạch, trách nhiệm không rõ, nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, còn cồng kềnh. Tinh thần thái độ trách nhiệm phục vụ của một bộ phận cán bộ công chức, viên chức còn thấp. 
- Những yếu kém trong công tác kiểm tra, giám sát và công tác cán bộ đang thực sự là vấn đề nóng bỏng tác động không nhỏ đến lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa. Hiện tượng chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, cất nhắc cán bộ không đúng người có tài, có tâm, có tầm… đang tác động rất lớn đến tâm tư, tình cảm, niềm tin của cán bộ, đảng viên. Ngoài ra, trong công tác kiểm tra, giám sát chúng ta chưa huy động được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào việc giám sát tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên cũng là một trong những nguyên nhân làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống.
Để công tác phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt được hiệu quả cao
Quyết tâm thực hiện mục tiêu: “... Kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân dân. Củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng”, như Nghị quyết số 04-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 4, khóa XII của Đảng đề ra, trong thời gian tới chúng ta cần:
Một là, đổi mới tư duy, phát triển lý luận, đặc biệt coi trọng công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tình hình mới. Mục đích của giải pháp này nhằm củng cố, khẳng định nền tảng tư tưởng của Đảng, làm cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là kim chỉ nam trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần những nguyên lý, quy luật trong xây dựng đảng Mác-xít nói riêng và các vấn đề chính trị - xã hội nói chung. Muốn vậy, cần:
- Kiên trì thế giới quan, phương pháp luận khoa học và các giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; đồng thời, tiếp thu các thành tựu mới, tinh hoa của nhân loại, những nền tảng cơ bản cần vận dụng trong nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận.
- Bổ sung, hoàn thiện những luận điểm khoa học về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, giải quyết được những băn khoăn, trăn trở trong nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đây là yếu tố rất quan trọng để nâng cao nhận thức chính trị, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, góp phần đẩy lùi, triệt tiêu những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng và suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.
- Nghiên cứu, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng về đạo đức. Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận; tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết; thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Thực hiện nghiêm túc việc chất vấn trong Đảng. Gắn kiểm điểm, tự phê bình và phê bình với làm rõ trách nhiệm chính trị, trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm pháp lý của đảng viên. Đối với cán bộ, đảng viên làm việc trong các cơ quan đảng, nhà nước các cấp, cần kiểm điểm, đánh giá về thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, nghĩa vụ công chức, đạo đức công vụ, trách nhiệm trước nhân dân.
- Cụ thể hóa nội dung xây dựng văn hóa trong các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, trong hệ thống chính trị, trọng tâm là đề cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, nhất là của người đứng đầu. 
Hai là, nâng cao chất lượng quản lý đảng viên, thường xuyên duy trì có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Với đội ngũ cán bộ, đảng viên phải tự giác đặt mình vào trong tổ chức, chịu sự quản lý của tổ chức, chấp hành các chế độ, quy định trong sinh hoạt đảng. Khắc phục các hiện tượng ngại sinh hoạt, bỏ sinh hoạt dưới bất kỳ hình thức nào hoặc coi sinh hoạt chỉ là hình thức. Dù ở bất cứ cương vị công tác nào cũng phải luôn luôn nêu cao ý thức tổ chức, kỷ luật, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện. Với tổ chức đảng, phải nâng cao chất lượng quản lý đảng viên một cách toàn diện, kể cả các quan hệ xã hội, các nguồn thu nhập, lối sống. Tăng cường chế độ trách nhiệm trong Đảng, quán triệt và thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; tiến hành tốt công tác kiểm tra, giám sát sẽ góp phần quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên ở mọi lúc, mọi nơi; phát hiện và xử lý kịp thời những đảng viên vi phạm tư cách, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những phần tử cơ hội, bất mãn, gây mất đoàn kết nội bộ trong Đảng. Do đó, công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng phải được tiến hành chặt chẽ, đúng quy trình, đạt hiệu quả thiết thực, nâng cao vai trò của cơ quan, Ủy ban Kiểm tra của cấp ủy các cấp, tổ chức đảng, cơ quan báo chí, quần chúng nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, gắn kiểm tra, giám sát với thi hành kỷ luật Đảng theo Điều lệ đã ban hành; kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm, những tổ chức đảng yếu kém làm trong sạch nội bộ Đảng; Cần quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Đối với người đứng đầu, cần tăng cường kiểm tra trách nhiệm chính trị trong đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và lợi ích nhóm.
Ba là, nâng cao hiệu quả giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên với nhiều hình thức, phương pháp. Trong công tác, cán bộ, đảng viên phải giải quyết nhiều mối quan hệ xã hội, trong đó mối quan hệ giữa lợi ích của tập thể - lợi ích cá nhân là yếu tố cơ bản tác động chi phối đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức lối sống, nếu mỗi cá nhân thiếu bản lĩnh chính trị, không tự giải quyết hài hòa mối quan hệ này sẽ dễ dàng bị lôi cuốn vào vòng xoáy của tham vọng quyền lực, vun vén lợi ích cá nhân, tham nhũng, lãng phí, bị kẻ xấu lợi dụng lôi kéo, mua chuộc làm phai nhạt mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng. Nâng cao chất lượng giáo dục rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên là công việc thường xuyên, công việc “gốc” trong công tác xây dựng Đảng. Chú trọng kết hợp giữa tự giáo dục, rèn luyện của bản thân với giáo dục rèn luyện của tổ chức là phương pháp cơ bản.
Cán bộ, đảng viên phải tự giác rèn luyện, thể hiện ở tinh thần cầu thị tiến bộ; tinh thần ham học tập ở mọi lúc, mọi nơi; có ý thức kiên trì rèn luyện thói quen, phương pháp làm việc khoa học, nghiêm túc, cụ thể, tỷ mỷ từ việc nhỏ đến việc lớn, từ những hành vi đơn giản đến phức tạp, “việc thiện thì nhỏ mấy, khó mấy cũng nên làm, việc ác thì nhỏ mấy cũng tránh”. Biết tự đánh giá bản thân để lựa chọn con đường, biện pháp rèn luyện phù hợp; có thái độ nghiêm khắc trong tự phê bình, lắng nghe ý kiến nhận xét của quần chúng, cấp trên, cấp dưới và đồng cấp về bản thân mình. Tích cực chủ động phát huy ưu điểm, khắc phục sửa chữa sai lầm, khuyết điểm để không ngừng tự hoàn thiện bản thân…
Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu tổ chức các cấp cần thường xuyên coi trọng việc rèn luyện cán bộ, đảng viên; quy định rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền lợi của mỗi cá nhân trên từng cương vị công tác, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, đảng viên bộc lộ, phát huy tối đa năng lực bản thân; lấy kết quả hoạt động thực tiễn làm tiêu chí cơ bản để đánh giá phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên. Kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện quy định của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm; kịp thời phát hiện, biểu dương người tốt, việc tốt; tạo dư luận lên án và kịp thời xử lý nghiêm những biểu hiện sai phạm của cán bộ, đảng viên dù ở bất cứ cương vị công tác nào.
Bốn là, Đảng phải thường xuyên quan tâm hơn nữa đến đời sống vật chất, tinh thần và lợi ích thiết thân của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hiện nay, trong điều kiện Đảng cầm quyền, đảng viên là cán bộ, công chức nhà nước có điều kiện chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho bản thân và gia đình. Do đó, khi đời sống được bảo đảm, quyền lợi vật chất chính đáng được bảo vệ, chính là điều kiện để mỗi người gắn bó với công việc; yên tâm thực hiện nhiệm vụ được giao; giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống. Bảo đảm thu nhập, tiền lương tương xứng với sự đóng góp, phù hợp với công sức, trí tuệ của mỗi người đã cống hiến; thực hiện “đẩy mạnh cải cách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán bộ, đảng viên, công chức để góp phần phòng, chống tham nhũng”(2); công bằng giữa các khu vực, nhất là khu vực hành chính sự nghiệp, với khu vực doanh nghiệp nhà nước là nguyện vọng chính đáng của đảng viên, công chức, viên chức.
Để đời sống vật chất và tinh thần của đảng viên được bảo đảm, ngoài việc phát huy yếu tố chủ quan của bản thân mỗi đảng viên thì trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị các cấp phải thật sự quan tâm đến điều kiện làm việc, thu nhập và cuộc sống cho họ. Chống đặc quyền, đặc lợi, có những chính sách, quy định chế độ vật chất và tinh thần, bảo đảm công khai, dân chủ, công bằng và chính đáng giữa các cấp cán bộ và giữa cán bộ, công chức với nhân dân./.
-----------------------------------------------------------------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.404
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr.213
Phùng Ngọc Bảo(*), Phạm Nguyễn Ngọc Anh(**)(*) Tạp chí Cộng sản (**) Trung tá. Trường Đại học Ngô Quyền (Bộ Quốc phòng)

NGƯỜI MÙ HƯỚNG DẪN XEM TRANH !

NGUYỄN ĐÌNH CỐNG/ BVN 25-11-2018

Tôi vừa đọc bài “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” về tư tưởng trong cán bộ, đảng viên: Nhận diện và phòng chống. Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 23/11/2018. Tôi thấy bài đó là một kiểu người mù hướng dẫn xem tranh.
Bài có 3 nội dung: Nhận diện, Nguyên nhân, Biện pháp khắc phục.
Trong mục nhận diện, tác giả nêu ra tác hại ghê gớm của tự chuyển biến, chỉ ra chủ nghĩa đế quốc và thế lực thù địch với âm mưu diễn biến hòa bình, dẫn ra 4 nguy cơ được ĐH VII, năm 1991, khẳng định. Phải chăng những điều như thế là nhận thức mới mẻ hay là thứ đã được bỏ quên từ lâu trong các đống rác?
Tác giả đưa ra 3 nguyên nhân chính:
1- Do tác dụng trái chiều của quá trình toàn cầu hóa, của kinh tế thị trường;
2- Do những thách thức của lịch sử, âm mưu diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động..;
3- Do những yếu kém từ chính nội bộ đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quá trình lãnh đạo thực hiện sự nghiệp đổi mới.
Liệu 3 nguyên nhân này có phải là do tác giả nghiên cứu, suy nghĩ sâu sắc rồi rút ra hay là nhắc lại theo kiểu sáo vẹt? Xin thưa: Ở các nước theo kinh tế thị trường không nơi nào xảy ra “tự diễn biến” như ở VN. Hỏi, xin chỉ ra chủ nghĩa đế quốc, thế lực phản động ở thế kỷ 21 này cụ thể nằm ở đâu, phản đối việc diễn biến hòa bình phải chăng là chỉ muốn diễn biến chiến tranh.
Cũng đành phải kể ra nguyên nhân nội bộ, nhưng chỉ dám đề cập đến yếu kém mà không dám chỉ ra các sai lầm từ chủ nghĩa, đường lối đến những việc làm cụ thể.
Trước đây tôi được dạy và tin rằng Mác Lê là chân lý, nay nhờ nghiên cứu mà hiểu ra rằng Mác Lê chứa nhiều độc hại. Trước đây tôi được tuyên truyền và tin rằng Đảng luôn sáng suốt và quang vinh, nay nhờ quan sát, đối chiếu thực tế mà biết rằng một số việc làm của Đảng làm tổn dân, hại nước. Như vậy tôi bị quy thuộc loại tự chuyển biến. Có khá nhiều người tự chuyển biến như vậy, nhưng giữ trong lòng, chỉ có một số thoát khỏi sự sợ hãi, dám nói ra, dám công khai từ bỏ Đảng. Tôi tự xét thấy, nguyên nhân tự chuyển biến chính là phát hiện ra bất đồng với Mác Lê và Đảng chứ chẳng phải do kinh tế thị trường, chẳng do đế quốc hoặc thù địch nào cả.
Tác giả đưa ra 4 biện pháp nhằm khắc phục “tự diễn biến”:
1- Đổi mới tư duy, phát triển lý luận;
2- Nâng cao chất lượng quản lý đảng viên, kiểm tra, giám sát…;
3- Nâng cao hiệu quả giáo dục, rèn luyện..;
4- Đảng quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần và lợi ích thiết thân của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Hỏi: đổi mới tư duy kiểu gì khi vẫn cố kiên trì Chủ nghĩa Mác Lê đã tỏ ra không phù hợp? Chính vì đổi mới tư duy mà sinh ra Tự diễn biến. Biện pháp nâng cao quản lý, kiểm tra, giám sát phải chăng để xiết chặt tổ chức, để khống chế tư tưởng. Xin thưa, xiết chặt tổ chức và bịt miệng thì có thể làm được, còn khống chế tư tưởng thì đừng mong.
Hỏi: Nâng cao hiệu quả giáo dục bằng cách nào trong khi các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị của đảng chỉ nhằm nhồi sọ, tẩy não, làm người dự học càng bị ngu muội thêm?
Hỏi: Phải chăng nâng cao đời sống vật chất sẽ dẹp được tự diễn biến về tư tưởng trong khi tự do, dân chủ bị bóp nghẹt, sự đàn áp tư tưởng càng tăng?
Vấn đề quan trọng không phải là chống “Tự diễn biến”, mà là tạo ra sự diễn biến hợp quy luật, theo hướng tiến bộ. Để làm việc này Đảng phải tự thay đổi, từ đảng cách mạng chuyển thành đảng chính trị cầm quyền.
Những điều mà bài của tạp chí Cộng sản đăng là quá cũ kỹ và sáo vẹt. Nó giống như người mù, đầu óc bã đậu, nghe nói về bức tranh rồi cứ thế mà hướng dẫn cho người khác. Thầy bói tả con voi còn được sờ cái đuôi hoặc cái tai của nó. Người mù hướng dẫn xem tranh chỉ nghe nói loa qua. Tạp chí Cộng sản đăng những bài có nội dung nghèo nàn, nhàm chán như vậy chứng tỏ các trí thức của Đảng có trình độ quá thấp hoặc chỉ làm được bút nô mà thôi.
N.Đ.C.
Tác giả gửi BVN

THIẾU TRÍ TUỆ-SỰ DIỆT VONG TẤT YẾU CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN

PHẠM ĐÌNH TRỌNG/ BVN 27-11-2018

1. Lương tâm và trí tuệ không có chỗ trong nhà nước tham nhũng
Thể chế cộng sản đã biến đội ngũ quan chức nhà nước cộng sản thành những băng cướp mạnh, những băng cướp cấp nhà nước. Quan chức quản lí của cải, tài nguyên của nước thì cướp của nước như những vụ cướp diễn ra ở Vinashine thời Phạm Thanh Bình, Nguyễn Tấn Dũng, ở Vinalines thời Dương Chí Dũng, Nguyễn Tấn Dũng, ở Petrovietnam thời Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, Nguyễn Tấn Dũng. Như băng nhóm Vũ Nhôm, Út Trọc. Như băng nhóm tướng lĩnh cướp đất sân bay Gia Lâm, sân bay Tân Sơn Nhất… Quan chức quản lí lãnh thổ dân cư thì cướp của dân như ở Cống Rộc, Tiên Lãng (Hải Phòng), ở Văn Giang (Hưng Yên), ở Dương Nội, ở Đồng Tâm (Hà Nội), ở Thủ Thiêm (Sài Gòn)…
Hối hả ăn cướp, những băng nhóm cướp cộng sản đã đánh sập lòng tin của dân vào nhà nước cộng sản. Công khai ăn cướp, những băng nhóm cướp cộng sản còn đào ruỗng chân móng tòa nhà cộng sản. Cướp đã thành bệnh dịch hạ gục hàng loạt quan chức cộng sản từ cấp xã, phường lên tới cấp Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ. Pháp luật chưa soi đến những vụ đại án tham nhũng tài sản của ông Thủ tướng Ba Dũng và gia đình nhưng việc ông tham nhũng quyền lực cho con cái ông thì đã quá rõ. Cướp đã thành trận lũ quét cuốn trôi của cải vật chất của đất nước, cuốn trôi cả những giá trị đạo đức, văn hóa của con người. Lúc này không diệt đám cướp ngày là đội ngũ quan chức nhà nước cộng sản tham nhũng, thể chế cộng sản sẽ mất người, mất lòng dân, đi vào suy tàn không thể đảo ngược. Nhưng quyền lực đảng tham nhũng cầm quyền còn sai khiến cả pháp luật, một kẻ đứng đầu những băng nhóm đầu trộm đuôi cướp cấp nhà nước như Nguyễn Tấn Dũng còn vênh váo là người tử tế thì làm sao có thể chống tham nhũng!
Mấy năm qua, Ủy ban Kiểm tra trung ương, cơ quan cảnh sát điều tra tội phạm trong nội bộ tổ chức cộng sản đã làm việc ráo riết và liên tiếp điểm mặt những băng cướp nổi cộm, đầy tai tiếng không còn giấu giếm được nữa. Nhưng ra đời bằng cướp chính quyền, tồn tại bằng cướp dân quyền, đặc tính cướp đã được cài đặt trong bản thể cộng sản, đã là bản chất của thể chế cộng sản. Chính thể chế cộng sản đã sản sinh ra những băng cướp cấp nhà nước được gọi bằng từ ngữ nhẹ nhàng, lịch sự, mĩ miều là tham nhũng. Chính thể chế cộng sản đã nuôi dưỡng, chăm bẵm những mầm mống tham nhũng để những mầm mống đó nảy nở thành những băng cướp lộng hành tàn bạo như những băng cướp đất ở Văn Giang, Hưng Yên, ở Dương Nội, ở Đồng Tâm, Hà Nội, Ở Thủ Thiêm, Sài Gòn.
Tham nhũng được thể chế cộng sản nuôi dưỡng vì vậy không phải cứ tham nhũng là bị nhà nước cộng sản diệt. Diệt tham nhũng để cứu thể chế cộng sản nhưng diệt tham nhũng còn là trận chiến ác liệt một mất, một còn trong cuộc đấu đá nội bộ ở cấp chóp bu cộng sản. Diệt tham nhũng còn là chiếc đầu dê treo trên bảng hiệu trước cửa tiệm, để trong bếp núc nhà hàng cộng sản chế biến món củng cố thế lực phe phái nắm quyền. Và cơ quan cảnh sát điều tra tội phạm trong nội bộ tổ chức cộng sản, Ủy ban Kiểm tra trung ương, đã quyết liệt truy diệt đến cùng những băng nhóm tham nhũng lớn nhỏ thuộc triều đại tham nhũng Nguyễn Tấn Dũng đã thất thế. Những đàn em trong đường dây băng nhóm tham nhũng Nguyễn Tấn Dũng dù xa chạy cao bay như Trịnh Xuân Thanh trốn sang tận trời Âu, nhà nước cộng sản vẫn chấp nhận đổ vỡ về ngoại giao với cả liên minh châu Âu, xuất cả tướng Bộ trưởng Công an cùng đội đặc nhiệm cấp cao và đông đúc do tướng tình báo chỉ huy sang tận trời Âu công khai chà đạp lên pháp luật nhiều nước châu Âu, tóm cổ Trịnh Xuân Thanh lôi về nước trị tội, diệt đàn em, diệt vây cánh của thế lực Nguyễn Tấn Dũng thù địch còn cài cắm trong bộ máy đương quyền.
Trong khi Võ Kim Cự rước đại họa Formosa về giết sự sống biển Việt Nam, giết chết cả nền kinh tế biển Việt Nam, gây bất ổn nghiêm trong về an ninh chính trị, an toàn xã hội. Số tiền Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh gây thất thoát tính bằng ngàn tỉ đồng thì số tiền Formosa – Võ Kim Cự gây thiệt hại cho nền kinh tế Việt Nam, gây thiệt hại cho cuộc sống người dân Việt Nam phải tính tới hàng triệu tỉ đồng, hàng tỉ tỉ đồng. Võ Kim Cự kí vượt thẩm quyền cho Formosa thuê 3300 ha đất tới 70 năm với giá rẻ như cho không. 5000 đồng chỉ mua được li trà đá nhưng thuê được tới 1450 m2 đất Vũng Áng trong một tháng. Biếu không Formosa 3300 ha đất trong 70 năm thì số tiền Formosa lại quả cho Cự cũng phải tính tới cả ngàn tỉ đồng. Thiệt hại về tiền bạc, về kinh tế, về lòng tin do những băng cướp Phạm Thanh Bình, Dương Chí Dũng, Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh gây ra, cộng lại cũng không lớn bằng thiệt hại về kinh tế cho nhà nước cộng sản và thiệt hại về lòng tin cho Đảng Cộng sản do Võ Kim Cự gây ra. Formosa – Võ Kim Cự tạo ra sự phẫn nộ sôi sục, bền bỉ không bao giờ chấm dứt của người dân với nhà nước cộng sản. Formosa – Võ Kim Cự đã phơi bày ra nhân cách nhếch nhác, nhem nhuốc, bỉ ổi của hàng loạt quan chức nhà nước cộng sản khi đám quan chức ở cấp Bộ trưởng, Bộ Thông tin Truyền thông, Bộ Y tế, bộ Tài nguyên Môi trường bày trò tắm biển Formosa, ăn cá biển Formosa để lừa bịp, ru ngủ, đầu độc dân.
Tội tham nhũng của Võ Kim Cự lồ lộ như vậy, lớn như vậy, nguy hại như vậy nhưng hãy nhìn tấm ảnh tràn lan trên truyền thông Võ Kim Cự chụp chung với Đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng. Đó là hình ảnh đàn em về kêu cầu đại ca, núp bóng đại ca. Đôi mắt trố của Cự thành kính, khẩn khoản, van lơn, chờ đợi và đầy lòng biết ơn nhìn đảng trưởng Trọng. Cái nhìn của em út biết thân biết phận với đàn anh cánh hẩu. Cái nhìn của bề tôi có lỗi với thủ lĩnh quyền uy. Chưa khi nào, chưa có tấm ảnh nào Đảng trưởng Trọng có khuôn mặt dịu dàng, hiền từ, thư thái như trong tấm ảnh đảng trưởng Trọng thân thiện, bao dung đứng bên Cự. Sự bao dung của đấng bề trên với đàn em thân tín. Sự bao dung của ông bố với thằng con đáng thương.
Với sự bao dung đó, dù tội tày trời, Cự vẫn ung dung rời Hà Tĩnh về Ba Đình, nghiễm nhiên làm Bí thư đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam. Cự vẫn được đảng bảo lãnh nguyên vẹn tư thế chính trị và danh dự khi giới thiệu Cự ra ứng cử để trở thành đại biểu Quốc hội, ngồi ghế Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế rồi bình yên về hưu, mang tiền bạc có được từ Formosa sang mua đất đai, lâu đài ở Canada sống vương giả suốt quãng đời còn lại của Cự và bảo đảm cuộc sống phè phỡn cho nhiều đời con cháu Cự.
Rồi Phí Thái Bình đứng đầu Vinaconex làm đường ống dẫn nước sông Đà – Hà Nội bằng đường ống hàng mã và độc hại của Tàu Cộng. Đường ống hàng mã đương nhiên giá cực rẻ nhưng vẫn được phù phép có đủ thông số kĩ thuật và được khai vống lên theo giá hàng xịn để có chênh lệch lớn. Đường ống hàng mã 18 lần vỡ gây điêu đứng cho đời sống người dân Hà Nội, gây thiệt hại hàng trăm tỉ đồng tiền thuế của dân nhưng Phí Thái Bình vẫn thản nhiên đứng ngoài vòng pháp luật. Rồi Trương Minh Tuấn, Bộ trưởng Thông tin Truyền thông bày trò mua bán công ty truyền thông AVG đút túi hàng ngàn tỉ tiền chênh lệch vẫn trên ghế Ủy viên trung ương đảng, khinh bỉ pháp luật nhà nước cộng sản, vẫn nhâng nháo với chức Phó ban Tuyên giáo trung ương, quản lí, dạy dỗ, ban phát chuẩn mực về văn hóa, đạo đức, về lí tưởng thẩm mĩ cho tất cả những hoạt động văn hóa, tinh thần của đất nước.
Những Võ Kim Cự, Phí Thái Bình, Trương Minh Tuấn và còn nhiều những đảng viên cộng sản cấp cao khác đang là những con sâu tham nhũng bự vẫn bình yên ngoài vòng ngắm của Ủy ban Kiểm tra trung ương, vẫn ung dung ngoài vòng pháp luật là minh chứng cho vở diễn chống tham những của nhà nước cộng sản mang bản chất tham nhũng.
Tham nhũng là cái bóng lồng lộng của nhà nước cộng sản độc tài. Đảng Cộng sản cầm quyền tồn tại bằng tham nhũng và tài sản lớn nhất, quí nhất, tài sản vô giá của nhân dân mà đảng tham nhũng để tồn tại là quyền dân, quyền làm chủ đất nước của người dân. Viết ra Hiến pháp để tham nhũng quyền dân, Đảng Cộng sản đưa vào Hiến pháp điều 4: Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Nước độc lập, người dân làm chủ đất nước bằng quyền bầu chọn ra lực lượng chính trị lãnh đạo nhà nước và xã hội. Với điều 4, nước độc lập trở thành nước bị Đảng Cộng sản chiếm đoạt, dân từ tư thế làm chủ đất nước thành dân mất nước, cam chịu thân phận dân nô lệ cộng sản.
Người dân lấy trộm, cướp giật của người khác là phường đầu trộm đuôi cướp. Quan chức nhà nước ăn cắp, ăn cướp của dân của nước là tham nhũng. Đảng tham nhũng cũng chỉ là đảng đầu trộm đuôi cướp, đảng mafia mà thôi. Trộm cướp là hành vi bất lương đen tối. Trí tuệ là ánh sáng. Một tổ chức đã phơi bày đầy đủ bản chất bất lương, đen tối như Đảng Cộng sản Việt Nam hôm nay đương nhiên không thể dung hòa, thu nạp đươc những lương tâm và trí tuệ như nhà khoa học Chu Hảo và hàng ngàn hiền tài, trí thức chân chính mà đảng đã hãm hại, loại bỏ trong suốt quá trình lịch sử tồn tại của đảng.
Vai diễn chống tham nhũng của Đảng trưởng và của Ủy ban Kiểm tra trung ương chỉ để ra uy với những đảng viên có chức có quyền, những tiềm năng tham nhũng và chỉ để mị dân. Còn nỗi lo thực sự, nỗi lo mất ăn mất ngủ của ông Đảng trưởng có học vị Tiến sĩ bảo vệ đảng là ánh sáng tự do dân chủ, là sự thức tỉnh của người dân về quyền con người, quyền công dân đã bị Đảng Cộng sản cướp đoạt. Tham nhũng làm cho Đảng Cộng sản cầm quyền lo sợ một thì ánh sáng chân lí, ánh sáng lẽ phải, ánh sáng dân chủ, tự do, dân trí được khai sáng, dân khí được đánh thức làm cho Đảng Cộng sản và nhà nước cộng sản run sợ gấp trăm lần, ngàn lần. Như cú cáo sợ mặt trời. Như kẻ gian sợ công lí. Chống tham nhũng, Ủy ban Kiểm tra trung ương chỉ là một vai diễn nhưng chống ánh sáng của trí tuệ, ánh sáng của tự do dân chủ, của khai dân trí, chấn dân khí, Ủy ban Kiểm tra trung ương đã thực sự là một mũi xung kích, một đội “cải cách tư tưởng” trong trí thức như đội cải cách ruộng đất ở nông thôn miền Bắc Việt Nam giữa thế kỉ hai mươi.
2.  Thiếu trí tuệ, tự trở thành nô lệ của ý thức hệ cộng sản
Thời nước mất dân nô lệ, dân hai mươi lăm triệu, những người cộng sản chỉ có vài ngàn là những thợ thuyền cùng khổ, những nông dân mù chữ và những học trò đang học dở năm đầu trung học. Nhờ quả cảm phất ngọn cờ yêu nước, ngọn cờ độc lập dân tộc, họ đã tập hợp được sức mạnh của người dân cả nước, mau lẹ cướp được chính quyền. Nhưng khi cướp được chính quyền rồi, những thợ thuyền cùng khổ, những nông dân mù chữ và những học trò chữ nghĩa dở dang liền phản bội lí tưởng độc lập của đất nước, phản bội lí tưởng tự do của hai mươi lăm triệu dân, phản bội Tổ quốc khi vất bỏ lá cờ độc lập dân tộc để giương lên lá cờ giai cấp vô sản, giương lên lá cờ xã hội chủ nghia. Khát vọng cháy bỏng độc lập dân tộc của hai mươi lăm triệu dân Việt đã bị vài ngàn người cộng sản đánh cắp và đánh tráo. Lí tưởng độc lập bị đánh tráo thành lí tưởng cộng sản. Dân tộc bị đánh tráo thành giai cấp. Độc lập dân tộc chỉ còn là phương tiện giúp những người cộng sản cướp chính quyền để họ thực hiện mục đích xã hội chủ nghĩa viển vông, mục đích cộng sản chủ nghĩa ảo ảnh của họ.
Ngày nay những người lãnh đạo cộng sản đều có học hàm, học vị rất cao. Quyền trong tay, họ muốn có bằng cấp nào đều được bằng cấp đó. Nhưng trí tuệ thực sự của họ thì vẫn tăm tối như thời “sáng ra bờ suối, tối vào hang”, như thời cách mạng bầy đàn, như thời kháng chiến ở rừng. Như chiếc bình vôi lăn lóc ở gầm giường, những bộ não ù lì không tiếp nhận được tri thức loài người, không tiếp nhận được triết học ánh sáng, bằng cấp chỉ cho họ mớ lí luận chết khô, mớ giáo điều mòn cũ. Trí tuệ thấp kém, đầu óc cuồng tín giáo điều, họ đã đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Sai lầm sau nguy hại gấp nhiều lần sai lầm trước. Đi từ cướp nước, cướp đoạt lòng yêu nước của người dân đến bán nước. Đi từ lừa bịp người dân đến chống lại người dân, coi người dân như kẻ thù, như thế lực thù địch.
Từ sai lầm của Đại hội Đảng lần thứ hai, năm 1951 trong rừng sâu Việt Bắc, lấy tư tưởng Mao Trạch Đông, lấy đường đi, nước bước của đảng Tàu Cộng làm tư tưởng, đường đi nước bước của Đảng Việt Cộng, đến sai lầm ở Thành Đô trên đất Tàu Cộng năm 1990, kí giao kèo cột số phận giống nòi Việt Nam vào số phận Tàu Cộng là sự trượt dài trong tội bán nước, tội phản bội dân tộc Việt Nam.
Từ tội ác cải cách ruộng đất giữa thế kỉ hai mươi đẩy hơn chục triệu nông dân miền Bắc vào cuộc đấu tranh giai cấp man rợ, vào cuộc tự sát đạo lí, sự sát tính người và cuộc đấu tố, bắn giết đẫm máu, giết chết gần hai trăm ngàn nông dân ưu tú, phá tan nền văn minh làng xã cội nguồn sức mạnh Việt Nam, làm tha hóa, lưu manh hóa cả tầng lớp nông dân hiền lành chân chất. Đến tội ác sau tháng tư năm 1975 lùa gần triệu người Việt Nam yêu nước không chấp nhận ý thức hệ cộng sản vào những nhà tù trung cổ mang tên trại tập trung, đã phơi bày bản chất nhà nước cộng sản độc tài, tước đoạt cả quyền yêu nước của người dân. Đó là sự trượt dài trong tội ác chống nhân dân, hủy diệt giống nòi của những người cộng sản Việt Nam.
Thiếu trí tuệ, tăm tối trong cuồng tín giáo điều, những người cộng sản cầm quyền đã dùng sức mạnh tổ chức và sức mạnh bạo lực nhà nước tước đoạt quyền con người, quyền công dân của người dân, thiết lập một nhà nước độc tài tàn bạo.
Phát động cuộc chiến tranh người Việt bắn giết người Việt núi xương sông máu để thâu tóm quyền lực, áp đặt ách thống trị cộng sản trên cả nước. Thực hiện chính sách ngu dân và chia rẽ dân tộc trong hận thù giai cấp để duy trì, củng cố quyền lực. Dìm đất nước vào những cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu, vào những cuộc đấu tố, truy bức triền miên.
Đấu tố người giàu của cải. Đấu tố người giàu tri thức. Đấu tố lẽ phải. Đấu tố lương tâm. Đấu tố ánh sáng. Đấu tố bằng bạo lực, bằng máu như trong Xô Viết Nghệ Tĩnh, năm 1930, như trong cải cách ruộng đất những năm năm mươi thế kì hai mươi. Đấu tố bằng khủng bố tinh thần, bằng đánh hội đồng trên truyền thông kết hợp với đày đọa bằng nhà tù và các chính sánh xã hội như vụ Nhân Văn Giai Phẩm những nâm năm mươi, vụ Xét lại chống đảng những năm sáu mươi thế kỉ hai mươi, như với người dân sử dụng quyền tự do ngôn luận bày tỏ chính kiến khác với luận điệu của nhà nước cộng sản những ngày này.
Thiếu trí tuệ trở thành nô lệ của những tín điều cộng sản mất tính người, giữa nền văn minh tin học, Đảng Cộng sản cầm quyền đang duy trì một hình thái nô lệ hiện đại với dân tộc Việt Nam, nô lệ cộng sản. 
Thiếu trí tuệ, tăm tối trong cuồng tín giáo điều, từ nô lệ ý thức hệ cộng sản chỉ có giai cấp, không có dân tộc đến bán nước chỉ còn là vấn đề thời gian. Và lịch sử Việt Nam đã phải ghi dấu mốc bán nước ô nhục của Đảng Cộng sản Việt Nam, nỗi ô nhục lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Chỉ khi đã thất thế, không còn quyền lực, chỉ là một cá thể trên đường trốn chạy, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống mới rước giặc về cướp nước. Đảng Cộng sản Việt Nam đương cầm quyền đã kéo cả bầy đàn chóp bu đứng đầu đảng sang tận đất giặc kí giao kèo bán nước ở Thành Đô 3.9.1990. Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống chỉ là những cá thể lẻ loi bán nước. Cả một đảng cầm quyền bán nước, nỗi ô nhục lớn đó chỉ đến thời cộng sản, thời giai cấp thống trị dân tộc mới có trong lịch sử Việt Nam.
Những dấu mốc ghi nhận Đảng Cộng sản Việt Nam cướp nước và bán nước là: 9.1945, cướp được chính quyền. 10. 1954, chiếm được nửa lãnh thổ, cướp dân quyền của dân cư ở phía Bắc Việt Nam. 4.1975, chiếm được cả lãnh thổ Việt Nam, cướp dân quyền của dân cư cả nước. Chỉ 15 năm sau khi có được cả nước, Đảng Cộng sản Việt Nam liền kí giao kèo Thành Đô 9.1990 bán nước.
3.  Ủy ban Kiểm tra trung ương của Đảng Cộng sản và tòa án dị giáo của Giáo hội
Trượt dài trong sai lầm về lí luận, thực chất là trí tuệ thấp kém và lí tưởng thẩm mĩ tồi tệ, méo mó, bệnh hoạn, Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền đã dấn sâu vào con đường tội ác chống lại nhân dân, chống lại đất nước, chống lại dòng chảy tiến hóa của loài người, đưa dân tộc Việt Nam vào đêm tối độc tài trung cổ. Để áp đặt và duy trì được sự thống trị độc tài đầy tội ác với dân, Đảng Cộng sản đã triệt để thực hiện chính sách ngu dân.
Giáo dục ngu dân. Học sinh và tuổi trẻ phải mất quá nhiều thời gian học thứ “khoa học” đã bị loài người văn minh vất vào sọt rác là chủ nghĩa xã hội “khoa học”, càng học càng mụ mị, tăm tối rồi trở thành những tín đồ cuồng tín, ngu trung của một thứ tôn giáo của tội ác: tôn giáo Mác Lê.
Tín đồ cấp thấp trở thành công cụ bạo lực của nhà nước cộng sản như những công an còn đảng còn mình xông vào đoàn dân biểu tình chống Tàu Cộng xâm lược, đánh hộc máu phụ nữ, đánh chấn thương sọ não thanh niên. Như những dư luận viên mặc áo màu máu, màu cờ đảng, xông vào phá buổi lễ linh thiêng người dân Hà Nội, người dân Sài Gòn tưởng niệm chiến sĩ và đồng bào đã hi sinh trong cuộc chiến giữ đất biên giới phía Bắc năm 1979, giữ quần đảo Hoàng Sa năm 1974, giữ đảo Gac Ma năm 1988. Như những hội viên hội Cờ Đỏ ở Nghệ An xông vào nhà Giáo dân đã tham gia biểu tình phản đối Formosa đầu độc biển Việt Nam, đập phá tài sản của dân, xông vào nhà thờ đập phá tượng Chúa. Tín đồ cấp cao thì thành công cụ tư tưởng, thành những giáo sĩ đi rao giảng, truyền đạo Mác Lê, thành những Sơn Đông mãi võ đi bán dạo món thuốc cao đơn hoàn tán gia truyền chủ nghĩa xã hội khoa học và thành những ông từ coi giữ ngôi đền lịch sử đảng như giáo sĩ Hoàng Chí Bảo, giáo sĩ Nguyễn Trọng Phúc, những chiếc bình vôi cóc cáy, lăn lóc ở Hội đồng Lí luận trung ương, ở Viện Lịch sử đảng.
Các tôn giáo chân chính đều gieo mầm yêu thương, hướng con người tới yêu thương, bao dung, vị tha, kiến tạo một thế giới hòa bình, trước hết là sự bình an, thư thái ở trong tâm hồn. Chỉ có yêu thương tính nhân đạo, giá trị nhân văn trong mỗi con người mới được nhân lên. Chỉ có hòa bình, trí tuệ con người, sức sáng tạo của con người mới được khai thác, phát huy cao nhất. Coi đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội, tôn giáo Mác Lê nuôi dưỡng, kích động hận thù giai cấp trong từng con người, biến con người thành những ác thú.
Coi hận thù là lập trường giai cấp, là phẩm chất cộng sản, các Đảng Cộng sản đều chọn con đường cách mạng bạo lực đẫm máu để đi tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa ảo ảnh mà cả trăm năm sau cũng không biết có hay không. Chọn con đường cách mạng bạo lực, các Đảng Cộng sản Mác xít Lê nin nít đều dìm đất nước mình, giống nòi của mình vào cuộc nội chiến thanh toán giai cấp đẫm máu và đều xuất khẩu cách mạng bạo lực, xuất khẩu súng đạn, dìm cả thế giới vào chiến tranh, đói nghèo, lạc hậu và tăm tối.
Truyên truyền ngu dân. Tuyên truyền lừa bịp, dối trá, bưng bít sự thật. Cả ngàn cơ quan truyền thông nhà nước cộng sản câm miệng hến, không có một dòng tin khách quan trung thực về những đợt sóng dân cả nước sôi sục biểu tình phản đối dự luật Đặc khu, dự Luật An ninh mạng. Nhưng nhiều tờ báo lớn, đài truyền hình quốc gia của đảng cầm quyền lại đăng bài, phát phóng sự tầm thường hóa lòng yêu nước của người dân khi vu khống người dân nhận tiền của nước ngoài đi biểu tình thuê cho các thế lực chính trị thù địch của Đảng Cộng sản.
Luật pháp ngu dân. Nhà nước cộng sản xây dựng hàng loạt đạo luật ngu dân, tước đoạt quyền con người, quyền công dân của người dân. Điển hình của luật pháp ngu dân là điều 4 Hiến pháp và Luật An ninh mạng.
Ngu dân, trói tay, bịt mắt người dân để Đảng Cộng sản tròng thêm vào cổ người dân Việt Nam ách nô lệ Bắc thuộc. Từ 1.4.1960, Liên Hợp Quốc đã ra nghị quyết 1514, đòi hỏi các nước có thuộc địa phải trả độc lập cho thuộc địa. Ngược dòng tiến hóa của loài người, ba mươi năm sau nghị quyết 1514 của Liên Hợp Quốc, ngày 3.9.1990 ở Thành Đô trên đất Tàu Cộng, nhóm lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền đã kí giao kèo với nhóm lãnh đạo Đảng Tàu Cộng đưa giống nòi Việt Nam vào thân phận thuộc địa kiểu mới của Tàu Cộng.
Trong đêm tối của hai lần nô lệ, nô lệ cộng sản và nô lệ Bắc thuộc, trong thể chế độc tài cai trị bằng lừa dối, bạo lực và ngu dân mà lại có một tâm hồn thơm thảo với dân với nước, một trí sáng tiếp nhận được triết học khai sáng và một khí phách “thà làm ma nước Nam, quyết không làm vương hầu cho phương Bắc” dám hiên ngang lập một nhà xuất bản và liên tiếp đưa vào đời sống văn hóa đất nước những cuốn sách kinh điển mang trí tuệ nhân loại, mang ánh sáng dân chủ, tự do, mang sứ mệnh khai dân trí, chấn dân khí, mang đòi hỏi của thời đại giải phóng sức sáng tạo của con người, thời đại đưa những con người bình thường trở thành những người khổng lồ Goliath.
Cũng như thời Trung cổ châu Âu dưới sự thống trị về tinh thần và tư tưởng của Giáo hội Thiên Chúa, giáo lí nhà thờ dạy giáo dân niềm tin trái đất là trung tâm vũ trụ, mặt trời quay quanh trái đất thì nhà khoa học Galileo, chiên lành của Chúa người Italia nhưng với tư duy khoa học, với thiên tài sáng tạo ra ống kính thiên văn quan sát vũ trụ đã khẳng định ngược lại với nhà thờ rằng mặt trời là trung tâm của một vũ trụ nhỏ trong thiên hà và trái đất quay quanh mặt trời. Phát hiện ra chân lí khoa học trái với giáo lí nhà thờ, Galileo bị tòa án Giáo hội kết tội dị giáo, bị quản thúc tại nhà và sách công bố công trình khám phá khoa học của ông bị cấm xuất bản.
Nhà khoa học Chu Hảo, tín đồ cộng sản, Giám đốc kiêm Tổng biên tập Nhà xuất bản Tri Thức đã tổ chức biên dịch và xuất bản những cuốn cách tinh hoa của tri thức nhân loại mang ánh sáng tự do, dân chủ thức tỉnh người dân nô lệ Việt Nam. Với tâm đẹp và trí sáng đó, nhà khoa học Chu Hảo và là tín đồ cộng sản đã bị Ủy ban Kiểm tra trung ương đảng của ông nghị tội là suy thoái tư tưởng. Nhà khoa học Chu Hảo suy thoái tư tưởng cũng như nhà thiên văn học Galileo dị giáo vậy. Thiếu trí tuệ, Đảng Cộng sản Việt Nam ở thế kỉ 21 của văn minh tin học mà vẫn như Giáo hội La Mã thế kỉ 17 thời Trung cổ và Ủy ban Kiểm tra trung ương ra uy luận tội Chu Hảo cũng chỉ là tòa án dị giáo của Giáo hội mang thần quyền ra phán xét Galileo mà thôi.
Nhờ phát hiện khoa học vĩ đại của Galileo, khám phá ra bản thể của vũ trụ, của trái đất nơi con người sinh sống mà loài người đã tiến một bước dài từ bóng tối thần quyền, bóng tối Trung cổ ra ánh sáng khoa học để bước vào thời công nghiệp với liên tiếp những cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật mà cuộc cách mạng mới nhất, kì diệu nhất là cuộc cách mạng tin học, đưa con người vào nền văn minh tin học, mỗi con người bình thường đều có sức mạnh và phép màu thần thánh. Những cuốn sách của Nhà xuất bản Tri Thức do nhà khoa học Chu Hảo chủ trương xuất bản như: Triết Học Của Tự Do, Dân Chủ Và Giáo Dục, Khảo Luận Thứ Hai Về Chính Quyền, Đường Về Nô Lệ, Nền Dân Trị Mỹ… đã thức tỉnh người dân nô lệ Việt Nam về quyền con người, quyền sống, quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và trách nhiệm công dân của mình. Sự thức tỉnh đó chính là khai dân trí, chấn dân khí, trả lại cho người dân sức mạnh làm nên lịch sử, sức mạnh để giành lại quyền làm chủ vận mệnh đất nước.
4. Lịch sử Đảng Cộng sản là lịch sử loại bỏ tinh hoa, tiêu diệt trí tuệ, nô lệ hóa trí thức văn nghệ sĩ thành những trí nô, văn nô
Thời phong kiến, kinh tế Việt Nam hoàn toàn là kinh tế nông nghiệp. Công và thương chỉ có vài phường dệt vải với những khung cửi thủ công. Ở những vùng có núi đá vôi, lác đác vài lò vôi gia đình, nung đá lấy vôi xây nhà. Buôn bán là những gánh hàng xén, vài con thuyền nan chở nông sản của đồng bằng, chở lâm sản của miền núi, chở cá, mắm của miền biển đến phiên chợ quê, đến chốn kẻ chợ. 99% dân số sống bẳng nghề nông và nông nghiệp nuôi sống cả nước. Nông nghiệp ở vị trí hàng đầu trong đời sống kinh tế của xã hội phong kiến nhưng bảng giá trị xã hội lúc đó vẫn đưa kẻ sĩ, đưa trí thức lên cao nhất: Sĩ – Nông – Công – Thương.
Bảng giá trị này bất di bất dịch trong hàng ngàn năm. Mấy ông đồ, mấy thầy giáo làng, vì có chữ cũng được dân hết mực trọng vọng, tôn kính. Dẫn con đến nhà thầy xin học, người dân nói với thầy: Cháu xin đến ăn mày chữ thầy để cháu thành người. Phải có chữ, có trí tuệ mới thành người. Bảng giá trị của xã hội nào trước cộng sản cũng đưa kẻ sĩ lên cao nhất. Chỉ đến thời cộng sản, bảng giá trị này mới bị đảo lộn thành: Công – Nông – Binh – Trí. Trí tuệ đứng sau cùng, đứng sau cả khẩu súng của người lính công cụ bạo lực. Còn thương nghiệp bị coi là kinh tế tư bản, chỉ chạy theo lợi nhuận, bị xóa sổ, loại khỏi đời sống xã hội!
Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời tháng 2 năm 1930. Chỉ bảy tháng sau, tháng chín, năm 1930 những người cộng sản đã làm cuộc bạo loạn Xô Viết Nghệ Tĩnh đẫm máu để xóa sổ bảng giá trị Sĩ – Nông – Công – Thương khi những người cộng sản kích động, tập hợp những người nông dân, tay cầm gậy gộc giáo mác, miệng gào thét: Trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ, tràn vào huyện đường, tỉnh đường, tràn vào nhà giàu, xông cả vào nhà thầy giáo, đập phá tài sản, lùng bắt trí, phú, địa, hào lôi ra giết. Quân bạo loạn kéo đến huyện đường Nghi Lộc, Nghệ An. Trong huyện đường có một đội lính lệ hơn ba mươi quân bảo vệ an ninh trong huyện nhưng tri huyện Tôn Thất Hoàn không đưa quân ra đối đầu với những người nổi dậy sẽ gây đổ máu. Ông cùng một viên lục sự tay không ra gặp những người nông dân. Quan huyện Nghi Lộc Tôn Thất Hoàn cùng viên lục sự liền bị những mũi giáo, những lưỡi mác của lòng hận thù mù quáng phanh thây, chặt đầu.
Trong cách mạng tháng tám năm 1945 nhiều trí thức hàng đầu của đất nước như Phạm Quỳnh đã bị những người sôi sục hận thù giai cấp, một phẩm chất cộng sản hàng đầu, thủ tiêu vô cùng hèn hạ. Gần hai trăm ngàn người dân miền Bắc Việt Nam bị xử bắn trong cải cách ruộng đất giữa thế kỉ hai mươi, phần lớn là những người ưu tú nhất, tài năng nhất trong sản xuất kinh doanh, làm ra của cải cho xã hội. Nhiều người đã có những đóng góp vô cùng to lớn, đóng góp sức người, đóng góp xương máu, đóng góp tiền bạc và tài sản cho cuộc kháng chiến chống Pháp của Đảng Cộng sản như bà Nguyễn Thị Năm đã bị xử bắn ngay khi mở đầu cuộc cải cách ruộng đất, cuộc nhảy múa của bóng đêm, của ác quỉ.
Những người bị nạn trong những vụ án ngụy tạo, Vụ Xét lại chống đảng, vụ Nhân Văn Giai Phẩm đều là những nhân cách kẻ sĩ, những đảng viên trung thực hiếm hoi của Đảng Cộng sản như Vũ Đình Huỳnh, Hoàng Minh Chính, Đặng Kim Giang, Nguyễn Văn Vịnh… Đều là những trí thức lớn không phải chỉ của Việt Nam mà còn của cả loài người như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường. Là những nghệ sĩ tài năng, những tinh hoa quí hiếm của nền Văn hiến Việt Nam như Trương Tửu, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm, Trần Dần, Văn Cao,…
Hung thần Sáu Búa Lê Đức Thọ ngụy tạo ra vụ án Xét lại chống đảng. Nhà cách mạng chuyên nghiệp Trường Chinh cùng nhà thơ tên Lành mà lòng dạ độc ác cộng sản dàn dựng ra vụ Nhân Văn Giai Phẩm đều là những lãnh đạo hàng đầu của Đảng Cộng sản. Tội ác của họ không phải chỉ loại bỏ, đày đọa hàng trăm trí thức uyên bác, văn nghệ sĩ có tài đến chết rũ xương trong tù, đến thân tàn ma dại trong đời mà còn giết chết tư duy sáng tạo của cả đội ngũ những người có mặt trong cuộc đời chỉ với sứ mệnh duy nhất là sáng tạo. Đảng Cộng sản đã biến những người có sứ mệnh sáng tạo chỉ còn là những trí nô, văn nô, những thư lại nịnh thần, vô liêm sỉ.
Hơn 100 hội viên hội Nhà Văn Việt Nam ở Sài Gòn mỗi kì ra Hà Nội họp đại hội đều được Thành ủy miền đất Bến Nghé giàu có cho tiền vé máy bay đi về, lại cho mỗi nhà văn thêm một triệu tiền tiêu vặt. Trước khi các nhà văn bay ra Hà Nội, Thành ủy gặp gỡ, chúc tụng và đãi bữa tiệc tiễn lên đường lai kinh. Trong lần Phó bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Đua gặp gỡ, tiễn các nhà văn ra Hà Nội dự đại hội Nhà Văn Việt Nam lần thứ 8, năm 2010, một ông nhà văn già, nhỏ thó, hom hem và nhợt nhạt như một mẩu củi mục, vốn là Giáo sư dạy văn ở Trường Đại học Sư phạm, cũng là người lớn tuổi nhất trong cuộc gặp, đứng lên giọng run run xúc động: “Sự lãnh đạo của đảng chính là sự định hướng của Thành ủy. Chúng tôi rất cần có sự định hướng kịp thời, đúng lúc của đảng. Mong Thành ủy dành thời gian để mỗi năm cho chúng tôi được gặp Thành ủy đôi lần, lắng nghe Thành ủy!” Nhà văn đích thực là văn hóa, là kẻ sĩ. Kẻ sĩ là tâm hồn và khí phách của một dân tộc. Khí phách nhà văn Việt Nam sau trận đòn Nhân Văn Giai Phẩm là như vậy đó, năn nỉ xin được gặp đảng để được đảng dạy bảo. Sau kì đại hội Nhà văn Việt Nam lần đó, tôi đã từ bỏ mọi sinh hoạt, mọi tiếp xúc với Hội Nhà văn nài nỉ xin sự dạy bảo của Đảng Cộng sản. 
Độc quyền lòng yêu nước của người dân. Độc quyền cả chân lí của cuộc sống, Đảng Cộng sản tự coi nghị quyết xơ cứng, giáo điều của đảng là tuyệt đối đúng. Coi cuộc sống phong phú, sinh động diễn ra không đúng với nghị quyết xơ cứng của đảng là cuộc sống sai trái, vi phạm, tự diễn biến, tự chuyển hóa. Trong khi sự sống là tự diễn biến, tự phát triển không ngừng. Chỉ những vật trưng bày trong viện bảo tàng không còn sự sống mới không tự diễn biến. Hiền tài và trí tuệ hiếm hoi của Đảng không chịu bó mình trong nghị quyết xơ cứng cũng bị Đảng trừng trị. Bảy mươi ba năm cầm quyền, ngoài những chiến dịch rầm rộ đấu tố, hãm hại, loại bỏ hàng loạt trí tuệ, tài năng của đất nước như vụ Xét Lại, vụ Nhân Văn còn có hai lần Đảng Cộng sản ra tay trừng trị, loại bỏ hiền tài của Đảng muốn cứu Đảng ra khỏi sai lầm về kinh tế, muốn cứu Đảng ra khỏi tăm tối về tư tưởng triết học. Hai lần cách nhau 52 năm, năm 1966 và năm 2018 nhưng sự loại bỏ hiền tài thì vẫn độc đoán và hèn hạ như nhau.
Cung cách làm ăn tập thể, làm ăn bầy đàn của hợp tác xã nông nghiệp đã giết chết sự cần cù, sáng tạo, những phẩm chất quí báu nhất làm ra hạt lúa của người nông dân. Thâu tóm tư liệu sản xuất của nông dân, hợp tác xã nông nghiệp biến người nông dân từ người chủ đồng ruộng, thức khuya dậy sớm, một nắng hai sương với cây lúa thành những viên chức hành chính làm thuê cho hợp tác xã, ngày hai buổi nghe tiếng kẻng cắp nón ra đồng nhởn nhơ đợi tiếng kẻng báo hết giờ làm việc lại cắp nón về. Mặc cây lúa loi thoi, xơ xác giữa đám cỏ xanh tốt bời bời. Cung cách làm ăn đó cũng giết chết luôn cả nền nông nghiệp miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Nạn đói khủng khiếp của năm 1945 đã thập thò ló mặt trên khắp nông thôn miền Bắc. Năm đó 1966, cuộc chiến tranh mà Đảng Cộng sản phát động ở miền Nam đang tới đỉnh điểm, quyết định thắng thua. Nạn đói xảy ra. Hậu phương rối loạn. Người lính ngoài mặt trận cũng không còn sức chiến đấu.
Đúng lúc đó, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú Kim Ngọc sáng tạo ra hình thức quản lí sản xuất nông nghiệp mới: Khoán hộ. Giao ruộng và khoán sản phẩm cho từng hộ nông dân. Nhà nước vẫn quản lí được con người, tư liệu sản xuất và sản phẩm nông nghiệp mà sức sản xuất được giải phóng. Người nông dân lại được làm chủ mảnh ruộng nuôi sống mình, lại thức khuya dậy sớm, lại một nắng hai sương, vắt mồ hôi, dồn tình cảm, chắt chiu sự cần cù và trí sáng tạo vào mảnh ruộng khoán. Cả tỉnh Vĩnh Phú năng suất lúa tăng vọt. Nhà nhà ấm no. Không cần đôn đốc, người dân vui sướng, mau lẹ nộp đủ thóc nghĩa vụ. Cung cách làm ăn mới mang lại sức sống cho cây lúa Vĩnh Phú làm nhiều nơi khác trên miền Bắc như Hải Phòng cũng học theo và cánh đồng lúa Hải Phòng đã bội thu.
Nhưng giao ruộng cho người nông dân là giao tư liệu sản xuất cho tư nhân, là trái với học thuyết Mác, trái với chủ nghĩa xã hội, trái với nghị quyết của đảng. Những cái đầu giáo điều đứng đầu Đảng Cộng sản coi chủ nghĩa Mác phản tự nhiên, phản con người còn quan trọng hơn, cần thiết hơn sự ấm no của người dân và sự giàu mạnh của đất nước. Với lí luận Mác Lê nin sắt máu, với lập trường giai cấp rạch ròi, nhà cách mạng chuyên nghiệp Trường Chinh đã đánh tan tác đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Nay nhà cách mạng chuyên nghiệp Trường Chinh lẫm liệt trong giáp sắt lí luận Mác Lê, tay cầm lá cờ lệnh đó chói đấu tranh giai cấp lại xuất trận chặn đứng khoán hộ ở Vĩnh Phú. Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú Kim Ngọc phải làm kiểm điểm và tự nhận "có sai lầm nghiêm trọng trong khoán hộ". Đồng đất Vĩnh Phú lại thuộc sở hữu của hợp tác xã. Cây lúa Vĩnh Phú lại xác xơ cùng cây lúa cả miền Bắc. Người dân Vĩnh Phú lại đói deo đói dắt cùng người dân cả miền Bắc.
Mãi đến năm 1988, khi Đảng Cộng sản phải chấp nhận kinh tế thị trường, chấp nhận kinh tế tư nhân để cứu vãn nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ thảm hại, khoán hộ trong nông nghiệp của Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc mới lại được thực hiện ở hình thức triệt để hơn trên cả nước. Từ cảnh phải nhập hạt bo bo, thứ hạt nuôi heo ở xứ người về nuôi dân Việt Nam, khi người nông dân lại được làm chủ mảnh ruộng của mình, Việt Nam lập tức trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Nhưng khi đó hiền tài Kim Ngọc đã chết trong đau buồn 18 năm rồi!
Chủ thể của nông nghiệp là người nông dân. Người nông dân phải được làm chủ mảnh ruộng của mình, nông nghiệp mới khấm khá. Chủ thể của đất nước Việt Nam là người dân Việt Nam. Người dân phải làm chủ đất nước của mình, đất nước mới giàu mạnh. Độc quyền chính trị, coi đất nước là của riêng đảng, coi dân chỉ là bầy nô lệ, giáo điều và sắt máu, Đảng Cộng sản đang đưa đất nước đến những thảm họa như thảm họa nông nghiệp thời hợp tác xã lụn bại 1966.
Trên con đường chạy đua kinh tế, Việt Nam đang bị các nước bỏ lại phía sau ngày càng xa. Đất nước đang ngày càng tan hoang bởi sự xâu xé, vơ vét, tàn phá của các nhóm lợi ích được sự thao túng của Đảng Cộng sản. Khi Đảng Cộng sản đã đặt đảng lên trên đất nước, đặt lợi ích của đảng lên trên lợi ích dân tộc, coi sự sống còn của Đảng còn cần thiết hơn sự sống còn của giống nòi thì Đảng đã trở thành nhóm lợi ích lớn nhất, nguy hại nhất, mờ ám nhất, quyền uy nhất nên cũng khốn nạn nhất: Nhóm lợi ích làm ra pháp luật, đứng trên pháp luật vơ vét của cải, tài nguyên của nước, mồ hôi, xương máu của dân cho một nhóm người nhân danh đảng.  Đất nước đang ngày càng chìm sâu vào đêm tối của bất công, bạo lực và tham nhũng. Người dân ngày càng bị áp bức về tinh thần, bóc lột về vật chất và thân phận nô lệ ngày càng bị trói chặt bởi chằng chịt những bộ luật tước đoạt quyền con người, quyền công dân của người dân mà bộ luật cướp đoạt man rợ nhất quyền con người của người dân là Luật An ninh mạng.
Như Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc nhận ra làng quê Vĩnh Phú của ông xác xơ nghèo đói là do người nông dân không được làm chủ mảnh ruộng của mình. Trái tim con người Chu Hảo cũng đau thắt khi con mắt nhà khoa học Chu Hảo nhận ra đất nước Việt Nam thân yêu đang tan hoang, đang bị xâm lăng đe dọa, người dân Việt Nam đang chịu bao cay đắng cơ cực, bất công vì người dân không được làm chủ đất nước. Lập Nhà xuất bản Tri thức, xuất bản những cuốn sách mang ánh sáng dân chủ, dân quyền, nhà khoa học Chu Hảo không phải chỉ nhằm thức tỉnh người dân về quyền con người, về trách nhiệm công dân trước vận mệnh, thịnh suy của nước. Là đảng viên cộng sản, nhà khoa học Chu Hảo chủ trương cho Tri thức xuất bản tủ sách Tinh Hoa còn hướng tới đảng của ông về trách nhiệm lịch sử với dân với nước. Muốn đi tới nền văn minh công nghiệp, nước nào cũng phải đón nhận triết học khai sáng, giải phóng cá nhân, nhìn nhận quyền con người, quyền công dân của người dân, trả lại quyền làm chủ đất nước cho người dân. Triết học ánh sáng ở châu Âu thời Phục hưng thế kỉ 17, giải phóng con người, tách cá nhân khỏi bầy đàn dẫn đến cách mạng tư sản dân quyền thế kỉ 18, long trọng khẳng định quyền con người, quyền công dân, quyền tư hữu tài sản, đưa châu Âu vào thời công nghiệp phát triển rực rỡ suốt mấy trăm năm cho đến tận hôm nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền đang làm điều ngược lại. Đầu thế kỉ 20, nước mất, dân nô lệ nhưng Tự Lực Văn Đoàn và Thơ mới đã ghi nhận một dấu mốc lịch sử: cái Tôi cá nhân không còn lẫn trong đám đông. Cái Tôi cá nhân đã tách ra khỏi bầy đàn, đã có mặt trong cuộc đời và được xã hội nhìn nhận. Một thế kỉ sau, đầu thế kỉ 21, nước độc lập nhưng trong nhà nước cộng sản độc tài với những điều 109, điều 116, điều 331 của bộ luật hình sự và Luật An ninh mạng, cái Tôi cá nhân đã bị xóa bỏ! Không có cái Tôi cá nhân, cũng không có quyền con người, không có quyền công dân, không có quyền tư hữu. Đó là bước thụt lùi thảm hại, đau đớn, nhục nhã của dân tộc, của lịch sử Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam phải chịu trách nhiệm.
Xuất bản tủ sách Tinh Hoa, nhà khoa học là đảng viên cộng sản Chu Hảo trước hết đã mang triết học khai sáng đến giúp những người lãnh đạo đảng của ông nhận ra ánh sáng tư tưởng mà dân tộc nào, đất nước nào muốn đi tới văn minh công nghiệp đều phải tiếp nhận. Xuất bản tủ sách Tinh Hoa, nhà khoa học Chu Hảo đã mang ánh sáng văn minh nhân loại cứu đảng của ông đang lạc lõng trong tăm tối triết học Mác Lê nin sai lầm và tội ác. Như hiền tài Kim Ngọc cứu đảng về kinh tế nông nghiệp thời hợp tác xã nông nghiệp lụn bại năm 1966.
Với “Khoán hộ”, hiền tài Kim Ngọc đã cứu Đảng Cộng sản về kinh tế nhưng Kim Ngọc đã bị đảng kiểm điểm. Phải nhận "có sai lầm nghiêm trọng trong khoán hộ" với đảng và xin rút khỏi chức Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú nhưng với những người thân cận chí cốt bên ông, người cộng sản hiếm hoi thực sự vì dân Kim Ngọc vẫn tha thiết nhắc nhở: Phải để nông dân làm chủ mảnh đất của mình. Không thể bỏ khoán hộ. Bỏ khoán hộ là đói. Phải tìm mọi cách duy trì dưới mọi hình thức khác nhau. Nhà khoa học Chu Hảo xuất bản tủ sách Tinh Hoa đã cứu đảng của ông về tư tưởng. Nhưng Ủy ban Kiểm tra trung ương đảng đã luận tội và đề nghị cấp có thẩm quyền kỉ luật ông. Không thể để những rô bốt không tim, không óc xúc phạm danh dự con người, nhà khoa học Chu Hảo tuyên bố từ bỏ Đảng Cộng sản. Hai tuần sau khi nhà khoa học Chu Hảo đã ra khỏi đảng, Đảng Cộng sản vẫn cố làm việc hèn hạ là khai trừ ông và dùng truyền thông, dùng những rô bốt đấu tố ông.
Từ nửa sau thế kỉ 20, loài người đang liên tiếp tiến những bước thần kì trong những cuộc cách mạng của trí tuệ. Bắt Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc phải nhận “sai lầm nghiêm trọng trong khoán hộ" cũng như kỉ luật khai trừ đảng nhà khoa học Chu Hảo vì xuất bản những cuốn sách mang trí tuệ khai sáng, Đảng Cộng sản đang dấn sâu vào tội ác với nhân dân, với lịch sử Việt Nam, tội ác chống lại văn minh nhân loại. Bền bỉ và quyết liệt loại bỏ hiền tài và trí tuệ trong đảng, Đảng Cộng sản đang tự diệt vong trước khi bị nhân dân và thời đại ném vào sọt rác lịch sử.
P.Đ.T.
Tác giả gửi BVN