Thứ Hai, 31 tháng 10, 2016

20161031. SỰ LỰA CHỌN 'KHÔN NGOAN' ?

ĐIỂM BÁO MẠNG
VIỆT NAM: CHỌN CẢ TRUNG QUỐC LẪN  MỸ LÀ KHÔN NGOAN
BBC/ BVN 31-10-2016
clip_image002
Ông Đinh Thế Huynh, Thường trực Ban Bí thư, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng CSVN họp báo chung với Ngoại trưởng Mỹ John Kerry hôm 25/10/2016 tại Washington D.C. Image copyright AP
Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn Trung Quốc là đối tác chính trị, trong khi Hoa Kỳ là đối tác an ninh và sự lựa chọn này là ‘khôn ngoan’, theo bình luận của nhà phân tích chính trị Việt Nam về các chuyến thăm Mỹ và Trung Quốc cùng trong tháng 10/2016 của Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Đinh Thế Huynh.
Trao đổi với bàn tròn của BBC tuần này về chuyến thăm của chính khách cao cấp của Đảng CSVN tới Mỹ, nhà nghiên cứu Vũ Cao Phan, nguyên Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội hữu nghị Việt - Trung, nói:
“Nếu Trung Quốc là lựa chọn chính trị của Việt Nam như lời tuyên bố của ông Huynh, thì Hoa Kỳ là lựa chọn an ninh của Việt Nam, đó là cái mà tôi có thể nhận xét, đánh giá qua chuyến đi của ông Đinh Thế Huynh thăm Mỹ”.
Khi được hỏi liệu các ‘lựa chọn’ chiến lược trên là mâu thuẫn hay thống nhất, biện chứng với nhau, nhà nghiên cứu chính trị và bang giao quốc tế từ Đại học Bình Dương nói:
“Tôi nghĩ là hoàn toàn thống nhất... Tôi cho rằng lựa chọn của Việt Nam là khôn ngoan và chuyến đi thăm Trung Quốc (của ông Đinh Thế Huynh) ngắn ngày hơn chuyến thăm Mỹ. Và tất cả những gì có thể truyền tải được đã thông qua bản thân thời hạn của chuyến đi thăm này.
“Nó không có gì mâu thuẫn cả và nhất là đối với phía Việt Nam xưa nay ta vẫn nói là Việt Nam thực hiện khá tốt chuyện cân bằng giữa các nước lớn, thì chuyến đi này cũng thể hiện điều đó. Tôi nghĩ rằng cả hai phía Mỹ và Trung Quốc nếu có bình luận gì, thì (chỉ) có thể bình luận tích cực mà thôi”.
Về ý nghĩa và mục đích chuyến thăm Mỹ của ông Đinh Thế Huynh, Tiến sỹ Vũ Cao Phan nhân dịp này đưa ra nhận xét:
“Đối với ông Đinh Thế Huynh, chuyến đi này có nhiều ý nghĩa, tôi có cảm giác nó khá giống với trường hợp của ông Phạm Quang Nghị, Bí thư Thành ủy Hà Nội trước đây, cũng như với ông Phạm Quang Nghị, ông Đinh Thế Huynh là người được dư luận cho là được Tổng Bí thư bảo trợ, nâng đỡ và lựa chọn.
“Cho nên chuyến đi này của ông ấy chắc chắn có hai mục đích, một là giới thiệu với các giới chức Mỹ và mục đích thứ hai là cơ hội ông tìm hiểu xã hội Mỹ và tôi nghĩ tất cả những điều này là rất quan trọng, ngoài mang tính chất nghi thức, nhất là thời gian kéo dài cả một tuần.
“Chuyến đi có thể nói là một công việc tích cực từ phía Việt Nam, nó cũng có thể trấn an với Mỹ sau những rắc rối do Tổng thống Philippines, những lời tuyên bố của Tổng thống Philippines làm Mỹ lúng túng, liên quan đến (chiến lược) châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ.
“Nhất là có thể kết nối với lời tuyên bố của Tướng Nguyễn Chí Vịnh, Tướng Nguyễn Chí Vịnh là một người có vai trò quan trọng trong nền ngoại giao của Việt Nam, là ‘Việt Nam cam kết hỗ trợ Mỹ và đồng minh can thiệp vào tình hình khu vực, miễn sao điều đó mang lại hòa bình, ổn định và thịnh vượng.
“Tiếp nối với tuyên bố của Tướng Nguyễn Chí Vịnh, tôi cho với phía Việt Nam, chuyến đi của ông Đinh Thế Huynh có những ý nghĩa như thế. Thứ hai với phía Mỹ, Mỹ cũng mong mỏi chuyến đi này, chỉ cần suy luận thôi, chứ không cần nhìn vào tính chất đón tiếp có thể nói là chính thức và trọng thị của Mỹ”, Tiến sỹ Vũ Cao Phan nói với Bàn tròn Thứ Năm của BBC hôm 27/10.

Quá nhiều lựa chọn?

Quan hệ Việt - Mỹ: Hai bên sẽ đối thoại ‘thẳng thắn’
Từ Sài Gòn, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội Nhà báo độc lập Việt Nam (IJAVN) đưa ra bình luận về lựa chọn đối tác chiến lược của Việt Nam, ông nói:
“Trở lại vấn đề lựa chọn như thế nào mà chúng ta (Bàn tròn Thứ Năm) vừa nêu, ông Đinh Thế Huynh nói rằng ‘Trung Quốc là ‘lựa chọn chính trị’ của Việt Nam, còn Tiến sỹ Vũ Cao Phan... có nêu như vậy Hoa Kỳ có thể là ‘lựa chọn an ninh’ của Việt Nam, tôi cảm thấy là có nhiều quá, có vô số lựa chọn.
“Lựa chọn nhiều đến nỗi mà năm 2014, chúng ta (Việt Nam) nhớ lại, đau đớn vô cùng là khi nổ ra vụ Giàn khoan HD-981 của Trung Quốc..., khi đó Việt Nam thủ trong túi một chục đối tác chiến lược, trừ Hoa Kỳ, một chục đối tác chiến lược trong đó có Nga, trong đó có Trung Quốc và không một ai chìa tay ra cho Việt Nam.
“Đó là lựa chọn của Việt Nam ư? Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước như vậy à? Nhiều quá và cuối cùng là không có gì cả. Đó là một triết lý sống còn đối với giới lãnh đạo Việt Nam và với dân tộc Việt Nam, tôi xin nhắc lại điều đó...
“Liên quan chuyến đi của ông Đinh Thế Huynh..., tôi cho rằng có một điều gì đó liên quan tới chuyến đi của ông Phạm Quang Nghị vào năm 2014, năm 2014, ông Nghị được ông (Nguyễn Phú) Trọng cử đi một cách thầm kín và sau đó khi về, ông Nghị phải chịu một đợt tấn công trong nội bộ và sau đó ông Nghị ‘biến mất’.
“Không biết là lịch sử có lặp lại đối với ông Đinh Thế Huynh hay không? Và nếu như lặp lại với ông Đinh Thế Huynh thì coi chừng kỳ này, sau khi đi Mỹ về ông Huynh cũng phải chịu những ‘chỉ trích’ là nhẹ nhàng nhất ở trong nội bộ hay là một cuộc tấn công nào đó và sau đó cũng có một khả năng là ông Huynh “biến mất” trong ngoặc kép, đó là một.
“Vấn đề thứ hai nữa là nếu như lịch sử lặp lại, chúng ta nhớ là cuối tháng 7/2015, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đi Mỹ và sau khi đi Mỹ về xảy ra một ‘cuộc chiến quyền lực’ đặc biệt giữa ông Nguyễn Phú Trọng và ông Nguyễn Tấn Dũng. Như vậy tôi tự hỏi là liệu sau chuyến đi của ông Đinh Thế Huynh đi Hoa Kỳ, lần này có xảy ra một cuộc chiến quyền lực nào không.
“Và nếu có xảy ra thì giữa ông Huynh với ai? Đó là một vấn đề mà chúng ta cũng cần nêu lại và có thể chờ xem nếu độ trễ trong cuộc chiến quyền lực của ông Nguyễn Phú Trọng là khoảng sáu tháng sắp tới Đại hội 12, thì cuộc chiến quyền lực của ông Huynh, nếu có, sắp tới, nó phải nằm ở khoảng giữa năm 2017.
“Và giữa năm 2017, tôi nghe thông tin cũng là thời điểm, khoảng thời gian quan trọng để gút những vấn đề nhân sự then chốt để chuẩn bị cho Đại hội giữa nhiệm kỳ và nếu như đúng cam kết, ông Trọng sẽ nghỉ sau hai năm tại vị”, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng nói với BBC.

Đúng nhưng không đủ

clip_image003
Đây là chuyến thăm Mỹ đầu tiên trên cương vị Thường trực Ban Bí thư và Ủy viên Bộ Chính trị ĐCSVN của ông Đinh Thế Huynh. Image copyright AP.
Từ Hà Nội, Tiến sỹ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu cao cấp khách mời của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore (ISEAS), người đồng thời là Chủ tịch của Think tank ‘Viet Know’ đưa ra bình luận về các chuyến đi của ông Đinh Thế Huynh tới các cường quốc quan trọng trong bang giao quốc tế của Việt Nam trong tháng Mười, trong đó có chuyến thăm tới Trung Quốc, ông nói:
“Bình luận mà nói Việt Nam lựa chọn quan hệ... mà nói là Trung Quốc là lựa chọn chính trị trong quan hệ, nó cũng đúng thôi nhưng mà không đủ. Nó còn nhiều thứ quan hệ khác: quan hệ láng giềng, quan hệ địa chính trị, quan hệ địa chiến lược, quan hệ ý thức hệ v.v...
“Thế nhưng có một câu nói rất nôm na mà ông (Đinh Thế) Huynh nhắc lại ở bên Trung Quốc, sau tất cả những gì đã được ghi ra, có một câu tôi rất thích là nói với Trung Quốc là ‘lời nói là đi đôi với việc làm’... Câu này bản thân ông Trần Đại Quang (Chủ tịch Việt Nam) trong bài phát biểu của ông ở Viện Iseas ở Singapore, gọi là bài số 38, ông Trần Đại Quang cũng nhắc đến câu ấy, bằng cách nhắc lại lời của cố Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu ‘đã hứa là phải làm’...
“Đây là một tồn tại trong quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, có một số lần mà Trung Quốc nói nhưng lại làm khác đi, như thế ông Đinh Thế Huynh ở Trung Quốc cũng rất đàng hoàng, cũng nói rất rõ, chứ không có gì là cấn cái cả.
“Và theo sự hiểu biết thông thường, Việt Nam không có cái gì phải để lệ thuộc vào Trung Quốc hết, Việt Nam là một nước độc lập, có một nền ngoại giao, đối ngoại độc lập, có một nền kinh tế độc lập và rõ ràng quan hệ Việt Nam với các nước thể hiện rất rõ bằng hai chữ rất quan trọng là ‘vừa là đối tác, vừa là đối tượng’.
“Có nghĩa là cụ thể hóa hơn với Trung Quốc là ‘vừa hợp tác, vừa đấu tranh’, cho nên những bình luận khác tôi thấy cũng có lý do của nó, nhưng về mặt hiểu biết chính thống và theo lẽ phải thì hiểu như vậy thôi”, Tiến sỹ Hà Hoàng Hợp đưa ra bình luận với BBC, đặc biệt liên quan tới việc có ý kiến đặt dấu hỏi về ý nghĩa và nguyên do của việc ông Đinh Thế Huynh thăm Trung Quốc trước khi đi Mỹ trong cùng tháng này.

Nước xa, lửa gần

clip_image004
Việt Nam lâu nay vẫn kiên trì quan điểm và chiến lược đối ngoại ‘muốn làm bạn’ với tất cả c nước trên thế giới. Image copyright EPA.
Từ Đại học Maine, Hoa Kỳ, Giáo sư Ngô Vĩnh Long, sử gia và nhà phân tích chính trị, bang giao quốc tế và Việt Nam bình luận về các chuyến thăm Trung Quốc và Hoa Kỳ trong tháng Mười của ông Đinh Thế Huynh, Thường trực Ban Bí thư Đảng CSVN và chính sách, chiến lược quan hệ của Việt Nam.
Giáo sư Long nói:
“Đối ngoại (Việt Nam) đối với Trung Quốc, Trung Quốc là nước ‘núi liền núi, sông liền sông, biển liền biển’ với Việt Nam, thì phải đối đãi với Trung Quốc như thế nào để cho nó (nước này) khỏi gây những khó khăn cho Việt Nam liền liền.
“Việt Nam có câu là ‘nước xa, lửa gần’, thì không thể lựa chọn một nước nào đó để đối trọng với Trung Quốc được.
“Tất nhiên là mình (Việt Nam) cần có một chính sách đối ngoại như thế nào để đảm bảo an ninh cho Việt Nam...
“Vấn đề lâu dài là vấn đề rất quan trọng, lâu dài không chỉ là đối với Mỹ, đối với Nhật và với nhiều nước khác trong khu vực.
“Thành ra nếu chúng ta phân tích, đánh giá như vậy, tôi thấy chuyến đi của ông Huynh hay là chuyến đi của các vị khác ở Việt Nam đối với nước khác thì cũng phải nhìn vào vấn đề tổng thể.
“Thế còn mình nhìn vào vấn về nhân sự, nhiều khi tôi thấy là sai”, Giáo sư Ngô Vĩnh Long nói với BBC.
Mời quý vị bấm vào đây để theo dõi toàn văn Tọa đàm Bàn tròn của BBC về chuyến thăm Mỹ của ông Đinh Thế Huynh.
BBC sẽ tiếp tục giới thiệu ý kiến, quan điểm của các chuyên gia, nhà phân tích là khách mời của Bàn tròn này, mời quý vị đón theo dõi.
TRỞ VỀ, ĐI TỚI
TUẤN KHANH/ BVN 31-10-2016
Trong một chuyến đi quốc nội, vô tình đoàn người đang xếp hàng lấy vé ra máy bay bỗng xuất hiện vài người khách Trung Quốc. Đó là những người khách hết sức ung dung. Họ ăn nói lớn tiếng, cười to và tự nhiên, không khác gì dân bản xứ. Hàng dài người Việt đang xếp hàng im lặng nhìn. Mỗi người một suy nghĩ.
Bất chợt 2 người khách Việt nói với nhau “Không biết mình qua Trung Quốc có tự nhiên được vậy không?”. Lời tán gẫu nhỏ, nhưng lại đủ cho vài người chung quanh nghe. Đột nhiên ai nấy đều cười. Những nụ cười khôn cùng ý nghĩa. “Thì tụi nó qua đây, tự nhiên như nước nó rồi còn gì”, một người khác nói bâng quơ, nhưng như muốn tất cả những người Việt còn lại cùng nghe. Trên mỗi gương mặt Việt lại có một nụ cười. Cũng thật khó tả.
Một người đàn ông lớn tuổi, đầu bạc trắng, cắt ngắn, đi dọc với tôi, kể rằng vừa rồi ông gặp một người khách Trung Quốc. Câu chuyện về ranh giới quốc gia, khác biệt dân tộc, chiến tranh… lại nổ ra. Người Trung Quốc rất tự tin, nói rằng từ nhỏ, ông ta đã được học về lịch sử, nói rằng Việt Nam thuộc về Trung Quốc từ ngàn năm, nhưng sau đó làm phản và tách ra. Vì vậy chuyện phải quay trở về mẫu quốc là điều tất nhiên. “Tụi tao có một tỷ người học thuộc điều đó, tụi mày chỉ có một trăm triệu, cãi không lại tụi tao đâu”, người khách Trung Quốc này cười lớn. Dù không ác ý, nhưng sự diễn đạt rất thật của ông làm tôi lẫn người đàn ông Việt tóc bạc khi kể cho nhau nghe, đều nao lòng.
Nếu như quả có một cuộc trở về định mệnh như vậy, thật xót xa cho lịch sử hàng ngàn năm của cha ông Việt đã chống chọi, bứt xiềng gông cho con cháu hôm nay. Một cuộc trở về như vậy, có lẽ chỉ có một ít người muốn, còn tất cả còn lại đều đau đớn, căm gan. Nhưng hôm nay, dường như mọi thứ đang “đi tới” chứ không phải “trở về”.
Cuối tháng 10, ba chiếc tàu chiến Trung Quốc ghé cảnh Cam Ranh. Chính quyền tỉnh Khánh Hòa huy động người dân và đoàn thể ra phất cờ tiếp đón binh lính Trung Quốc. Chiếc tàu dẫn đầu là Tương Đàm 531, tên gọi của chiếc chiến hạm đã tấn công Gạc Ma năm 1988, thảm sát 64 binh sĩ quân đội nhân dân Việt Nam khi không có khả năng kháng cự. Nhiều năm sau cuộc chiến Gạc Ma, chiến hạm này đã được bán cho Bangladesh, nhưng vì cái tên Xiangtan/Tương Đàm gợi nhớ về chiến công hiển hách năm 1988, nên khi đóng tàu mới, chiến hạm Tương Đàm lại ra đời như niềm kiêu hãnh của ngành hải quân Trung Quốc. Điều khác nhau duy nhất là chiếc Tương Đàm cũ, có số hiệu 556, còn chiếc mới có số hiệu 531.
Khi ca sĩ Khánh Ly hát ở Sài Gòn, mọi sự ngăn cấm của các quan chức đều dựa trên ý rằng “không muốn gợi nhớ về một quá khứ không tốt”. Sau năm 1975, hơn 15.000 đầu sách của hai nền Cộng hòa miền Nam Việt Nam bị đốt, bị cấm và bị truy lùng vì cho là “gợi lại hình ảnh và văn hóa đồi trụy”. Hàng chục ngàn bài hát cùng các văn nghệ sĩ miền Nam bị cấm, cô lập như kẻ thù. Thậm chí có người đã phải vào tù vì có “tội lỗi với nhân dân”… Ấy nhưng Tương Đàm, cái tên đẫm máu người Việt ngang nhiên mang quá khứ đi vào hiện tại, từ Gạc Ma vào nơi quan yếu của Việt Nam, Cam Ranh, lại được chính quyền mở champagne chào đón.
Chắc những người được lệnh chào đón ba chiếc tàu chiến Trung Quốc cũng không biết rằng, vào lúc này, Bắc Kinh đã hoàn thành xong vành đai chiến lược để bao vây đảo Trường Sa của Việt Nam. Phi đạn và chiến đấu cơ của Trung Quốc tạo nên một vòng hỏa tuyến từ đảo đá Chữ Thập, Su Bi, Châu Viên, Vành Khăn, Gaven, Tư Nghĩa, nối đến Gạc Ma. Từ đây, Trung Quốc có khả năng uy hiếp trực tiếp Sài Gòn, Cam Ranh và Trường Sa. Tờ Focus Taiwanđưa tin này, mới đây, vào ngày 18/10/2016.
Người Trung Quốc chắc không còn nói chuyện Việt Nam trở về, mà hình như họ chọn cách đi tới, vì mọi thứ đều đã thuận lợi. Hôm nay thì chính quyền tỉnh Quảng Ninh đã chính thức có chính sách mỗi ngày cho 100 xe Trung Quốc lái thẳng vào Việt Nam. Một sự ưu ái khá lạ lùng và sẽ sớm là chuyện của các cửa khẩu ở những vùng khác noi theo, mà chắc con số 100 xe mỗi ngày sẽ dần chỉ là thông báo ước lệ.
Không lâu nữa, năm 2018, bởi những ràng buộc bởi Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN - Trung Quốc (ACFTA), một loại thỏa ước thương mại mà Bắc Kinh lập ra để đối đầu với TPP của Mỹ, từ Trung Quốc, các loại động vật sống dùng để nhân giống; nhiều loại thịt, nhiều loại thuỷ hải sản đông lạnh và hoa quả sẽ được miễn thuế 0% khi vào Việt Nam. Thật đúng lúc, giữa lúc bốn tỉnh miền Trung chịu nạn biển nhiễm độc, lũ lụt tàn phá hoa màu, nhà cửa, giới chăn nuôi khánh kiệt… thì ngay lúc họ chuẩn bị hồi phục, đã bị nhấn chìm trong cơn đại hồng thủy nhập khẩu 0% từ Trung Quốc.
Tôi có kể với bạn về chuyện người Trung Quốc học lịch sử rằng Việt Nam phải trở về mẫu quốc? Có một sự thay đổi nhỏ, có màu máu và nước mắt, là chính quyền Cộng sản Trung Quốc đang sốt ruột đi tới thật nhanh, chứ không đợi ai đó trở về. Cuộc đi tới này lộng lẫy và man rợ không kém gì các đạo quân của Thành Cát Tư Hãn tràn tới: cỏ không thể mọc, con người chỉ còn biết quỳ xuống và ngửa mặt khóc than vì sao đất nước chúng ta lại đến nông nỗi như vầy.
Trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tháng 9 năm nay, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã hứa là sẽ sớm quyết việc thanh toán thương mại Việt Nam - Trung Quốc bằng đồng Nhân dân tệ. Còn bà Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, người tháp tùng Thủ tướng, thì hân hoan nói rằng chuyện này không khó, vì lâu nay các tỉnh phía Bắc đã “thử” làm như vậy rồi. Không biết Quốc hội Việt Nam có biết về việc này không? Liệu Quốc hội mới có ít hơn những kẻ ngủ gục, chơi game và xin nghỉ sớm để lên tiếng về những hiểm họa như vậy? Bất kỳ ai có một học vấn tối thiểu cấp trung học, cũng đều hiểu việc Nhân dân tệ hóa nền kinh tế Việt Nam mang đến nguy cơ lệ thuộc như thế nào. Đặc biệt, Trung Quốc đang “đi tới” rất ào ạt trong sự hân hoan của những kẻ như bà Nguyễn Thị Hồng, và trong với bối cảnh vô cùng thuận lợi khi hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đồng bộ hô to chương trình chống đô-la hóa bằng Quyết định 2589/QĐ-NHNN, hạ lãi suất tiền gừi bằng đô-la.
Trung Quốc đang biến nhiều quốc gia châu Phi trở thành những chư hầu kinh tế, cũng bằng cách dùng nhân dân tệ hóa như vậy. Hiện tại Zimbabwe, Angola và Nam Phi đã trở thành những quốc gia lệ thuộc kinh tế nặng nề vào Trung Quốc khi áp dụng thanh khoản bằng đồng Nhân dân tệ. Bạn nghĩ rằng chỉ là vấn đề thương mại? Áp lực kinh tế này, cũng đã trở thành áp lực chính trị khiến Nam Phi 3 lần từ chối cấp visa cho Đức Đạt Lai Lạt Ma, chỉ vì muốn ve vuốt Bắc Kinh. Đại hội những người đoạt giải Nobel Hòa bình tại Cape Town ở Nam Phi vào năm 2014, kể cả thị trưởng của thành phố cũng đã tuyên bố hủy hội nghị, nhằm tố cáo vì Pretoria đã cúi đầu trước Trung Quốc. Campuchia cũng vậy, trong vòng xoáy trở thành chư hầu của Bắc Kinh để chống lại Việt Nam, chính quyền này cũng đã ướm việc chính thức thanh toán bằng đồng Nhân dân tệ, khởi đầu bằng du lịch.
Trong câu chuyện mà người đàn ông nói giọng Bắc, tóc bạc, kể với tôi về cuộc trò chuyện với người Trung Quốc. Giọng cười của ông rất sảng khoái. Một người biết ông, nói nhỏ với tôi rằng ông đã cùng gia đình tim đường định cư ở nước ngoài rồi. Có lẽ, vì vậy mà giọng cười của ông rất nhẹ nhàng, tiếng cười của một người đứng ngoài một nồi nước sôi sùng sục, hé nắp nhìn vào.
Nhưng tôi và hàng triệu con người khác - những người ở trong nồi - chắc không thể an nhiên được như ông. Vì bởi chúng ta là những người ở lại, là những người không có khả năng ra đi hay đã quyết chọn sống còn trên mảnh đất này. Tôi chắc rằng sẽ không có nhiều những kẻ muốn “trở về” trong chiếc nồi đóng kín nắp ấy. Nhưng chúng ta lại chứng kiến một cuộc đi tới, chà xát mọi thứ, không có sự xót thương di sản cha ông để lại. Cuộc đi tới của những chiến hạm Trung Quốc, của những đoàn xe tự do đi lại trên đất nước này, những đợt cuồng phong áp thuế 0% dẫm nát nông dân Việt Nam, và có thể có cả những đồng Nhân dân tệ mà chúng ta sẽ cầm trên tay để làm quen, không còn xa nữa.
Tôi vừa leo ra khỏi nắp nồi ấy, bằng hy vọng và sự thật về quê hương của mình. Và tôi nhận thấy mình có một niềm tin mới, rằng sẽ không có một sự “trở về” hay “đi tới” nào cả. Dân tộc này, đất nước này không thể đi vào khốn khó, nếu người người cùng nuôi hy vọng và nhìn bằng sự thật về đất nước mình, dân tộc mình, và cùng nhau leo ra khỏi nắp nồi đóng kín đó, trước khi quá muộn.

Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2016

20161030. BÀN VỀ 'TÁC DỤNG PHỤ'

ĐIỂM BÁO MẠNG
TÁC DỤNG PHỤ HAY TAI HỌA TẤT YẾU SINH RA TỪ CỘNG SẢN
NGUYỄN ĐÌNH CỐNG/ BVN 30-10-2016
Kết quả hình ảnh cho TÁC DỤNG PHỤ
Trong bài “Đại bi kịch Việt nam” tôi có viết: “Công nhận rằng những tai họa do sự phá nát, sự hủy hoại này (truyền thống văn hóa, đạo đức, môi trường, đất nước, dân tộc) không phải là ý đồ tự giác của CS, họ không cố tình làm những việc đó, nhưng nó là kết quả tất yếu của đấu tranh giai cấp, của vô sản chuyên chính, của công hữu hóa tư liệu sản xuất, của nền độc tài Đảng trị. Những tai họa tất yếu này ban đầu những người CS chưa nhận thấy, đến khi nó bộc lộ rõ thì cố tinh bưng bít, che giấu, ngụy biện để đổ vấy cho các thế lực thù địch”. Bài này xin trình bày rõ hơn.
Tác dụng phụ hoặc phản ứng phụ là thuật ngữ thường dùng trong y tế. Thí dụ thuốc chữa đau tim lại có tác dụng phụ làm hại dạ dày, thuốc chữa dạ dày làm hại gan, thuốc chữa gan làm hại thận v.v… Thế rồi một bệnh nhân, chữa được bệnh tim lại bị chết vì suy gan, suy thận. Mà chết vì dùng thuốc chứ ngay từ đầu gan và thận vẫn tốt. Tác dụng phụ của một loại thuốc nào đó là điều không mong muốn, không có trong mục đích của người nghiên cứu tìm ra công thức và người sản xuất thuốc, nhưng là kết quả tất yếu phải xảy ra, không tránh được khi dùng đúng công thức đó để bào chế. Muốn khắc phục tác dụng phụ thì bắt buộc phải thay đổi công thức. Trong xã hội tác dụng phụ xẩy ra khắp nơi và có khi cái phụ lại chuyển hóa thành chính vì nó tạo ra ảnh hưởng rất lớn, làm mất tác dụng của mục đích chính. Thí dụ thuốc Viagra và vụ Nước mắm có chứa chất asen.
Thuốc Viagra được bào chế để chữa bệnh tim. Trong quá trình sử dụng các bệnh nhân phát hiện ra nó có tác dụng phụ làm cương cứng dương vật. Điều này người bào chế không hề biết trước. Thế là người ta chuyển sang dùng nó để chữa yếu sinh lý của nam giới mà phần lớn quên mất mục đích ban đầu là chữa bệnh tim. Vụ nước mắm nhiễm asen, mục đích chính của người tạo ra thông tin là để người dân bớt dùng nước mắm truyền thống và tăng việc dùng nước mắm công nghiệp. Nếu ý đồ này thành công thì có tác dụng phụ là làm sụp đổ một nền sản xuất nước mắm của dân tộc. May thay, nhờ Trời Đất, Tổ tiên phù hộ mà đã kịp thời thoát khỏi tai họa, lúc này lại phát sinh tác dụng phụ khác, quay lại với những kẻ chủ mưu.
Sau khi tin nước mắm truyền thống nhiễm asen được tung ra, các cửa hàng nước mắm vội thu lại hàng triệu sản phẩm của Phú Quốc, Phan Thiết…, những kẻ chủ mưu vội vã ăn mừng, chúc tụng nhau vì thắng lớn. Không ngờ rồi “gậy ông đập lưng ông”. Sau khi âm mưu bị vạch trần, họ đang đứng trước nguy cơ phá sản hoàn toàn. Vì sao để xẩy ra như vậy? Đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa ba tính chất: đểu, tham và ngu. Đã ngu rồi, tính đểu và tham làm ngu trầm trọng thêm. Nếu không quá ngu thì phải dự đoán được những phản ứng, những tác hại có thể xẩy ra. Cái lợi tưởng có thể đạt được đã làm tối trí, làm mờ mắt, làm thối nát lương tâm họ.
Thông thường, khi người ta thấy được một mối lợi nào đó hay bị nó quyến rũ, không thấy hết những cái hại đi kèm theo, ẩn nấp đàng sau, sẵn sàng xông ra phát huy tai họa. Khổng Tử có lời khuyên: “Kiến lợi tư nghĩa” (khi thấy lợi phải nghĩ đến điều nghĩa), chứ không phải thấy lợi thì tập trung nghĩ về nó đến mụ mẫm, không thấy cái hại đi kèm. Ở Ba Tư cổ có châm ngôn nổi tiếng: “Khi định làm việc gì phải thấy cho hết những tác hại mà việc đó có thể mang lại”. Những tác hại ở đây chính là các tác dụng phụ, các phản ứng không mong muốn kèm theo.
Quay về với chủ thuyết cộng sản. Trong bài “Một số nhầm lẫn của Mác” tôi đã nhận xét Mác là một con người có lòng tốt đối với giai cấp vô sản, là người có một trình độ thông minh nhưng bị hạn chế nên trong khi cố làm những điều tốt đẹp đã phạm một số nhầm lẫn. Lúc còn trẻ Mác vạch ra con đường đấu tranh giai cấp, làm CM với mục đích chống bóc lột, chống áp bức, mang lại sự công bằng xã hội, hạnh phúc cho giai cấp vô sản và hăng hái cổ vũ, đấu tranh cho nó. Đến cuối đời, Mác có nhận ra một số tác dụng phụ nguy hiểm khi CM vô sản đã thành công. Đó là sự lạm dụng quyền lực để rồi tái thiết lập một hình thái áp bức mới. Nhưng đã quá muộn. Người ta vội vàng theo lý thuyết đấu tranh mà coi nhẹ hoặc quên mất tác dụng phụ mà Mác đã chỉ ra. Tuy vậy những tác dụng phụ đó là do Mác suy luận chứ chưa có thực tiễn chứng minh. Sau này khi các đảng cộng sản nắm được chính quyền thì nhiều tác dụng phụ nguy hại mới phát sinh, phát triển một cách mạnh mẽ, không sao ngăn ngừa và khắc phục được, vì nó là kết quả tất yếu, mặc dù không hề mong muốn, không có chủ ý.
Thế tác dụng phụ của CS là những thứ gì? Đó là những độc hại chứa đựng trong bản thể của nó. Một cách ngắn gọn và cụ thể, đó là những thứ tệ nạn, tai họa mọi mặt mà bạn thấy trong xã hội Việt Nam hiện nay do sự lãnh đạo và quản lý của ĐCS mang lại.
Những người cộng sản đầu tiên của Việt Nam với lòng yêu nước nồng nàn, chỉ thấy mặt tích cực của chủ thuyết CS là theo nó có thể giải phóng được dân tộc khỏi ách thuộc địa và xây dựng một tương lai tươi sáng mà chưa thấy được các tác dụng phụ nên hăng hái, vội vàng du nhập và phát triển. Tác dụng phụ là sự độc tài toàn trị sẽ dẫn dân tộc vào con đường lụn bại. Trong bài “Đuổi hổ cửa trước, rước sói cửa sau” tôi đã phân tích một vài ý như vậy. Khi những tác dụng phụ đã phát tác, một số người cộng sản VN, quá ngây thơ vì giáo điều, chỉ biết tin vào sự tốt đẹp của mục đích hoang tưởng mà không thấy rõ các tác dụng đó là kết quả tất yếu của chủ thuyết nên đã tìm cách quy kết nguyên nhân cho sự phá hoại của các thế lực thù địch, cho bọn phản động hoặc cho một số người không giữ được phẩm chất cần thiết. Họ không biết rằng những con người đó, những hành động đó là sản phẩm tất yếu của chế độ. Trừ một số bọn cơ hội, biết rõ tác hại của CS nhưng vẫn cố duy trì vì lợi ích cá nhân, vẫn còn một số ít người chân thật tin vào mục tiêu tốt đẹp của CS, vẫn muốn kiên trì chế độ chỉ là vì chưa hiểu được bản chất tất yếu của các tác dụng phụ, họ chỉ thấy và bị mờ mắt vì những mục đích tốt đẹp của chế độ CS, mặc dù chỉ là tốt đẹp hoang tưởng. Mà tai ác thay, nguy hiểm thay các tác dụng phụ khi phát triển mạnh lên nó lấn át tác dụng chính, chuyển hóa phụ thành chính, làm thất bại mục đích chính. Vì vậy, bây giờ nhìn vào ĐCS VN người ta thấy tiêu cực là chủ yếu.
Tác dụng phụ của CS chính là những độc hại của Chủ nghĩa Mác Lênin (CNML) do thực hiện đấu tranh giai cấp, vô sản chuyên chính, công hữu tư liệu sản xuất (đặc biệt là đất đai), do sự toàn trị của Đảng. Khi ĐCS còn trong thời kỳ vận động làm cách mạng thì những độc hại này tồn tại tiềm ẩn dưới dạng các hạt giống, chưa có điều kiện bộc lộ, rất ít người thấy được. Vì vậy CS mới lôi kéo, thu hút được khá đông quần chúng đi theo, đăc biệt là quần chúng nghèo khổ bị áp bức và những người yêu nước. Chỉ đến khi ĐCS có quyền lực các hạt giống đó mới nẩy mầm và phát triển lớn mạnh, thể hiện ra dưới trăm hình, ngàn vẻ. Nếu nhân dân VN vào những năm 1945- 1975 mà biết được những tác dụng phụ do ĐCS sẽ mang đến như bây giờ thì số người theo Đảng làm CM chắc sẽ giảm đi nhiều và lịch sử có thể đã rẽ theo hướng khác.
Hồ Chí Minh cũng phần nào thấy được một phần những độc hại này, đã viết “Sửa đổi lề lối làm việc” để cảnh tỉnh đảng viên và cán bộ về những tác dụng phụ của CS khi Đảng đã nắm trọn quyền lực. Rồi Đảng tổ chức học tập đạo đức của ông, ra hết nghị quyết này đến nghị quyết khác, lập hết ban này ban nọ để phòng chống tiêu cực, họp hành, kiểm điểm, phê bình, đấu tranh, kỷ luật, xét xử, đả hổ diệt ruồi v.v…, mong rằng ngăn ngừa được, chống lại được những tác dụng phụ của chế độ. Nhưng những biện pháp đó chỉ như xoa chút dầu cao ở ngoài da để trị bệnh trong tim, trong gan ruột.
Trong quá trình đấu tranh cho dân chủ, một số người phản biện, bất đồng chính kiến, vì lòng yêu nước thương dân nồng nàn mà hơi vội vàng quy cho CS những tội nặng mà những đảng viên có lòng yêu nước chân chính khó chấp nhận. Thí dụ trong một bài viết gần đây (Bảo tồn văn hóa Việt trước sự xâm lăng của phương Bắc – Đào Đức Thông), tác giả cho rằng: “Hậu quả của đất nước Việt Nam ngày hôm nay là do sự đểu cáng, dối trá, tàn ác mang danh XHCN nắm quyền”. Rồi tác giả đặt ra các câu hỏi: Ai đã làm việc xấu xa này, ai đã gây ra tệ nạn kia, ai đã chủ mưu tai họa nọ v.v…, và ám chỉ đó là ĐCS. Quy tội cho ĐCS là không sai. Tuy vậy vẫn chưa hoàn toàn đúng vì hai nhẽ: 1- Đó không phải là chủ tâm, là mục đích chính của ĐCS mà chỉ là tác dụng phụ tất yếu kèm theo (nhưng khổ thay cái phụ đang chuyển hóa thành chính). 2- Một mình ĐCS không thể tạo nên mọi tai họa mà còn là do kết hợp với những thói hư tật xấu trong nền văn hóa, trong truyền thống dân tộc.
Từ khi thành lập, ĐCS VN là một tổ chức tuyệt vời, nhưng tiếc thay đã ẩn giẩu trong nó những mầm mống độc hại của tác dụng phụ mà rất ít người biết. Những thế hệ đảng viên đầu tiên phần lớn là những chiến sĩ tuyệt vời. Nhưng rồi tác dụng phụ dần dần phát sinh. Trước hết là vinh dự và quyền lợi của đảng viên. Tác dụng này hấp dẫn, lôi kéo một số bọn cơ hội tìm cách vào Đảng để có quyền, có lợi. Hơn nữa trong thời gian dài sự tuyên truyền và việc kết nạp đảng viên phạm phải nhiều sai lầm từ trung ương đến các chi bộ, trong đó có những sai lầm nghiêm trọng,(*) nên đã kết nạp khá nhiều bọn cơ hội. Thế rồi bọn chúng chui sâu, leo cao. Bọn này mua chuộc, liên kết với những đảng viên, được tiếng là trung kiên nhưng kém trình độ để tìm mọi cách loại bỏ tiến đến hủy hoại thành phần tinh hoa của dân tộc (vì thành phần này là kẻ thù của bọn chúng). Kết quả là trong Đảng, trong Chính quyền và Quốc hội còn lại phần lớn là những người vừa tham lam, thích quyền lực mà kém trí tuệ, lại bị một bọn đểu trong nước và nước ngoài lừa gạt.
Những người như vậy mà lãnh đạo, mà đề ra đường lối chính sách, mà soạn thảo và thông qua luật pháp thì làm sao mà không phạm sai lầm. Những người như thế làm sao phát hiện và tránh được âm mưu thâm độc của bọn Đại Hán bành trướng để dâng đất, dâng biển cho nó, để cho nó thao túng chính trị, kinh tế, văn hóa. Nhiều người cho rằng mọi sự bất cập là từ thể chế, việc quan trọng trước hết là thay đổi thế chế, điều đó là đúng, tuy vậy nghĩ cho kỹ thì thấy cũng là do trình độ con người. Thực ra trong Đảng, Chính quyền, cơ quan dân cử các cấp cũng còn có một số người tử tế, có trình độ và đạo đức, nhưng tiếc thay số này quá ít nên khó phát huy tác dụng.
Tác dụng phụ của CS cũng gần gần giống vụ Formosa. Khi Formosa xả thải ra biển thì mục tiêu chính có lẽ chỉ là gian lận, trốn tránh các chi phí xử lý cần thiết khoảng vài chục triệu đô la. Nghĩ rằng rồi biển rộng mênh mông sẽ hòa tan chất thải và che giấu được sự gian dối, không ngờ đâu lại gây ra thảm cảnh như vậy. Kết quả biển nhiểm độc, thủy sản chết hết, hàng triệu người lâm vào tình cảnh phá sản. Thật ra đó là tác dụng phụ. Nhưng tác dụng phụ gây ra tai họa vô cùng to lớn, hủy diệt luôn mọi lời tuyên truyền tốt đẹp về mục đích chính là phát triển kinh tế.
Cũng cần phân biệt Đảng và đảng viên. Những tác dụng đối với Đảng là phụ, nhưng lại là mục đích chính của bọn đảng viên cơ hội, đã chui sâu và leo cao trong Đảng.
Xin hỏi các vị từ Tổng Bí thư, UV BCT, cán bộ Đảng các cấp cho đến đảng viên các loại, các vị có thấy rằng những tệ nạn như tha hóa quyền lực, tham nhũng, mua quan bán tước, suy thoái đạo đức v.v… đều là tác dụng phụ của sự độc quyền toàn trị của ĐCS hay không, và nó trở thành mục đích chính của số đông các đảng viên có quyền lực hay không? Các tác dụng ấy, các mục đích ấy là kết quả tất yếu, không tránh khỏi, không thể ngăn ngừa hoặc loại bỏ bằng các biện pháp thông thường. Mà nguy hại thay các tác dụng đó đang hủy diệt mọi lời tuyên truyền tốt đẹp về mục đích của các vị là xây dựng xã hội thế này thế kia. Muốn loại bỏ tai họa phải triệt hạ từ gốc rễ, nghĩa là phải từ bỏ sự độc quyền toàn trị, mở rộng dân chủ để tìm người thực sự có tài kinh bang tế thế lên lãnh đạo đất nước. Mấu chốt là cải cách đảng cách mạng thành một đảng chính trị. Thế mới trước thì cứu được dân tộc, sau cứu được Đảng.
Nếu các vị quả thật chưa thấy rõ những điều trên, nhưng còn tử tế, còn muốn tìm kiếm chân lý thì xin mở các cuộc trao đổi, đối thoại. Không cần công khai cũng được, nhưng phải thành tâm. Tôi sẵn sàng đến trao đổi thẳng thắn với quý vị.
Nếu các vị cứ khăng khăng tự cho mình là đúng mà không chịu tìm hiểu, không chịu đối thoại, vẫn quyết giữ bằng được sự toàn trị thì rồi dân tộc này sẽ phải kéo dài bất hạnh thêm một thời gian nữa, nhưng cuối cùng, không sớm thì muộn cũng sẽ tìm cách thoát được sự độc tài toàn trị và các vị sẽ được đánh giá lại trong lịch sử bằng những lời lên án và sỉ nhục.(**)
__________
(*) Đoán rằng cho đến nay nhiều tổ chức và cán bộ của Đảng, kể cả Tổng BT và Trưởng ban tổ chức vẫn chưa nhận ra việc kết nạp đảng viên phạm nhiều sai lầm ở những chỗ nào, nếu được hỏi tôi sẽ trình bày.
(**) Bài này đã được gửi đến địa chỉ: bandoc.dcsvn@gmail.com để nhờ chuyển đến BCT và các cơ quan của Đảng.
Tác giả gửi BVN.

NGƯỜI CỘNG SẢN CHỐNG CỘNG
BÙI MINH QUỐC/ BVN 30-10-2016
Trong cuộc CÁCH MẠNG LẬP QUYỀN DÂN - cuộc cách mạng nhằm thiết lập quyền làm chủ thực sự của nhân dân, tiến hành một cách ôn hoà, công khai, hợp hiến hợp pháp - có một lực lượng đặc thù, về mặt nào đó là khá quan trọng, làm những việc mà các lực lượng khác không dễ làm thay.
Đó là lực lượng những người cộng sản chống Cộng.
Bây giờ, hai tiếng “Cộng sản” chợt nghe đã khiến người ta muốn ói. Bởi đó là tên gọi của một thế lực quỷ dữ, một thế lực kết xoắn mọi độc ác và dối trá, một thiết chế của chế độ nô lệ mới.
Nhưng vào thời trẻ của tôi ở miền Bắc Việt Nam, những năm 60 thế kỷ 20, danh xưng người cộng sản là hiện thân của một phẩm chất cao quý. Đó là con người đặt Tổ quốc lên trên hết, Quyền Dân lên trên hết. Vì Tổ quốc và Quyền Dân, con người ấy dâng hiến cả đời mình, bất chấp mọi gian khổ, hiểm nguy, tù đày, chết chóc. Tôi đã thấy những con người như thế trong đời thực. Đó là vợ tôi, nhà báo nhà văn Dương Thị Xuân Quý, luôn nghiêm khắc tự rèn luyện cho đạt những phẩm chất ấy để trở thành đảng viên và đã hy sinh anh dũng trong quá trình rèn luyện. Đó là Chu Cẩm Phong, bạn tôi, nhà báo nhà văn, người cán bộ Đảng, Bí thư của Chi bộ Văn nghệ Khu 5 (thuộc Ban Tuyên huấn Khu 5). Chu Cẩm Phong ghi trong nhật ký ngày kỷ niệm 7 năm anh vào Đảng: “Mình có thể hy sinh trong mùa xuân lịch sử này lắm, nếu mình ngã xuống như Phương Thảo, Văn Cận, Xuân Quý, thì ba mình và nhất là mẹ, sẽ đau khổ đến nhường nào. Mình biết điều đó. Mình là đứa con trai được cả nhà yêu thương... nhưng dầu thế nào mình cũng không xê dịch cái phương châm sống của mình: dũng cảm, say sưa và quên mình như những chiến sĩ cộng sản chân chính đi trước. Dẫu ngã xuống một giờ, nửa giờ trước khi ta giành thắng lợi hoàn toàn, cũng Hạnh phúc lắm thay!”. Chu Cẩm Phong luôn sống gương mẫu và đã hy sinh anh dũng dưới hầm bí mật trong một cuộc chiến tuyệt đối không cân sức vào tuổi 30. Những dòng nhật ký vừa dẫn trên cho ta biết, vậy là Chu Cẩm Phong đã thấy trong Đảng có những người cộng sản chân chính và những người cộng sản không chân chính - tức là những phần tử có động cơ xấu tìm cách chui vào Đảng đội danh cộng sản để mưu lợi riêng. Trong lớp người cộng sản chân chính đi trước, tôi đã thấy những Kim Ngọc, những Trần Độ, Nguyễn Hộ, Võ Văn Kiệt… Đó là những chiến sĩ cách mạng đích thực đến trọn đời, họ luôn lấy lợi ích của Tổ quốc của Nhân dân, lấy thực tế khách quan làm căn cứ để suy nghĩ và hành động, dám nghĩ, dám nói, dám làm, thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải đấu tranh, tuyệt đối không nghĩ và làm theo bất cứ giáo điều chủ nghĩa nào, cho dù có thể bị khại trừ, bị cách chức, thậm chí có thể bị hãm hại. Vào thời ấy, những người cộng sản chân chính chiếm đa số trong Đảng. Điều lệ Đảng xác định: đảng viên là “người chiến sĩ cách mạng tiền phong gương mẫu, gắn bó máu thịt với nhân dân”. Thời ấy, phần lớn đảng viên đã sống như thế, và vì thế đại đa số nhân dân mới tin Đảng đi theo Đảng và nhờ thế mới giành được thắng lợi để đưa Đảng lên cầm quyền trên một nửa nước rồi cả nước.
Nhưng khi cầm quyền, và nắm độc quyền chính trị, Đảng trở thành chỗ để “thăng quan phát tài”. Từ sau năm 1975, nhất là từ khi Đảng cầm quyền buộc phải trở về theo cái dòng chảy bình thường muôn đời của nhân loại là kinh tế thị trường, có thể khẳng định mà không sợ nhầm rằng phần lớn đảng viên vào Đảng là để thăng quan phát tài. Hiện tượng mua một chân đảng viên, một chân cấp ủy, một chân đại biểu (như ngày xưa “mua một chân lý trưởng”), mua chức mua quyền (tất nhiên để có tiền) diễn ra phổ biến mà chưa thấy dấu hiệu gì ngăn chặn được. Và thực tế cho thấy sẽ không thể ngăn chặn được nếu không cải cách chính trị, nếu không có một thiết chế luật pháp buộc mọi hoạt động của Đảng - Nhà nước phải minh bạch kèm theo là một thiết chế luật pháp đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình đối với mọi hoạt động của Đảng - Nhà nước.
Chủ nghĩa cộng sản là một ảo tưởng, một thiết chế phản động kéo lùi sự phát triển của xã hội, một mối đại hoạ của nhân loại còn khủng khiếp ghê tởm hơn cả chủ nghĩa phát-xít.
Nhưng phẩm chất, bản lĩnh, khí phách người cộng sản chân chính thì lại là một giá trị, một sức mạnh có thật. Đó là phẩm chất của những con người quên mình vì mọi người, giàu sang không thể làm hư hỏng, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục mà nhân loại thời nào và ở đâu cũng luôn trân trọng.
Tôi nhớ năm 1993, tại Mặt trận Tổ quốc tỉnh Lâm Đồng, trong cuộc hội thảo nhân kỷ niệm 100 năm thành phố Đà Lạt và tưởng niệm công lao của bác sĩ Yersin, người phát hiện ra vùng đất để lập nên thành phố Đà Lạt, TS Hà Sĩ Phu bạn tôi, người đã có 15 năm được coi là đối tượng để kết nạp vào Đảng (CSVN), phát biểu: theo những tiêu chí về người cộng sản chân chính thì ông Yersin đích thực là một người cộng sản chân chính dù ông ấy hoàn toàn xa lạ và có thể rất dị ứng với chủ nghĩa cộng sản. Bạn tôi, anh Hồ Hiếu, nguyên Chánh văn phòng Ban dân vận Thành ủy TP HCM, hiện là một trong những người chống Cộng hàng đầu, ngay sau 30/4/1975 đã đặt ra câu “đảng viên nhan nhản, Cộng sản khó tìm” rồi ngầm lan truyền như thành ngữ dân gian nhằm báo động một tình trạng tồi tệ mà hiện nay đã trở nên thảm hại - bình thường: đảng viên ngày càng đông, người cộng sản chân chính - chiến sĩ cách mạng đích thực ngày càng hiếm.
Năm 1988, trong chuyến đi Xuyên Việt vận động ra tuyên bố do 128 văn nghệ sĩ và công dân ký tên đòi đổi mới đồng bộ, triệt để, bạn tôi nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự có lời thơ: “Ai cộng sản / ai giả danh cộng sản / chân lý chói ngời sự thật / mắt nhân dân xuyên suốt lũ gian tà”, hai tiếng “cộng sản” ở đây là để chỉ người chiến sĩ cách mạng đích thực như đã nêu trên.
Cách đây mấy năm, bạn tôi, nghệ sĩ ưu tú Kim Chi, người đã tuyên bố không cần một bằng khen có chữ ký của một kẻ (là quan chức cộng sản hàng chóp bu) làm nghèo đất nước, làm hại nhân dân, khi trả lời phỏng vấn đã khẳng đinh mình tuyên bố điều đó với tư cách một người cộng sản chân chính.
Một lô-gích không gì cưỡng nổi: người cộng sản chân chính tất yếu trở thành người cộng sản chống Cộng khi Đảng CS cầm quyền trở thành Đảng cướp, đúng như dân gian từ xa xưa đã định danh “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”.
Vậy là đã xuất hiện một lực lượng cộng sản chống Cộng, tức là một lưc lượng lấy sức mạnh phẩm chất, bản lĩnh, khí phách của người cộng sản chân chính chống chế độ độc tài cộng sản nhằm thiết lập quyền làm chủ thực sự của nhân dân để bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc và tự do của mỗi con người, và với quyền tự do ấy, mỗi con người phát huy mọi khả năng để mưu cầu hạnh phúc của bản thân và cho cả cộng đồng.
Người cộng sản chống Cộng từ nay đương nhiên đã tự rũ bỏ bỏ 2 chữ cộng sản, chỉ tự xác định mình là “người chiến sĩ cách mạng tiền phong gương mẫu, gắn bó máu thịt với nhân dân”.
Và họ quyết trọn đời không ngừng tiền phong gương mẫu vì nhân dân quên mình chiến đấu cho Tổ quốc và Quyền Dân, thiết lập bằng được quyền làm chủ thực sự của Nhân dân.
Đà Lạt tháng 10/2016
B.M.Q.

Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2016

20161029. CHỈ ĐÁNH CHUỘT ĐÃ RA KHỎI BÌNH

ĐIỂM BÁO MẠNG
CHỐNG THAM NHŨNG: ĐÁNH CHUỘT ĐÃ RA KHỎI BÌNH
NAM NGUYÊN/RFA/BVN 29-10-2016

clip_image001
Cựu Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng.Courtesy photo
Báo chí do Nhà nước quản lý đang thực hiện điều gọi là “dội bom tấn” lên cựu Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng, để vận động truy tố hình sự nhân vật đã về hưu này. Ông cựu Bộ trưởng bị cáo buộc thực hiện các phi vụ mua bán chức quyền gây hậu quả nghiêm trọng. Thế nhưng toàn cảnh bức tranh chống tham nhũng ở Việt Nam lại cho thấy tình hình không kết quả, tham nhũng ngày càng nghiêm trọng hơn và đe dọa sự tồn vong của chế độ.

Đảng đứng trên pháp luật

Ngày 27/10/2016 tại Hà Nội, Ông Trương Hòa Bình Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực nhìn nhận là, vấn đề chống tham nhũng trong những năm qua hoàn toàn chưa thể đạt mục tiêu ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng lãng phí. Tình trạng tham nhũng và lãng phí hiện nay đang đe dọa đến sự phát triển của đất nước, sự tồn vong của chế độ.
Theo báo điện tử Chính phủ và VietnamNet, lên tiếng tại một Hội nghị chuyên đề tổng kết 10 năm chống tham nhũng, ông Trương Hòa Bình cho rằng, cần xác định tiêu chí công khai, minh bạch phải là giải pháp đột phá cho phòng chống tham nhũng, đồng thời cần có cơ chế giám sát quyền lực nằm trong điều gọi là “giỏ” pháp luật.
Điều gì khiến Đảng và Nhà nước Việt Nam gần như bất lực trong cuộc chiến chống tham nhũng. Phải chăng vì tham nhũng dầy đặc từ trên xuống dưới khiến “đánh chuột sợ vỡ bình”, một phát biểu thời thượng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Trả lời chúng tôi vào tối 27/10/2016, ông Nguyễn Trung Dân cựu Phó Tổng Biên Tập phụ trách Báo Du lịch, người bị cách chức vào năm 2009 vì đăng một bài viết khích lệ tinh thần yêu nước trước họa bá quyền Trung Quốc, từ Sài Gòn nhận định:
“Bao giờ mà pháp luật không được thượng tôn, luật pháp làm ra không bình đẳng vẫn có sự phân biệt giữa người này người khác, phân biệt nhân thân giữa người này người kia… tóm lại một câu, khi nào Đảng vẫn đứng trên pháp luật, Đảng chỉ huy pháp luật thì chắc chắn không thể có được sự gọi là minh bạch và rõ ràng để mà xử lý tham nhũng hết”.
Nhân vật xếp thứ 15/19 về vai vế trong Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình được VGP News và VietnamNet cùng nhiều báo khác dẫn lời nói rằng, trong 10 năm qua, trên toàn quốc có 918 người đứng đầu và cấp phó bị xử lý vì thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng; hơn 300.000 lượt cán bộ công chức bị chuyển đổi vị trí công tác. Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình còn đề cao điều gọi là tới 99,5% viên chức, công chức cán bộ đã kê khai tài sản và thu nhập hằng năm.
Những con số mà Phó Thủ tướng Trương Hoa Bình liệt kê trở nên một loại hỏa mù thông tin vì ngay trong bài phát biểu, ông lại tái xác định là tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, tham nhũng có tính “lợi ích nhóm” đã xuất hiện trong một số lĩnh vực. Một số vụ án tham nhũng gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, làm thất thoát lớn tài sản của Nhà nước và xã hội.

Thể chế tạo tham nhũng

clip_image003
Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình.Courtesy NLD.
Trong bài phát biểu được Báo điện tử Chính phủViệt Nam trích đăng, Phó Thủ tướng Trương Hoa Bình nhấn mạnh rằng, tham nhũng vẫn đang là lực cản sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, vẫn là một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện nay, là thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ.
Nhận định về phát biểu của Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình, ông Nguyễn Đăng Quang một cựu đại tá ngành Công an hiện nghỉ hưu ở Hà Nội cho biết ý kiến:
“25 năm đã qua 5 kỳ Đại hội Đảng, mỗi một kỳ Đại hội Đảng thì tình trạng tham nhũng càng nặng nề hơn, mức độ càng nghiêm trọng hơn và đối tượng phạm tội càng cao cấp hơn. Cho nên có thể nói là càng chống tham nhũng thì tham nhũng càng phát triển. Theo tôi cơ chế này ở Việt Nam đẻ ra tệ nạn tham nhũng và bọn tham nhũng lại ra sức bảo vệ cơ chế này. Do vậy nếu giao phó cho Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền chống tham nhũng thì tham nhũng càng phát triển”.
Hội nghị chuẩn bị đề án tổng kết 10 năm chống tham nhũng theo Nghị quyết Đảng diễn ra ngày 27/10/2016 ở Hà Nội, trong bối cảnh báo chí nhà nước mở tổng chiến dịch, đòi truy tố cựu Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng.
Nhân vật này về hưu sau Đại hội Đảng XII và mới bị Ban Kiểm tra Trung ương cảnh cáo về mặt Đảng. Lý do vì trong hai nhiệm kỳ Bộ trưởng thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ông Vũ Huy Hoàng đã thực hiện một số vụ bổ nhiệm, điều chuyển cán bộ mờ ám gây hậu quả nghiêm trọng. Đặc biệt trong vụ ông Trịnh Xuân Thanh, cựu Phó Chủ tịch tỉnh Hậu Giang, người đã bỏ trốn qua Âu châu và bị truy nã quốc tế. Ông này bị cáo buộc chịu trách nhiệm cao nhất làm thất thoát 3.300 tỷ, trong thời gian làm Chủ tịch Tổng Công ty xây lắp dầu khí PVC.
Nếu như cựu Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng sau kỷ luật Đảng sẽ bị truy tố, thì có lẽ ông là nhân vật cao cấp nhất bị truy tố hình sự, dù đã là cựu Ủy viên Trung ương Đảng, cựu Bộ trưởng. Câu chuyện này làm nhiều người nhớ lại vụ tài sản bất minh của ông Trần Văn Truyền, nguyên Tổng Thanh Tra Chính phủ, ông này bị bêu xấu nhưng không bị truy tố.

Sợ uy con hổ già

Trong 10 năm qua, các vụ án chống tham nhũng liên quan tới Đảng viên, cán bộ cao cấp đang tại chức là rất hiếm. Ông Nguyễn Trung Dân cựu Phó Tổng Biên tập phụ trách báo Du Lịch nhận định:
“Ông Tổng Bí thư nói rồi, đánh con chuột ở trong bình sợ nó vỡ bình thì sao… cho nên con chuột nó phải ra khỏi bình thì ông ấy mới đánh thôi… con chuột đó dù là ông Bộ trưởng hay Thủ tướng thì phải ra khỏi bình thì ông ấy đánh… còn trong bình thì ông ấy phải bảo vệ thôi… Thực chất là không thể đánh vì bởi vì có những luật riêng, ông Minh Phó Giám đốc Công an TP.HCM nói có luật riêng đảng viên không được đưa ra xử… Thành ra chỉ khi nào ông Tổng Bí thư bật đèn xanh thì mới đánh, mấy ông không bật đèn xanh thì thôi…”
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được mô tả là người giơ cao ngọn cờ chống tham nhũng làm trong sạch Đảng, để tìm kiếm hậu thuẫn của lớp đảng viên trung kiên. Giới quan sát cho rằng, hoặc là ông Trọng chưa tập trung quyền lực đủ mạnh, hoặc là tham nhũng, lợi ích nhóm đã trở thành căn bệnh trầm kha bắt rễ trong hệ thống chính trị, cho nên ông Tổng Bí thư hành xử rất thận trọng và vì thế quá chậm chạp trong vấn đề làm trong sạch Đảng.
Điển hình là để “đả” một con hổ già nanh vuốt đã cùn như cựu Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng, mà đường đường một ông Tổng Bí thư phải mấy lần trực tiếp ra lệnh đánh một anh Phó Chủ tịch tỉnh là Trịnh Xuân Thanh. Ông Tổng Bí thư được cho là đã huy động toàn bộ công cụ truyền thông Nhà nước để moi móc việc ông Phó Chủ tịch Hậu Giang đi xe tư tiền tỷ gắn biển số công. Rồi từ đó mới có cớ điều tra làm rõ các vấn đề chạy quyền, chạy chức và vấn đề cựu Bộ trưởng Công thương nhắm mắt làm ngơ sai phạm lớn của ông Trịnh Xuân Thanh ở Tổng Công ty Xây lắp Dầu khí.
Trong dịp trả lời chúng tôi, Luật sư Trần Quốc Thuận nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội từ Sài Gòn cho rằng, Tổng Bí thư phải có hành động thực sự quyết liệt để chống tham nhũng tới nơi tới chốn, chứ không phải chỉ làm một vài vụ để tuyên truyền. Ông nói:
“Đòi hỏi của xã hội, của nhân dân kể cả trong nội bộ Đảng cũng mong muốn là những vụ án gần đây cần phải làm tới nơi tới chốn. Như vụ AGV Mobiphone, vụ Núi Pháo, vụ Formosa rồi vụ Trịnh Xuân Thanh, vụ Vinaconex ...Nếu không làm tới nơi tới chốn thì có lẽ uy tín của Đảng sẽ thiệt hại vô cùng lớn…”
Ngày 17/10/2016 khi tiếp xúc cử tri Thành phố Hà Nội, ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được báo Dân Trí online dẫn lời nói rằng, cần thiết cơ chế kiểm soát quyền lực và về điều gọi là “Phải nhốt quyền lực vào lồng cơ chế lập pháp”.
Phát biểu đáng chú ý của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có khả năng hiện thực hay không. Cựu Đại tá Công an Nguyễn Đăng Quang từ Hà Nội nhận định:
“Tôi cho rằng tuyên bố của ông Nguyễn Phú Trọng chỉ có tác dụng làm khích lệ tinh thần một số đảng viên. Nó không có giá trị thực tiễn, bởi vì ở Việt Nam giữa bộ khung quyền lực với những qui định của pháp luật và việc thực thi nó là có sự khác nhau rất xa”.
Sự độc tài, thối nát, thoái hóa, thực hiện kinh tế xã hội chủ nghĩa thất bại, đã khiến các đảng cộng sản từng cai trị hàng chục thập niên ở Đông Âu bị xóa sổ. Rồi chính cái nôi khai sinh ra chế độ xã hội chủ nghĩa là Liên Xô cũng đã bị tan rã vào năm 1991. Đảng Cộng sản Việt Nam tất nhiên ý thức điều này rất rõ.
Câu hỏi mà giới quan sát đặt ra, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, một nhà lý luận chủ nghĩa Mác Lê sẽ có được sức mạnh thần kỳ nào, để sống mái với các nhóm quyền lực và lợi ích đang xâu xé nền kinh tế Việt Nam. Hay là ông sẽ phải dựa vào uy lực của nhóm lợi ích mạnh nhất, hầu có thể thực hiện kế hoạch đả hổ diệt ruồi.
N.N.
LÃNH ĐẠO VN MUỐN ỔN ĐỊNH TRONG TRÌ TRỆ HAY ĐỔI MỚI TIẾP?
VŨ CAO PHAN/ ĐH BÌNH DƯƠNG/ BVN 29-10-2016
clip_image002
Việt Nam phấn đấu về cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020
Bản tổng kết kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm đưa ra một chỉ số buồn: tăng trưởng chỉ đạt 5,52%, thua gần một điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước (6,32%), thua hơn một điểm rưỡi so với chỉ tiêu của năm (6,7%) và cũng là năm đầu tiên sụt giảm trở lại kể từ 2012- thời điểm gượng dậy sau nửa thập niên ốm yếu.
Vào lúc này khi hơn ba phần tư năm đã trôi qua và Ngân hàng Phát triển châu Á đã đánh tụt dự báo xuống còn 6%, người ta lại đang tìm cách điều chỉnh chỉ tiêu để cuối cùng có thể “kết thúc thắng lợi” một năm không thắng lợi của kinh tế nước nhà.
2016 là năm đầu của kế hoạch 5 năm được hy vọng mở lại một chu kỳ tăng trưởng mạnh, nhưng đã khởi đầu nan. Rất nhiều nguyên nhân được chỉ ra trong phiên điều trần bất thường tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa mới cũng như liên tục tại các diễn đàn trao đổi, hội thảo từ đó đến nay; và tất nhiên cả trong kỳ họp Quốc hội cuối năm đang nhóm tại Hà Nội.
Không một nguyên nhân nào cho thấy: động lực phát triển đã cạn (kiệt).
Có thể khẳng định, những thành tựu của công cuộc Đổi Mới (mà người ta định ồn ào tổng kết 30 năm thực hiện rồi lại im?) được dựa chủ yếu vào hai nguyên nhân: dòng vốn tài chính và kỹ thuật từ nước ngoài đổ vào và những chính sách (được Nhà nước từng bước cập nhật) tương đối phù hợp với một nền kinh tế đã thay đổi về bản chất.
Dòng vốn ấy vẫn chảy, thậm chí còn mạnh hơn nhưng đã không còn tính động lực. Vào chính lúc đó, xã hội bùng lên vấn đề tham nhũng và chống tham nhũng bắt đầu bằng câu chuyện tưởng chừng ất ơ: một ông quan muốn trộ oai tỉnh lẻ với cái biển số xe của mình.
Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, câu chuyện về cái biển số xe ấy có cùng một nguyên nhân với nền kinh tế yếu kém. Nó đưa lời kêu gọi: cải cách thể chế, đổi mới chính trị, không thể chậm hơn được nữa.

Kinh tế tư bản

clip_image003
Nhà nước bảo: đó là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhiều ý kiến khác: kinh tế xã hội chủ nghĩa định hướng thị trường. Với tôi, đó là nền kinh tế đang tư bản hóa (những gì gọi là) kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nói một cách chính xác: nền kinh tế chúng ta đang có là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, dù muốn hay không. Nó “tư bản” ở ngay trong cốt lõi quan hệ sản xuất, từ phân phối chế phẩm, tổ chức lao động đến sở hữu tư liệu, cho dù có hay ho gọi là cổ phần hóa chăng nữa. Nó “tư bản” ở chính bản chất kinh tế thị trường.
Kinh tế, do quan hệ sản xuất đẻ ra chính trị và đến lượt mình, chính trị lĩnh nhiệm vụ hướng đạo kinh tế phát triển theo quy luật, theo thúc triển nội tại của nó - đây là luận điểm không chỉ riêng của những người Marxist. Để thấy rằng, nghịch lý ở Việt Nam hiện nay là trong khi chúng ta có một nền kinh tế đã thay đổi về mặt bản chất thì chính trị thượng tầng của nó vẫn ngủ quên, vẫn y như cũ, và làm nên nguyên nhân chủ yếu sinh ra vô số tật bệnh không tìm thấy thuốc chữa, kìm hãm phát triển.
Công bằng thì cái chính trị ấy cũng có được cải đổi ít nhiều do áp lực của Đổi Mới nhưng chỉ nửa vời lẽo đẽo đằng sau với cái dây “định hướng” tròng trên cổ.
Trong nông nghiệp, để “định hướng xã hội chủ nghĩa”, ruộng đất không được tư hữu hóa mà thay bằng quyền sử dụng, thì thôi cũng được, nhưng tại sao vẫn không cho phép dân cày (khái niệm dân cày ngày nay đã khác trước rất nhiều) được tích tụ (bằng chuyển nhượng quyền sử dụng) loại tư liệu sản xuất ấy đến mức có thể đầu tư lớn, sản xuất lớn, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội thay vì bỏ ruộng cho cỏ mọc, đi kiếm việc khác sống cho qua ngày?
Trong công nghiệp, để “định hướng”, đối với những công ty hoặc mặt hàng quan trọng có ảnh hưởng lớn đến quốc kế dân sinh thì Nhà nước vẫn nắm độc quyền hoặc chỉ cổ phần hóa chiếu lệ để trên thực tế, vẫn là thiên đường của quan liêu, tham nhũng : cha chung không ai khóc, tiền chung cứ móc mà xài. Do đó, những công ty này luôn làm ăn thua lỗ và tiền thuế của dân lại được đổ vào để giữ vững “định hướng” trong khi khu vực tư nhân (đã được chính thức coi là động lực tăng trưởng) thì chẳng được một sự ưu đãi nào - kể cả những công ty tên tuổi, làm ăn có mảng, có miếng- nếu chẳng may thất bát.
Không có một chính sách tích cực và chẳng có một ngân sách nào dành cho các doanh nhân khởi nghiệp mà vẫn cứ hy vọng sẽ có được một triệu doanh nghiệp trong vài năm tới (và sau đó để chết yểu) là sao?
Còn trong lĩnh vực tinh thần - văn hóa, tư tưởng, tuyên truyền, báo chí, giáo dục,pháp luật… - thì sự đổi mới, cải cách càng hiếm đến, bởi nó là chính trị.
Rất dễ đồng ý, đây là lĩnh vực hầu như không có sự thay đổi khi đã qua cả bảy chục năm dân chủ cộng hòa. Công tác chính trị của đất nước vốn dĩ dựa trên nền tảng đấu tranh giai cấp, dựa trên nền tảng lý tưởng hóa những cái được gọi là đạo đức xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa tập thể thì ngày nay vẫn dựa trên nền tảng ấy. Không ai thẳng thắn trả lời, nó còn tương hợp với nền kinh tế thị trường không khi ở nền kinh tế này cái cá nhân, cái tôi tất yếu phải được khẳng định, được tôn trọng. Ai cũng thấy nhưng không ai lên tiếng về tình trạng đạo đức giả đã gần như đặc trưng cho xã hội lúc này.
Quốc hội “sản xuất” được khá nhiều luật nhưng ban hành vừa xong lại phải chuẩn bị dự luật sửa đổi. Bàn đến nhất thể hóa - điều mà ngay cả những quốc gia cộng sản còn lại đã thực hiện từ lâu - nhưng thử nghiệm vừa xong lại bỏ vì sợ….độc tài! Mà ai độc tài, ai che dấu cái tôi của mình? Ai điều gì cũng lập luận lấy được? Đẩy thừa con đường này là “do Bác Hồ lựa chọn” để khỏi phải thừa nhận chính mình lựa chọn.

Trịnh Xuân Thanh

clip_image004
Vụ ông Trịnh Xuân Thanh bị truy nã đang gây chú ý của dư luận. Image copyright Tuoi Tre
Trở lại câu chuyện Trịnh Xuân Thanh. Có thể thấy kinh hoàng vì lỗi hệ thống. Nếu không có câu chuyện ông quan tư cách hàng chợ này khoe sang khoe mẽ thì ông ấy sẽ hanh thông tiến lên, chưa biết đâu là điểm dừng. Nhưng vì trót dại, người ta không thể không lôi ra việc “luân chuyển” của ông, người ta đào đến khoản tiền thất thoát khổng lồ (mà thực tế đã được chôn quên trong đống giấy lộn), người ta lần đến ông A, ông B, ông C… chống lưng.
Lỗi hệ thống là đây: Do cơ chế chính trị, Trịnh Xuân Thanh được đưa ra kiểm điểm trong Đảng trước, Đảng kết luận có tội mới chuyển qua công an cảnh sát điều tra. Thấy động lớn, Thanh chủ động xin ra khỏi Đảng và… chuồn êm. Mọi hành động của nhà chức trách đều là vuốt đuôi.
Nhưng liệu nó có đi đến hồi kết như người ta mong muốn hay không thì chẳng biết. Quan điểm của tôi: ngay dù đạt được như vậy, có lôi ra lũ lít cả đống chuột mẹ chuột con thì vấn đề vẫn còn nguyên. Tại sao?
Chống tham nhũng lại dựa vào các quan điểm và hệ thống chính trị từ thời xã hội chủ nghĩa, từ thuở tất cả đều nghèo, từ thời giàu có đồng nghĩa với vô đạo đức là công việc bất khả, là sai lầm cơ bản. Chưa nói, tham nhũng ở Việt Nam đã phát triển vũ bão kể từ mười lăm năm trước khi còn nương nhẹ gọi một cách phiếm chỉ là “hiện tượng tiêu cực”, không ai thực sự muốn ngăn cản nó để bây giờ thì thôi rồi.

Công tác cán bộ

Tôi không có điều kiện đi sâu, đi rộng trong một bài viết nhưng không thể không đề cập đến khâu đầu: công tác nhân sự, công tác cán bộ. Công tác này được hiểu là việc bổ nhiệm, thăng giáng và điều động nhân sự trong bộ máy công quyền, và nó hoàn toàn đi theo cách làm cũ, một cách làm nhân danh Đảng, nhân danh giai cấp, nhân danh chế độ với cả một quy trình nhiều bước có thể với mục đích tích cực nhưng kết cục trở thành bình phong cho những kẻ bất lương. Không ai tìm hiểu xem, ở một nền kinh tế thị trường đích thực, người ta làm việc đó như thế nào. Và cũng không ai cần biết tại sao các quan chức ở môi trường ấy không coi và không thể coi quyền lực là nơi thu vén lợi ích cá nhân; và khi cần thì họ từ nhiệm rất dễ dàng, rất tự giác mà ở Việt Nam thì không?
Đảng Cộng sản Việt Nam có một Hội đồng Lý luận và Hội đồng này vừa nhận được huân chương cao quý do Nhà nước trao tặng “vì những thành tựu xuất sắc trong công tác lý luận”.
Thành tựu ấy là gì không ai biết, mặc dù như tôi, rất hy vọng nó đóng góp được vào việc đổi mới chính trị sao cho theo kịp, sao cho ăn khớp với đổi mới kinh tế. Nhưng tất cả những gì được nghe, được đọc chỉ là chống “tự diễn biến”,” tự chuyển hóa”, những khái niệm không đầy đủ, không thuyết phục, vừa vô lý về mặt triết học, vừa thiếu vắng về mặt ngôn từ, cụt ngủn.
clip_image005
Lãnh đạo Đảng CSVN lo ngại Đảng của ông ‘tự diễn biến’. Image copyright AP
Chưa nói, tự diễn biến tự chuyển hóa về đâu, đến đâu? Trước đây còn được nghe là chống “diễn biến theo con đường tư bản chủ nghĩa”, thì bây giờ không thấy chỉ điểm đến. Mất phương hướng?
Nếu vẫn là chống tha hóa về phía tư bản chủ nghĩa thì có thể yên tâm, tất cả những tai to mặt lớn bị Đảng và luật pháp trừng trị vừa qua không thấy cái tên nào bị lên án nhạt nhòa lý tưởng, mất ý chí chiến đấu, phản bội giai cấp cả. Bọn này vẫn phấn đấu vì tập thể, vì chủ nghĩa xã hội đấy, thậm chí còn to mồm hơn tất tật. Không tin cứ hỏi những người xung quanh. Nếu Hội đồng Lý luận thực sự làm được việc thì có rất nhiều vấn đề thiết thực mà Hội đồng này nên làm và cần làm.
Chẳng hạn. Hội đồng đã từng giải thích sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu là có sự phá hoại của các thế lực thù địch cộng với sự trì trệ của lãnh đạo. Hãy giải thích xem, đảng cộng sản ở các nước đó bây giờ hầu hết đã đổi tên đổi họ (trở thành các đảng mang tính chất xã hội hoặc xã hội - dân chủ) với cương lĩnh mềm trong một nền dân chủ đa nguyên mỗi người một lá phiếu, nhưng sao vẫn chưa thấy một đảng nào quay trở lại cầm quyền, thậm chí chẳng len được vài xuất nghị trường?
Chẳng hạn. Những đảng vẫn còn hiếm hoi giữ tên cộng sản như Đảng Pháp thì cương lĩnh của họ cũng đã đổi đến tối mũi tối mày. Họ không còn giữ cả biểu tượng búa liềm và thay đổi hẳn quan niệm về sở hữu. Ở Đại hội gần nhất, Đại hội 36 (2/2013), Đảng tuyên bố chủ nghĩa Mác-Lênin không còn sức sống cả trong thực tế và lý luận, và giai cấp vô sản không còn giữ vai trò thúc đẩy xã hội nữa. Vai trò ấy bây giờ nằm trong tay tầng lớp trí thức trong một nền kinh tế tri thức hiện đại. Hãy chứng minh những luận điểm đó là sai!
Ông Hồ Chí Minh từng cho rằng người Việt thiếu tư duy khái quát, tư duy hệ thống nên công tác nghiên cứu lý luận “hãy để các đồng chí X (ông nêu tên một nước lớn) làm”. Có lẽ đúng, thực tế từng chứng minh. Khi Trung Quốc chống Việt Nam thập kỷ 70, 80 của thế kỷ trước, Việt Nam đã dựa vào Liên Xô để tìm đến các lý thuyết phát triển. Khi Liên Xô rơi vào khủng hoảng, sắp sụp đổ đến nơi thì Việt Nam lúng túng định quay sang nắm áo Romania.
Cái quốc gia và đảng của nó mà Việt Nam từng tuân theo Liên Xô đả kích không thương tiếc một thời ấy bây giờ được coi là mô hình độc đáo, vững chắc, được toàn dân ủng hộ. Bất thình lình chỉ một ngày, người Romania nổi dậy và Tổng Bí thư Nicolas Ceaucescu cùng bà vợ quyền lực của ông bị xử bắn trong một phiên luận tội nhanh như chớp mắt.
Không còn chỗ bám víu nữa thì may sao, cuộc đại sụp đổ cả hệ thống lại là cơ hội vàng của Việt Nam (đừng nghi ngờ điều này). Câu chuyện sau đó như thế nào chúng ta đều đã rõ.

Ổn định trong trì trệ

Mặt trái của ổn định là trì trệ, chưa nói thực trạng ở Việt Nam hiện nay là ổn định trong trì trệ. Nên thử làm một cuộc thăm dò khách quan xem phỏng được bao nhiêu phần trăm? Thăm dò kín đáo thôi, khỏi cần công bố, để giật mình mà nhận ra thực trạng của cái gọi là niềm tin.
Muốn ổn định và giữ cho ổn định có sức sống, nếu chưa thể đổi mới toàn diện về mặt chính trị, hãy chọn những vấn đề trì trệ nhất, cản bước phát triển nhất để đột phá. Hãy coi và phải coi đổi mới chính trị, cải cách thể chế là động lực cho giai đoạn phát triển hiện nay.
Giới lãnh đạo Việt Nam đặt nhiều hy vọng vào TPP, Hiệp định về đối tác xuyên Thái Bình Dương. Nhiều người cho rằng TPP sẽ tạo động lực cho phát triển bởi các lợi ích kinh tế, thương mại to lớn có thể sờ nắn thấy được.
Nó có những ràng buộc về mặt chính trị nhưng không có chế tài thì Việt Nam vẫn có thể “mềm mại” vượt qua bằng “sách lược” khôn ngoan. Chắc chắn đây là một lầm lẫn tai hại.
TPP sẽ là một động lực, nhưng phải nhìn nó dưới góc độ là một Hiệp định thương mại thế hệ mới, hoàn toàn mới. Học giả Trung Quốc Dương Bằng cho rằng, với TPP, một “thời đại thương mại giá trị” được kết nối bằng những “quy tắc chính trị” tự giác đã đến. Người Trung Quốc không phải không muốn tham gia TPP hay bị ai đó gạt ra; họ ngần ngại chính là bởi các ràng buộc chính trị. Gia nhập TPP là chấp nhận các ràng buộc ấy khiến Trung Quốc sẽ phải ở cửa dưới. Ví dụ về các xí nghiệp quốc doanh.
Nó sẽ không được hưởng bất cứ một ngoại lệ ưu tiên nào mà còn phải giảm thiểu (khác với Việt Nam, các xí nghiệp, tập đoàn nhà nước ở Trung Quốc vốn rất mạnh). Không chỉ thế, các yêu cầu về quyền tự do tư tưởng, quyền được thông tin, quyền của người lao động… với TPP là đương nhiên.
Học giả Vương Bằng mà tôi vừa nêu trên, giáo sư thỉnh giảng Đại học Harvard, trong cuộc trả lời phỏng vấn gần đây trên Đài Tiếng nói Hoa Kỳ cho rằng dù không đề cập trực tiếp đến chính trị nhưng những điều đó tạo nên quy tắc chính trị của TPP và sẽ là quy tắc nguồn tác động đến tất cả. Nó được thực thi một cách tự giác vì làm ngược lại người ta sẽ tự đào thải mình. Không có chế tài ư, lợi ích của chính anh sẽ là chế tài.
Việt Nam có nhận thức được như vậy không khi quyết định tham gia TPP?
Nhưng những động thái gần đây có thể là đáng ngại khi Quốc hội xem xét khắt khe dự thảo Luật về hội và các dự thảo sửa đổi luật Hình sự, luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh…
Chính trị tổng quát là: Mọi việc đều phải trên cơ sở tôn trọng pháp luật và minh bạch.
Những gì khập khiễng, nửa vời sẽ đem đến kết quả thậm chí cũng không được nửa vời.
V.C.P.
__________
* Bài thể hiện quan điểm riêng của Tiến sỹ Vũ Cao Phan, Viện trưởng Viện Chính trị và Nghiên cứu Quan hệ Quốc tế của Đại học Bình Dương, nguyên Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hội hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc.