Thứ Tư, 12 tháng 10, 2016

20161012. BÀN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP CHỐNG 'TỰ SUY THOÁI'

ĐIỂM BÁO MẠNG
LẮNG NGHE DÂN VÀ ĐẢNG VIÊN KHÔNG CHỨC KHÔNG QUYỀN NÓI VỀ SUY THOÁI
VŨ NGỌC HOÀNG/ TVN 12-10-2016
Kiểm soát quyền lực, Vũ Ngọc Hoàng, Tham nhũng, Lợi ích nhóm, Tự do ngôn luận, Con ông cháu cha, Tam quyền phân lập, Cải cách hành chính, Thi tuyển lãnh đạo, Thi công chức
Bao nhiêu vụ việc tiêu cực, tham nhũng như vậy nhưng tổ chức Đảng không phát hiện được qua sinh hoạt Đảng. Ảnh minh họa
Lâu nay, việc xây dựng Đảng và Nhà nước chủ yếu thực hiện theo hướng “tự mình”. Tự phê bình và phê bình, tự chỉnh đốn, tự đổi mới, tự kiểm tra, tự thanh tra, tự xử lý… Có cấp trên chỉ đạo cấp dưới, nhưng vẫn là trong hệ thống, cũng có nghĩa là vẫn “tự mình”. Chỉ có “tự mình” cũng còn có nghĩa là quyền lực chưa được Nhân dân kiểm soát. 
Không thể phủ nhận những việc đã làm được trong công tác xây dựng Đảng. Nhưng cũng phải nói rằng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ đảng viên thời gian qua có xu hướng tăng lên, xấu hơn, mặc dù nhiệm kỳ nào Trung ương cũng đều có những chủ trương về xây dựng Đảng.
Từ chỗ có một số đảng viên suy thoái rồi đến một bộ phận, và sau đó là một bộ phận không nhỏ, và trong bộ phận không nhỏ ấy có cán bộ cao cấp. Trong các Nghị quyết của Đảng đã chính thức nhìn nhận tình hình như vậy. Đó là sự nhận định đúng, dù chưa nói hết mức độ nghiêm trọng của tình hình.
Sau Đại hội XII đến nay, Tổng Bí thư và tập thể Bộ Chính trị (tôi nói tập thể) đã có nhiều cố gắng đáng ghi nhận trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Tuy nhiên, tình hình sẽ chuyển biến ra sao thì cần phải có thời gian để có thể nhận được câu trả lời chính xác.
Hãy lắng nghe nhân dân và đảng viên không có chức quyền nói về sự suy thoái trong Đảng thì sẽ rõ. Bao nhiêu vụ việc tiêu cực, tham nhũng như vậy nhưng tổ chức Đảng không phát hiện được qua sinh hoạt Đảng, mà là do nhân dân, báo chí phát hiện và nói lên. Qua các lần kiểm điểm thường xuyên và kiểm điểm chuyên đề hầu hết đều đánh giá là đảng viên đủ tư cách và hoàn thành tốt hoặc xuất sắc nhiệm vụ, còn tổ chức Đảng thì trong sạch vững mạnh. Bản thân tình hình ấy cũng đã nói lên sự suy thoái.
Về tư tưởng chính trị, điều đáng nói nhất là lòng tin của nhân dân và nhiều cán bộ, đảng viên đối với các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đã suy giảm. Đó là một thực tế! Dù ta không muốn vậy, hoặc không muốn nói thế, thì nó vẫn cứ là một thực tế khách quan. Không thể né tránh. Phải nhìn thẳng vào sự thật, đối diện với nó, hiểu nó đến cùng, để từ đó tìm cho ra cách giải quyết hiệu quả nhất. Đó là trách nhiệm, là bản lĩnh, là cách tiếp cận khoa học. Với tình hình của ta như hiện tại, thì đối mặt với sự thật, nói rõ sự thật cũng là giải pháp. Và là giải pháp đầu tiên. Từ đó mà tìm các giải pháp tiếp theo. Còn né tránh nó, che giấu nó, thì tổ chức Đảng sẽ suy yếu.
Kiểm soát quyền lực, Vũ Ngọc Hoàng, Tham nhũng, Lợi ích nhóm, Tự do ngôn luận, Con ông cháu cha, Tam quyền phân lập, Cải cách hành chính, Thi tuyển lãnh đạo, Thi công chức
Công tác cán bộ thì chạy chọt quá nhiều. Ảnh minh họa.
Vì sao mà lòng tin giảm sút? Trong chính trị chân chính (chứ không phải mị dân), khi có lòng tin bền vững của nhân dân là có tất cả. Khi lòng tin không còn thì sẽ mất tất cả. Lòng tin của nhân dân là nền tảng chính trị quan trọng nhất của một chế độ, một chính quyền. Làm hỏng nền tảng ấy thì chông chênh, và nếu không sớm khắc phục, để ngày càng trầm trọng hơn thì trước sau gì cũng sụp đổ. Không thể khác! Không có cái gì thay thế được. Bạo lực càng không phải là giải pháp đối với nhân dân. Thậm chí nó còn là thứ độc hại, làm cho nền tảng chính trị ngày càng thêm rạn nứt và dẫn đến đổ vỡ hoàn toàn.
Đừng bao giờ suy nghĩ là tại nhân dân không tốt, không chịu tin lãnh đạo. Nghĩ như thế là nghĩ ngược. “Tiên trách kỷ” là kinh nghiệm và lời khuyên từ cha ông. Lý do đầu tiên, quan trọng nhất, mang tính quyết định, làm cho lòng tin giảm mạnh là sự hư hỏng đạo đức của cán bộ.
Nói cách khác, chính sự suy thoái về đạo đức lối sống là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị. Lòng tin không tự nhiên mà có, cũng không phải bất biến. Khi đạo đức của nhiều cán bộ suy đồi thì người ta không tin vào sự chân chính của tổ chức và từ đó mà dẫn đến không tin vào mục tiêu và con đường của tổ chức ấy.
Nếu để quá nhiều cán bộ đảng viên suy thoái nghiêm trọng về đạo đức thì tổ chức Đảng không còn nguyên bản chất, mà đã thay đổi rồi. Diễn đạt khác, nếu khắc phục được suy thoái về đạo đức của cán bộ thì tự nhiên sẽ cơ bản khắc phục được suy thoái về niềm tin, và cũng có nghĩa là khắc phục cơ bản về suy thoái tư tưởng chính trị. Còn bộ phận không nhỏ cán bộ suy thoái kia thì chính họ đã rời bỏ lý tưởng chân chính rồi, tha hóa về đạo đức rồi, cũng có người sẽ tỉnh ngộ, hối lỗi và phục thiện, nhưng rất ít, chỉ là cá biệt.
Đạo đức là lõi của văn hóa, mà văn hóa là nền tảng của xã hội nói chung, trong đó có chính trị. Văn hóa nhất định phải là nền tảng của chính trị (chân chính), chứ không phải ngược lại. “Chính trị là thống thoái, chính trị quy định văn hóa” là một luận điểm rất sai lầm, phản khoa học. Tất nhiên lòng tin không phải chỉ có đạo đức, nhưng đạo đức là cái nền, là cái đầu tiên. Chính đạo đức mới thể hiện sự chân chính của con người và tổ chức. Còn đương nhiên là không chỉ thế, mà còn trí tuệ và năng lực của cán bộ nữa, mới tạo được niềm tin đầy đủ và bền vững, nhưng trước tiên phải là đạo đức. Đạo đức là cái gốc.
Bản thân lý luận và công tác lý luận của chúng ta còn quá nhiều lạc hậu và yếu kém. Đó cũng là một nguyên nhân làm mất lòng tin. Các nghị quyết của Đảng đã chỉ ra sự lạc hậu và yếu kém này, dù chưa nói hết. Khoa học liên quan đến phương pháp luận đã nhiều chục năm không theo kịp một thế giới biến đổi nhanh chóng theo hướng phi tuyến tính. Lý luận mà nhiều vấn đề không lý, không luận, áp đặt một chiều, không thảo luận, tranh luận đầy đủ, không có phản biện, không tiếp cận đa chiều, đa nguồn mà chủ yếu là đơn tuyến, một nguồn, theo kiểu độc quyền chân lý, làm cho đội ngũ trí thức và tập thể Đảng phải thụ động.
Vài chục năm nay lý luận luôn bị mang tiếng là bảo thủ, giáo điều. Mà nghĩ cũng không phải oan. Hoặc ít ra, họ đã nói đúng trên một phần đáng kể hệ thống lý luận của chúng ta. Không ít vấn đề còn mập mờ, chưa rõ cơ sở khoa học, thậm chí chắp vá, mâu thuẫn nhau, xa thực tế, không có sức thuyết phục. Công tác lý luận với phương pháp tiếp cận chưa khoa học, không bám chắc thực tiễn, cũng tức là đã rời xa nguồn gốc, cơ sở sản sinh ra nó, vì vậy mà ít sức sống; nặng minh họa, ít phản biện và tư duy độc lập, lẫn lộn giữa khoa học và chính trị.
Nhiều trí thức nói là khoa học đã bị chính trị hóa. Không cãi lại họ được đâu. Công tác tư tưởng nói chung còn một chiều, mang tính áp đặt, ai phản biện, nói khác dễ bị quy chụp là “mất quan điểm lập trường”, là “chệch hướng”, thậm chí còn đẩy về phía đối lập.
Với phương pháp tư tưởng như vậy đã tự mình cô lập với thế giới sôi động và chặn đứng con đường tiếp cận chân lý khách quan. Đối với khoa học tự nhiên, có thể một người, một mình ngồi trong phòng thí nghiệm, miệt mài làm việc và tìm ra chân lý. Còn đối với khoa học xã hội thì sự đối thoại, tranh luận bình đẳng chính là con đường tiếp cận chân lý. Không như thế tức là tự mình đã chặn đứng con đường đi đến chân lý khách quan. Có những việc nói một đường trên thực tế lại làm một nẻo, nói duy vật biện chứng nhưng lại nghĩ và làm theo kiểu duy tâm siêu hình.
Một lý do nữa làm mất lòng tin là năng lực lãnh đạo, quản lý còn rất nhiều bất cập so với yêu cầu, không giải quyết nổi các vấn đề của cuộc sống đặt ra, để đất nước bị tụt hậu trên nhiều mặt và thế lực “bành trướng” nước ngoài lấn ép. Khi để đất nước tụt hậu và đạo đức suy đồi thì quá khứ vinh quang ngày hôm trước cũng giảm dần ý nghĩa. Từ đó, cái vốn văn hóa được xây nên bằng máu xương của hàng triệu Đảng viên và Nhân dân trước đây - làm nền tảng cho hôm nay đang bị cạn dần.
Nhiều vụ việc giải quyết thiếu minh bạch, ít ra là thiếu minh bạch về thông tin, làm cho nhân dân nghi ngờ. Nghi ngờ có tham nhũng, hối lộ, “lợi ích nhóm”, dung túng và bao che cho nhau, kể cả nghi ngờ về chính trị nữa (trong quan hệ với láng giềng).
Rồi chuyện cá chết, biển bị ô nhiễm nặng bởi chất thải công nghiệp đã nửa năm rồi vẫn chưa thấy xử lý trách nhiệm ai? Rồi chuyện hàng trăm xí nghiệp bị đập phá, thủ phạm là ai? xử lý thế nào?....Sự thật là có nhiều vụ việc chưa minh bạch. Thất thoát nhiều chục ngàn tỷ trong các vụ việc và tại các tập đoàn kinh tế nhà nước, các ngân hàng đã xảy ra như thế nào, vì sao, nó đi đâu, ai chịu trách nhiệm? Chuyện ép nông dân để lấy đất cho đại gia xây biệt thự, dân “khiếu kiện đông người” thì bị “trấn áp”, có tiêu cực gì trong đó? có “lợi ích nhóm” không? trách nhiệm thuộc ai? công tác cán bộ thì chạy chọt quá nhiều, kể cả chạy luôn vào đại hội (thậm chí lên được chức to), bị đồng tiền và các mối quan hệ không lành mạnh chi phối… Từ đó, người ta đặt câu hỏi không biết chính quyền có còn là của đại đa số nhân dân không?
Không ít việc chúng ta cho là thế lực thù địch chống phá. Chẳng phải họ “tài giỏi” vậy đâu, đừng vô tình nâng cao vai trò của họ. Rồi chuyện “tham nhũng quyền lực”, chạy chức chạy quyền, ai cũng thấy nhưng chẳng cơ quan nào đưa ra giải pháp ngăn chặn, trong khi đó vẫn còn lặp lại câu hỏi chứng cứ đâu, ai chạy và chạy ai?... Đã có bao nhiêu cuộc lợi dụng đầu tư dự án và lợi dụng cổ phần hóa, mua bán doanh nghiệp để chia chác ngân sách và tài sản của nhà nước?
Còn nhiều chuyện nữa, vẫn mập mờ, không thấy rõ trách nhiệm thuộc về ai và lối ra ở đâu. Sở dĩ cán bộ, đảng viên và nhân dân nghi ngờ là có lý do chứ, và họ có quyền chứ, sao lại không? Không thể cấm mọi người nghi ngờ, càng không được quy chụp là “phản động”, cách ấy là cách tự mình đối lập lại với nhân dân – những con người mà lòng tin của họ là nền tảng chính trị của quốc gia.
Còn sự suy thoái về đạo đức (cả lối sống) của cán bộ? Đạo đức xã hội nói chung cũng là môi trường sống đối với cán bộ. Vì vậy, khi đạo đức xã hội suy đồi thì nó cũng tác động tiêu cực trở lại đối với đạo đức cán bộ. Nhưng không vì thế mà đổ lỗi cho xã hội, lẩn tránh trách nhiệm khi cho rằng: đạo đức cán bộ suy thoái là do đạo đức xã hội suy đồi. Nói thế là nói ngược, ngụy biện, biến thứ yếu thành chủ yếu, làm lẫn lộn giữa nguyên nhân và kết quả.
Trong mối quan hệ giữa đạo đức xã hội và đạo đức cán bộ thì đạo đức xã hội là hệ quả của đạo đức cán bộ. Khi đạo đức cán bộ suy thoái thì đó là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến đạo đức xã hội suy đồi. Như trong một “gia đình”, có đứa con hư hỏng thì đó là sự hư hỏng của một đứa con, còn nếu bố mẹ hư hỏng thì cả nhà sẽ hư hỏng theo, mất cả thế hệ nối tiếp. Các triều đại phong kiến Việt Nam, khi nào triều đình tha hóa thì bên ngoài xã hội đạo đức suy đồi, loạn lạc và giặc giã nổi lên. “Thượng bất chính, hạ tất loạn” – câu ấy người xưa đã tổng kết.
Sự suy đồi đạo đức xã hội nói chung ở nước ta đang có nhiều biểu hiện rất đa dạng, phức tạp và nghiêm trọng. Trong đó, đáng lưu ý bậc nhất là: tham nhũng, “lợi ích nhóm”; hối lộ, chạy án, chạy chức, chạy tội; giả dối và gian lận; bất chấp pháp luật; bạo lực và giết người…
Tình hình trên có một phần do sự tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường. Tuy nhiên, không thể đổ lỗi cho cơ chế ấy, bởi nó là thế, luôn có hai mặt: mặt tích cực là chủ yếu, sự lựa chọn kinh tế thị trường là đúng đắn, đồng thời có mặt trái, tiêu cực, là mặt thứ yếu. Nói mặt trái mặt phải chẳng qua chỉ là cách nói, còn thực ra mọi thứ đều có  mặt này và mặt kia hợp lại mà thành. Nó không thể khác. Cũng là dễ hiểu, hầu hết các vấn đề của đời sống xã hội đều có hai mặt như vậy, ngay cả thuốc chữa bệnh cũng có tác dụng phụ. 
Nhiệm vụ và năng lực của những người lãnh đạo, quản lý là phải biết phát huy mặt tốt và hạn chế ngăn ngừa tác động của mặt xấu. Đất nước cần lãnh đạo là cần như vậy! Nhiều nước họ còn Kinh tế thị trường đầy đủ hơn ta, thời gian dài hơn ta, nhưng mặt trái của kinh tế thị trường không làm tha hóa như vậy?
Mặt trái của cơ chế thị trường có tác động xấu đối với đạo đức xã hội, nhưng nó không phải là thủ phạm chính. Vậy thủ phạm chính ở đâu? Đáng lưu ý nhất là sự tha hóa quyền lực. Đó là nguyên nhân chính yếu gây nên mọi hư hỏng. Tôi dùng từ tha hóa quyền lực là nói gọn, nói tắt, còn nói rõ hơn thì đó là sự tha hóa của những con người được sử dụng quyền lực, là sự lộng quyền vì lợi ích cá nhân, những người được giao quyền lực không sử dụng đúng mục đích để bảo vệ và phục vụ nhân dân, kiến tạo và quản trị quốc gia phát triển, mà ngược lại coi đó là phương tiện phục vụ mục đích cá nhân, chà đạp công lý, ức hiếp mọi người và gian lận thu vén.
Quyền lực là công cụ rất hữu hiệu để tập hợp lực lượng nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nếu như nó được trao đúng cho những người có đủ nhân cách tốt. Mặt khác, nó luôn làm tha hóa những người sử dụng quyền lực, nếu họ không đủ nhân cách và quyền lực không được kiểm soát. Chức quyền càng lớn hoặc sử dụng càng lâu thì nguy cơ tha hóa càng nhiều. Sự tha hóa quyền lực đến một mức độ trầm trọng thì nhà nước thay đổi bản chất, không còn là nhà nước của dân nữa, Đảng cũng sẽ thay đổi bản chất – không còn là Đảng chân chính, và rạn vỡ như một quy luật tự nhiên. Bài học này đã được thực tế chứng minh hồi đầu thập niên 90 của thế kỷ trước tại Đông Âu và Liên Xô cũ.
Kiểm soát quyền lực, Vũ Ngọc Hoàng, Tham nhũng, Lợi ích nhóm, Tự do ngôn luận, Con ông cháu cha, Tam quyền phân lập, Cải cách hành chính, Thi tuyển lãnh đạo, Thi công chức
không thỏa hiệp các vụ tiêu cực đã xảy ra, minh bạch tất cả thông tin cho nhân dân biết để lấy lại lòng tin. Ảnh minh họa

Trong điều kiện một Đảng thì tất nhiên là khó hơn. Nhưng không có nghĩa là hoàn toàn không làm được. Và nhất thiết phải làm. Trong khi một Đảng lãnh đạo thì Đảng ấy nhất thiết phải giương cao ngọn cờ dân chủ, tổ chức Đảng chủ yếu là lãnh đạo, thuyết phục về tiêu chuẩn cán bộ, hạn chế tối đa việc giới thiệu nhân sự cụ thể, chỉ tổ chức hiệp thương giới thiệu một số ít trường hợp để làm chủ chốt với các phương án khác nhau không có quân “xanh” quân “đỏ”; khắc phục tối đa tình trạng “một mình một sân”, “Đảng cử dân bầu”, đồng thời phát huy cao nhất vai trò tự chủ của các đoàn thể chính trị xã hội và các hội trong việc chọn người ra tham gia tranh cử. Đó cũng là nói về vai trò của xã hội dân sự lành mạnh.Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ theo hướng phải tranh cử gắn với mở rộng quyền đề cử của các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội, cũng như quyền ứng cử của các cá nhân. Không có tranh cử thì cơ chế ấy sẽ dẫn đến tha hóa đội ngũ cán bộ, giống như muôn loài khi tách khỏi “chọn lọc tự nhiên”. 
Đối với cán bộ lãnh đạo, cán bộ qua bầu cử, là vậy. Còn đối với cán bộ chuyên môn thì phải thông qua thi cử công khai và công bằng. Giảm mạnh bộ máy và nâng lương cao lên cho cán bộ, không để cán bộ sống chủ yếu bằng các nguồn “thu nhập khác” như hiện nay. [Xin hãy đừng nói với tôi rằng không có ngân sách lấy gì mà nâng lương ? Chẳng qua chỉ là thay đổi cách quản trị quốc gia].
Việc xử lý nghiêm minh các vụ tiêu cực là hết sức cần thiết, nhất định không được bỏ qua vụ nào, dù phải động chạm đến bất kỳ ai. Mọi sự bao che hoặc dung túng cho “quan tham” đều là con đường dẫn đến sụp đổ chế độ. Tập thể các Ban Chấp hành và những đảng viên chân chính không được thụ động, thả tay, thừa nhận bất lực, mà phải kiên cường và chủ động tham gia cuộc chiến chống tham nhũng, “lợi ích nhóm” - ủng hộ mạnh mẽ những việc làm đúng, nhất là trong việc chống “lợi ích nhóm” và chống bảo thủ (thúc đẩy đổi mới) của Tổng Bí thư và tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong cuộc chiến này.
Trong số các nhóm giải pháp, việc xử lý các vụ tiêu cực viết sau không có ý rằng nó ít quan trọng, mà vì nó chủ yếu là giải quyết hậu quả, giải quyết cái đã xảy ra rồi, vẫn rất quan trọng, nếu xử lý nghiêm sẽ có tác dụng răn đe. Nhưng dù sao thì nó vẫn không phải là cách trực tiếp ngăn chặn từ đầu. Nếu chúng ta chỉ tập trung công sức cho việc xử lý cái đã xảy ra, thì đề phòng trong khi giải quyết được vài ba vụ, có thể đã phát sinh thêm năm bảy vụ mới, tổng số tồn đọng vẫn cứ không giảm, mà có thể nhiều hơn. Cho nên phải tập trung nhiều nhất cho việc ngăn chặn đầu vào, giải quyết từ gốc cái điều kiện và tác nhân sinh ra tiêu cực, đồng thời xử lý một cách kiên quyết, không dung túng, không khoan nhượng, không thỏa hiệp các vụ tiêu cực đã xảy ra, minh bạch tất cả thông tin cho nhân dân biết để lấy lại lòng tin.
Trong nhiều trường hợp, việc minh bạch thông tin còn công hiệu hơn kỷ luật, vì cái xấu không còn nơi ẩn nấp. Nếu không minh bạch thông tin, cứ để mập mờ, thì mọi người sẽ nghi ngờ tất cả, người tốt và liêm khiết cũng bằng nhau với người xấu và tham nhũng, không còn ai tốt cả, vậy thì nhân dân biết tin vào đâu.
Dân là dân nước, nước là nước dân!
Những năm gần đây Nghị quyết của Đảng có nói đến việc dựa vào dân để xây dựng Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đề cập đến vấn đề này từ khi mới thành lập chính quyền. Tư duy ấy tiến bộ, nhưng thực hiện còn quá ít, chỉ mới coi như một kênh thông tin tham khảo!
Không ít trường hợp ở dưới nói trên không nghe, lại còn định kiến, đối phó, thậm chí cả trù dập; ở dưới chán và sợ, không nói nữa. Cấp trên cũng ngại động chạm với cấp dưới, mà trên – dưới cũng đều bị bệnh giống nhau nên cùng “dễ người dễ ta”.
Cuối cùng cấp nào lại quay về với cấp ấy và lại “tự mình”.
“Tự mình” cũng không sai, cũng đúng – phải chủ động vì cứ bị động thì kết quả thấp, thậm chí có lúc hỏng việc.
Nói chung không nên quá mong đợi một người đã hư hỏng bỗng “tự mình” tốt lên, bao nhiêu vụ tham nhũng hầu hết do quần chúng và báo chí phát hiện, tổ chức Đảng không phát hiện vụ nào. Chủ động vẫn là cần nhưng phải chủ động tích cực, có bản lĩnh, có trí tuệ!Đồng thời cần lưu ý việc “tự mình” chỉ đạt kết quả khi cán bộ và tổ chức còn lành mạnh, sinh hoạt nội bộ có tính chiến đấu và tính giáo dục cao; còn khi đã hư hỏng thì “tự mình” không có kết quả, kiểm điểm phê bình chỉ là hình thức cho qua chuyện hoặc là nhân cơ hội ấy mà đấu đá lẫn nhau.
Từ nay, một mặt vẫn quan tâm tính chủ động “tự mình” nhưng mặt khác phải thật sự dựa vào dân.
Đây cũng là tư tưởng lấy dân làm gốc, phải lấy dân để rèn Đảng, nếu không muốn Đảng hư.
“Tự mình” và “dựa dân” như hai mặt của một vấn đề, song song, “cân đối”, quan trọng ngang nhau, không xem nhẹ việc dựa dân, không phải là tham khảo nhân dân, mà là hỏi dân, xin ý kiến nhân dân để nhân dân quyết định.
Không coi dân là cấp dưới, luôn luôn giữ vững tính chất nhân dân của Đảng và Nhà nước.
Đảng và Nhà nước đều vì dân và của dân, quay trở lại đúng tư tưởng Hồ Chí Minh: Đảng là con nòi của dân tộc, cuộc sống của nhân dân là mục tiêu cao nhất của Đảng và Nhà nước.
Đổi mới mạnh mẽ và căn bản phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước theo hướng thực hành dân chủ rộng rãi và không chồng chéo công việc giữa Đảng với Nhà nước.
Đảng lãnh đạo bằng những giá trị chứ không phải bằng quyền lực, như cách trước đây Đảng nhờ nó mà thành lãnh đạo, không can thiệp sâu vào công việc của Nhà nước, tập hợp trí tuệ, thuyết phục và nêu  gươngđối thoại bình đẳng để cảm hóa bằng lẽ phải.
Minh họa phê phán thói nói mà không làm, một trong những bệnh của cán bộ, công chức hôm nay mà nhân dân thường lên án. Nguồn minh họa từ Tuổi trẻ
Đảng phải luôn giương cao ngọn cờ dân tộc và dân chủ mà Đảng đã nêu ra từ ngày thành lập, sau này nhiều lúc đã lãng quên và không ít vi phạm. Lấy dân làm thước đo để đánh giá Đảng!Không dùng mệnh lệnh hành chính hoặc quyền lực, không áp đặt độc quyền chân lý; phát hiện và giới thiệu hiền tài cho nhân dân xem xét lựa chọn chứ không phải “Đảng cử dân bầu” với nghệ thuật sắp đặt.
Thường xuyên điều tra và công bố kết quả điều tra dư luận xã hội đánh giá về tổ chức và cán bộ của Đảng và Nhà nước, kể cả việc sử dụng các tổ chức đánh giá độc lập.
Kiểm soát quyền lực và minh bạch thông tin là hai nhóm giải pháp hàng đầu!
Theo tôi, các nhóm giải pháp quan trọng nhất gồm: Kiểm soát quyền lực; tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và minh bạch thông tin; đổi mới cơ chế quản lý; cải cách bộ máy và đổi mới công tác cán bộ; xử lý nghiêm minh các vụ tiêu cực.
Trong năm nhóm giải pháp nêu trên, mỗi nhóm đều có ý nghĩa và vị trí riêng, không cần phải xác định cái nào quan trọng hơn cái nào.
Tuy nhiên, nếu bị buộc phải chọn một giải pháp duy nhất thì tôi sẽ chọn vấn đề kiểm soát quyền lực, đồng thời đề nghị thêm giải pháp thứ hai thuộc về tự do tư tưởng, ngôn luận và minh bạch thông tin.
Gần nhất có Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, đồng tình.Đã có nhiều Nghị quyết của Đảng và Nhà nước về chống tham nhũng, suy thoái.
Các Nghị quyết ấy nhìn chung không có gì sai trái và cũng đã được tổ chức thực hiện một cách tích cực, khá vất vả, tốn nhiều công sức; nhưng kết quả vẫn hạn chế, chưa có chuyển biến, thậm chí có mặt còn xấu hơn.
Phải xem lại trong các Nghị quyết ấy còn thiếu điều gì, đã trúng chưa?
Theo tôi, còn thiếu những biện pháp cụ thể về kiểm soát quyền lực ; thực thi dân chủ rộng rãi, tự do ngôn luận và minh bạch thông tin; đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ.
Như phần trên đã nói, quyền lực không được kiểm soát tất yếu sẽ dẫn đến lộng quyền và tha hóa.
Tham nhũng và “lợi ích nhóm” thường gắn với quyền lực, liên quan đến cán bộ có chức quyền, có sự liên kết chặt chẽ giữa tiền và quyền.
Ở nước ta, việc kiểm soát quyền lực và tự do ngôn luận, minh bạch thông tin và công tác cán bộ hầu như còn khuyết điểm ở rất nhiều khâu.
Cần sớm nghiên cứu kinh nghiệm kiểm soát quyền lực của các mô hình phân quyền ở các nước tiên tiến giữa ba nhánh quyền lực (mà lâu nay ta gọi họ là tam quyền phân lập) nhằm kiểm soát chéo và điều chỉnh lẫn nhau, chống lạm quyền, khi đã sai thì sớm phát hiện và kịp thời sửa chữa; kể cả kinh nghiệm phân quyền giữa các cơ quan trong cùng một nhánh quyền lực, nhất là hành pháp và tư pháp.
Tổ chức Đảng không sử dụng quyền lực Nhà nước và phải chịu sự kiểm soát của nhân dân, của Nhà nước và của cơ quan giám sát do đại hội cử ra.
Tiếp tục thực hiện tốt hơn việc bỏ phiếu đánh giá hằng năm của cấp ủy và Hội đồng Nhân dân các cấp, Trung ương và Quốc hội đối với các chức danh do các cơ quan ấy bầu cử và phê chuẩn.
Ban hành luật trưng cầu dân ý; về tự do ngôn luận, tự do thể hiện chính kiến.
Nghiên cứu sửa đổi các điều luật về tội tuyên truyền chống Nhà nước nhằm bảo đảm cho “ông chủ” nhân dân được quyền phê phán “các đầy tớ” khi họ làm sai, làm hỏng hoặc gian lận, lộng quyền mà “ông chủ” không bị “đầy tớ” tống giam.
Nghiêm cấm việc bịa chuyện vu cáo, quy chụp, xúc phạm nhân phẩm, vi phạm nhân quyền và tự do cá nhân của người khác, kể cả lãnh đạo và nhân dân; ra quy định về đạo đức công vụ; về trách nhiệm giải trình và minh bạch thông tin; về sự lành mạnh, nhân văn và mở rộng tự do trong truyền thông.
Chính tự do ngôn luận sẽ góp phần tích cực đưa nhân dân lên vị trí làm chủ, tham gia kiểm soát quyền lực và thúc đẩy đổi mới lý luận và công tác tư tưởng, giúp không bị lạc hậu và gắn với thực tiễn; đồng thời lại giúp nhân dân có thông tin về tư cách cán bộ, để không chọn nhầm người vào bộ máy lãnh đạo.
Trong đổi mới cơ chế quản lý, cần tiếp tục thực hiện kinh tế thị trường đầy đủ, không để bị biến dạng, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước để các nhà đầu tư tham gia quản trị doanh nghiệp.
Lấy kinh tế tư nhân làm động lực chính để tiến lên; thực hiện bình đẳng giữa các loại doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau; lực lượng công an, quân đội nói chung không nên làm kinh tế; kiên quyết bỏ cơ chế chủ quản các doanh nghiệp.
Xóa bỏ cơ chế xin – cho; cải cách chế độ thuế bất động sản theo hướng đánh thuế lũy tiến về đất đai nhằm chống đầu cơ và khắc phục bất bình đẳng quá mức trong khoảng cách giàu nghèo ngày càng phân hóa lớn.
Nghiên cứu chế độ đa sở hữu đối với đất ở, đất vườn và đất nông nghiệp.
Trước mắt cần thay đổi căn bản cách thu hồi đất nhân dân đang sử dụng. Theo đó, chỉ thu hồi cho dự án trực tiếp phục vụ quốc phòng, phúc lợi xã hội, xây dựng hạ tầng công cộng.
Ngoài ra, đối với các dự án khác thì nhà đầu tư phải thỏa thuận mua bán với người dân.
Lâu nay, lợi dụng chế độ quản lý đất đai hiện hành, tham nhũng và “lợi ích nhóm” về đất đai là khá phổ biến, cần sớm khắc phục tiêu cực do cơ chế quản lý đất đai và tạo điều kiện cho người nông dân có sở hữu đối với tư liệu sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp, để trên cơ sở đó mà tham gia làm chủ xã hội,
Phải chống tham nhũng từ trong trứng nước!
Để có thể nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng; Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Thường vụ các cấp ủy cần có kế hoạch cụ thể để ngày càng mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội, tập hợp nhân tài, trí thức vào bộ máy lãnh đạo các cấp với ý thức rằng trí thức chính là lực lượng đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất trong thời đại hậu công nghiệp, kinh tế tri thức.
Ở đây, tôi muốn nói đến trí thức chân chính và thực chất, chứ không phải những người chạy theo bằng cấp vì trong quy hoạch đã ghi một cách rất hình thức ấy.
Trên cơ sở tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, tự do tư tưởng và đa dạng về văn hóa, các cấp ủy Đảng phải thường xuyên đổi mới tư duy, nâng cao trí tuệ, để đủ sức tham gia công cuộc khai hóa văn minh của dân tộc thay cho các tư tưởng bảo thủ, giáo điều, xa rời thực tế.
Cải tổ bộ máy, bỏ trùng lắp và chồng chéo về chức năng nhiệm vụ giữa hệ thống Đảng và hệ thống Nhà nước, hệ thống dân vận, thật sự khắc phục tình trạng ở nước ta cùng lúc có 3 bộ máy đều được trả lương bằng ngân sách Nhà nước (tức là tiền thuế của dân).Đặc biệt lưu ý đổi mới căn bản tư duy lý luận và công tác lý luận, thay đổi hẳn cách tiếp cận, lấy tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, cộng với cập nhật thường xuyên các tư tưởng mới và tiến bộ khoa học công nghệ làm nền tảng, thực hiện đối thoại bình đẳng giữa các quan điểm khác nhau, tập họp anh chị em trí thức để đồng hành và hợp tác trong phát triển bền vững đất nước. 
Trên cơ sở đó mà bỏ bớt các bộ phận dư thừa trong hệ thống chính trị, tinh gọn biên chế và làm rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan và cá nhân từng người lãnh đạo, từ đó dễ xử lý trách nhiệm trong các sai trái.
Nước ta có rất nhiều việc làm hư hại uy tín của Đảng, Nhà nước và tài sản của quốc gia, nhưng quá ít trường hợp bị xử lý về trách nhiệm, không thấy ai từ chức và cũng ít thấy ai bị cách chức.
Cần phải nghiêm túc sửa chữa tình trạng vô trách nhiệm này!
Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ theo hướng phải tranh cử gắn với mở rộng quyền đề cử của các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội, cũng như quyền ứng cử của các cá nhân.
Không có tranh cử thì cơ chế ấy sẽ dẫn đến tha hóa đội ngũ cán bộ, giống như muôn loài khi tách khỏi “chọn lọc tự nhiên”; trong điều kiện một Đảng thì tất nhiên là khó hơn nhưng không có nghĩa là hoàn toàn không làm được, và nhất thiết phải làm!
Trong khi một Đảng lãnh đạo thì Đảng ấy nhất thiết phải giương cao ngọn cờ dân chủ, tổ chức Đảng chủ yếu là lãnh đạo, thuyết phục về tiêu chuẩn cán bộ, hạn chế tối đa việc giới thiệu nhân sự cụ thể.
Chỉ tổ chức hiệp thương giới thiệu một số ít trường hợp để làm chủ chốt với các phương án khác nhau không có quân “xanh” quân “đỏ”.
Khắc phục tối đa tình trạng “một mình một sân”, “Đảng cử dân bầu”, đồng thời phát huy cao nhất vai trò tự chủ của các đoàn thể chính trị xã hội và các hội trong việc chọn người ra tham gia tranh cử.
Đó cũng là nói về vai trò của xã hội dân sự lành mạnh!
Giảm mạnh bộ máy và nâng lương cao lên cho cán bộ, không để cán bộ sống chủ yếu bằng các nguồn “thu nhập khác” như hiện nay [Xin hãy đừng nói với tôi rằng không có ngân sách lấy gì mà nâng lương? Chẳng qua chỉ là thay đổi cách quản trị quốc gia].Đối với cán bộ lãnh đạo, cán bộ qua bầu cử, là vậy; còn đối với cán bộ chuyên môn thì phải thông qua thi cử công khai và công bằng.
Việc xử lý nghiêm minh các vụ tiêu cực là hết sức cần thiết, nhất định không được bỏ qua vụ nào, dù phải động chạm đến bất kỳ ai!
Mọi sự bao che hoặc dung túng cho “quan tham” đều là con đường dẫn đến kết cục xấu.
Tập thể các Ban Chấp hành và những đảng viên chân chính không được thụ động, thả tay, thừa nhận bất lực mà phải kiên cường và chủ động tham gia cuộc chiến chống tham nhũng, “ lợi ích nhóm”.
Chúng ta phải ủng hộ mạnh mẽ những việc làm đúng, nhất là trong việc chống “ lợi ích nhóm” và chống bảo thủ (thúc đẩy đổi mới) của Tổng Bí thư và tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong cuộc chiến này.
Trong số các nhóm giải pháp, việc xử lý các vụ tiêu cực viết sau không có ý rằng ít quan trọng mà vì là giải quyết hậu quả, cái đã xảy ra nên cần nhấn mạnh vào tác dụng răn đe. Nhưng dù sao, vẫn không bằng việc phải biết phòng chống sự suy thoái, tham nhũng ngay từ đầu.
Chúng ta nên đề phòng trong khi giải quyết các vụ tham nhũng đã xảy ra, năm bảy vụ mới lại phát sinh nên tổng số tồn đọng vẫn cứ không giảm mà có thể nhiều hơn!
Cho nên phải tập trung nhiều nhất cho việc ngăn chặn đầu vào, giải quyết từ gốc hạn chế các điều kiện và tác nhân sinh ra tiêu cực.
Đồng thời xử lý một cách kiên quyết, không dung túng, khoan nhượng, thỏa hiệp với các vụ tiêu cực đã xảy ra, minh bạch tất cả thông tin cho nhân dân biết để nhân dân thêm tin tưởng.
Trong nhiều trường hợp, việc minh bạch thông tin còn công hiệu hơn kỷ luật, vì cái xấu không còn nơi ẩn nấp.
Nếu không minh bạch thông tin, cứ để mập mờ, thì mọi người sẽ nghi ngờ tất cả, người tốt và liêm khiết cũng bằng nhau với người xấu và tham nhũng, không còn ai tốt, nhân dân biết tin vào đâu?
Hà Nội 10/2016
TS. Vũ Ngọc Hoàng
BÀN VỀ CHỦ ĐỀ CHỐNG 'TỰ DIỄN BIẾN' VÀ 'TỰ SUY THOÁI
NGUYỄN AN DÂN/ BBC/BVB 14-10-2016
Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng chính trị, nên có lẽ hậu quả khôn lường ghê gớm nhất mà tổng bí thư cảnh báo là "vỡ Đảng" chăng ? Chữ "tự" trong hai vế nói lên vấn đề xuất phát từ chính nội bộ đảng chứ không phải từ phương trời Âu Mỹ hay từ "các thế lực thù địch", nên việc chỉ ra nguyên nhân nguồn gốc của nó là cái quan trọng..
Hội Nghị Trung Ương 4 diễn ra tại Hà Nội đang bàn nhiều vấn đề mà theo diễn văn khai mạc của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng thì quan trọng nhất là chống "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa"..
Lâu nay Đảng đã đưa hai vấn đề này ra trong lý luận củng cố Đảng nhưng theo thời gian thì vấn đề có vẻ ngày càng trầm trọng khi hôm nay xuất hiện cụm từ bổ sung là "có thể gây ra những hậu quả khôn lường".
Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng chính trị, nên có lẽ hậu quả khôn lường ghê gớm nhất mà tổng bí thư cảnh báo là "vỡ Đảng" chăng ?
Chữ "tự" trong hai vế nói lên vấn đề xuất phát từ chính nội bộ đảng chứ không phải từ phương trời Âu Mỹ hay từ "các thế lực thù địch", nên việc chỉ ra nguyên nhân nguồn gốc của nó là cái quan trọng.
Dân tộc đa nguyên và thể chế nhất nguyên
Do điều kiện lịch sử, dân tộc Việt thời kỳ hiện đại hình thành hai tư duy lớn là chống Cộng (ủng hộ quốc gia VNCH) và theo Cộng (ủng hộ quốc gia VNDCCH) và một tư duy đứng giữa hai khối này, không theo tư duy nào.
Tư duy đứng giữa này chú trọng phát huy nội lực và tìm kiếm con đường dân chủ-phát triển dân tộc, như học thuyết của phong trào quốc gia cấp tiến, giáo lý đạo Phật giáo Hòa hảo... là những ví dụ (tạm gọi là thành phần thứ ba - tư duy dân chủ để phát triển đất nước và dân tộc hùng mạnh mà không phải dựa theo Trung Quốc hay Mỹ).
Do đặc điểm chính trị, quốc gia Việt Nam trước 1975 chia làm hai vùng lãnh thổ, vùng miền Bắc mang đặc trưng dân chủ XHCN, và vùng miền Nam mang đặc trưng dân chủ của tư bản..
Trên vùng lãnh thổ VNCH, do nó khuyến khích dân chủ theo giá trị chung của nhân loại, nên nó cũng đồng thời cưu mang thành phần thứ ba.
Sau sự kiện đất nước thống nhất 1975 dẫn đến dân tộc ly tán. Chính quyền CHXHCNVN chỉ chấp nhận dân chủ XHCN, đàn áp và thủ tiêu tất cả những tư duy dân chủ khác, dẫn đến một bộ phận dân tộc phải bỏ nước ra đi, phát tán khắp nơi trên thế giới.
Đảng CSVN tuy thống nhất được lãnh thổ đất nước, nhưng không thể thống nhất tư duy dân tộc (vì quan điểm sai đưa đến cách làm sai).
Thống nhất tư duy dân tộc là điều cần làm
Hệ quả tất nhiên là về hình thức và trên bề mặt thì đất nước có vẻ nhất nguyên (vì thể chế bắt buộc) nhưng sóng ngầm đa nguyên tồn tại (trong tâm tưởng người ở lại và người ra đi).
Từ một đất nước vốn tự nhiên là đa nguyên, Đảng CSVN tạo dựng ra thể chế gò ép đất nước vào nhất nguyên, nhưng rồi theo thực tế tiến bộ và mở cửa, xã hội lại tự nhiên quay về thực tế đa nguyên, dù Đảng vẫn cố gò ép cho nhất nguyên bằng chuyên chính vô sản.
Xã hội đa nguyên và thể chế đa nguyên
Từ nhất nguyên về kinh tế và chính trị (hoàn toàn phải theo tư duy cộng sản-XHCN), thể chế đã phải chấp nhận cải cách để đất nước tồn tại, với cái mốc là 10 năm/một lần thay đổi.
Mốc 1975-1985 - nhất nguyên về kinh tế và chính trị
Mốc 1985-1995 - mở cửa kinh tế bang giao phương tây, tiến lên nhanh đa nguyên về kinh tế, nhưng vẫn nhất nguyên về chính trị
Mốc 1995-2005 - bình thường hóa quan hệ với Mỹ và Phương Tây, cho Việt kiều tự do về nước, mở cửa cho internet... triệt để đặt nền móng vững chải cho đa nguyên về kinh tế và từ đó, tạo môi trường cho đáy tầng xã hội phát triển trở lại đa nguyên về chính trị (trên cái nền ngầm âm ỉ bị đè nén từ trước) trong khi trên mặt tầng quyền lực vẫn nhất nguyên (một đảng).
Mốc 2005-2015 - tiến tới xóa bỏ hẳn cái đuôi định hướng XHCN trong kinh tế thị trường, chấp nhận tư duy đa nguyên hoàn toàn về kinh tế.
Trong đảng hình thành các phe phái tư bản thân hữu, thân phương Tây, các nhóm hoàng tử, thái tử đảng đi Tây học về cầm nắm quyền lực ngày càng gia tăng về số lượng và nắm giữ các vị trí quan trọng dẫn đến đa nguyên về tư duy quản lý xã hội trong đảng
Đảng gọi nó là tự diễn biến và tự chuyển hóa, còn tôi gọi nó là đa nguyên trong Đảng.
Về xã hội, án tù cho các khối quần chúng kêu gọi đa nguyên nhẹ đi, những nhà hoạt động dân chủ có lòng yêu nước chân chính, có tầm và có tâm thì dù không chấp nhận ý thức hệ XHCN (cả trong lẫn ngoài nước) ít bị báo Đảng "đánh hội đồng tư tưởng" hơn (tiền đề để đi đến việc Đảng, hay ít nhất một bộ phận tiến bộ trong Đảng, chấp nhận lòng yêu nước chân chính dù khác biệt ý thức hệ).
Tôi gọi nó là chấp nhận đa nguyên trong việc bày tỏ lòng yêu nước chân chính và vì tiến bộ đất nước.
Tư duy cộng sản và cộng hòa trong quần chúng trong nước cũng xóa nhòa ranh giới triệt để, các thành phần có liên quan đến thể chế cộng sản miền bắc và cộng hòa miền nam đã chung sống, giao lưu ngày càng thân thiện và hòa đồng hơn.
Như vậy, theo chu kỳ tiệm tiến bắt buộc phải thay đổi (vì thực tế thay đổi), trong 10 năm tới sẽ là giai đoạn hai của đa nguyên về chính trị.
Liệu xã hội Việt Nam sẽ có giai đoạn 'Đổi mới 2'? 
Giai đoạn 'Đổi mới 2'
Tôi dự đoán 2016-2026, sẽ là giai đoạn xã hội và thể chế tiến tới đa nguyên về chính trị bền vững để tạo tiền đề cho chuyển hóa chính trị quốc gia.
Ngay trong Đảng cũng đã bàn tán, người ta gọi nó là "Đổi mới 2", và nó là một xu thế được phát triển từ thực tế vận động của xã hội và thể chế, không ai có thể ngăn cản vì nó đến theo thực tế phát triển chung.
Kèm theo đó là vấn đề đa phương hóa về ngoại giao quốc phòng với nhiều nước từ đủ các phương trời Âu-Á-Mỹ…để đề kháng với sự bành trướng của Trung Quốc. Đa phương hóa
 thì tất yếu phải đa nguyên hóa trong hàng ngũ cán bộ đảng viên thực thi công vụ.Quần chúng thì đơn giản hơn, họ vận dụng mở rộng thuyết nhu cầu Maslow để lý giải con đường đi từ no đủ trong bao tử sẽ đi đến đa nguyên trong tư duy chính trị của họ. Chiến lược "dùng kinh tế để chuyển hóa chính trị" mà tư bản áp dụng ở Việt Nam từ khi bỏ cấm vận đến nay đã bắt đầu ra hoa kết quả.
Như vậy có thể thấy rõ xu hướng đa nguyên hóa, "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" là quy luật bắt buộc phải đến trong thể chế và xã hội khi đã đa nguyên về kinh tế và ngoại giao-quốc phòng, rồi từ đó xã hội-thể chế tác động qua lại để nâng cao nhau, là quy luật tất yếu. Chúng ta có thể chống lại pháp luật, nhưng không ai có thể chống lại quy luật.
Thành ra e rằng cuộc chống "diễn biến và chuyển hóa" này của đảng là rất gian nan và hiệu quả ít ỏi.
Nhà nước pháp quyền hay nhà nước pháp trị ?
Theo nghị quyết của Đảng thì thể chế sẽ phát triển theo mô hình nhà nước pháp quyền XHCN với kinh tế thị trường đa thành phần.
Nghĩa là chấp nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp nhận đa đảng (dù đã có đa nguyên như chứng minh ở trên) dựa trên nền tảng nhà nước pháp quyền (rule by law), trong đó vai trò của hành pháp, lập pháp, tư pháp có sự chia tách nhưng được quản lý thống nhất theo định hướng của Đảng.
Theo nghị quyết của Đảng thì thể chế sẽ phát triển theo mô hình nhà nước pháp quyền XHCN với kinh tế thị trường đa thành phần. Tư duy này dẫn đến thực tế là vừa chấp nhận hình thành đa nguyên nhưng lại vừa không công nhận đa nguyên và không ngừng chống lại nó (vì không thể để đa đảng).
Tư duy này dẫn đến thực tế là vừa chấp nhận hình thành đa nguyên nhưng lại vừa không công nhận đa nguyên và không ngừng chống lại nó (vì không thể để đa đảng). Thành ra từ đó dẫn đến mâu thuẫn nội tại khi xây dựng thể chế và quản lý quyền lực (theo hướng tích cực cho đất nước).
Các vấn đề nói trên chính là những sự lúng túng và đưa đến nhiều "nguy cơ" mà Hội Nghị Trung Ương 4 đang bàn cách khắc phục, nhưng khắc phục có được không khi những vấn đề này nảy sinh chính từ trong bản chất định hướng nhà nước pháp quyền XHCN.
Tôi nghĩ rằng có lẽ Đảng nên thay đổi mô hình thể chế theo dân chủ pháp trị, thay pháp quyền (rule by law) bắng pháp trị (rule of law), và chấp nhận đa nguyên chính trị song song với đa nguyên kinh tế để vừa phù hợp với chính lý luận Mác xít (chính trị phải phù hợp kinh tế, hay kinh tế quyết định chính trị) vừa phù hợp thực tiễn hiện nay và tương lai của Việt Nam một khi đa nguyên là bản chất của mọi xã hội.
 (BBC)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét