Họ viết và tán phát trên mạng rằng: "Đàn áp về nhân quyền ở Việt Nam ngày càng gia tăng"; "các quyền của người dân, trong đó có dân chủ, quyền lập hội, biểu tình… không được thực hiện, trái lại ngày càng bị bóp nghẹt...". Vậy dân chủ và quyền con người là gì? Những quyền này đã và đang được bảo đảm ở Việt Nam như thế nào?
Theo quan niệm chung, dân chủ là chế độ chính trị trong đó toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do dân thực hiện trực tiếp hoặc thông qua đại diện của mình bầu ra... Đó là các cơ quan quyền lực và chính quyền các cấp.
Về hình thức, hoặc mô hình dân chủ gồm có các dạng-dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp. Một trong những đặc trưng nổi bật nhất của chế độ dân chủ là thiết lập và duy trì nguyên tắc “thiểu số phục tùng đa số”, đồng thời thừa nhận quyền tự do về chính trị và quyền bình đẳng về giới tính, về dân tộc, về vị thế chính trị-xã hội của mọi công dân. Trong đó gồm cả quyền được bảo lưu của cá nhân.
Không thể phủ nhận thành quả dân chủ và quyền con người của Việt Nam
Ảnh minh họa: tuyengiao.vn
Có thể nói, các cuộc cách mạng dân chủ tư sản mở đầu từ thế kỷ 16, với các cuộc cách mạng điển hình như: Hà Lan năm 1581 (mở đầu); Anh năm 1689; Mỹ năm 1766; Pháp năm 1789 đã mở ra một nền dân chủ tư sản, trong đó bao gồm đầy đủ các nhân tố của dân chủ. Cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra một chế độ dân chủ mới. Đó là dân chủ XHCN, nền dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo hướng đến lợi ích và sự bình đẳng cho mọi người. Sau Chiến tranh thế giới thứ II, do tác động của chủ nghĩa xã hội, phong trào giải phóng dân tộc ra đời, trong đó có Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam. Chế độ dân chủ sau Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam là chế độ dân chủ nhân dân hướng theo con đường xây dựng xã hội XHCN. Có thể xem các nền dân chủ: Dân chủ tư sản, dân chủ XHCN, dân chủ nhân dân là 3 chế độ-3mô hình dân chủ trên thế giới. Mỗi một chế độ dân chủ nói trên đều có những thiết chế khác nhau, nhưng tựu trung đều có những yếu tố sau: 1) Sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của công dân (bao gồm tất cả các thành viên xã hội); 2) Bầu cử tự do và theo nhiệm kỳ bầu ra các cơ quan, người lãnh đạo nhà nước; 3) Quyền lực của nhà nước được chia ra làm 3 nhánh: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi cơ quan trên có một chức năng riêng; 4) Hiến pháp và pháp luật được xem là tối thượng; 5) Các quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân được tôn trọng và bảo đảm.
Thực tế cho thấy, chế độ dân chủ trên thế giới có nhiều mô hình. Chế độ dân chủ ở Hoa Kỳ có đặc trưng là luôn có hai đảng chính trị thay nhau lãnh đạo cầm quyền; công dân, trong các cuộc bầu cử bị chia thành hai loại “đại cử tri” và cử tri thường. Đặc trưng nền dân chủ của Việt Nam là tất cả mọi người đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ; chế độ dân chủ của Việt Nam dựa trên hệ thống chính trị các cấp-đó là chế độ sinh hoạt của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp; là tiếng nói của Mặt trận Tổ quốc và của các đoàn thể xã hội luôn luôn được tôn trọng. Ở đây tiếng nói, nguyện vọng của người dân được bảo đảm thông qua các đại diện của mình.
Một trong những đặc trưng của nền dân chủ ở Việt Nam là chế độ dân chủ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cầm quyền. Tuy nhiên, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam phải tuân thủ nguyên tắc: “1. Đảng Cộng sản Việt Nam-đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; 2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; 3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật". (Điều 4, Hiến pháp 2013).
Ngay từ khi cách mạng thành công (tháng 8-1945) cho đến thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm đến dân chủ ở cấp cơ sở. Còn nhớ, sau sự kiện nông dân ở tỉnh Thái Bình tụ tập đông người đi khiếu kiện gây ách tắc giao thông (năm 1997); một số nơi, nông dân còn tấn công, đập phá trụ sở cơ quan công quyền. Sau khi khảo sát, nghiên cứu, khi ấy, Tổng Bí thư Đỗ Mười cho rằng: Tình trạng gây mất trật tự nói trên bắt nguồn từ sự vi phạm quyền dân chủ của người dân. Theo đó. Tổng Bí thư Đỗ Mười chỉ đạo ban hành Chỉ thị số 30 về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Nội dung quy chế dân chủ ở cơ sở gồm: Bảo đảm để mọi người dân ở cơ sở được thông tin về pháp luật, các chủ trương, chính sách của Nhà nước…; có quy chế và các hình thức để nhân dân, cán bộ, công chức ở cơ sở được bàn bạc và tham gia ý kiến vào các chủ trương, chính sách, nhiệm vụ công tác chuyên môn, công tác cán bộ... của chính quyền, cơ quan, đơn vị;  có quy định về việc để nhân dân bàn và quyết định dân chủ đối với những loại việc liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân trên địa bàn; cơ chế để nhân dân, công nhân, cán bộ, công chức ở cơ sở trực tiếp và thông qua, gồm: Mặt trận, các đoàn thể, ban thanh tra nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền, thủ trưởng cơ quan,…
Sau Chỉ thị 30, Chính phủ đã luật hóa bằng nghị định của Chính phủ. Dựa trên chỉ thị và nghị định về dân chủ, Nhà nước Việt Nam đã ban hành hàng trăm văn bản nhằm bảo đảm quyền dân chủ của người dân ở cơ sở, bao gồm cả quyền dân chủ của cán bộ, công chức, của cán bộ, nhân viên ở các doanh nghiệp… Cho đến nay, chế độ dân chủ ở Việt Nam đã và đang được thực hiện nghiêm túc ở các cấp, từ cơ sở xã phường, cơ quan, cho đến Quốc hội. Tất cả những vấn đề từ đời sống thường nhật cho đến vấn đề độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ đều được người dân quan tâm và có quyền tham gia. Chẳng hạn, hiện nay vấn đề nguồn nước sạch, thực phẩm an toàn, bảo vệ quyền trẻ em... từng là những chủ đề “nóng” trên diễn đàn Quốc hội. Gần đây, vấn đề Biển Đông là chủ đề được Quốc hội Việt Nam đặc biệt quan tâm.
Ngày nay, nói đến chế độ dân chủ và quyền con người (QCN) thì không thể không nói đến quyền sử dụng internet và mạng xã hội. Việt Nam chính thức nối mạng internet từ năm 1997. Từ năm 2010, đường truyền internet ở Việt Nam được chuyển từ dây cáp đồng sang cáp quang. Tính đến năm 2017, Việt Nam đã có 64 triệu người dùng internet, chiếm 67% dân số cả nước. Với con số này, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á.
Theo thống kê chưa đầy đủ, cho đến nay, Việt Nam đã có 858 cơ quan báo chí in; 105 cơ quan báo điện tử; 207 trang thông tin điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí; 66 đài phát thanh, truyền hình. Hiện nay, không chỉ người dân Việt Nam mà cư dân nước ngoài sinh sống, làm việc ở Việt Nam có đầy đủ thông tin từ những hãng thông tấn báo chí lớn. Hiện ở Việt Nam có tới 75 kênh truyền hình nước ngoài “online”, trong đó có các kênh nổi tiếng, như: CNN, BBC, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg... Hiện có tới 20 cơ quan báo chí nước ngoài có phóng viên thường trú tại Việt Nam, nhiều báo, tạp chí in bằng nhiều thứ tiếng nước ngoài được phát hành rộng rãi. Qua internet, người dân Việt Nam có thể tiếp cận thông tin từ các cơ quan thông tấn, báo chí lớn trên thế giới, như: AFP, AP, BBC, VOA, Reuters, Kyodo, Economist, Financial Times,...
Trước mỗi kỳ họp Quốc hội, các đại biểu đều có chương trình tiếp xúc cử tri. Những cuộc tiếp xúc cử tri được các đài phát thanh, truyền hình đăng tải rộng rãi. Nội dung các cuộc tiếp xúc cử tri ngày nay không chỉ là những vấn đề sinh kế, điều kiện sinh hoạt của người dân, tham gia vào các dự thảo luật, mà cử tri còn đặc biệt quan tâm đến những vấn đề lớn của đất nước, các chủ trương trong chính sách đối ngoại... 
QCN là các nhu cầu về vật chất và tinh thần-từ nhu cầu về dân sự, chính trị, đến kinh tế-xã hội và văn hóa được luật hóa và được Nhà nước tôn trọng, bảo vệ. Xét về lịch sử, QCN chỉ đến với dân tộc Việt Nam khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Các Hiến pháp Việt Nam từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp 2013 đã quy định về QCN. Nội dung những quy định này hoàn toàn tương thích với luật quốc tế về QCN. Hiến pháp 2013 đã dành cả một chương để quy định về QCN. Trong đó, Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các QCN, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; QCN, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Kiểm soát quyền lực của nhân dân không chỉ là nguyên tắc của chế độ ở Việt Nam mà còn là động lực của sự phát triển. Trong xã hội ở Việt Nam ngày nay, nguyên thủ cũng có trách nhiệm trả lời những vấn đề người dân quan tâm. Trong buổi tiếp xúc với cử tri quận Ba Đình, Hà Nội sáng 15-10, trả lời ý kiến của cử tri quan tâm về vấn đề chủ quyền biển đảo ở Biển Đông, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nói: "Chúng ta phải giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước, nhưng không nhân nhượng vấn đề lãnh thổ, độc lập, chủ quyền”.
Những ý kiến xuyên tạc, phủ nhận thành tựu về dân chủ và QCN có nhiều nguyên nhân, trong đó có những nhận thức không đầy đủ về dân chủ và QCN… Ở nhiều quốc gia phương Tây, dân chủ thường gắn với các hoạt động chống chính phủ của các tổ chức phi chính phủ (NGOs)… Đó là các cuộc tụ tập đông người, phá hủy các công trình công cộng, xúc phạm cá nhân, quan chức từ cấp thấp cho đến tổng thống. Quyền tự do báo chí cũng có nội dung tương tự… Trách nhiệm của người đưa tin, của cơ quan quản lý báo chí thường rất nhẹ. Vì vậy dùng tiêu chí dân chủ, nhân quyền của phương Tây để xem xét, đánh giá chế độ dân chủ và QCN của Việt Nam là một sai lầm về chính trị và thiếu sót về phương pháp luận.
Không phủ nhận rằng trong quá trình quản lý xã hội, Việt Nam còn có những khiếm khuyết, trong đó có việc bảo đảm quyền dân chủ của người dân. Ở địa phương này, địa phương khác vẫn còn có hiện tượng lợi ích của người dân chưa được tôn trọng, bảo đảm, nhất là trong vấn đề đất đai. Đây là vấn đề lớn mà các cấp ủy và chính quyền cần đặc biệt quan tâm.
Tuy nhiên, cần nhận thức đúng, về mặt nguyên tắc, nền dân chủ của Việt Nam là một nền dân chủ có kỷ cương, có tổ chức, có hệ thống. Trong xã hội Việt Nam, bảo đảm quyền dân chủ, nhưng phải bảo đảm đúng pháp luật và giữ vững sự ổn định xã hội. Bảo đảm dân chủ và QCN vừa là quyền, vừa là mục tiêu hướng đến của chế độ… vì vậy mỗi chúng ta cần nỗ lực hơn nữa để bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền dân chủ và QCN theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật.
TS CAO ĐỨC THÁI (Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh)

'CHÍNH QUYỀN VÔ CAN'

MẠNH KIM/ BVN 31-10-2019


https://www.danluan.org/files/styles/slideshow_515x300/public/timgs/hinh-23-anh-chinh-read-only-1443913916.jpg?itok=1MNgy_Kl
Tờ San Diego Union Tribune (14-10-2019) cho biết, chính quyền thành phố San Diego (California) đã chấp nhận bồi thường 1,25 triệu USD cho đương đơn Van Nguyen vì những thiệt hại mà ông ta gánh chịu do tai nạn lúc đi xe đạp và vấp ngã “ngoài ý muốn”…
Tai nạn xảy ra với ông Van Nguyen vào tháng 11-2016, khi ông đang đi xe đạp thì bị té ngã bởi lề đường hỏng, khiến ông bị hất văng khỏi xe và “bị ném vào không trung một cách dữ dội”, làm ông bị tổn thương hộp sọ, gãy răng và mặt mày bầm dập. Sau ba năm kiện tụng, ông Van Nguyen không chỉ được thành phố bồi thường 1,25 triệu USD mà ông chủ căn nhà (tên Billy Jean Hart), nơi có rễ cây trồi lên làm hỏng lề đường, cũng phải bồi đền cho mình (số tiền không được công bố). Đây không phải vụ “đi kiện cái lề đường” đầu tiên ở San Diego. Năm 2017, cư dân Clifford Brown đã được bồi thường 4,85 triệu USD trong một tai nạn gần tương tự ông Van Nguyen. Tháng 3-2018, chính quyền San Diego cũng trả một triệu USD cho vợ chồng Edward và Mary Jo Grubbs sau khi bà Mary Jo trượt té trên một lề đường mấp mô…
Tháng 9-2018, một số gia đình bị mất người thân trong vụ thảm sát bởi cựu quân nhân Devin P. Kelley cũng kiện Không quân Hoa Kỳ vì tội tắc trách, sau khi Không quân thừa nhận họ không báo cáo hồ sơ gây án trong quá khứ của Devin cho các cơ quan hữu trách liên bang. Ngoài việc kiện Không quân, họ còn kiện cả chính quyền Austin (Texas), tội “vô trách nhiệm”. “Chính quyền chẳng làm gì cả – đúng nghĩa đen – để giải quyết vụ việc và giúp đỡ các gia đình (có người thân bị giết)”. Đó là lý do chúng tôi phải kiện vì chẳng có cố gắng nào được thực hiện” – một đương đơn nói…
Giữa năm 2019, công dân Jakarta (Indonesia) đã cùng ký tên kiện chính quyền trước tình trạng không khí ô nhiễm nghiêm trọng. Ở đây không có chuyện chính quyền đổ thừa người dân “ăn dơ, ở bẩn”, không có thái độ biện bạch rằng thành phố ngày càng có nhiều phương tiện giao thông thì đương nhiên không khí phải ô nhiễm. Trong đơn kiện gửi lên Tòa Trung tâm Jakarta ngày 4-7-2019, người dân và giới hoạt động môi trường đã kiện tổng thống và giới chức chính quyền, yêu cầu họ xem xét lại luật kiểm soát môi trường và có giải pháp cụ thể trong việc bảo vệ sức khỏe người dân. Tính đến giữa năm 2019, chính quyền và các công ty tại 28 quốc gia đã bị kiện, liên quan vấn đề ô nhiễm môi trường.
Vài trường hợp trên cho thấy gần như tất cả mọi cá nhân, tổ chức và đặc biệt hệ thống chính quyền đều có liên đới ít nhiều và phải chịu một phần trách nhiệm trong những sự việc ảnh hưởng xã hội và đời sống người dân, đặc biệt nếu nguồn gốc sự việc có nguyên nhân từ một phần chính sách điều hành. Không mô hình chính quyền lý tưởng nào hoàn hảo đến mức có thể làm tất cả người dân hài lòng nhưng một chính quyền tôn trọng phục vụ lợi ích người dân thì phải lắng nghe và biết thực thi trách nhiệm. Điều thường nghe về cái gọi “chống chế độ” hay “chống phá nhà nước” trước những chỉ trích người dân là một lập luận sai từ lý lẽ căn bản. Nếu có một nhà nước được bầu bằng lá phiếu dân chủ thay thế chế độ cộng sản thì nó vẫn phải tiếp tục hứng chịu sự lên án người dân khi nó phủi tay trách nhiệm trước những sự kiện ảnh hưởng không chỉ một cá nhân mà nhiều người, không chỉ một trường hợp đơn lẻ mà nhiều vụ tương tự lặp đi lặp lại, không chỉ đối với một khu vực cá biệt mà nhiều vùng miền đất nước.
Tại sao có chính quyền phải bồi thường người dân cả triệu đôla chỉ vì cái vỉa hè nhưng ở một nước khác, như Việt Nam, thì người ta luôn tìm cách thối thác trách nhiệm, trong gần như tất cả vụ việc từ nhỏ đến lớn? Không người dân nào có quyền quy hoạch đô thị cũng như thiết kế hạ tầng giao thông nhưng tại sao kẹt xe hoặc ngập đường không phải là trách nhiệm của chính quyền? Ô nhiễm môi trường, dù có phần lỗi người dân, nhưng chính quyền không thể hoàn toàn vô can. Không người dân nào được phép “trồng” cột điện hoặc đào hố ga nhưng dù xảy ra vô số cái chết bởi điện giật và té hố ga nhưng vấn đề ai chịu trách nhiệm luôn được đẩy từ chỗ này sang chỗ kia cho đến khi sự việc chìm vào quên lãng. Một trong những trường hợp điển hình của thái độ vô trách nhiệm là có hàng chục tổ chức chính quyền và đoàn thể liên quan bảo vệ phụ nữ và trẻ em nhưng tình trạng cưỡng hiếp trẻ em chưa bao giờ kinh khủng bằng giai đoạn này.
Giải pháp cho việc đối mặt trách nhiệm, với chính quyền Việt Nam, không phải là chấp nhận thử thách việc xử lý sao cho người dân có thể hài lòng mà là làm thế nào để yếu tố trách nhiệm ít được đặt vai mình càng nhiều càng tốt. Cách thức xử lý khủng hoảng thông tin trong những sự việc nghiêm trọng, với chính quyền và hệ thống truyền thông thuộc sự kiểm soát chính quyền, là tìm cách dồn “nguyên nhân” và “hậu quả” về phía người dân. Điều này có thể lái sự phẫn nộ dư luận sang hướng khác ở thời điểm trước mắt nhưng nó không là giải pháp để cứu sự sụp đổ chính quyền trong tương lai nếu ngày càng có nhiều người dân nhận thức được rằng họ là nạn nhân trên một đất nước được điều hành bởi một chính quyền vô trách nhiệm.
Bồi thường dân chỉ vì một cái vỉa hè không chỉ cho thấy hệ thống luật pháp đất nước đó được xây dựng chặt chẽ như thế nào mà còn cho thấy chính quyền họ không ảo tưởng về vai trò và trách nhiệm để trở thành nơi được người dân tin cậy hơn là chỗ để người dân trút lên phẫn uất. Không mô hình chính quyền nào hoàn hảo. Để có một chính quyền chấp nhận “chịu thiệt” nhằm thể hiện trách nhiệm, cần một quá trình không phải ngày một ngày hai. Điều đó chưa hẳn là ý muốn chính quyền khi mô hình chính quyền ra đời, xét đến yếu tố lịch sử hình thành thiết chế chính quyền, và nó có thể chẳng bao giờ có nếu không có những tiền lệ, xuất phát từ nhu cầu và đòi hỏi của người dân. Chừng nào người dân “chưa cần”, mô hình như vậy không có cơ hội ra đời. Chừng nào đa số vẫn còn tin vào lập luận của một thiểu số, trong đó có cả “trí thức”, luôn cố nói rằng “không nên cái gì cũng chửi chính quyền,” thì bất công vẫn tràn lan và những cái chết tức tưởi tiếp tục xảy ra mà trách nhiệm chẳng thuộc về “lương tâm” kẻ nào cả.
M.K.

GIẤC MƠ HÃO HUYỀN
NGUYỄN ĐÌNH CỐNG/ BVN 31-10-2019
Tin về cái chết của 39 người trong thùng xe đông lạnh tại Anh làm cho nhiều người đau lòng, thương xót. Càng thương họ, càng thêm căm giận những thế lực đã trực tiếp và gián tiếp gây ra tội ác. Trong những thế lực đó có cả thể chế chính trị tại đất nước họ. Bài viết “Tôi buồn, tôi tức giận, tôi thương” của Đoàn Bảo Châu (Báo Tiếng Dân ngày 27/10) và nhiều bài khác (Ngô Trường An, Trung Bảo, Nguyễn Quang Bô, Huỳnh Ngọc Chênh, Dương Quốc Chính, Nguyễn Ngọc Chu, Khải Đơn, Nguyễn Đăng Hương, Nguyễn Tuấn Khoa, Thạch Đạt Lang, Phan Ngọc Minh, Thụy My, Doanh Toại, Lê Nguyễn Hương Trà, Đinh Minh Tuấn, Trương Nhân Tuấn, Phạm Minh Vũ, Vũ Ngọc Yên v.v…) đã nói lên điều đó.
Tôi nghe sự quan tâm của Chính phủ về việc công dân Việt có ai trong số 39 nạn nhân ở Anh. Rồi nào là điện khẩn, công văn của Thủ tướng cho bộ này bộ nọ, cho UBND tỉnh ấy tỉnh kia, nào chỉ thị cho Đại sứ quán phải gấp rút xác minh danh tính nạn nhân, tìm nguyên nhân,truy bắt thủ phạm v.v… Nghe rồi suy nghĩ. Trong việc này có mấy phần là sự quan tâm thật lòng của ông Thủ tướng đến công dân và mấy phần là sự tuyên truyền. Tôi nằm, miên man trong việc tìm chứng cứ để có kết luận rồi ngủ thiếp đi, và trong mơ thấy được mời dự thính một cuộc họp của Chính phủ. Tôi được thông báo rằng các anh Nguyễn Khắc Mai, Nguyễn Trung, Chu Hảo, Lê Mã Lương, Mạc Văn Trang cũng được mời dự thính như vậy.
Đó là cuộc họp của Thủ tướng với các bộ, các ngành để bàn việc nâng cao vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo uy tín cho Chính phủ, tạo niềm tin và phấn khởi cho toàn dân. Thủ tướng yêu cầu phải nêu lên một lĩnh vực mà Việt Nam chiếm loại nhất của thế giới để, một là lập kỷ lục, hai là được UNESCO công nhận, ba là đem ra để báo cáo ở Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Từ đó đem tuyên truyền mạnh mẽ và rộng rãi trong nước và thế giới. Chính phủ đã dự kiến chi một khoản vài ngàn tỷ cho việc này.
Thủ tướng nói: Vấn đề tôi muốn nêu ra là: “Việt Nam nhạy cảm và quan tâm đến nhân quyền”, xin nêu các căn cứ, các dẫn chứng để mọi người thảo luận.
Về trong nước, hễ Chính phủ biết được có công dân nào bị thiệt mạng do bão lũ hoặc tai nạn lao động, thì lập tức gửi điện thăm hỏi, chỉ đạo các cấp các ngành quan tâm, cử cán bộ đến tận nơi úy lạo. Khi biết tin sắp có bão lụt thì Chính phủ điện khẩn khắp các nơi, chỉ đạo những công việc cụ thể. Rồi phong trào xóa đói giảm nghèo. Lo cho dân đến thế là cùng.
Về người Việt đi ra nước ngoài, khi có ai bị chết hoặc mất tích thì Chính phủ điện khẩn cho các bộ, các ngành, các địa phương và Đại sứ quán liên quan, chỉ thị đủ mọi việc cụ thể, tận tình, chu đáo. Chính quyền cử người đến từng gia đình nạn nhân thăm hỏi, giúp đỡ.
Chính phủ rất quan tâm, khen thưởng kịp thời những hành động dũng cảm cứu giúp người bị tai nạn.
Đối với nước ngoài, khi biết được nơi nào đó có tin vui dù lớn hay nhỏ, có tin buồn từ bình thường trở lên Việt Nam đều nhanh chóng gửi điện chúc mừng hoặc chia buồn. Trong nhiều việc, không phải chỉ có một điện mà nhiều. Nào là điện của Chủ tịch nước, của Tổng Bí thư Đảng, của Thủ tướng Chính phủ, của Chủ tịch quốc hội, của Bộ trưởng Ngoại giao. Thế là Nhà nước chúng ta không những quan tâm đến dân Việt Nam mà còn quan tâm đến toàn thế giới.
Nếu tập hợp đủ các loại điện như kể trên thì chắc rằng mỗi năm sẽ được một tệp dày vài ngàn trang. Đem chúng ra mà trưng bày sẽ làm lác mắt nhiều kẻ. Thử hỏi, ngoài Việt Nam, có nước nào làm được như thế.
Thủ tướng đề nghị các đại biểu nêu ý kiến, xây dựng quan điểm, sau đó về cơ quan tập hợp chứng cứ, cung cấp cho Bộ Ngoại giao để làm hồ sơ. Sau việc này chắc chắn uy tín của Việt Nam sẽ được nâng lên nhiều lắm.
Tiếp theo, một số quan chức phát biểu ủng hộ đề xuất của Thủ tướng, ca ngợi sự sáng suốt, sự nhạy bén của ông. Cũng có ý kiến hỏi rằng về việc này ý kiến của Bộ Chính trị như thế nào. Thủ tướng cho biết chưa thông qua hội nghị tập thể, nhưng đã bàn riêng với Tổng bí thư, Chủ tịch Quốc hội và vài anh chị khác trong Bộ Chính trị. Họ đều nhất trí. Có thể sẽ đem việc này thành một chỉ tiêu trong Nghị quyết của Đại hội 13.
Đến lượt các trí thức dự thính phát biểu. Tôi xin nói đầu tiên.
Tôi cho rằng, như được trình bày, có một số việc về hình thức là tốt, là cần, nhưng phải xem xét đến thực chất, có việc không nên hoặc cần làm theo cách khác.
Những việc có hình thức tốt như quan tâm, giúp đỡ nạn nhân thì việc làm được với lòng chân thành quá cách xa với sự tuyên truyền. Hình như làm ít mà nói nhiều, mục tiêu chính của công việc là để phô diễn thì phải.
Phong trào “Vì người nghèo” có vẻ rất rầm rộ, nhưng sai phương hướng và cách làm nên hiệu quả thấp, tạo ra một số người phấn đấu để được nghèo mãi mãi, và làm phát sinh một số kẻ lợi dụng kiếm chác. Chữ “Vì” trong cụm từ vì người nghèo nghe không xuôi. Không biết ai là người đầu tiên dùng cụm từ ấy và mọi người dùng theo. Gọi là phong trào “Giúp người gặp khó” thì hay hơn. Trong ngôn ngữ Việt thường dùng chữ VÌ cho những đối tượng đáng tôn trọng hoặc quý mến. Còn người nghèo có ba bảy loại, trong đó có loại vì lười và ngu mà nghèo thì tại sao ta lại vì họ?
Về việc chống bão, chống lũ – Thông tin đại chúng đã loan báo kịp thời, lãnh đạo và nhân dân các địa phương đã biết những việc cần làm. Thế thì những bức điện khẩn dài dòng của Ban Phòng chống thiên tai, của Chính phủ gửi đi khắp nơi nhằm mục đích gì, chứng tỏ điều gì?
Nếu cho rằng đề phòng lãnh đạo các tỉnh huyện không xem báo, không nghe đài nên không biết bão lũ sắp xẩy ra tại địa phương thì cấp trên chỉ cần điện khẩn rất ngắn gọn, với vài chữ “Bão lũ sắp xẩy ra, cần hành động”. Thế là đủ. Hành động cụ thể như thư thế nào cấp dưới phải tự biết. Đặc biệt của một lệnh khẩn là phải hết sức cô đọng, càng ngắn càng có sức mạnh. Cái thói “dạy đĩ vén váy” chỉ là của loại người kém trí tuệ mà cứ muốn tỏ ra ta đây quan tâm… Việc chỉ thị cho cấp dưới những việc cụ thể, chi tiết, vụn vặt chứng tỏ cấp trên không tin vào họ, coi thường họ, lại tạo ra cho họ thói quen xấu, trông chờ chỉ đạo của trên.
Về các vụ tai nạn. Thủ tướng có tấm lòng nhân ái thì thật tâm thăm hỏi, chia buồn, có thể đến tận nơi chia sẻ tai họa. Việc các ngành các cấp phải làm gì họ phải tự biết, tự làm. Liệu Bộ trưởng Tô Lâm có cần nhận được điện khẩn mới cho công an điều tra? Liệu Chủ tịch UBND các tỉnh thành liên quan có nhận được điện khẩn mới biết quan tâm đến dân chúng trong vùng? Nếu quả thật các vị ấy phải nhận được điện khẩn của Thủ tướng mới hành động thì nên bãi nhiệm hết và thay bằng người khác có năng lực hơn. Phải chăng cấp trên chấp nhận và dùng cấp dưới kém năng lực thì cấp trên ấy cũng chẳng ra gì.
Để biết Nhà nước này quan tâm đến người dân, đến nhân quyền như thế nào còn cần phải nhìn vào một mặt rất quan trọng của đời sống. Đó là sự đối xử của Chính quyền với dân khi họ cần đến sự giải quyết các việc có liên quan. Xin ghi nhận sự thành công ở một vài nơi về “Tiếp dân tại một cửa”, về một số tiến bộ ở vài địa phương trong cải cách hành chính, Nhưng tại nhiều nơi vẫn tồn tại cách làm “Hành là Chính”. Khi dân có công chuyện đến cửa công, đa số viên chức tiếp họ nghĩ đến việc gây khó khăn, “miệng nam mô nhưng bụng bồ dao găm”. “Hành” để người cần việc phải “nôn” ra, nhưng nhiều trường hợp người dân không biết “đưa phong bì” bằng cách nào và bao nhiêu cho phải. Về việc này, tôi, những người quen biết và rất đông có nhiều dẫn chứng cụ thể, sinh động.
Về trong nước. Hãy xem Thủ tướng làm gì, như thế nào khi những dân oan bị cướp đất, bị kết tội (có nhiều án tử hình) khi không hề phạm pháp (chỉ nhận tội bừa vì bị bức cung), khi có rất nhiều người bị chết trong đồn công an, khi các cuộc biểu tình ôn hòa bị đàn áp, khi đội cờ đỏ khủng bố giáo dân và phá hoại thánh đường, khi các tù nhân lương tâm bị đối xử hà khắc, quá vô nhân đạo, khi môi trường bị tàn phá, hủy diệt làm cho cuộc sống của hàng triệu người dân bị điêu đứng v.v…
Về các Sứ quán. Tôi đã ở 4 nước trong thời gian dài, đã đi qua nhiều nước, đã có khá nhiều dẫn chứng về việc “nhân viên sứ quán có nhiều hình thức và thủ đoạn moi tiền”. Để moi được họ phải tạo khó khăn cho người ta, hành hạ người ta. Gần đây, đọc bài báo “Thái độ vô trách nhiệm đối với công dân ở Nam Mỹ” của Trang Nguyễn (Báo Tiếng Dân ngày 12/10/2019) mà uất hận, mà xót xa. Bài báo kể chuyện một thanh niên người Việt, du lịch ở Pêru, bị mất hộ chiếu. Để xin cấp lại, anh bị đẩy chạy vòng quanh giữa cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở Peru, Chile, Brazil, tốn nhiều thời gian và tiền bạc mà vẫn chưa tìm thấy lối thoát. Anh bị “hành” vì không biết “nôn” ra cho ai, bao nhiêu, bằng cách nào.
Về điện chúc mừng, thăm hỏi gửi đến các nước…
Tôi tạm dừng một chút để lấy hơi thì bị ai đó vỗ vào vai nhắc nhở: Giáo sư nói đã quá dài, hãy để cho người khác. Thế là tôi bừng tỉnh. Kết thúc một giấc mơ hão huyền. Phải chăng đây là hiện tượng mà Freud đã nghiên cứu và mô tả. Nhiều ngày tháng tôi chuẩn bị đối thoại với ông Võ Văn Thưởng ở Ban Tuyên giáo mà không được trả lời nên nhập tâm mà sinh ra giấc mơ như thế. Vâng, giấc mơ hão huyền và hoang tưởng.
N.Đ.C.
Tác giả gửi BVN

LỰC ĐẨY HAY SỨC HÚT ?

NGUYỄN THỌ/ BVN 31-10-2019

https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2019/10/XKL%C4%901-300x300.jpg
Ảnh: internet
Việc người Việt Nam chết trên đường bỏ nước ra đi có lẽ sẽ còn tiếp tục, dù đất nước đã hòa bình hơn 44 năm. Nếu ai đó gọi Việt Nam là một dân tộc tỵ nạn thì không chỉ vì khái niệm “Thuyền nhân” (Boat peoples) xuất phát từ thảm cảnh người Việt chết trên Biển Đông, mà vì chúng ta khác hẳn các dân tộc khác ở chỗ: Họ chạy trốn chiến tranh, còn mình trốn hòa bình. Dù là dưới các mỹ từ “Hợp tác lao động”, “Thẻ xanh”, Visa EB3, EB5 hay từ miệt thị “Gái bán hoa”, thì tất cả đều là bỏ quê hương đi kiếm ăn.
Nhờ có Internet mà công luận mới biết về cái chết trong xe lạnh của 39 người ở Anh, về tai nạn của cháu bé ở trường Gate Way hay cái chết của một vị thứ trưởng rơi từ tầng 8. Tôi không dám nhắc đến tên ai, chỉ mong họ được thanh thản ở bên kia thế giới.
40 mươi năm trước, không ai được thông tin về hơn nửa triệu đồng bào chết đuối, chết khát, chết vì bị cướp biển giết, bị hãm hiếp trên Biển Đông. Không báo nào dám đưa tin. Nhiều đồng bào của chúng ta đã phải ăn thịt người chết trên những con thuyền gỗ tơi tả để cầm hơi sống sót. Nhiều người đã phát điên khi được cứu sống.
Nhờ có mạng xã hội mà hôm nay báo chí Việt Nam không cần phải bịt tin về những cái chết nữa. Họ chỉ cần chờ vài ngày để áp xuất của mạng xã hội phá tung cái van của các nhà quản lý. Sau hai, ba ngày im lặng, báo nhà nước sẽ tìm cách vượt các tin ngoài luồng bằng cách đua nhau giật các title, đưa mọi chi tiết về các vụ án để tăng lượng views.
Mở van là cách duy nhất để nhà nước chứng tỏ sự cởi mở của mình trước những cái chết của người dân? Quốc tang, điện chia buồn, một ngọn nến của nguyên thủ quốc gia chưa bao giờ dành cho dân thường, dù là hàng trăm người thiệt mạng do thiên tai, thảm họa.
Nhưng cũng nhờ mạng xã hội mà tâm can người Việt được phơi bày rõ hơn. Trong khi những người dưng ở Châu Âu bày tỏ sự thương xót với những nạn nhân quá cố thì người Việt đang lên án nhau về thái độ đối với các nạn nhân, thậm chí phê phán gia đình nạn nhân. Hạt giống thù hận gieo rắc trong xã hội đã kết thành trái độc. Nhiều đồng bào quên mất rằng: Đau khổ không phân biệt người Bắc, Trung hay Nam, không phân biệt màu da bò mà ta gán cho nhau. Chỉ lòng người bị nhiễm hận thù mới phân biệt xác chết theo màu đỏ, đen hay vàng.
Nhà tôi ở Đức đã có lúc bị bạn bè coi là “Trại tỵ nạn”, vì luôn có người ghé qua nhờ vả về giấy tờ, về các thủ tục để tạm trú trên con đường đi kiếm ăn tha phương. Tiếp xúc với họ, tôi cũng hiểu nhiều mánh lới khiến tôi sợ hãi: Từ chuyện cưới giả, chú lấy cháu, anh cưới em, đến các loại giấy tờ giả, chứng cứ giả. Dù không ủng hộ cách làm, tôi luôn tìm cách hiểu lý do ra đi của họ.
Tôi thì đã ngấm đòn từ suốt 28 năm qua: Bỏ quê hương ra đi luôn là một quyết định đau đớn của mỗi con người. Trước khi đi Đức lập nghiệp năm 1991, tôi đã từng sống ở cả hai nước Đức. Tôi không bị ai lừa bịp về một tương lai rực rỡ xứ người. Tôi chỉ muốn thoát khỏi cảnh tù túng và những cái mặt nạ mà tôi phải đeo hàng ngày.
Tại Hội nghị Geneve 1979 về người tỵ nạn Đông Dương, Chính phủ Việt Nam đã lên án các thế lực phản động quốc tế tuyên truyền lừa bịp, lôi kéo người Việt Nam ra đi. Trong số hơn hai triệu người ra đi ngày đó, tôi tin là có những người chỉ vì lý do kinh tế, chứ không chỉ là những người Việt thua trận bị đàn áp, bạc đãi hay người gốc Hoa bị xua đuổi.
Vào những năm tháng của bức màn thép đó, không một mẩu tin của Phương tây lọt vào Việt nam. Nếu có lọt vào thì không một kẻ ham chơi ngông cuồng nào chỉ vì các buổi disco, mấy bộ quần áo đẹp hay chiếc xe ô-tô mà dám leo lên chiếc thuyền gỗ để vượt biển. Cái sức ép kinh tế ngày đó chắc phải kinh khủng.
30 năm sau, vẫn có người tin rằng nguyên nhân chính của “Tỵ nạn hòa bình” là do bọn lừa bịp, buôn người. Vậy tại sao người Thái, người Mã Lai, người Philippines, những hàng xóm cùng đẳng cấp như chúng ta lại không bị lừa, để rồi dồn toàn bộ của cải, liều chết ra đi?
Nguyên nhân chính phải thừa nhận là: Gần 45 năm hòa bình đã không giúp Việt Nam trở thành một xã hội ấm no. Ấm no không thể hiện qua GDP, mà qua các chỉ số xã hội lành mạnh. Do vậy dù GDP đầu người đã tăng hơn 10 lần so với 1975, Việt nam vẫn chỉ là nước xếp thứ 115 về chỉ số phát triển con người HDI [1], đứng sau cả Palestina đang bị Do-Thái chiếm đóng. Cu Ba nghèo xơ xác còn đứng trên Việt Nam gần 40 bậc.
Xếp hạng HDI cho thấy Việt Nam là một xã hội không công bằng.
Thảm họa môi trường liên tục xảy ra đã cướp đi không gian sống của hàng triệu người Việt.
Nếu nhìn vào bản đồ Tự do báo chí 2019, Việt nam màu đen kịt.[2]
Nghèo đói, môi trường bị tàn phá, cơ hội làm ăn mờ mịt, bất công, tham nhũng, thiếu tự do, không minh bạch… Đó là những lực đẩy khổng lồ, đẩy người Việt, giàu cũng như ngèo bỏ nước ra đi. Chứ không phải sức hút của những lời lừa bịp.
Hãy tỉnh táo và lương thiện.
N.T.
_________
Chú thích: