Thứ Tư, 23 tháng 10, 2019

20191023. BÀN VỀ 'BẪY Ý THỨC HỆ'

ĐIỂM BÁO MẠNG
HÃY TỪ BỎ CHÍNH SÁCH 'BA KHÔNG' ĐỂ LIÊN MINH QUÂN SỰ VỚI MỸ

CÙ HUY HÀ VŨ/ BVN 23-10-2019

Sau khi dùng vũ lực chiếm trọn Hoàng Sa vào năm 1974 và một phần Trường Sa vào năm 1988, ngày 24/7/2007, Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam, trực tiếp quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN. Tiếp đó, ngày 7/5/2009 Trung Quốc gửi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc một công hàm kèm bản đồ 9 đoạn yêu sách chủ quyền đối với hơn 80% Biển Đông, nuốt trọn hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam và hầu hết vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (Exclusive Economic Zone – EEZ) mà nước này tuyên bố chủ quyền. Ngoài việc cho tàu xua đuổi và đâm chìm các tàu của ngư dân Việt Nam, Trung Quốc từ năm 2014 đến nay, nhất là trong ba tháng qua, đã liên tục đưa dàn khoan và tàu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên biển Đông để khảo sát. Các hành vi này cùng với tuyên bố của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng hôm 19/8 cho thấy Trung Quốc đã sẵn sàng dùng vũ lực để thôn tính nốt Trường Sa và quyền chủ quyền của Việt Nam tại biển Đông. Ông ta nói: “Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa) và vùng biển lân cận đồng thời có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển liên quan” và đòi quốc gia có liên quan “tôn trọng một cách nghiêm túc các quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc”. Cuộc diễu binh kỷ niệm 70 năm thành lập Cộng hòa nhân dân Trung Hoa hôm 1/10 như một triển lãm kho vũ khí khổng lồ và tối tân của cường quốc có, trong đó rất nhiều phương tiện chiến tranh trên biển, chỉ là cái gạch đít quyết tâm xâm lược ấy.
“Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”
Ngay sau khi Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa, thấm nhuần chân lý “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” (Quốc gia hưng thịnh hay suy vong, dân thường cũng có trách nhiệm), ngày 23/12/2007, cùng với vợ tôi là Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà, tôi đã đến gặp và đưa tận tay Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Cố vấn Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, một Thư đề xuất liên minh quân sự với Hoa Kỳ để chống Trung Quốc xâm lược (1). Trong thư tôi nhấn mạnh: “Chính phủ phải khẩn trương xây dựng chiến lược trung hạn, thậm chí dài hạn để có thể hóa giải một cách có hiệu quả ý đồ và hành vi bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc. Cụ thể là Việt Nam phải liên minh với một cường quốc quân sự mà ở đây là Mỹ. Thực vậy, sau khi Liên Xô tan rã thì Mỹ trở thành cường quốc quân sự duy nhất có chính sách kiềm chế Trung Quốc”. Tôi cũng đề nghị Đại tướng chuyển đề xuất này của tôi tới ban lãnh đạo Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam và ông đã nhận lời.
Đáng tiếc là ban lãnh đạo Việt Nam đã không có phản hồi tích cực nào dù hai năm đã trôi qua. Do đó, tôi đã đưa ra công luận đề xuất nêu trên của tôi trong hai bài trả lời phỏng vấn của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ, ‘Tham vọng của TQ trong cuộc tranh chấp biển Đông quá rõ ràng’ (09/4/2010) và ‘Ðồng hành quân sự với Hoa Kỳ là mệnh lệnh của thời đại’ (24/7/2010). Tôi chỉ rõ liên minh quân sự với Hoa Kỳ để chống Trung Quốc xâm lược hoàn toàn nhất quán với chính sách đối ngoại của Việt Nam trong quá khứ khi Việt Nam liên tục là đồng minh quân sự của hết nước lớn này đến nước lớn khác: Liên Xô và Trung Quốc trong chống Pháp (1950-1954) và chống Mỹ (1954-1975), Liên Xô trong chống Trung Quốc (1979-1989).
Tôi đồng thời nhấn mạnh chỉ có một sự quay trở lại Đông Nam Á nói chung, biển Đông nói riêng, mà nòng cốt là liên minh quân sự với Việt Nam mới có thể giúp Hoa Kỳ chống được Trung Quốc độc chiếm biển Đông và qua đó mới tiếp tục bảo đảm được vị thế cường quốc toàn cầu của mình.
Ngay cả sau song sắt Trại giam số 5 – Bộ Công an (Yên Định, Thanh Hóa) do bị kết án 7 năm tù về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, tôi vẫn kiên trì Việt Nam phải liên minh quân sự với Hoa Kỳ để cứu nước với bài viết “Vận nước nhìn từ Trường Sa” (2). Bài này được Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà, vợ tôi đồng thời là luật sư của tôi, chuyển tới Bauxite Việt Nam và được trang mạng yêu nước này đăng ngày 22/01/2013 với bút danh “Sơn Văn” (đối ý với “Hà Vũ”, do Bauxite Việt Nam đặt).
Mỹ “Xoay trục” còn Việt Nam “Ba Không”
Vào tháng 11/2011, Tổng thống Mỹ Obama đã tung ra chiến lược mới, “Xoay trục sang châu Á” (Pivot to Asia) để ngăn chặn Trung Quốc bành trướng lãnh thổ ở đây. Để triển khai, Báo cáo chiến lược quân sự quốc gia của Mỹ năm 2012 nhấn mạnh nước này phải phát triển quan hệ quân sự với Việt Nam, xây dựng Việt Nam trở thành đối tác chiến lược mới. Tháng 6/2012, khi đến thăm vịnh Cam Ranh, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta nói thẳng: “Mỹ và Việt Nam tồn tại mối quan hệ phức tạp trên lĩnh vực quốc phòng, nhưng chúng ta sẽ không bị ràng buộc bởi lịch sử, Mỹ hy vọng mở rộng quan hệ quốc phòng với Việt Nam”. Tuy nhiên, bằng chứng ngoạn mục nhất của quyết tâm “biến cựu thù thành đồng minh” của Tổng thống Obma là việc ông đón tiếp chính thức tại Nhà Trắng Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng vào tháng 7/2015. Thực vậy, đây là lần đầu tiên một người đứng đầu một đảng Cộng sản được Mỹ tiếp đón cấp Nhà nước.
Tổng thống Trump, về phần mình, tiếp tục chiến lược “Xoay trục sang châu Á” của người tiền nhiệm nhưng với cái tên mới: “Ấn Độ – Thái Bình Dương”. Nếu như Chính quyền Obama để lại dấu ấn với việc bỏ cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam thì Chính quyền Trump năm 2018 đưa ra Chiến lược quốc phòng (NDS) coi Trung Quốc là “mối đe dọa lớn nhất”, được minh họa một cách ấn tượng bằng việc tàu sân bay USS Carl Vinson cập cảng Đà Năng, sự kiện chưa từng có thuộc loại này kể từ khi kết thúc chiến tranh Việt Nam vào năm 1975.
Ngược lại với Realpolitik (chính sách thực tiễn) của Mỹ khi cường quốc thế giới này đã sẵn sàng cho một liên minh quân sự với Việt Nam để chống Trung Quốc độc chiếm biển Đông cho dù vẫn luôn quan ngại về dân chủ và nhân quyền ở quốc gia Đông Nam Á này, ban lãnh đạo Việt Nam giữ một thái độ tiêu cực với một ý tưởng quốc phòng như vậy khi theo đuổi chính sách “Ba Không”.
Trong chuyến thăm Trung Quốc vào cuối tháng 10/2010, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Nguyễn Chí Vịnh định nghĩa chính sách này như sau: “Việt Nam không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia”.
Ngày 24/9/2014, bốn tháng sau khi Trung Quốc đưa dàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển thuộc Hoàng Sa, sự kiện gây ra một làn sóng biểu tình phản đối Trung Quốc trên cả nước với quy mô lớn chưa từng có, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh trong trả lời phỏng vấn Đài Tiếng nói Hoa Kỳ tái khẳng định chính sách “Ba Không”. Chính sách này mới đây đã được luật hóa bằng Khoản 3 Điều 4 Luật Quốc phòng 2018 (có hiệu lực từ 01/01/2019) theo đó Việt Nam “không tham gia lực lượng, liên minh quân sự của bên này chống bên kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của Việt Nam để chống lại nước khác”.
Điều đáng lưu ý là chính sách “Ba Không” mà cốt lõi là “Không liên minh quân sự” dẫn đến không chỉ “mất Nước” mà còn “mất Đảng”, hay “mất cả chì lẫn chài” như cách nói của người xưa. Lịch sử của chính Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy một chính quyền để mất Nước thì nhân dân tất đứng lên để thay thế chính quyền ấy bằng một chính quyền cứu Nước. Vào tháng 8/1945, đảng này, lúc đó gọi là Đảng Cộng sản Đông Dương, đã lãnh đạo thành công cuộc cách mạng phế bỏ Nhà Nguyễn, một chính quyền đã để mất Nước vào tay Pháp rồi Nhật, để thiết lập nền Dân chủ Cộng hòa và tuyên ngôn Việt Nam Độc lập vào ngày 2/9 cùng năm (3).
Sập “bẫy ý thức hệ” của Trung Quốc
Cả một luồng ý kiến quả quyết rằng chính sách “Ba Không” là do giới cầm quyền tham nhũng hoạch định, những kẻ chỉ biết “tiền thầy bỏ túi” được ngày nào hay ngày ấy còn thì “sống chết mặc bay”, “Nước “hay “Đảng” cũng rứa! Luồng dư luận này được củng cố bởi việc không ít quan chức Việt Nam đã chuyển khối tài sản kếch xù có được do tham nhũng cùng con cái ra nước ngoài, cũng như đã bí mật có “song tịch” để “hạ cánh an toàn” khi có biến.
Về phần mình, tôi cho rằng cho rằng chính sách “Không liên minh quân sự” căn bản bắt nguồn từ sự ngây thơ chính trị của ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, hay nói đúng hơn, là kết quả sập “bẫy ý thức hệ” của Trung Quốc.
Khi các chế độ cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu bắt đầu sụp đổ vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước (4), một cách bản năng ban lãnh đạo Việt Nam xác định bảo vệ chế độ cộng sản trong nước là ưu tiên hàng đầu. Điều này đồng nghĩa với việc triệt thoái bắt buộc quân tình nguyện Việt Nam khỏi Căm Pu Chia, nhất là trong bối cảnh Việt Nam không còn nhận được viện trợ từ đồng minh quân sự Liên Xô để duy trì cuộc chiến chống Khmer Đỏ được Trung Quốc chống lưng. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, vốn bị cắt đứt bởi cuộc chiến tranh biên giới do chính láng giềng phương Bắc này phát động vào năm 1979, vì vậy được coi là “nhất cử lưỡng tiện”: tạo điều kiện cho việc đạt thỏa thuận với Trung Quốc về việc Khmer Đỏ không quay trở lại cầm quyền một khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia đồng thời giúp chính quyền cộng sản Việt Nam đối phó thành công với những cuộc phản loạn tiềm tàng được “các thế lực thù địch quốc tế” yểm trợ. Thực vậy, Trung Quốc không chỉ có cùng chế độ chính trị mà còn chung biên giới, rất thuận tiện cho việc trở thành “hậu phương lớn” cho Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình huống chống lật đổ nói trên, như nước lớn này đã từng là trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trước đây của Việt Nam.
Đối với Trung Quốc, đây là “cơ hội vàng” để đẩy nhanh và mạnh hơn nữa xâm lược đảo và quyền chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông. Đặng Tiểu Bình đã mời ban lãnh đạo Việt Nam đến Thành Đô, Trung Quốc vào tháng 9/1990 để thỏa thuận bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, điều này đã được thực hiện một năm sau đó, vào tháng 11/1991. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng hiểu rằng toan tính của họ chỉ có thể được thực hiện trót lọt chừng nào Việt Nam còn đơn độc về quân sự, cụ thể không phải là đồng minh quân sự của bất cứ nước nào, Mỹ trước hết.
Do đó, lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc, từ Giang Trạch Dân cho đến Tập Cận Bình, đều ra sức khoét sâu nỗi lo “mất Đảng”, “mất chế độ xã hội chủ nghĩa” (5) của ban lãnh đạo Việt Nam bằng cách nêu cao sự tương đồng chế độ chính trị giữa hai nước. Họ đưa ra những khẩu hiệu “lý tưởng tương đồng”, “vận mệnh tương quan”, “đồng chí tốt” với kết cục là ban lãnh đạo Việt Nam đã mắc bẫy “Dương Đông kích Tây” của Trung Quốc khi đồng ý lấy đó làm phương châm để xử lý quan hệ giữa hai nước. Nói cách khác, sẽ không có chuyện Việt Nam tìm kiếm ủng hộ quân sự từ cường quốc khác, nhất là từ Mỹ, vốn được coi là kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản, trong trường hợp bị “đồng chí tốt” phương Bắc tấn công.
Đừng để “nước đến chân mới nhảy”!
Nếu như Đảng Cộng sản Việt Nam là bậc thầy trong nắm bắt cơ hội trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước thì sau 30/4/1975, đảng này chỉ còn là cái bóng của chính mình khi để cho đất nước và người dân hứng chịu những thiệt hại nghiêm trọng không đáng có. Bài học từ Chiến tranh xâm lược năm 1979 của Trung Quốc (6) cho thấy nếu Việt Nam có được quan hệ ngoại giao với Mỹ ngay sau khi đất nước thống nhất vào năm 1975, khi mà Trung Quốc rất cần Mỹ để thực hiện Bốn hiện đại hóa, thì đã không bị nước láng giềng phương Bắc này tấn công. Cũng như vậy, nếu Việt Nam xúc tiến một quan hệ đồng minh với Mỹ ngay khi nước này “xoay trục sang châu Á” vào cuối năm 2011 thì đâu có chuyện Trung Quốc ép được Việt Nam ngừng hợp tác với công ty dầu khí Repsol của Tây Ban Nha vào 2017 và 2018 cũng như tàu khảo sát và hải cảnh Trung Quốc thả cửa càn quét Bãi Tư Chính (Vanguard Bank) thuộc vùng đặc quyền kinh tế của của Việt Nam như hiện nay.
Cũng cần lưu ý là Việt Nam sẽ lâm vào tình thế “mất trắng” nếu cuộc chiến tranh xâm lược năm 1979 được Trung Quốc lặp lại. Thực vậy, so với cách đây 4 thập kỷ sức chiến đấu của quân đội Trung Quốc đã có bước đại nhảy vọt trên căn bản một ngân sách quốc phòng lớn thứ hai thế giới được hỗ trợ bởi một nền kinh tế cũng lớn thứ hai thế giới. Đó là chưa nói tới người Trung Quốc đã chiếm cứ dưới vỏ bọc kinh doanh hầu hết các khu vực xung yếu về an ninh – quốc phòng của Việt Nam (7).
Do đó, khẩn trương từ bỏ chính sách “Ba Không” để liên minh quân sự với Hoa Kỳ không chỉ là giải pháp “muộn còn hơn không” cho Việt Nam để bảo vệ thành công chủ quyền và lãnh thổ của mình cả trên biển lẫn đất liền trước xâm lược Trung Quốc mà còn để tránh cho quốc gia Đông Nam Á này tình thế “Nước đến chân mới nhảy” với những tổn hại không đáng có, thậm chí không thể khắc phục cho bản thân.
Trên tinh thần đó, chuyến đi Việt Nam vào tuần tới của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mark Esper cần phải là một sự chuẩn bị đắc lực cho nghị trình hướng tới một liên minh quân sự giữa hai cựu thù trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ sắp tới của Tổng bí thư Đảng Cộng sản, Chủ tịch Việt Nam Nguyễn Phú Trọng.
C.H.H.V.
Chú thích
  1. Thư ngỏ của Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà gửi Đại tướng Lê Đức Anh, cựu Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bauxite Việt Nam, 16/6/2011.
  2. Vận nước nhìn từ Trường Sa, Sơn Văn (Cù Huy Hà Vũ), Bauxite Việt Nam, 22/01/13.
  3. Hoàng đế Bảo Đại chính thức thoái vị vào ngày 30/8/1945 trước sự chứng kiến của Phái đoàn đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm Phó Chủ tịch Chính phủ Trần Huy Liệu, Bộ trưởng không Bộ Cù Huy Cận (thân phụ tác giả) và Nguyễn Lương Bằng (Trong Hồi ký Con Rồng Việt Nam (Le Dragon d’Annam) của mình, Cựu Hoàng đế Bảo Đại chỉ nhắc đến Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận là những người đến gặp ông để yêu cầu thoái vị). Ba ngày sau, ngày 2/9, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận tham gia ký Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam và tham dự Lễ Độc lập tổ chức tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, với tư cách thành viên Chính phủ đầu tiên của nền Cộng hòa.
  4. Tại Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Liên Xô họp từ 28/6 đến 1/7/1988, Tổng bí thư Gorbachev đã giải tán 23 ủy ban trực thuộc Trung ương Đảng, như vậy trên thực tế là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Sự kiện này làm các đảng cộng sản cầm quyền ở Đông Âu lâm vào thế tan rã.
  5. Trên thực tế Mao Trạch Đông đã phủ nhận “hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới” khi đưa ra “Thuyết ba thế giới” (Thế giới thứ nhất gồm các siêu cường, cụ thể là “Đế quốc Mỹ” và “Đế quốc xã hội” Liên Xô. Thế giới thứ hai gồm các cường quốc phát triển. Thế giới thứ ba gồm các nước bị bóc lột).
  6. Trung Quốc đã không thể xâm lược Việt Nam năm 1979 nếu…, Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ, VOA Tiếng Việt, 05/03/2019.
  7. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong ván bài thôn tính Việt Nam của Trung Quốc, Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ, VOA Tiếng Việt, 15/01/2016.
Tác giả gửi BVN

NHẤT QUYẾT PHẢI CÓ GIẢI PHÁP KHÁC ĐỂ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO
NGUYỄN NGỌC CHU/ BVN 23-10-2019
Biết rõ âm mưu của Trung Quốc là một nhẽ, chọn giải pháp đối phó với Trung Quốc mới là điều quan trọng.
Trung Quốc nói thì mỹ miều nhưng hành động lại ngang ngược
Diễn đàn Hương Sơn là diễn đàn của Trung Quốc sinh ra để đối trọng với Diễn đàn Shangri- La. Nếu các nước đến diễn đàn Shangri –La có phần nào thoải mái hơn khi nói về Trung Quốc, thì Diễn đàn Hương Sơn lại là cái băng bịt miệng vì Trung Quốc là nước chủ nhà. Muốn nói đúng cái xấu của Trung Quốc rất khó. Chỉ số ít kẻ quân tử thì trung lập, còn phần nhiều là phải ngợi ca. Cho đến nay Trung Quốc đã 9 lần tổ chức Diễn đàn Hương Sơn.
Là bậc thầy trộm cướp lật lọng, nhưng Trung Quốc lại đặt tên thật “cao đẹp” cho Diễn đàn Hương Sơn, mà trên thực tế thì hành động ngông cuồng tùy ý. Diễn đàn Hương Sơn lần thứ 9 khai mạc ngày 21/10/2019 được Trung Quốc khoác cho cái áo mỹ miều:
“Duy trì trật tự quốc tế và thúc đẩy hòa bình tại châu Á-Thái Bình Dương”.
Trong khi đó thì trên thực tế suốt hơn 3 tháng qua Trung Quốc ngang ngược đưa tàu Địa chất 8 cùng hàng chục tàu hải cảnh đến thăm dò trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Trắng trợn không úp mở
Phát biểu tại Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh hôm 21/10/2019, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa thẳng thừng:
“Các đảo ở Biển Đông và quần đảo Điếu Ngư (ở biển Hoa Đông) là những phần không thể tách rời của lãnh thổ Trung Quốc. Chúng tôi sẽ không cho phép dù chỉ một tấc lãnh thổ mà tổ tiên của chúng tôi đã để lại bị lấy đi”.
Điều đó nghĩa là Việt Nam đừng nói đến Hoàng Sa và Trường Sa, đừng đi vào vùng lưỡi bò mà Trung Quốc vẽ ra. Thế thì còn gì “duy trì trật tự quốc tế” và làm sao có thể “thúc đẩy hòa bình” – ngoại trừ đầu hàng nhường biển đảo cho Trung Quốc.
Mềm dẻo nhưng phải rõ ràng
Khi Trung Quốc đã thẳng thừng không úp mở thì không việc gì phải né tránh nói ra sự thật.
Phát biểu tại diễn đàn, Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch nói:
“Lập trường của Việt Nam là ủng hộ và bảo vệ quyền tự do đi lại, an ninh, an toàn hàng hải trên Biển Đông phù hợp với luật pháp Quốc tế. Việt Nam kiên trì giải quyết tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp và thực tiễn Quốc tế, trong đó có công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982. Chúng tôi cho rằng sự khác biệt giữa các bên là khó tránh khỏi nhưng vấn đề Biển Đông phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình”.
Trung Quốc xâm chiếm biển đảo và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, sao lại “Chúng tôi cho rằng sự khác biệt giữa các bên là khó tránh khỏi”?
Không việc gì phải ca ngợi Trung Quốc
Khi Trung Quốc là kẻ xâm lược trắng trợn, không nói thẳng ra tim đen của họ thì thôi, không việc gì phải ca ngợi rồi khoác cho Trung Quốc vai trò người bảo vệ hòa bình ổn định trong khu vực. Trung Quốc càng mạnh càng hung hăng, càng mang nhiều tai họa cho các nước láng giềng, nên hãy im lặng trung lập, không việc gì mà ca ngợi thành tựu của chính quyền Trung Quốc.
Nhất quyết phải có giải pháp khác
Phát biểu của tướng Ngụy Phương Hòa cho thấy Trung Quốc nhất quyết chiếm trọn Biển Đông Nam Á. Bởi thế Việt Nam không thể dựa vào quan hệ song phương với Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Việt Nam nhất thiết phải tìm đối sách khác ngoài đàm phán với Trung Quốc!
N.N.C.
NHÂN QUỐC HỘI BÀN VỀ BIỂN ĐÔNG: HOÀN CẢNH- TÂM THẾ-TẦM NHÌN- DI SẢN
LÊ VĨNH TRIỂN/ BVN 23-10-2019
Tác giả cho rằng các bước đi hiện tại của lãnh đạo quốc gia nên được đặt trong một tầm nhìn dài hạn, chủ động hướng đến một di sản gồm một ý thức dân tộc độc lập, một non sông phát triển vững bền, một Việt Nam cường thịnh đủ sức răn đe đối với bất cứ thế lực bành trướng nào, đặc biệt từ Trung Quốc.
Đánh giá các tranh luận, trao đổi thời gian gần đây trên các phương tiện truyền thông, qua mạng xã hội và một phần qua báo chí chính thống về sự ngang ngược của Trung Quốc đối với các nước nhỏ hơn trong khu vực – đặc biệt với Việt Nam, Trung Quốc đã tỏ ra không chút kiêng dè, ngang nhiên xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam – người viết cảm nhận mối quan hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của đất nước, và nhận thấy có ảnh hưởng nhân quả của hoàn cảnh đất nước đến tâm thế, đến tầm nhìn của trí thức, doanh giới và chính quyền, từ đó hình thành nên di sản của họ cho tương lai đất nước (tác giả nhấn mạnh hai thành phần trí thức và chính quyền như đại diện cho dân một nước).
Tác giả cho rằng các bước đi hiện tại của lãnh đạo quốc gia nên được đặt trong một tầm nhìn dài hạn, chủ động hướng đến một di sản gồm một ý thức dân tộc độc lập, một non sông phát triển vững bền, một Việt Nam cường thịnh đủ sức răn đe đối với bất cứ thế lực bành trướng nào, đặc biệt từ Trung Quốc.
Hoàn cảnh, tâm thế và tầm nhìn
Cha ông ta hay nói cái khó bó cái khôn; nghèo sinh hèn. Đây là đúc kết phổ biến ở góc độ cá nhân, gia đình. Nói “phổ biến” vì một mặt không hẳn sẽ đúng với mọi cá nhân, gia đình gặp khó, và mặt khác có người không gặp khó vẫn không khôn hay giàu nhưng vẫn hèn.
Có những cá nhân, gia đình tuy nghèo nhưng tâm thế không hèn, quyết chí vươn lên, vượt qua số phận vì bản thân (nếu là cá nhân) và bố mẹ (nếu là gia đình) có được tầm nhìn – nhận thấy được cơ hội và kỳ vọng vào thay đổi trong tương lai, giữ vững cơ nghiệp, bí quyết gia truyền… hay đơn giản là tập trung vào sự học, tránh những cám dỗ tiền bạc nhất thời chẳng hạn, thì cá nhân, gia đình đó sẽ tuy nghèo mà không hèn, thoát khỏi cảnh nghèo, có được sự kính trọng từ bên ngoài, nhờ vào quyết tâm và tầm nhìn của mình. Có tầm nhìn sẽ giúp họ có quyết tâm vì đã rõ con đường.
Đó là góc nhìn cá nhân, gia đình. Ở phương diện quốc gia, một quốc gia là tổng thể các gia đình, lãnh đạo quốc gia không được cho phép mình hèn kém vì nếu thế sẽ làm quốc gia hèn kém. Lãnh đạo quốc gia không được thiếu tầm nhìn, vì nếu thế sẽ làm bại hoại cả một dân tộc. Không thể như cá nhân hay gia đình bị cái khó bó cái khôn, nghèo hèn, quốc gia có thể có những lúc nghèo nhưng không thể hèn, trí thức (nghĩa rộng – dân) và chính quyền của quốc gia đó không được hèn kém (tâm thế kém cỏi) mới mong có một tầm nhìn dài hạn, đi trước và chủ động trước các thay đổi của thế giới và khu vực, không đợi đến khi thay đổi diễn ra rồi thụ động đối phó và lệ thuộc.
Trí thức và lãnh đạo quốc gia phải cảnh giác với tâm thế nhu nhược do bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh khó khăn của đất nước – không để tâm lý cái khó bó cái khôn, nghèo nên hèn giống như những cá nhân, gia đình thiếu trí tuệ và viễn kiến trong nuôi dạy con cái mình. Quốc gia có thể nghèo (GDP thấp chẳng hạn) nhưng trí thức và lãnh đạo quốc gia không được hèn thì mới có thể có một tầm nhìn xa rộng đưa đất nước thoát nghèo mà vươn lên.
Gần đây, có một số trí thức cho rằng nước ta nghèo nên phải nhịn nhục, đồng thời diễn dịch lịch sử Việt Nam theo hướng này. Rằng Việt Nam nên học theo cha ông ta đã nhịn Trung Quốc như từ bao đời phong kiến. Họ dẫn chứng về việc xin phong vương của các vua Việt Nam và việc triều cống của các triều đình Việt Nam với các triều đình Trung Quốc.
Họ còn cho rằng Việt Nam là nước nhỏ và yếu hơn Trung Quốc nên phải nhịn nhục, chấp nhận thân phận nhược tiểu. Với những lý lẽ này, họ biện minh cho mọi cách thức nhường nhịn và bằng mọi giá tránh gây phiền phức cho Trung Quốc vì Trung Quốc giờ là một đại cường còn Việt Nam là nước nhỏ đang lệ thuộc Trung Quốc mọi mặt.
Thật đáng buồn cho tâm thế hèn kém xuất phát từ sự đánh giá tình trạng đất nước như thế này. Có thể thấy những trí thức với tâm thế như vậy sẽ không trình bày được một tầm nhìn nào cho tương lai và triển vọng của đất nước, có thể nói họ lo sợ sự trả đũa của Trung Quốc đến tê liệt và không đưa ra được một giải pháp nào để đối phó. Có thể cho rằng nếu đất nước có giàu hơn sẽ vẫn tồn tại những thành phần với tâm thế này. Vì họ, dù có nghèo hay giàu, vẫn hèn như phân tích ở trên về góc độ cá nhân, gia đình.
Thế tại sao có thể nói sự diễn dịch lịch sử của họ là ngụy biện. Thứ nhất, ông cha ta có thể đã chấp nhận là nước nhỏ, cần giữ hòa khí (cấp thuyền, ngựa cho tàn quân của giặc ra về sau các cuộc chiến; xin sắc phong vương rất hình thức) chứ ông cha ta không hèn.
Mong muốn hòa bình nhưng không bao giờ nhân nhượng khi một tấc đất cương thổ bị xâm hại. Ông cha ta chấp nhận là nước nhỏ (tiểu), cần giữ hòa khí để phát triển chứ không hề yếu (nhược). Nguyễn Trãi đã rất dõng dạc “Dẫu cường nhược có lúc khác nhau/Song hào kiệt đời nào cũng có”. Rất rõ ràng, ông cha ta còn xác định cường – nhược hai bên có lúc này lúc khác chứ không phải lúc nào ta cũng yếu kém và phương Bắc lúc nào cũng hùng mạnh. Ngay trong hoàn cảnh các triều đại Trung Hoa hùng mạnh, thậm chí hung tợn, hừng hực khí thế, tràn sang xâm chiếm nước ta thì cũng thường bị đánh tơi bời…
Một vài ví dụ:
- Lê Đại Hành/Lý Thường Kiệt phá Tống bình Chiêm, đặc biệt thời Lý Thường Kiệt nhà Tống của Vương An Thạch là cực kỳ hưng thịnh.
- Trần Hưng Đạo ba lần đại phá Nguyên Mông khi đế quốc Mông Cổ hùng mạnh nhất lịch sử (Việc Mông Cổ và Mãn Thanh cai trị Trung Quốc sau này cũng là cái tát nặng nề vào cái thiên hạ quan tự huyễn hoặc của chính Trung Quốc).
- Lê Lợi/Nguyễn Trãi chống nhà Minh hùng mạnh, xây dựng nhà Lê có những giai đoạn trong lịch sử phát triển rực rỡ không thua kém gì các lân bang.
- Tây Sơn đánh tan tác quân nhà Thanh thời Càn Long cực thịnh…
- Thời Gia Long, Minh Mạng, bờ cõi Việt Nam mở rộng chưa từng có. Nhà Thanh giai đoạn đó không chắc hùng mạnh hơn Việt Nam…
Đó là chưa bàn đến khía cạnh ngụy biện về bối cảnh. Thế giới ngày nay là toàn cầu hóa chứ không phải thời quan hệ “cá lớn nuốt cá bé” giữa các nước như thời trung cổ. Các quốc gia ngày nay hành xử với nhau còn phải tuân thủ theo luật pháp quốc tế, các quốc gia lớn ngày nay không thể hành xử bạo ngược như thời phong kiến.
Nếu nước lớn có tâm thế bạo ngược, bất tuân luật pháp quốc tế và các nước nhỏ nếu cứ duy trì tâm thế hèn kém và không tin vào luật pháp quốc tế thì chính bản thân các nước nhỏ đã tự đặt mình vào thế áp đặt của chính các nước lớn, và tự đánh mất sức mạnh của thời đại mà mình đang dự phần. Hay có thể nói, các nước nhỏ nếu có tâm thế như thế đã chấp nhận sự bất tuân luật pháp quốc tế của các nước lớn.
Tâm thế, tầm nhìn và di sản
Có thể nói rằng, khả năng lãnh đạo các nước nhỏ rơi vào tâm thế nhu nhược là lớn hơn lãnh đạo ở các nước lớn, từ đó tầm nhìn hạn hẹp, mơ hồ thiếu tự chủ, tự biến mình thành con cờ của các nước lớn bạo ngược. Muốn không để tình trạng này xảy ra, lãnh đạo các nước nhỏ phải luôn xây dựng cho mình tâm thế mạnh mẽ, trí tuệ và viễn kiến xa rộng, chủ động tham gia vào điều chỉnh các quan hệ quốc tế, từ đó đưa đất nước tiến lên và mục tiêu sau cùng là một quốc gia vững mạnh cản trở các đe dọa từ các nước lớn bạo ngược.
Nếu không có tâm thế và tầm nhìn như vậy, Lý Quang Diệu đã không thể để lại một di sản là một Singapore nhỏ bé mà vững vàng và được tôn trọng. Nếu không có tâm thế và tầm nhìn như vậy, lãnh đạo các quốc gia như Nhật Bản khi canh tân đất nước thế kỷ 19 và sau thế chiến II đã không thể biến nước Nhật thành siêu cường khiến Trung Quốc không thể đe dọa (nếu không nói là ngược lại).
Tương tự như vậy, nếu các lãnh đạo không có tầm nhìn để thấy được yêu cầu dân chủ hóa đất nước trong thập niên 1970, 1980 thì các nước như Đài Loan và Hàn Quốc đã không có được sự tin tưởng ủng hộ từ các nền dân chủ phương Tây, không có được sự bứt phá về kinh tế và ý thức hệ so với Trung Quốc, để đưa đất nước thoát bẫy thu nhập trung bình, tiến lên mạnh mẽ và hạn chế những đe dọa thôn tính từ Trung Quốc.
Cũng như các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và xa Trung Quốc hơn một chút về mặt địa lý là Singapore, Việt Nam là một nước tương đối nhỏ so với Trung Quốc. Định mệnh đã đặt Việt Nam bên cạnh một quốc gia khổng lồ về mọi phương diện. Đối với một quốc gia như Trung Quốc, dễ nhận thấy rằng lãnh đạo của họ một cách tự nhiên thủ đắc một tâm thế bạo ngược và tầm nhìn xa rộng.
Với dân số gần một phần năm dân số thế giới, lãnh đạo của họ không có tầm nhìn, tham vọng chiếm đoạt thiên hạ mới là điều khó hiểu hơn. Nói nôm na, trong cuộc chơi 5 người dễ nhận ra rằng một cá nhân sẽ dễ nảy sinh tham vọng và dễ có cơ hội tranh đoạt làm bá chủ hơn. Nếu so với Việt Nam, dân số một phần bảy mươi của thế giới, một mình Việt Nam sẽ gần như không có tâm thế đoạt thiên hạ, bắt 69 người kia làm chư hầu cho mình.
Như vậy, Việt Nam đã luôn thường trực đối mặt với sự bạo ngược của Trung Quốc, luôn chịu ảnh hưởng tiêu cực và trực tiếp bởi tầm nhìn của lãnh đạo Trung Quốc. Trong hoàn cảnh như vậy, nếu trí thức và lãnh đạo Việt Nam không cảnh giác với tâm thế nhu nhược vốn dĩ là rào cản cho một tầm nhìn xa rộng; không sở hữu một tầm nhìn xa rộng, đoán định được những thay đổi và cơ hội của thời cuộc mà cứ lay hoay hỏi, bàn và giải quyết hậu quả của các vấn đề trong nước và các biến động địa chính trị một cách bị động, họ sẽ để lại một di sản nhãn tiền là một đất nước “không muốn phát triển”, doanh giới thiếu động cơ vươn lên, một giới trí thức lười suy nghĩ, một chính quyền ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc vốn là nước luôn xuất hiện những lãnh đạo với tâm thế bạo ngược và tầm nhìn thôn tính thiên hạ, thiên hạ là thần dân của Trung Hoa (thiên hạ quan).
Dù biết rằng trong lịch sử, thiên hạ quan của lãnh đạo Trung Hoa có lúc đã bi đánh cho vỡ mặt (Mông Cổ, Mãn Thanh từng cai trị Trung Hoa, cũng như nhà Thanh với tâm thế hèn kém vẫn tự coi mình là trung tâm vũ trụ, đã bị tám nước liên quân đánh cho tơi tả).
Cần phải nhận thức rõ ràng rằng, lãnh đạo Trung Quốc bao đời vẫn xem thiên hạ là chư hầu của họ, tất cả các học thuyết phát triển của họ dù vay mượn từ bên ngoài cũng đều phục vụ cho việc làm bá chủ thiên hạ mà trước hết là thôn tính các nước lân bang hèn kém. Nếu các nước nhỏ lệ thuộc vào ý thức hệ của họ, xem đây là tầm nhìn chung, sẽ dẫn đến lệ thuộc, mất tính độc lập trong tư duy. Do không có một tầm nhìn độc lập và chủ động thì cuối cùng sẽ bị rơi vào bẫy, phục tùng thiên hạ quan của họ.
Việc Trung Quốc leo thang các hoạt động quấy phá ở Biển Đông, đặc biệt sự kiện bãi Tư Chính, đã bộc lộ rõ tham vọng của chính quyền Trung Quốc trong việc độc chiếm Biển Đông. Việt Nam cần thể hiện rằng các vấn đề về biên giới lãnh thổ là không thể bị ràng buộc bởi bất cứ rào cản ý thức hệ nào, dù có ngụy trang bằng “tầm nhìn chung”, nhằm trói tay Việt Nam trong việc lên tiếng bảo vệ lãnh thổ của mình. Việt Nam cần cẩn trọng đối với cái gọi là “tầm nhìn chung” mang màu sắc ý thức hệ này, nó có thể khiến chúng ta mất đi sự ủng hộ mạnh mẽ của các quốc gia khác.
Cuối cùng, việc học hỏi trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội có thể là cần thiết. Tuy nhiên, nếu quá rập khuôn sẽ dễ dẫn đến sự lệ thuộc và tâm lý ngày càng ỷ lại vào mô hình Trung Quốc. Từ đó dễ dẫn đến sự triệt tiêu sức sáng tạo và tầm nhìn độc lập. Nếu lãnh đạo và giới trí thức trong nước không còn tham vọng tìm ra hướng đi riêng, trang bị một tầm nhìn xa rộng, chủ động cho mình thì sẽ không thể dẫn dắt đất nước đến phồn vinh, mạnh mẽ – là di sản cho con cháu đời sau gìn giữ và phát triển.
Bài học các nước Đông Á nêu ở trên trải qua hai thế kỷ đã chỉ rõ: độc lập tư duy, độc lập về tầm nhìn riêng của dân tộc là khởi đầu của tự cường và thịnh vượng!
“Dẫu cường nhược có lúc khác nhau/Song hào kiệt đời nào cũng có”… Nguyễn Trãi từng nói.
L.V.T.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét