Thứ Hai, 29 tháng 2, 2016

20160229. KINH NGHIỆM HỌC TIẾNG ANH CHO NHÀ KHOA HỌC

ĐIỂM BÁO MẠNG
TẠI SAO NGƯỜI NÓI TIẾNG ANH BẢN NGỮ  LẠI KHÓ TIN VÀO CHÚNG TA ?
NGUYỄN VĂN TUẤN/ tuan's blog 23/2/2016
Giọng nói của chúng ta -- những người không dùng tiếng Anh như là bản ngữ -- có thể làm cho người Mĩ thiếu tin tưởng vào phát biểu của chúng ta. Đó là một thí nghiệm rất thú vị (1), và có ý nghĩa lớn đến người Việt.
Phần lớn chúng ta sinh ra và lớn lên ở Á châu khi nói tiếng Anh đều có "accent", tức là cách phát âm dù cho đúng cũng không có cái âm hưởng của người nói tiếng Anh như là bản ngữ (tiếng mẹ đẻ). Theo giới tâm lí học, cái accent có thể ảnh hưởng đến sự tiếp nhận thông tin của người đối diện, bởi vì họ cảm thấy khó hiểu những gì chúng ta nói. Ngay cả accent của chúng ta nhẹ, thì theo tâm lí, người dùng tiếng Anh như là bản ngữ sẽ không xem chúng ta là cùng "bộ lạc". Và, do đó, accent có ảnh hưởng đến sự tin tưởng (thậm chí uy tín) của chúng ta. Cũng là một đề tài khoa học, nhưng trong thuyết trình người bản ngữ có thể tỏ ra "commanding" hơn người có accent, dù trình độ hai người tương đương nhau.
Chính tôi đã từng gặp vài trường hợp như thế. Một trường hợp tiêu biểu là một nhà khoa học gốc Tàu ở Viện tôi. Anh ấy là người rất tài ba, rất giỏi về kĩ thuật, và có thể nói là người đứng đằng sau những công trình lớn mà cả nhóm thực hiện. Thế nhưng sự nghiệp của anh ấy không lên cao được, một phần là do khả năng truyền đạt thông tin bằng tiếng Anh. Anh ấy nói tiếng Anh còn rất accent. Ngay cả tôi là người cũng có accent và cũng là dân Á châu, nhưng nhiều khi còn không hiểu anh ấy nói gì! Do đó, anh ấy gần như là đứng bên lề những thảo luận ngoài khoa học, có lẽ người ta không xem anh là cùng "bộ lạc". Trong những buổi dạ tiệc hay liên hoan, anh ấy như là một người cô đơn, vì ít ai đến trò chuyện (ngoại trừ, dĩ nhiên là, tôi và Nguyên thường hay trò chuyện với anh ấy).
Cá nhân tôi cũng từng có trải nghiệm về chuyện accent. Những năm đầu tôi còn làm tutor (như trợ giảng) ở ĐH Sydney, tôi thấy cũng buồn, vì mình đứng trên bục giảng cố gắng giải thích, vậy mà phía dưới sinh viên họ mở báo ra đọc, chẳng cần quan tâm tôi nói gì! Tôi nghĩ có lẽ họ không tin mình. Một lần khác (lâu lắm rồi), khi tôi công bố được một bài báo quan trọng, người làm PR của Viện có nhã ý giới thiệu tôi đến vài đài truyền hình để phỏng vấn. Nhưng khi chị ấy gặp và nói chuyện với tôi, thì chị ấy nói rằng có lẽ tôi không nên xuất hiện trên truyền hình, mà nên giao cho một đồng nghiệp khác. Chị ấy rất thẳng thắn nói rằng vì tôi "còn accent quá" nên đài truyền hình có thể không thích phỏng vấn! Khi tôi rất tình cờ nói vớp sếp lớn về vụ đó, thì ông đùng đùng nổi giận cho rằng chị PR là kì thị, và đích thân ông phụ trách vụ PR cho công trình đó. Thế là tôi được xuất hiện trên đài ABC và đài số 7 để nói. Tuy nhiên, cái nhận xét về accent đó tôi nghĩ cũng có lí chứ không hẳn là kì thị.
Đó chỉ là cảm nhận cá nhân, chứ chưa có bằng chứng khoa học gì đáng tin cậy. Nhưng một nghiên cứu mới đây (1) cho thấy cảm nhận trên là có cơ sở khoa học! Các nhà tâm lí học của ĐH Chicago làm thí nghiệm trên một nhóm người bản ngữ (tức người Mĩ), Ba Lan, Thổ Nhĩ Kì, Ý, Áo, và Hàn Quốc. Mỗi người được cho nghe 45 câu phát biểu: 15 câu có accent bản ngữ, 15 câu có accent nhẹ, và 15 câu có accent nặng. Sau đó, họ yêu cầu mỗi người đánh giá độ tin cậy mà họ gọi là "truth rating".
Kết quả cho thấy độ tin cậy giảm dần theo độ nặng của accent (Biểu đồ). Những câu có accent bản ngữ được đánh giá có độ tin cậy cao nhất. Những câu do người có accent nặng nói có độ tin cậy thấp nhất. Người có accent nhẹ có độ tin cậy cao hơn một chút so với nhóm có accent nặng. Các nhà nghiên cứu lặp lại thí nghiệm này với một qui trình khác (nhưng tôi không hiểu họ mô tả -- do họ dùng tiếng Anh không rõ ràng). Kết quả của thí nghiệm 2 cũng cho thấy người có accent nặng ít được tin tưởng hơn người có accent nhẹ và accent bản ngữ.
Trong thực tế, tôi nghĩ không chỉ người nói tiếng Anh, mà ngay cả người nói tiếng Việt cũng thế. Một số người trong chúng ta (người Việt) có thể thấy vui mừng khi một người ngoại quốc nói tiếng Việt, nhưng vì lí do nào đó, chúng ta tỏ ra nghi ngờ, không dám đặt niềm tin vào họ. Một người Khmer có thể nói tiếng Việt rất tốt, nhưng vì còn accent nên đôi khi chúng ta cảm thấy không thoài mái vì không biết anh ta có thật sự hiểu như người Việt. Có lẽ kết quả nghiên cứu trên đây giải thích một phần tại sao chúng ta có cái tâm lí đó. Tìm được cái lí do "bias" này tôi nghĩ sẽ là một đóng góp rất tốt cho khoa học xã hội.
Tôi nghĩ cái phát hiện này có ý nghĩa rất lớn. Thứ nhất, nó giúp chúng ta phải làm nhiều hơn người bản xứ để họ hiểu chúng ta trong các hội nghị khoa học. Thứ hai, nó giúp chúng ta xác định mức độ phấn đấu trong môi trường xã hội khác bản ngữ. Do đó, tôi thường hay nói để bằng người bản xứ, chúng ta người Việt phải hơn họ 2 cái đầu, hay phấn đấu làm hơn họ gấp 2 lần. Thứ ba là nó hàm ý khuyên chúng ta nên thấu cảm cho sự khó khăn của người có accent hay không nói tiếng bản ngữ; không nên kì thị họ, mà nên bao dung hơn.
Nói thế thôi, chứ trong thực tế, tôi thấy cũng có những trường hợp "phản biện" cho quan điểm này. Nếu một người có bề dày khoa học tốt hoặc có chức danh quan trọng, dù có accent nặng, thì vẫn được tin tưởng như thường (và điều này quay lại điểm thứ hai tôi muốn nói).
Thú thật, tôi rất yêu các nhà tâm lí học. Họ là hương hoa của đời. Họ thêm chất liệu sống ngọt ngào cho đời. Rất tiếc là ở VN mình ngành tâm lí học chưa được phát triển tốt.
====
(1) Why don't we believe non-native speakers? The influence of accent on credibility.
http://psychology.uchicago.edu/people/faculty/LevAriKeysar.pdf
CÁCH VIẾT MỘT "PERSONAL STATEMENT '
NGUYỄN VĂN TUẤN/ tuan's blog 26/2/2016
Hôm kia, khi bàn về cái cover letter, có bạn hỏi tôi làm thế nào để viết một Personal Statement (PS), và câu hỏi đó làm tôi có hứng chia sẻ với các bạn cái note này. Đối với các bạn ở trong nước xin học bổng đi học ở nước ngoài, đặc biệt là Mĩ, cái Personal Statement là một trong những phần trong hồ sơ. (Những phần khác là lí lịch, và hồ sơ chuyên môn). Nhưng cái khó khăn là viết làm sao để thuyết phục người đọc (tức là người duyệt hồ sơ) để nâng cao cơ may xin được học bổng. Tôi biết nhiều em nghiên cứu sinh và sinh viên rất "đau đầu" với cái văn bản này, nên tôi muốn chia sẻ một vài kinh nghiệm để các bạn có thể tham khảo.
Nguyên tắc
Tôi sẽ bàn những nguyên tắc và nội dung của một bản PS. Dĩ nhiên, đây chỉ là cái nhìn cá nhân tôi, có thể nó không phù hợp với một số bạn, nhưng tôi nghĩ về nguyên tắc thì ở đâu cũng thế. Tôi có thể nói rằng có 5 nguyên tắc viết một bản PS cho hoàn thiện: cá nhân, dùng thì chủ động, tích cực, nhân văn, và viễn kiến.
(a) Đó là một văn bản mang tính cá nhân. Khi tôi nói "cá nhân", tôi muốn nói đó là một "tự sự" về cuộc đời và ý nguyện của mình. Do đó, PS trong thực tế là một bài luận văn tự sự. Mà, tự sự thì có những chi tiết, những tình tiết đáng nhớ trong đời, những trải nghiệm làm thay đổi nhận thức và việc chọn nghề của mình. Có khi một lần mắc bệnh hay một tai nạn cũng có thể viết ra một cách ngắn gọn. Điều này cũng có nghĩa là cần phải tránh những thông tin chung chung, những thông tin mơ hồ (vốn đầy rẫy trên mạng qua các dịch vụ viết mướn).
(b) Dùng "tôi" thoải mái. Vì là văn bản cá nhân, nên các bạn có thể dùng đại danh từ "tôi" (hay "I", "me" trong tiếng Anh) để viết, mà không sợ người ta nói mình "phách". Có lần tôi viết đơn xin fellowship, và vì quen với văn hoá Việt Nam, nên hay dùng "we" (chúng tôi), sếp tôi đọc và thay bằng "I" hết! Ông giải thích chí lí rằng người ta cấp fellowship cho cá nhân anh, chứ không cho cái "chúng tôi" mơ hồ nào đó.
(c) Văn phong tích cực. Ở đời, người ta thích những người có thái độ tích cực, chứ chẳng ai ưa những kẻ than trách thân phận theo chiều hướng tiêu cực. Do đó, bằng mọi giá, các bạn phải chọn chữ và câu văn tích cực. Phải viết sao cho người đọc thấy các bạn là người ham học, muốn biết thêm tri thức và học thêm kĩ năng. Có cái mình chưa biết, thì mình nói là sẽ biết vì sẽ học tiếp.
(d) Tính nhân văn. Một cá nhân "tròn" là người chẳng những học giỏi mà còn có lòng từ tâm. Từ tâm thể hiện qua đối xử với cộng đồng và những người chung quanh. Do đó, văn bản PS phải làm sao toát lên được cái tính tử tế (nói theo Trịnh Công Sơn) của cá nhân, qua những việc làm ngoài khoa bảng. Nên nhớ là "nhân văn" chứ không phải cảm tính nhé.
(e) Viễn kiến. Có thể nói rằng cái PS là một phát biểu về viễn kiến (tiếng Anh là vision) của các bạn. Bất cứ một tổ chức nào, dù lớn hay nhỏ, đều phải có cái viễn kiến, tầm nhìn của tổ chức đó. Tương tự, mỗi một cá nhân -- dù là học sinh, sinh viên, hay nhà khoa học đã thành danh -- cần phải có cái viễn kiến. Nhưng ở Việt Nam thì học sinh và sinh viên ta rất kém về viễn kiến, vì họ không được khuyến khích trong học đường. Tuy nhiên, các bạn cần phải suy nghĩ về những gì mình làm trong tương lai, sẽ đóng góp gì cho xã hội, và những cái đó phải phát biểu thành 2-3 câu văn ngắn gọn. Tôi đã từng đọc một vision của một em sinh viên Pháp gốc Việt là em sẽ tìm thuật điều trị các nạn nhân chất độc da cam. Cố nhiên, cái viễn kiến đó rất tham vọng và khó thực hiện, nhưng người đọc thấy được cái tính sôi nổi và tầm nhìn xa của em ấy.
Nội dung
Đó là 5 nguyên tắc viết một bản PS. Bây giờ tôi sẽ nói về nội dung của một bản PS. Theo kinh nghiệm cá nhân tôi, một PS cần phải có 5 nội dung liên quan đến lí do theo học chuyên ngành, lí do chọn trường hay thầy cô, khả năng làm việc theo nhóm, hoạt động ngoại khoá, và tương lai. Tôi giải thích cụ thể hơn như sau:
1. Giải thích tại sao bạn muốn theo học môn học ban đang xin
Đây là một đoạn văn khá quan trọng, vì qua đó người ta có thể đánh giá bạn thật sự yêu môn học và có một hướng đi đã định trước. Giải thích tại sao chuyên ngành này hợp với kĩ năng và cá tính của bạn. Nó còn cho thấy những lí do cá nhân mà bạn theo học, và như nói trên, đây là thông tin giúp cho người đọc hiểu về hơn về động cơ bạn muốn theo học chuyên ngành đã chọn.
2. Giải thích tại sao bạn chọn trường hay thầy cô cụ thể
Ở những nước tiên tiến như Mĩ, mỗi một chuyên ngành học có khá nhiều trường đại học đào tạo. Nhưng cũng như bất cứ lĩnh vực nào, các chương trình đào tạo có thể rất khác biệt với nhau về danh tiếng học thuật, và chất lượng đào tạo. Cách tốt nhất là các bạn cần phải tìm hiểu bảng xếp hạng của trường về chuyên ngành mình theo học, và nói rằng vì trường nổi tiếng về lĩnh vực này (để họ ... thích!) nên bạn muốn theo học. Có thể tham khảo bảng xếp hạng QS hay một bảng xếp hạng tương tự.
Trong trường hợp nghiên cứu sinh cấp tiến sĩ, thì thường gắn liền với một người thầy/cô. Do đó, cái PS có khi phải giải thích tại sao bạn chọn thầy cô đó. Điều này có nghĩa là các bạn phải tìm hiểu về người thầy cô tương lai để viết. Những thông tin về thầy cô tương lai (thường có trên mạng qua các công bố quốc tế) là công trình họ đã công bố, cơ sở vật chất của lab, số công trình và citations, uy tín trên trường quốc tế, uy tín trong đào tạo hậu tiến sĩ, v.v. Những thông tin này giúp cho các bạn viết về người thầy cô tương lai, và giúp cho người đọc biết rằng bạn đã biết rõ mình chọn ai.
3. Viết về khả năng làm việc theo nhóm
Ở các nước phương Tây, làm việc theo nhóm (teamwork) là một điều hết sức quan trọng. Làm việc theo nhóm đòi hỏi người tham gia phải biết "give and take" (cho và nhận), biết dung hoà giữa những bất đồng, biết quản lí những tranh chấp. Những kĩ năng này tuy nói là "mềm" nhưng trong thực tế lại là kĩ năng "cứng", đối với sinh viên Việt Nam. Lí do là nhiều sinh viên Việt Nam hay hành xử theo tư duy cha ông để lại, kiểu như "Trời đã sinh Du, sao còn sinh Lượng", rất có hại cho tinh thần làm việc theo nhóm. Do đó, các bạn cần phải viết một đoạn văn chứng minh rằng trong quá khứ các bạn đã từng học hay làm việc theo nhóm. Nếu đã từng tham gia vào một nghiên cứu và từng đứng tên tác giả chung với người khác, thì đó là một minh chứng rất tốt.
4. Viết về những hoạt động ngoại khoá
Các đại học phương Tây rất quan tâm đến những hoạt động ngoài học thuật, vì họ muốn có một sinh viên hay nghiên cứu sinh "tròn trịa". Một người tròn trịa không chỉ học giỏi mà còn có đóng góp cho cộng đồng và địa phương. Do đó, trong phần này, các bạn phải viết về những hoạt động từ thiện, những hoạt động giúp người nghèo, những hoạt động thiện nguyện trong các hội đoàn tôn giáo, hội đoàn cộng đồng, v.v. Tất cả những việc làm như đứng đường xin tiền cho hội, dạy võ, dạy múa, khám bệnh miễn phí, v.v. đều có thể ghi vào cái PS. Cần lưu ý là một số bạn là đoàn viên đoàn cộng sản, thì tốt hơn hết là không nên viết ra cái tên đoàn đó ra (vì người phương Tây rất ngại chữ "communist" hay "communism").
5. Viết về tương lai
Nhà trường muốn đầu tư cho những cá nhân mà họ thấy có tiềm năng trong tương lai. Do đó, các bạn cần phải viết một đoạn văn về tương lai, sau khi bạn tốt nghiệp, thì bạn sẽ làm gì để chuyển giao kiến thức và kĩ năng. Nên nhớ là bạn cần phải có một cái big picture như tôi đề cập ngày hôm qua, nên đoạn văn này cần phải đặt kĩ năng của mình trong cái bức tranh lớn của đất nước. Ví dụ như Việt Nam đang hội nhập quốc tế, và bạn đang học ngành kế toán, bạn có thể viết rằng những gì bạn học được sẽ đem ra ứng dụng và giúp cho Việt Nam nhanh chóng hội nhập với thế giới bên ngoài.
Đối với các bạn xin học bổng của chính phủ nước ngoài, cần phải có một đoạn văn ngắn về đóng góp của bạn sau khi tốt nghiệp về mối bang giao giữa hai nước. Chẳng hạn như bạn có thể viết rằng trong tương lai, bạn sẽ là cầu nối để nâng cao mối bang giao của hai nước lên một tầm mới hơn. Bang giao ở đây không chỉ là chính trị, mà còn là khoa học và giáo dục. Do đó, bạn có thể viết rằng trong tương lai bạn có dự tính thiết lập những chương trình học hay dự án nghiên cứu để nâng cao sự hợp tác giữa các nhà khoa học nước sở tại và Việt Nam. Đoạn văn này tuy ngắn, nhưng ý nghĩa của nó khá quan trọng, vì nó giúp cho người đọc biết rằng bạn có một tầm nhìn xa.
Hi vọng rằng những chia sẻ trên đây có thể giúp ích cho các bạn trong việc soạn một cái Personal Statement. Sẵn đây, tôi chia sẻ với các bạn một bản PS viết bằng tiếng Anh. Mỗi lần về nước là tôi có dịp gặp nhiều bạn bè và các em sinh viên xin trợ giúp. Một trong những việc họ cần giúp là biên tập tiếng Anh hay chỉ cho họ cách viết cái PS để đi học ở nước ngoài. Có khi tôi làm phỏng vấn thử cho họ nữa. Và, tôi rất hân hạnh để báo hầu hết các em ấy đều có học bổng và đi học ở nước ngoài (chỉ có 1 trường hợp duy nhất thất bại, vì lí do cá nhân).
=====
Dưới đây là một PS mà tôi giúp cho một em bác sĩ ở tỉnh nhà, nhưng để bảo mật, tôi xoá bỏ các thông tin liên quan đến ngành nghề và dĩ nhiên là tên họ. Tôi hướng dẫn em này cách viết, rồi sau đó tôi biên tập văn bản của em ấy viết. Trong khi biên tập, tôi cố tình giữ những câu chữ chưa được lưu loát mấy, vì tôi nghĩ điều đó phản ảnh đúng văn phong và trình độ thực của một người dùng tiếng Anh không phải là bản ngữ.
Personal Statement of Dr. XYZ
[Vào đầu nói ngay tại sao theo học ngành y]. My interests in medicine and public health have root in my own personal experience as a patient and as a resident of an economically disadvantageous province. I was born with xxxx, a debilitating condition that could have been prevented by simple public health measure with vaccines. I was therefore determined to undertake medical study and public health, so that I could help my countrymen who are at risk of having preventable diseases. I have completed my medical training, but until this scholarship I have not had an opportunity to study public health. I am determined to take this opportunity to become an expert in clinical public health.
[Lí do chọn trường] I would like to pursue my study at the University of XXX, because the University is ranked among the world's top 10 institutions in public health medicine and clinical epidemiology. I have perused the programs and courses that are offered by the University, and think that the program, particularly XXX, is precisely what I am looking for. I would like to undertake the study under the supervision of Prof. ABC whose work has been influential in the field of XXX. I consider that I can be of assistance to him in this field. With his guidance, academic knowledge, especially the insightful understanding of the diversity in Asia context, I do believe that Prof. ABC will help me successfully complete the research.
[Vì học bổng này cấp cho những người từ vùng nghèo khó, nên phải có một đoạn "ca" về những khó khăn của miền Tây]. My home town is [...], a province in the Mekong Delta region of Vietnam. The region as a whole, and particularly my province, are considered economically “disadvantage” because of low average income, poor infrastructure for education and health care. Although with a population of 2 million, there is no university in the province. Prospective students have to enrol in neighboring provinces or cities to undertake university studies. Only 10% of students in my province enter university or college. In healthcare, the province has only one major hospital with ~1200 beds, but the hospital is consistently overloaded and overcrowded. Having seen the hospital struggling to cope with the continual influx of patients, I am determined to do something for the hometown, and I think that the solution is a good system of public health services for the province.
[Viết về những nỗ lực vượt qua số phận trong quá khứ, với chi tiết cụ thể, và giúp cho việc theo học tốt hơn -- có tiềm năng]. I do believe that the public health courses that are offered by various universities will help equip me with modern knowledge in public health strategies, evidence based public health policies; and skills in epidemiology and biostatistics. These knowledge and skills are new to me, and I believe that I will successfully complete the course. In the past, I overcame my own disability and financial hardship to complete my medical study. For example, I was determined to study English first so that I could keep up to date with medical information from international journals and books. During my first university year, I was rated as an average student, but one year later, I became an outstanding student. After completing my undergraduate study, I had enrolled in a competitive program of dermatology, which subsequently I completed and became a specialist in xxx.
[Viết về cái "nhân văn" và đóng góp cho cộng đồng]. As a physician, I have the privilege of witnessing the struggle of life and death of my patients and countrymen. That real life experience left me with a deep sense of human fragility. Being from an economically disadvantageous province, I know well the horrors of poverty, and often performed services for local charities. Since 2004, I have participated in providing free medical services, including medical checkup and xxx treatment, to many people in my local community. I have carried out medical examination and treated 631 xxx patients of all ages. I also helped educate them to take care of themselves, and prevent from disability caused by XXX.
[Một chút về tầm nhìn] My interaction with these patients gives me an opportunity to appreciate the significance and importance of public health. As my life is beginning to stabilize, and I decide that the time has come to think about the dream of a large picture of health care. I very well realize that in clinical practice I can help a limited number of patients, but in public health I can help millions of people. A simple and appropriate public health preventive program can bring benefits to millions of people and can help reduce the burden of diseases for the community.
[Viết về tương lai sau khi tốt nghiệp, đóng góp cho chuyên ngành] My life experience and disability have moulded me in to a hardworking and humane person. My future goals include establishing a career in research and educating people about XXX. I strongly believe that in Vietnam, as well as in my own province, the most important issue is how to improve the public health system, not to purchase more sophisticated medical equipments, because only with a good public health system, the burden of chronic and infectious diseases can be reduced, and I can contribute to reduce the overloaded hospital. Universities in developed countries have many world renowned experts and have accumulated years of experience in public health, and I would like to be one of the people learning in that system to realize my lifetime objective of becoming an expert in public health medicine.

Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2016

20160228. BÌNH LUẬN VỀ NHỮNG PHÁT NGÔN ẤN TƯỢNG

ĐIỂM BÁO MẠNG
PHÁT NGÔN ẤN TƯỢNG CỦA CHỦ TỊCH QH VÀ CHUYỆN THÁP"KHỦNG"!
KỲ DUYÊN/TVN 27/2/2016
Chủ tịch Quốc hội, truyền hình, Việt Nam, Ấn tượng trong tuần, Kỳ Duyên, nhà báo Kim Dung
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.
Nghèo mà công bằng, yên bình đã tốt. Nhưng giàu mà công bằng, yên bình chắc chắn còn tốt hơn nhiều!
Những ngày đầu xuân, tháng giêng- đến hẹn lại lên, trên các trang báo giấy, báo mạng lại đậm đặc thông tin về các lễ hội với các hoạt động “cướp có văn hóa”, theo cách biện hộ của một cựu quan chức văn hóa HN. Từ hội phết ở Hiền Quang (Phú Thọ), đến lễ hội phát ấn Đền Trần (Nam Định)…, khiến bạn đọc cũng đến hẹn lại… hỉ nộ ái ố.
Có tiền mới xong chứ sao nữa?
Nhưng sự chú ý cũng không kém là giành cho phát ngôn ấn tượng của Chủ tịch QH, tại cuộc họp của UB Thường vụ QH về dự án Luật Dược (sửa đổi). Khi ông cho rằng: Thủ tục hành chính ở Việt Nam quá 'cay độc, độc ác' gây phiền hà cho người dân khi đăng ký hành nghềdược. Ông tự hỏi và rồi tự trả lời: Nhiều thủ tục để làm gì? Để có tiền thì mới xong chứ sao nữa. Pháp luật nói tự do kinh doanh mà sao nghề chữa bệnh cứu người lại gây cản trở.
Chắc chắn, ông không lạ gì cái sự hành là chính này của các thủ tục. Còn các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ càng… rất quen. Và cái sự hành là chính nó cũng rất lên bổng xuống trầm.
Thế nhưng, gần nửa năm sau, cuối tháng 12/2015, kết quả rà soát bước đầu của Bộ KH &ĐT cho thấy, trong số hơn 5800 điều kiện kinh doanh ở 267 ngành nghề, vẫn còn tới gần 3000 điều kiện kinh doanh (trái luật) ngang nhiên áp dụng cho các DN. Như vậy cái sự cởi trói cho các DN của Luật Đầu tư chỉ mới có ý nghĩa… nới lỏng dây. Trả lời phỏng vấn một tờ báo, Bộ trưởng KH & ĐT Bùi Quang Vinh khẳng định, chỉ có nghị định của CP trở lên mới có quyền hạn chế quyền kinh doanh của người dân và DN. Tuy nhiên, các bộ ngành vẫn ra thông tư đặt ra điều kiện kinh doanh.Bởi đầu tháng 07/2015, các DN vừa và nhỏ hẳn mừng vui, vì được biết, 3.299 giấy phép “cha”, giấy phép “con”, giấy phép “cháu” (các điều kiện kinh doanh) của các bộ, ngành sẽ bị bãi bỏ và hết hiệu lực thi hành khi Luật Đầu tư 2014 chính thức có hiệu lực. Từ nay chỉ có QH, Ủy ban Thường vụ QH và CP mới có quyền ban hành các quy định về điều kiện kinh doanh. Doanh nghiệp coi như được cởi trói, điều kiện kinh doanh thông thoáng hơn (Lao động, ngày 01/7/2015).
Đúng là phận các DN vừa và nhỏ quan thì xa, bản nha thì gần, thật khổ sở. Tại hội thảo “Tham vấn ý kiến về phát triển DN vừa và nhỏ 2016 - 2020”, chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Thành, GV Chương trình đào tạo kinh tế Fulbright, cho rằng khối DN này vẫn bị “hành” nhiều nhất từ cơ quan nhà nước, mặc dù các DN này hiện đóng góp 45% vào GDP, 30% thu ngân sách nhà nước, tạo 55% tổng số việc làm (Thanh niên, ngày 07/01)
Cái sự hành là chính của các bộ, ngành Nhà nước, khiến các DN vừa và nhỏ long đong, lận đận liệu có liên quan gì tới hiện trạng viễn cảnh kinh tế đất nước vừa được Trí thức trẻ thông tin, ngày 23/02 mới đây, khiến dư luận XH cứ tưởng là mừng, thật ra là khó có thể vui.
Tiếp sau thông tin 20 năm nữa, GDP bình quân đầu người VN mới đuổi kịp Malaysia hiện tại (Trí thức trẻ, ngày 25/11/2015), mới đây cũng tờ báo này cho biết,  20 năm nữa, VN sẽ có cơ hội bằng Hàn Quốc, nhưng là ở năm… 2000 của quốc gia này. Tờ báo cho biết, nếu duy trì mức tăng trưởng kinh tế tối thiểu 7%/năm trong 20 năm, người Việt có thể đạt mức thu nhập bình quân đầu người 7000 USD/ năm. Con số này nếu quy ra sức mua tương đương, sẽ ngang bằng với Hàn Quốc năm 2000. Ngược lại, không đạt mục tiêu trên, VN sẽ rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Hiểu đơn giản là “mãi không tăng trưởng nổi”.
Một bài toán mà đáp số đã có vẻ rất gần. Bởi trong hành trình 20 năm sắp tới đó, ai có thể bảo đảm mức tăng trưởng nước Việt luôn phải 7%/ năm? Nếu vẫn với thể chế kinh tế nhiều bất cập như hiện nay. Và sự cải cách thì luôn gặp phải lợi ích nhóm?
Nhóm mà to hơn cả… quốc gia?
Còn thân phận các DN vừa và nhỏ thì chả có quyền hỉ nộ ái ố gì trong cái môi trường kinh doanh bất bình đẳng.
Giàu mà công bằng, bình yên còn…tốt hơn nhiều!
Chủ tịch Quốc hội, truyền hình, Việt Nam, Ấn tượng trong tuần, Kỳ Duyên, nhà báo Kim Dung
Bí thư thành ủy Hà Nội Hoàng Trung Hải.
Kinh tế chưa phải là số 01. Số 01 là xây dựng môi trường đầu tư thông thoáng cho DN, tạo môi trường sinh sống an lành cho nhân dân. Thà sống nghèo mà công bằng, yên bình còn hơn giàu mà không công bằng, không yên bình. Đây là nhiệm vụ mà nòng cốt phải làm cho tốt”(VietNamNet, ngày 23/2)Một phát ngôn khác cũng gây ấn tượng không kém, và được dư luận XH trên báo chí, các trang mạng bàn luận sôi nổi, đa chiều. Đó là phát ngôn của Bí thư Thành ủy HN Hoàng Trung Hải ngày 23/2 khi ông về làm việc với huyện Ba Vì. Nhìn nhận về những phát triển kinh tế, thu hút du khách du lịch của Ba Vì…, đều rất quan trọng nhưng “tội phạm nhiều, người dân không dám ra đường thì cũng vứt đi”, ông cho rằng:
Nói cho cùng, điều ông mong mỏi sự công bằng, yên bình đến mức thà sống nghèo còn hơn giàu mà không công bằng, yên bình, phản chiếu tâm lý và tư duy nền nếp của người Việt một thời, từng là đạo lý sống rất đẹp của người Việt. Thậm chí đã thành triết lý nhân sinh quan. Như giấy rách phải giữ lấy lề; đói cho sạch, rách cho thơm. Triết lý ấy, nhân sinh quan ấy hẳn đã khiến cho không biết bao gia đình nghèo vẫn dạy con nên người. Và tạo nên hình ảnh đẹp của người Việt một thời.
Nhưng mỗi thời cuộc có một thước đo lịch sử khác nhau. Lịch sử nước Việt nói chung, Thủ đô HN và huyện Ba Vì nói riêng muốn hay không đã giở sang trang mới- thời của hội nhập hiện đại và văn minh, văn hóa. Thì cái thước đo cho gia đình Việt xưa kia, rất khó có thể là thước đo chung cho 7-8 triệu gia đình HN, khi mà đây vẫn là một trong hai đô thị có mức sống cao của cả nước và trình độ dân trí giàu nghèo khác nhau. Làm giàu không chỉ là khát vọng chính đáng, còn là tham vọng của không ít gia đình.
Mặt khác, sự nghèo khó xưa nay bao giờ cũng có phần là nguồn gốc của nhiều sự bất ổn trong XH. Nghèo khó dễ sinh ra đạo tặc, trộm cướp, dễ song hành cùng dốt nát. Nhất là nước Việt đang còn phải “kéo cày” để có thể trả nợ công, để có thể phấn đấu mức độ tăng trưởng 7% với hy vọng 20 năm sau mức sống bằng năm 2000 của Hàn Quốc. Kinh tế và văn hóa phải song hành và nên coi là số 01. Mà cái gốc là giáo dục
Nhưng người viết bài cũng tâm đắc và chia sẻ với quan niệm của ông- khi ông nhận ra rằng- một trong những nguyên nhân làm chậm quá trình phát triển là cải cách hành chính. Đây là hạn chế của cả bộ máy thành phố.
Đây cũng không phải là yếu kém của riêng ai. Chủ tịch QH trong cuộc làm việc với UBTVQH đã “chạm’ đến một trong những “nút” khó gỡ nhất của sự phát triển của nước Việt- CCHC. Thông qua việc bàn về những hành xử “cay độc, độc ác” của thủ tục hành là chính.
Nhưng cũng không chỉ CCHC, muốn nước Việt nói chung, Thủ đô HN nói riêng tăng tốc trong sự phát triển, còn cần có một chiếc chìa khóa… vàng khác. Đó là năng suất lao động phải tăng. Bởi nước Việt vốn là quốc gia nông nghiệp, văn hóa tiểu nông thấm đậm trong tư duy kinh tế, lại bị ảnh hưởng ở một số mô hình kinh tế lỗi thời, dây chuyền công nghệ cũ kỹ lạc hậu, và chất lượng nguồn đào tạo nhân lực còn thấp. Điều đó, kéo theo năng suất lao động, giá trị lao động và hiệu quả lao động … tương đồng.
Dư luận XH hẳn chưa quên tháng 5/2014, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đánh giá năng suất lao động của VN thuộc nhóm thấp nhất ở Châu Á- Thái Bình Dương. Nhưng đặc biệt, chỉ bằng 1/15 của Singapore.
Không phải vô lý khi ông Paul Krugman, GS ĐH Princenton (Mỹ) giải thưởng Nobel Kinh tế học năm 2008 từng tổng kết: “Năng suất không phải là tất cả, nhưng về lâu dài thì nó gần như là tất cả” (Trí thức trẻ, ngày 23/2)
Cái gần như là tất cả” đó đang cần gì? Nếu không phải là tái cơ cấu kinh tế, đổi mới dây chuyền công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Chả lẽ nước Việt lại chỉ có thể cam chịu chờ đợi, như trong câu chuyện cổ tích xưa: Năng suất ơi…. mở cửa!
Nghèo mà công bằng, yên bình đã tốt. Nhưng giàu mà công bằng, yên bình chắc chắ còn tốt hơn nhiều!
“VTV có cần xây tháp truyền hình”?
Cần phải dùng câu hỏi của Chủ tịch UBND t/p Hà Nội Nguyễn Đức Chung là tiêu đề chung của vấn đề này- Dự án xây Tháp truyền hình cao nhất thế giới 636 mét của VTV, đang làm nổi sóng dư luận.
Chủ tịch Quốc hội, truyền hình, Việt Nam, Ấn tượng trong tuần, Kỳ Duyên, nhà báo Kim Dung
Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung.
Người Việt mình thì bé nhỏ, chậm phát triển, nhưng cái gì cũng muốn “nhất thế giới”, cả tinh thần và vật chất. Lúc thì hạnh phúc, lạc quan nhất thế giới. Lúc thì bánh chưng, bánh dầy, tô phở lớn nhất thế giới… Nay đến lượt tháp truyền hình cũng phải cao nhất thế giới.Không nổi sóng sao được, giữa lúc HN vừa công bố 42 chung cư cũ nguy hiểm sắp đổ, nhưng vì sự nhùng nhằng lợi ích giữa các DN, dân cư mà đến giờ vẫn chưa có giải pháp rõ ràng. Thì việc Dự án xây Tháp truyền hình cao nhất thế giới 636 m, cao hơn cả hai tháp TH được coi là cao nhất hiện nay, tháp Sky Tree (Tokyo - Nhật Bản) cao 634m, hoàn thành năm 2012, và tháp truyền hình Quảng Châu (Trung Quốc) cao 600m, hoàn thành năm 2009, được đưa ra.
Nhưng tháp truyền hình cao nhất thế giới đó, để dân có lợi gì, thì chưa ai trả lời được.
“Nhà đài” mới chỉ có thể trả lời về những con số khủng của dự án có… lợi cho nhà đài.
Đó là không chỉ xây tháp và khối đế tháp với tổng diện tích khoảng 14,1 ha, mà VTV còn xây dựng khối phụ trợ bao gồm các chung cư, văn phòng, khách sạn, khu dịch vụ, vui chơi giải trí và tổ chức sự kiện. Riêng mật độ xây dựng chung cư cao cấp từ 30% đến 50% diện tích (khoảng 300.000 - 600.000 m2). Đồng thời, VTV còn xin hàng loạt ưu đãi vốn chỉ áp dụng cho các dự án đầu tư vào những vùng “đặc biệt khó khăn”. Ví như miễn các loại thuế DN, thuế nhập khẩu các vật tư, máy móc. Và kinh phí đầu tư của dự án cũng rất “khủng”, từ 1,3 đến 1,5 tỷ USD, trong đó riêng phần khối tháp là 900 triệu USD. Và như ông Nguyễn Thành Lương, PGĐ Đài truyền hình VN thản nhiên: Ai cũng vậy thôi, ai cũng muốn có lợi nhất cho mình (Đất Việt, ngày 26/2).
Dĩ nhiên, sóng dư luận cũng lập tức nổi lên.
Trước hết là ý kiến các nhà chuyên môn. Tỷ như Phó GS, TS Phạm Ngọc Đăng, Chủ tịch Hội môi trường Xây dựng VN rất phản đối, khi ông cho rằng, thời đại công nghệ hiện nay không nước nào say mê với tháp truyền hình cao nữa. Đó là tư duy cũ rồi. Khi Nhật Bản xây dựng tháp Tokyo là đang ở đỉnh cao của sự phát triển về kinh tế và xã hội. Nhật xây tháp còn vì mục đích chính là để đáp ứng yêu cầu của ngành truyền hình lúc bấy giờ, chứ không phải xây tháp truyền hình vì mục đích kinh doanh dịch vụ hay kinh doanh BĐS.
Và ông cũng lưu ý một điều rằng, không một nhà đầu tư nào sẵn sàng đổ tiền đầu tư vào một dự án mà họ không nhìn thấy lợi nhuận. Nhưng tại sao VTV vẫn làm? Họ làm vì ai?  Chắc chắn, mục đích của họ là hướng tới những chính sách ưu đãi của nhà nước, khi mà dự án có hàng trăm căn hộ cao cấp cùng với khách sạn, nhà hàng, khu trung tâm thương mại mọc lên (Đất Việt, ngày 23/2).
Đó có lẽ mới là mục đích chính của dự án này, đâu phải đáp ứng nhu cầu truyền hình của người dân. Còn như ai đó đã huỵch toẹt: Thực chất là chuyện BĐS, kinh doanh du lịch, là như dân gian đã nói nhìn rau gắp thịt.
Nhưng quan trọng hơn, là những điều mà theo KTS Ngô Doãn Đức, có rất nhiều vấn đề của dự án đã không được đồng ý. Đáng chú ý nhất, độ cao của dự án có khả năng đe dọa nghiêm trọng tới an ninh quốc phòng. Trước đây, VTV đã từng trình phương án xây dựng này nhưng Bộ Quốc phòng cho biết, nếu thực hiện dự án sẽ có nguy cơ đe dọa an ninh quốc phòng, vi phạm vùng bay. Trong các dịp đại lễ, duyệt binh, nếu máy bay bay từ sông Hồng vào Quảng trường Ba Đình, tháp này sẽ gây cản trở. Thêm nữa, theo đuổi một dự án mà công nghệ đã lạc hậu từ hàng chục năm rồi, có nên không? Đến năm 2020, Việt Nam sẽ hoàn thành Đề án số hóa truyền hình, khi đó toàn bộ mạng truyền dẫn phát sóng truyền hình mặt đất sẽ chuyển sang công nghệ số DVB-T2. Lúc đó tháp cao là không hữu ích (Đất Việt, ngày 26/2).
Ở góc độ ĐBQH, thành viên của cơ quan giám sát, bà Bùi Thị An cũng đặt ra một loạt những câu hỏi. Rằng, tác động thực tiễn của công trình tới sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước như thế nào? Dù xây dựng bằng nguồn vốn nào cũng là nguồn lực của toàn xã hội, là tiền của của dân, vì vậy VTV phải trả lời được câu hỏi: Đầu tư rồi, khi nào sẽ thu hồi được vốn?
Nhưng khó nhất có lẽ là câu hỏi của ông Nguyễn Đức Chung, Chủ tịch UBND t/p: VTV có cần xây tháp truyền hình? Khi mà kỹ thuật công nghệ truyền hình nay chỉ cần vệ tinh? Khi mà diện tích trước đó theo dự án là 14,5 ha, nay mở rộng tới 49 ha, sẽ phải giải phóng mặt bằng của hàng nghìn hộ dân, rất khó khả thi. Và trong khi nhất loạt những phản biện của các nhà chuyên môn, ĐBQH đều trả lời và khẳng định- không cần thiết!
Hàng loạt những vấn đề “cay độc, độc ác”, “nghèo mà bình yên”, hay “ai hưởng lợi” nảy sinh, chỉ xoay quanh mỗi chữ- Kim Tiền.
Nghe nhắc đến tên mình, nét mặt Kim Tiền bỗng vênh vang, tự đắc. Ngài lim dim mắt, nhìn xa xôi mà bảo: - Chứ sao? Thời của ta, không cần thiết cũng thành … cần thiết. Hiểu chưa?
-Dạ!  
Kỳ Duyên
NGUYỄN SINH HÙNG NGÀY CÀNG BẠO MIỆNG
TƯ NGỘ / DV/ BVB 27/2/2016
Quốc Hội CSVN được giới báo chí ngoại quốc gọi tên là con dấu cao su (rubber stamp) tức chỉ làm theo lệnh dập xuống giấy. Tất cả các đạo luật được các cơ quan của nhà nước (tay phải) đưa ra Quốc Hội (tay trái) càm ràm chiếu lệ rồi thế nào cũng thông qua với tỉ số rất cao, nếu không phải tuyệt đối. Nếu không, chẳng lẽ tay trái chém cụt tay phải?
Tuy nhiên, để ý theo dõi thời sự chính trị Việt Nam thì sẽ thấy ông Nguyễn Sinh Hùng, thường được cư dân mạng gọi là “Hùng hói,” chủ tịch Quốc Hội CSVN ngày càng bạo miệng. Với những người đang bị liệt vào thành phần “phản động” ở trong nước, nếu mà phát ngôn hung hăng như thế, không tù mọt gông thì cũng bị lũ “côn đồ được bảo kê” đập cho tới nơi tới chốn.
Cái chức “chủ tịch Quốc Hội” và ngay cả cái chức “đại biểu Quốc Hội” của ông không phải do dân bầu mà có. Nó được bộ sậu chóp bu đảng trong Bộ Chính Trị CSVN cài đặt ông ngồi lên đó làm bung xung cho có màu mè dân chủ để tuyên truyền với thiên hạ, giản dị như vậy. Ông không phải tranh với ai và nó không phải cái chức hái ra tiền (dưới gầm bàn) nhiều nhất của chế độ.
Sau cuộc đấu đá tại đại hội đảng 12 kết thúc giữa tháng trước, ông Hùng và ông Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang, ông Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, bị ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng gạt ra ngoài hệ thống quyền lực chóp bu.
Hai ông Trương Tấn Sang và Nguyễn Tấn Dũng chỉ thấy mấy lời phát biểu đại khái, chờ đến tháng 6 tới đây thì trả ghế, về vườn. Riêng ông Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng thì có vẻ ngày càng đưa ra những “phát ngôn ấn tượng” khiến dư luận ngạc nhiên không ít.
Hôm Thứ Ba, 23 tháng 2, 2016, khi thảo luận về thủ tục hành chánh, vấn đề cấp giấy phép hành nghề vừa khó khăn vừa phức tạp, ông Nguyễn Sinh Hùng kêu rằng, “Thủ tục hành chính của mình cay độc lắm, quá nhiều thủ tục gây phiền hà cho người dân. Nhiều thủ tục để làm gì, để có tiền thì mới xong chứ sao nữa!”.
Nếu không thấy báo chí chính thống của chế độ thuật lời ông, người ta không thể tin đó lại phát ra từ miệng ông chủ tịch Quốc Hội “con dấu cao su.” Suốt bao năm qua, không biết bao nhiêu lời kêu ca về thủ tục hành chính “hành dân là chính” để vòi tiền hối lộ, đã và vẫn còn đang làm khổ người dân mỗi khi phải chạy tới cửa công quyền.
Có rất nhiều đợt cải cách hành chính được tuyên truyền, loan báo thi hành nhưng rồi chẳng giảm thiểu sự cồng kềnh rối rắm là bao nhiêu. Cũng ở trong đầu tuần này, giới đầu tư Nhật Bản đầu tư sản xuất tại Việt Nam đưa ra bản tường trình ngầm cáo buộc thủ tục hành chính của Việt Nam là cơ hội để moi tiền hối lộ “dưới gầm bàn.” Vì vậy họ nói môi trường đầu tư tại Việt Nam ngày càng xấu đi.
Một tuần trước đó, ngày 17 tháng 2, 2016, cũng tại cuộc họp của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội, khi thấy chính phủ của chế độ lại xin hoãn trình luật biểu tình dù đã được lên lịch thảo luận và xin hoãn rất nhiều lần, ít ra là từ ba năm qua.
Ông Hùng kêu: “Tại sao cứ lùi đi lùi lại mãi, do làm không được hay không chịu làm? Chương trình là Quốc Hội quyết định, Bộ Chính Trị cũng đã quyết định đưa vào chương trình rồi, nhưng chính phủ cứ xin lùi mãi”.
Ông còn lên giọng: “Thường vụ Quốc Hội không đồng ý với việc lùi. Chính phủ chưa trình dự luật này ra Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội, chúng tôi đã biết nội dung như thế nào đâu mà bảo là cho lùi? Tôi cho rằng đây là việc làm thiếu nghiêm túc”.
Dù vậy, cái “luật biểu tình” nếu được một chế độ độc tài đảng trị như chế độ CSVN nặn ra thì cũng sẽ không ai được tự do biểu tình, nhất là bày tỏ chính kiến. Một cái luật mà do Bộ Công An soạn thảo với sự tiếp tay của Bộ Quốc Phòng “gài độ” thì đừng có hòng tử tế, để gọi là “của dân, do dân và vì dân.”
Những năm gần đây, hàng chục người dân khi vừa mới bị bắt vào đồn công an một vài giờ tới một vài ngày thì gia đình của họ nhận được tin chết. Hầu hết đều bị vu cho là tự tử, “nhồi máu cơ tim” hay “chạy lung tung đầu đập vào tường” trong khi khám nghiệm tử thi đều thấy dập nội tạng, gãy xương sườn, gãy xương chân tay, vỡ sọ, máu chảy ra từ mũi, mắt, tai, v.v... các dấu hiệu của tra tấn nhục hình.
Liệu sẽ có bao nhiêu người sẽ bị lôi vào đồn công an rồi chết ở đó sau khi có “luật biểu tình”? Chắc gì công an sẽ tử tế hơn khi có “luật biểu tình” hay là còn độc ác hơn?
Trong cuộc họp của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội CSVN ngày 10 tháng 8, 2015, khi góp ý kiến trong phiên thảo luận về “Luật Phí và Lệ Phí” khiến dân chúng điêu đứng, ông Hùng kêu rằng, “Một quả trứng đếm ra đếm vào 14 lần để thu phí. Trời đất ơi, như thế người dân sống sao được.”
Ðầu năm 2015, báo Giáo Dục Việt Nam liệt kê ra “7 phát ngôn ấn tượng” của ông Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng trong năm 2014. Trong đó, ông từng kêu về thủ tục hành chính bắt dân chạy 15 tới 20 loại giấy cho một vụ việc là “thế này thì chỉ chết dân thôi” và kêu ca về “Luật Căn Cước” và “Luật Hộ Tịch” là “hành dân đủ kiểu thì ai chịu được.”
Thậm chí, ông còn đả kích cái dự luật “Luật Dân Sự” (sửa đổi) là “nghe thì có vẻ đúng, nhưng mà sai rồi, thiếu tôn trọng Hiến Pháp.”
Bất chấp những lời kêu ca của ông “Hùng hói,” tất cả các đạo luật mà chế độ đưa ra đều được thông qua. Một quốc hội “con dấu cao su” không bao giờ được phép vượt qua thẩm quyền của nó khi cái thủ tục “đảng cử dân bầu” vẫn còn nguyên đó để nhào nặn ra cái thứ quốc hội bù nhìn đó.
Ông Hùng chỉ nói cho sướng cái miệng khi ông biết ông không còn gì để mất. Người ta từng thấy một số kẻ tiền nhiệm của ông cũng có những phát ngôn tương tự như ông khi sắp bị cưa ghế, hoặc đã về vườn.
Ích lợi gì cho dân cho nước khi các lời nói “bạo phổi” của các ông chẳng đem lại sự thay đổi nào. Vẫn có cái đảng Cộng Sản ngồi chồm hổm trên đầu nhà nước thì dân vẫn chịu đựng một cổ hai tròng. Quốc Hội nào phải “của dân, do dân và vì dân” như chế độ tuyên truyền bịp bợm.
Tư Ngộ/(Người Việt)

Thứ Bảy, 27 tháng 2, 2016

20160227. BÀN VỀ "LƯƠNG Y NHƯ TỪ MẪU"

ĐIỂM BÁO MẠNG
NGHĨ VỀ "LƯƠNG Y NHƯ TỪ MẪU"
NGUYỄN VĂN TUẤN/ tuan's blog 23/2/2016
Sáng nay, đọc được một công trình nghiên cứu về hành vi quyết định của bác sĩ (1) làm tôi nhớ đến câu nói của ông cụ Hồ: “Lương y như từ mẫu”. Kể ra cũng lạ, vì quan điểm đó rất khác với phương Tây. Một bác sĩ Mĩ từng khuyên rằng bác sĩ nên điều trị mỗi bệnh nhân như là họ điều trị mẹ của họ. Nhưng tôi nghĩ cả hai câu này đều … sai.
Một nghiên cứu thú vị
Nghiên cứu này rất thú vị, và tôi cần phải có đôi ba dòng để mô tả. Lí thuyết đằng sau nghiên cứu là ý tưởng cognitive bias. Nghiên cứu được thực hiện trên một số bác sĩ, và họ được trình bày 2 tình huống và mỗi tình huống có 2 liệu pháp điều trị:
  • Tình huống bệnh ung thư ruột. Liệu pháp thứ nhất là phẫu thuật có xác suất điều trị thành công 80% bệnh nhân mà không có biến chứng, nhưng khả năng điều trị thất bại là 16%, và những bệnh nhân này sẽ chết trong vòng 2 năm. Liệu pháp thứ hai cũng là phẫu thuật, có xác suất điều trị thành công 80% bệnh nhân mà không có biến chứng, nhưng tỉ lệ thất bại là 20% và số này sẽ chết trong vòng 2 năm.
  • Tình huống cảm cúm gia cầm (avian flu). Liệu pháp thứ nhất là không điều trị bằng immunoglobulin, với kết cục là 10% sẽ chết, 30% bị nhập viện và thời gian nằm viện trung bình 1 tuần. Liệu pháp hai là điều trị bằng immunoglobulin, với kết cục là 5% sẽ chết, 15% bị nhập viện và thời gian nằm viện trung bình 1 tuần, nhưng immunoglobulin sẽ làm cho 1% bệnh nhân chết và 4% bị biến chứng liệt thần kinh vĩnh viễn.
Các bác sĩ được chia thành 2 nhóm một cách ngẫu nhiên:
  • Nhóm I được yêu cầu chọn một trong hai liệu pháp cho mỗi tình huống nếu họ là bệnh nhân;
  • Nhóm II được yêu cầu chọn một trong hai liệu pháp cho mỗi tình huống nếu họ trong vai trò người bác sĩ đề nghị liệu pháp điều trị cho bệnh nhân của mình.
Các nhà nghiên cứu phát hiện rằng nếu họ là bệnh nhân, các bác sĩ sẽ chọn liệu pháp có tỉ lệ tử vong cao hơn, nhưng tỉ lệ biến chứng thấp. Nhưng nếu họ là bác sĩ đề nghị liệu pháp cho bệnh nhân, thì họ có xu hướng chọn liệu pháp với tỉ lệ tử vong thấp, nhưng tỉ lệ biến chứng cao.
Tại sao có sự khác biệt? Lí do là vấn đề cognitive bias - hiệu ứng nhận thức, mà trong đó bác sĩ có xu hướng tránh mang tiếng "phản bội" bệnh nhân. Đó là lí do bác sĩ có xu hướng chọn liệu pháp giảm nguy cơ tử vong, nhưng họ sẵn sàng đánh đổi tăng nguy cơ biến chứng cho bệnh nhân. Còn đối với họ, họ sẵn sàng chấp nhận liệu pháp tăng nguy cơ tử vong nhưng ít biến chứng. Nói cách khác, bác sĩ có xu hướng đi đến quyết định tốt cho bệnh nhân hơn là cho chính họ hay cho người thân. Đó là lí do tại sao quan điểm [cho rằng xem bệnh nhân như là mẹ mình] là sai.
"Lương y như từ mẫu"
Ở VN, đi đâu cũng thấy khẩu hiệu "Lương y như từ mẫu" được giăng khắp nơi trong bệnh viện và các trung tâm y tế. Tác giả câu đó là cụ Hồ Chí Minh trong một lá thư ông ấy gửi cho hội nghị cán bộ y tế vào năm 1955 (2), nhưng tôi chưa rõ nguồn gốc của nó. Các giáo sư xem đó là một "lời dạy" và "huấn thị" của ông cụ về y đức, và ca ngợi đó là một phát kiến vĩ đại. Nhưng tôi phân vân rằng đó là một lời dạy có vấn đề, và cũng là một ví von không ổn. Càng không thích hợp khi mối quan hệ giữa bệnh nhân và bác sĩ đã thay đổi rất nhiều theo thời gian.
Ông cụ Hồ không định nghĩa "lương y" là gì, nhưng cách hiểu thông thường thì lương y có thể hiểu như là thầy thuốc hay. Thầy thuốc ở đây, dĩ nhiên, bao gồm những người hành nghề khám bệnh và điều trị bệnh nhân như bác sĩ, y sĩ, và y tá. Do đó, chúng ta phải xem xét kĩ vai trò của người bác sĩ và y tá để thấy rằng cái câu ví von "lương y như từ mẫu" là sai. Nếu người thầy thuốc là cha/mẹ, thì bệnh nhân là con sao? Vô lí.
Vai trò của người bác sĩ là gì? Đáng lí ra tôi phải nói là "bác sĩ hiện đại" để chỉ người thầy thuốc trong thế giới mới của khoa học và y học thực chứng. Hiệp hội Y khoa Úc có một bộ qui tắc về hành nghề y (3), trong đó họ qui định vai trò của người bác sĩ hiện đại bao gồm: (a) chẩn đoán và tiên lượng; (b) quyết định trong tình huống phức tạp; (c) duy trì sự tin tưởng và mối quan hệ với bệnh nhân; (d) duy trì tính chuyên nghiệp; (e) vai trò lãnh đạo trong dịch vụ y tế và cộng đồng; và (f) huấn luyện và đào tạo thế hệ bác sĩ kế tục.
Vai trò của người y tá (ở VN ngày nay người ta đổi tên và gọi là "điều dưỡng") là gì? Đó là chăm sóc bệnh nhân, kể cả quản lí vết thương, tiêm chích, dịch vụ chẩn đoán; duy trì chất lượng chăm sóc bệnh nhân, kể cả nhiễm trùng; tổ chức; và người trung gian giữa bác sĩ và cộng đồng.
Nhìn qua những vai trò thực tế trên, rất khó mà nói rằng bác sĩ hay y tá có vai trò chăm sóc bệnh nhân như một bà mẹ hiền. Nhiệm vụ của người bác sĩ và y tá không phải là một bà mẹ. Bà mẹ hiền có thể vỗ về lau nước mắt cho đứa con bớt khóc khi đau đớn, hay ngồi bên giường bệnh để ru ngủ cho con đi vào giấc điệp. Bác sĩ và y tá không có cái vai trò đó đối với bệnh nhân.
Do đó, câu “lương y như từ mẫu” sai về mặt khái niệm tương quan. Mối quan hệ giữa người mẹ và người con là quan hệ huyết thống và tình cảm. Còn mối tương quan giữa người bác sĩ hay y tá và bệnh nhân là mối quan hệ xã hội, chịu sự chi phối của các qui ước về đạo đức nghề nghiệp.
Cố nhiên, bất cứ bác sĩ và y tá nào, theo qui ước đạo đức, đều phải hết lòng chăm sóc cho bệnh nhân theo những kiến thức hiện hành và thấu cảm. Do đó, khuyên thầy thuốc nên như một người hiền đức thì e rằng hơi thừa.
Mối quan hệ giữa bệnh nhân và bác sĩ thay đổi theo thời gian. Trước đây, giới bác sĩ là người gần như độc quyền về kiến thức y học và y thuật, còn người bệnh không có phương tiện để tiếp cận những kến thức đó. Do đó, bác sĩ có thời được xem như là bán thần thánh, huyền bí. Từ đó, nảy ra mối quan hệ không bình đẳng giữa bác sĩ và người bệnh, mà tiếng Anh gọi là "paternalistic relationship", có nghĩa là mối quan hệ gia trưởng, bác sĩ như là cha, và bệnh nhân như là con. Trong mối quan hệ đó, bác sĩ nói, bệnh nhân phải nghe; bác sĩ ra y lệnh, bệnh nhân phải tuân theo.
Nhưng trong thời đại ngày nay, với sự phát triển của khoa học chuyên ngành hoá cùng với thông tin mạng, bác sĩ không còn là người độc quyền về kiến thức y học nữa. Người bác sĩ không thể biết tất cả những kiến thức về y học và khoa học. Việc điều trị và chẩn đoán phải dựa vào chứng cứ khoa học, chứ không còn dựa vào kinh nghiệm cá nhân của người bác sĩ. Mà, chứng cứ khoa học thì được công bố, nên bệnh nhân cũng có thể truy cập và tìm hiểu. Do đó, trong thời đại y học thực chứng, bác sĩ không thể nói "theo kinh nghiệm của tôi", mà phải tập cách nói "theo nghiên cứu này ..." để đi đến quyết định điều trị cho bệnh nhân. Điều quan trọng cần nói nhấn mạnh là bác sĩ VÀ bệnh nhân cùng đi đến quyết định. Trong mối quan hệ hiện đại này, bác sĩ là một người partner (đối tác) của bệnh nhân, chứ không phải là "cha mẹ" nữa.
Trong cuốn sách mới đây của Bs Atul Gawande, ông có một ví von rất hay rằng bác sĩ hiện đại giống như người bán lẻ và bệnh nhân như là khách hàng. Vai trò của người bán lẻ là giới thiệu sản phẩm và phân tích ưu khuyết điểm của sản phẩm cho khách hàng. Khách hàng là người ra quyết định sau cùng trong việc mua hàng, nhưng trong quá trình đi đến quyết định, khách hàng phải bàn thảo với người bán hàng. Vai trò của bác sĩ cũng giống như thế: người bác sĩ tốt có nhiệm vụ trình bày những thông tin lợi và hại của các thuật can thiệp cho bệnh nhân, và cùng với bệnh nhân đi đến thoả thuận một can thiệp tối ưu nhất. Dĩ nhiên, trong thảo luận, bác sĩ phải đặt quyền lợi và sức khoẻ của bệnh nhân lên hàng đầu.
Nhìn như trên, chúng ta thấy rõ ràng rằng bác sĩ không phải là bà mẹ hiền. Người gần với vai trò của bà mẹ là y tá, vì y tá trực tiếp chăm sóc bệnh nhân, nhưng vai trò của y tá cũng không phải là một bà mẹ, mà là một người phục vụ. Người phục vụ là một chuyên viên. Một chuyên viên phải làm theo chức phận và những qui ước nghề nghiệp, kể cả qui ước đạo đức. Trong những qui ước về y đức có những phát biểu như hết lòng trong việc cung cấp dịch vụ chuyên môn cho bệnh nhân, tôn trọng quyền và sự lựa chọn của bệnh nhân, và không được phân biệt đối xử. Do đó, nếu hiểu rằng "lương y như từ mẫu" là bác sĩ phải tận tuỵ với bệnh nhân thì tôi e rằng đó là, một lần nữa, một câu nói thừa.
Dĩ nhiên, ai cũng biết rằng câu nói "lương y như từ mẫu" hay thầy thuốc như mẹ hiền là một sự ví von. Nhưng ông cụ Hồ chỉ nói ngắn như thế (và có lẽ ông cũng chưa nghĩ sâu về vấn đề) nên người ta muốn hiểu sao thì hiểu, và gán cho câu nói những ý nghĩa mà ông không có. Ông là một chính trị gia, chứ không phải người làm trong ngành y, nên không thể đòi hỏi ông phải hiểu vai trò của người thầy thuốc. Và, gán ghép câu nói bình thường đó thành những triết lí hay y đức là một cách làm không công bằng với ông. Nhưng dù hiểu thế nào đi nữa, thì câu nói "lương y như từ mẫu" đó là một lời huấn thị không cần thiết, thậm chí có thể sai.
====
(1) http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3817828/
(2) http://vungtau.baria-vungtau.gov.vn/web/guest/tin-tuc/-/brvt/extAssetPublisher/content/1556830/nghi-ve-loi-day-luong-y-phai-nhu-tu-mau-cua-bac
(3) https://ama.com.au/position-statement/role-doctor-2011