Thứ Sáu, 26 tháng 2, 2016

20160226. BỆNH "RỐI LOẠN NIỀM TIN" VÀ AI PHẢI "XỬ LÝ" ?

ĐIỂM BÁO MẠNG
ĐÃ BA NĂM RỒI VẪN CÒN ĐÓ MỘT LỜI ĐE DỌA!
NGUYỄN ĐĂNG QUANG/ BVN 24/2/2016
Kết quả hình ảnh cho suy thoái đạo đức
Cách đây tròn ba năm, ngày 25/2/2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến làm việc với Thường vụ Tỉnh uỷ và Lãnh đạo chủ chốt tỉnh Vĩnh Phúc. Tại đây, ông đưa ra lời đe doạ 72 nhân sỹ trí thức ký tên vào “Kiến nghị Sửa đổi Hiến pháp 1992” cùng những người dân tham gia khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể đòi quyền lợi hợp pháp của mình là những kẻ “suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và rồi đe doạ “ phải xử lý những người này!
Tối hôm đó, VTV phát trên Kênh 1 nội dung ý kiến phát biểu của ông Trọng ở Vĩnh Phúc. Ngay sáng hôm sau, nhà báo trẻ Nguyễn Đắc Kiên của báo Gia đình & Xã hội, trong bài viết đầy dũng khí “Vài lời với ông Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng”(1)đã phê phán ý kiến phát biểu và chỉ trích thái độ sai trái của TBT Trọng ở tỉnh Vĩnh Phúc! Chưa đầy 24 tiếng đồng hồ sau, nhà báo trẻ dũng cảm Nguyễn Đắc Kiên bị toà báo Gia đình & Xã hội cho thôi việc!
Bình luận về ý kiến nói trên của ông Nguyễn Phú Trọng, giáo sư Hoàng Xuân Phú ở Viện Toán học – Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam, trong bài viết “thực thi quyền hiến định đấy, ông Trọng ạ!”(2)đã phân tích và chỉ rõ lời phát biểu của ông Trọng ở Vĩnh Phúc là sai trái! Dẫn lại lời của ông Tổng Bí thư: “Tham gia đi khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể, thì nó là cái gì?, Giáo sư Hoàng Xuân Phú phân tích cho ông Trọng thấy và hiểu được “biểu tình” tự nó là quyền hiến định của công dân, được ghi rõ tại Điều 69 Hiến pháp 1992: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật. Cho đến nay, Nhà nước ta vẫn chưa có Luật Biểu tình, nên mệnh đề “theo quy định của pháp luật” không có tác dụng hạn chế quyền biểu tình. Nghĩa là, theo Hiến pháp 1992, thì công dân luôn luôn có quyền biểu tình ôn hoà, và quyền ấy không bị hạn chế bởi pháp luật.
Giáo sư Hoàng Xuân Phú so sánh: Việc công dân đi biểu tình khi chưa có luật về biểu tình còn chính đáng và hợp pháp hơn so với việc ĐCSVN hoạt động khi chưa có luật quy định về khuôn khổ hoạt động của ĐCSVN, vì như mọi người đều rõ, các cơ quan Đảng và Nhà nước “chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, còn người dân được làm những gì pháp luật không cấm. Giáo sư Hoàng Xuân Phú kết luận:Ông Trọng không thể tìm được cơ sở pháp lý nào để có thể phủ định quyền biểu tình của công dân!
Còn việc khiếu kiện thì sao? Khiếu kiện là quyền khiếu nại, tố cáo của công dân. Giáo sư Hoàng Xuân Phú chỉ rõ: Khiếu kiện cũng là quyền hiến định của công dân. Quyền này được ghi rõ trong Điều 74 Hiến pháp 1992: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào.” Hiến pháp 1992 cũng như các bộ luật hiện hành không có điều khoản nào cấm “khiếu kiện đông người” hoặc “ký đơn tập thể”. Do vậy, mọi Nghị định hoặc Thông tư của Chính phủ (tức các văn bản dưới luật) nếu có điều nào quy định “cấm khiếu nại đông người” hoặc “cấm ký tên tập thể” sẽ đều không có giá trị pháp lý, vì những văn bản này chính nó đã vi phạm luật pháp và Hiến pháp!
Giáo sư Hoàng Xuân Phú kết luận: “Biểu tình và khiếu kiện, dù với tư cách cá nhân hay tham gia ký đơn tập thể, thì cũng đều là thực thi quyền hiến định trong khuôn khổ pháp luật hiện hành. Nhân dân có quyền sử dụng các quyền hiến định đó, kể cả trong trường hợp ông hay ai đó cho rằng Hiến pháp chỉ là để trang trí! Vì vậy, ông không thể quy kết việc họtham gia đi khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể làsuy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, rồi yêu cầu các đồng chí quan tâm xử lý được!”.
Như vậy là đã rõ, cả về đạo lý và pháp lý, ông Trọng đều không đúng!
Hưởng ứng lời kêu gọi của Quốc hội toàn dân tham gia góp ý sửa đổi Hiến pháp, ngày 19/1/2013, ngay đợt 1 đã có 72 người ký tên vào bản “Kiến nghị về Sửa đổi Hiến pháp 1992”(3), gọi tắt là KN 72, mà sau này lên đến trên 15.000 người ký tên. Mọi người đều sững sờ và bức xúc trước sự quy chụp của TBT Trọng. Nhà giáo Dương Đình Giao, một cây bút phản biện sắc sảo, trong bài “Người đồng tuế”(4) đăng trên Blog ÔNG GIÁO LÀNG của mình, phải thốt lên: “Ai đời, kêu gọi người ta góp ý, còn nói sẵn sàng chấp nhận những ý kiến trái chiều, thế mà đến khi người ta phát biểu lại qui đó là suy thoái về tư tưởng, đạo đức!”. Tác giả Dương Đình Giao đã nói lên suy nghĩ của rất nhiều người!
Bản thân tôi lúc đầu cũng không tin ý kiến của ông Trọng phát biểu ở Vĩnh Phúc là thực, sợ rằng bộ máy tuyên truyền nói vống lên, vì một người lãnh đạo cao cấp sẽ không bao giờ nói như vậy, nên đầu tháng 3/2013 đã cùng một số anh chị em ký KN72 gửi thư cho ông Trọng đề nghị ông sắp xếp một buổi gặp chúng tôi với tư cách là Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri, để hai bên hiểu rõ quan điểm và tránh hiểu lầm nhau (5). Hai lần gửi thư đi, chúng tôi đợi mãi, nhưng không hề nhận được hồi đáp, nên đầu tháng 5/2013 chúng tôi buộc phải gửi đơn đến Ban Công tác Đại biểu Quốc hội thuộc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu xem xét tư cách Đại biểu Quốc hội đối với đại biểu Nguyễn Phú Trọng!(6) Không nhận được hồi âm, đầu tháng 10/2013, chúng tôi gửi tiếp thư thứ hai, thúc giục Quốc hội giải quyết kiến nghị của cử tri. Sau đó, có thể ông Trọng có chỉ thị nội bộ, nên hạ tuần tháng 10/2013, cơ quan cũ của tôi cử một lãnh đạo đến gặp và thuyết phục tôi “rút yêu cầu xem xét tư cách Đại biểu Quốc hội”, lý do đưa ra là “để không làm mất uy tín lãnh đạo Đảng”!? Tôi không chấp nhận!
Cho đến nay tôi vẫn coi đấy như một món nợ. Và thực sự, tôi không hiểu vì sao ông Trọng lại phản ứng thái quá, coi những người ký KN 72 là “suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống để rồi đòi xử lý họ!” trong khi hai hiểm hoạ lớn của đất nước là GIẶC NỘI XÂM và GIẶC NGOẠI XÂM đang hoành hành ngay trước mặt thì ông lại lặng thinh, bình chân như vại, như chẳng có gì xảy ra cả! Là người chịu trách nhiệm cao nhất, ông Trọng coi nạn tham nhũng – một căn bệnh ung thư đang di căn trong cơ thể Đảng – chỉ “như ngứa ghẻ, phải gãi, rất khó chịu!”; còn việc chống bọn quan tham phải thận trọng: “đánh chuột nhưng đừng để vỡ bình!”. Trước nạn tham nhũng được coi là giặc nội xâm, khi nhận chức TBT khoá XI cách đây năm năm cũng như khoá XII vừa rồi, ông Trọng không hề đưa ra một “đề án chống tham nhũng có lộ trình” cụ thể, và cũng chẳng có một “cam kết” tận diệt tham nhũng nào cả! Do vậy, nạn tham nhũng ngày trở nên trầm trọng! Bọn quan tham không chỉ là những con sâu, con chuột đơn lẻ như trước nữa, nay chúng phát triển lớn mạnh nhiều lần, trở thành những bầy sâu, đàn chuột, thậm chí là các “tập đoàn chuột sâu tham nhũng” rồi! Chính bọn này là thủ phạm giết sống ĐCSVN chứ không phải ai khác, càng không phải là những người ký “Kiến nghị Sửa đổi Hiến pháp 1992” hay những người tham gia biểu tình phản đối Trung Quốc xâm phạm biển đảo, hoặc những bà con mất đất, mất nhà cùng nhau khiếu kiện và ký đơn tập thể đòi quyền lợi hợp pháp của mình nhưng bị ông quy là “suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống”! Tham nhũng không còn là nguy cơ nữa, đã trở thành giặc nội xâm rồi. Mong ông hãy đủ minh mẫn, chĩa lưỡi lê vào giặc, đừng chĩa lưỡi lê vào đồng bào mình!
Còn đối với bọn GIẶC NGOẠI XÂM, thái độ của ông thế nào? Trong suốt ba năm qua, ông không một lần lên tiếng, mà im lặng đến đáng sợ! Trong ba năm này, nhiều tàu thuyền đánh cá của ta bị tàu Trung Quốc đâm hỏng và nhiều ngư dân ta bị giết ngay trên ngư trường truyền thống của mình ở Biển Đông! Ông đâu có lên tiếng bảo vệ đồng bào mình! Tháng 5/2014, giữa lúc Hội nghị Trung ương 9 đang họp, Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của ta. Thế giới phản ứng mạnh, lên án Trung Quốc, ủng hộ Việt Nam. Nhưng ông biệt tăm vô tín. Tại sao ông không dùng diễn đàn Hội nghị Trung ương 9 đang họp để ra tuyên bố phản đối Trung Quốc, bảo vệ chủ quyền biển đảo của ta, mà ông giữ im lặng như không hề có gì xảy ra vậy? Rồi suốt trong năm 2015, Trung Quốc ngang nhiên bồi đắp bảy bãi đá ngầm trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam ta thành các đảo nhân tạo để độc chiếm và quân sự hoá chúng. Ông vẫn im lặng. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình nhiều lần ngang ngược tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của tổ tiên chúng từ thời cổ đại! Thế giới phản ứng mạnh. Nhưng không thấy Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam lên tiếng phản bác gì? Sao ông lại im lặng đến lạ lùng như vậy?
Đối sách của ông trước hai vấn đề lớn: một là với người dân, mặc dù ý kiến họ có thể trái ý ông, không cùng với suy nghĩ của ông, có thể làm ông mếch lòng, song họ là đồng bào của ông; và hai làvới bọn giặc nội xâm và giặc ngoại xâm, mặc dù chúng cùng ý thức hệ với ông nhưng lại là kẻ thù của nhân dân và đất nước Việt Nam, do vậy đòi hỏi ông phải hết sức tỉnh táo, không được lầm lẫn. Phải coi dân là rường cột của quốc gia và đừng để mất dân, ông ạ!
Nghe nói, trong buổi họp báo quốc tế gần đây khi ông được tái cử chức TBT, hình như ông có ca ngợi nền dân chủ ở Việt Nam là không đâu bằng, là “dân chủ đến thế là cùng!”. Câu nói làm tôi chạnh nhớ đến lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dân chủ là phải để người dân mở miệng”! Ấy vậy, chúng tôi mới vừa mở miệng, mới chỉ “mở miệng góp ý”, chứ nào dám “mở miệng chỉ trích, đả phá” ai đâu mà sao ông nỡ vội đe doạ chúng tôi như vậy? Xin phép hỏi ông, vậy thì dân chủ của Việt Nam ta ở đâu? Và cái nội hàm “dân chủ đến thế là cùng” của ông là cái gì?Ông có thể cho nhân dân Việt Nam hưởng nó được không? Nếu ông và Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự thay đổi, và thực tâm muốn Việt Nam ta tiến đến một nền “dân chủ đến thế là cùng” như lời ông nói, có lẽ cơ hội thử nghiệm tốt nhất là dịp bầu cử Quốc hội khoá 14 vào ngày 22/5 tới, thưa ông!
Trở lại lời đe doạ ba năm về trước, có một sự việc có thể liên quan, đó là việc một cựu sĩ quan công an, một nhà hoạt động dân chủ - nhân quyền nhiệt huyết, một nhà báo sắc sảo, ông Nguyễn Hữu Vinh, người khởi xướng và điều hành trang blog uy tín BA SÀM bị bắt khẩn cấp cùng cộng sự Nguyễn Thị Minh Thuý vào ngày 5/5/2014 và bị khép vào “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước; quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân theo Điều 258 Bộ luật Hình sự. Đến nay, thiếu 70 ngày là tròn hai năm, hai bị cáo trên bị giam giữ mà không được đưa ra xét xử như qui định của pháp luật, bởi các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn không chứng minh được hai bị cáo này có tội! Không chứng minh được công dân có tội, nhưng cứ tiếp tục giam giữ họ, không đưa ra xét xử, số lần trả hồ sơ để điều tra lại cũng như thời hạn tạm giam đều đã quá quy định của luật pháp, phải chăng họ cố tìm chứng cứ mới để buộc tội bằng được các bị cáo này? Tôi đề nghị, hãy tuyên bố kết thúc điều tra và trả tự do ngay cho các bị cáo. Nếu sau này tìm ra chứng cứ mới, sẽ lập chuyên án khác để xử lý sau. Còn bây giờ hãy trả tự do ngay cho họ. Đấy mới là thượng sách!
Bà Lê Thị Minh Hà, một cựu sĩ quan an ninh, đảng viên ĐCSVN, vợ của ông Nguyễn Hữu Vinh, trong bài viết “Chồng tôi có phạm tội không?”(7) đã khẳng định chồng bà VÔ TỘI và việc bắt giam ông Vinh là “tuỳ tiện, vi hiến và trái pháp luật” . Bà đòi phải “Trả tự do tức khắc và vô điều kiện cho ông Vinh,Huỷ bỏ Điều 258 Bộ luật Hình sự và Tôn trọng quyền tự do thông tin và báo chí của người dân Việt NamCòn giáo sư Hoàng Xuân Phú trong bài viết “Sai phạm trong tố tụng vụ án “Nguyễn Hữu Vinh cùng đồng bọn...”(8), sau khi phân tích khía cạnh pháp lý của Bản kết luận điều tra của Cơ quan An ninh điều tra - Bộ Công an ngày 30/10/2014, đã đi đến 5 kết luận sau đây: Một là Buộc tội vu vơ, hai là Chứng cớ ngu ngơ, ba là Điều tra giả vờ, bốn là Giám định lơ mơ, và năm là Hồ sơ mập mờ! Ngoài ra, cả 6 luật sư bào chữa cho hai bị cáo đều đã nhiều lần gửi kiến nghị, yêu cầu các cơ quan tư pháp trả tự do tức khắc cho ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thuý vì họ đều vô tội, và việc giam giữ họ là vi phạm luật pháp!
Ông Nguyễn Hữu Vinh và cộng sự bị bắt giam đã gần hai năm nay. Việc các cơ quan tố tụng không chứng minh được các bị cáo có tội nhưng vẫn cố tình giam giữ họ làm người ta nghĩ đây không phải là vụ án hình sự mà là vụ án chính trị! Việc “xử lý bắt bỏ tù này” có phải là hệ quả của LỜI ĐE DOẠ ở Vĩnh Phúc ba năm trước hay không, tôi không dám khẳng định! Nhưng việc nhà báo trẻ Nguyễn Đắc Kiên bị đuổi việc chỉ sau một ngày lên tiếng chỉ trích TBT Nguyễn Phú Trọng, và nay, nhà báo Nguyễn Hữu Vinh – một trong 72 người ký tên vào KN 72 – bị bắt giam suốt gần hai năm qua mà chưa đem ra xét xử, làm cho dư luận dễ liên tưởng hai sự việc này có thể nằm trong “phạm vi điều chỉnh” của LỜI ĐE DOẠ trên! Nếu quả đúng như vậy thì cái danh xưng “Nhà nước Pháp quyền” phải được hiểu là gì đây? Còn cái nội hàm “Dân chủ đến thế là cùng!” là cái chi một khi người dân “không được mở miệng” để phê bình chính phủ và chính đảng cầm quyền, thưa ngài Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng?
N.Đ.Q.
Tác giả gửi BVN.
Tài liệu tham khảo:
NGƯỜI VIỆT VÀ BỆNH "RỐI LOẠN NIỀM TIN"
NGUYỄN TRỌNG BÌNH/ Viet-studies  24/2/2016
Kết quả hình ảnh cho lễ hội chém lợn ở bắc ninh
Người Việt mấy mươi năm qua phải sống trong một xã hội do một Đảng duy nhất nắm quyền lãnh đạo. Lâu nay và đặc biệt là sau mỗi kỳ đại hội, các cơ quan tuyền truyền của Đảng thường công khai khẳng định “toàn dân”hay “đại bộ phận nhân dân trên cả nước rất phấn khởi và tuyệt đối tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng”. Thực tế có đúng như vậy không? Làm sao để biết người Việt hôm nay thật sự tuyệt đối tin Đảng hay tin ai và tin vào điều gì nhất? Thiển nghĩ, rất khó để có đáp án chính xác cho câu hỏi trên nếu như chưa có một cuộc trưng cầu dân ý công khai, minh bạch trước toàn thể 90 triệu dân. Tuy vậy, với những gì đã và đang diễn ra hiện nay, ở phương diện và góc nhìn văn hóa, có thể nói người Việt hôm nay đang bị “lạc đường” vì mất phương hướng. Hay nói như giới truyền thông và một số nhà nghiên cứu văn hóa thì người Việt hôm nay đang bị “khủng hoảng niềm tin”.
1. Một vài biểu hiện cụ thể
Chuyện thứ nhất, hiện nay có một “nhà phê bình” nọ, qua blog cá nhân tự nhận mình “chuyện gì cũng biết”rồi viết bài nhục mạ, chửi bới, xúc phạm tất cả nhân sĩ trí thức trên cả nước mà theo ông ta là bọn “phản động”, “chống Đảng”,... Điều đáng nói là, một mặt “nhà phê bình” nói tin Đảng (dù không là Đảng viên); viết bài ca ngợi, xu nịnh các lãnh đạo Đảng hết lời nhưng mặt khác lại sùng bái và tôn thờ một người phụ nữ nào đó mà theo ông là hiện thân của “Phật Bà” xuống trần gian (nhằm cứu khổ, cứu nạn chúng sinh nước Việt). Trong suy nghĩ của “nhà phê bình”, ở Việt nam hiện nay chỉ có Đảng và người phụ nữ kia là đáng tin còn tất thảy đều là “sâu, bọ, rắn, rết”hết. Thậm chí, “nhà phê bình” còn tin “nữ Bồ Tát” kia hơn cả Đảng (có lẽ trong Đảng đang tồn tại “một bộ phận không nhỏ” bị suy thoái chăng?). Vì thế, “nhà phê bình” ra sức viết bài tôn vinh công đức và “bảo vệ” Bồ Tát của mình bằng cách mắng nhiếc tất cả những ai có ý hoài nghi những điều ông nói. Đọc ông mà không thể nhịn cười, vì nếu đã là Bồ Tát, là Thánh Thần thì sợ gì bọn phàm trần mắt thịt hãm hại mà ông phải lo lắng và “bảo vệ” chứ? Hơn nữa, một người tự nhận là “trí thức chính hiệu”; là đệ tử của Bồ tát (vốn từ bi hỉ xả) nhưng mở miệng ra là chửi rủa, sỉ vả tất cả những ai không cùng quan điểm với mình bằng lời lẽ của dân chợ búa (mà không biết rằng đang gây ra “nghiệp khẩu” theo như giáo lý nhà Phật). Ngoài ra, nếu thật sự “Phật bà” kia của ông có khả năng thấu thị mọi lẽ vậy sao không cầu xin “Phật Bà” hiến kế giúp cho “Đảng ta” đối phó với người Trung Quốc đang xâm lấn và bắn giết đồng bào ngư dân ta ngoài biển Đông? Làm được như vậy thì mới thật sự là “cứu khổ cứu nạn”chúng sinh và dân tộc này chứ?  
Chuyện thứ hai, chuyện này liên quan đến những phát ngôn của Bộ trưởng Bùi Quang Vinh thời gian qua các cơ quan truyền thông cả lề phải lẫn lề trái đều trích dẫn. Ông Bộ trưởng khi bàn về thể chế kinh tế lẫn chính trị ở VN hiện nay đã không ngần ngại cho rằng “làm gì có cái đó mà đi tìm”. (Cũng cần phải nói thêm, trước ông Bùi Quang Vinh có không ít người trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng đã bày tỏ sự nghi ngờ này. Và hiện nay cũng có không ít người có chung suy nghĩ như vậy nhưng có lẽ, do cuộc sống riêng tư họ buộc phải giả vờ câm điếc, cố đấm ăn xôi không dám công khai nói ra trên các diễn đàn chính thống mà thôi). Qua đây, ít nhiều đã cho thấy sự hoài nghi, hoang mang về con đường đi lên CNXH của dân tộc hiện nay trong nhận thức của ông Bộ trưởng. Nói cách khác, hóa ra từ trước đến nay, ngay cả những người “trong cuộc” của Đảng cũng không tin những điều mà họ đã, đang và sẽ làm đối với đất nước và nhân dân!
Chuyện thứ ba, cách đây mấy năm người viết có quen một anh bạn vốn là giảng viên ngành điện tử viễn thông ở một trường đại học nọ. Làm nghề dạy học nhưng anh này rất “máu me” kinh doanh. Lần đó, anh bạn hào hứng kể đang ấp ủ một kế hoạch kinh doanh, làm giàu trong tương lai. Anh nói, hiện tại đã mua một miếng đất ở ngoại ô TP để chuẩn bị xây một... ngôi chùa. Trong khi chờ gom góp đủ tiền và xin thủ tục xây dựng anh nói sẽ mua vài cây cổ thụ về trồng trên mảnh đất kia. Tiếp theo, anh sẽ cho dựng lên một ngôi miếu nhỏ chỗ gốc cây cổ thụ giữa miếng đất nhằm tạo nên cái không gian kì bí, huyễn hoặc, linh thiêng... cho chiến lược kinh doanh của mình sau này. Thì ra, sở dĩ anh phải làm động thái này trước là để nhằm mê hoặc và chiêu dụ bá tánh thập phương đến viếng Chùa cúng tế về sau. Đến đây hẳn mọi người đã hiểu được “ý tưởng kinh doanh” của anh ta là gì. Có lẽ chỉ những con người trong thời đại XHCN hôm nay mới có thể nghĩ ra cái ý tưởng làm giàu “độc nhất vô nhị” đến cả Thần Thánh cũng không ngờ tới này!?
Chuyện cuối cùng, mới đây nhất, hôm rồi thấy anh bạn hàng xóm (là một luật sư) đi chợ mua hoa quả, nhang đèn về chuẩn bị cúng rằm tháng Giêng, người viết bài này mới đùa vui rằng: “chắc làm nhiều chuyện ác quá nên giờ mua hoa quả cúng Phật sám hối chứ gì?”. Nghe vậy, ngay lập tức anh bạn trả lời không một chút đắn đo:“Bây giờ không tin Đảng nữa thì cũng nên tin vào thần Phật chứ! Mà ông thử nhìn đi, trên đất nước này đâu phải chỉ mình tôi đâu!”.
Những câu chuyện trên nói lên điều gì?
Qua những chuyện trên có thể nói, người Việt (đủ mọi thành phần) hôm nay dường như đã rất hoang mang, mệt mỏi và cạn kiệt niềm tin về những mục tiêu, lý tưởng trong cuộc sống. Không khó để nhận ra, nhiều người ngoài miệng thì bảo “Đảng là ánh sáng, là niềm tin” nhưng trong đầu thì hoàn toàn không phải vậy. Hay khi vào cơ quan, công sở thì mang Nghị quyết của Đảng ra “nghiên cứu” nhưng khi bước vô quán nhậu; vào các đền, chùa, miếu mạo thì những lời lẽ hay ho trong các bản Nghị quyết đã vụt bay khỏi đầu lúc nào không hay. Thay vào đó là những cuộc bàn luận chửi bới lãnh đạo; hay tranh nhau vái lạy, cúng tế như thể “hối lộ”, “đút lót” Thần Thánh. Vì thế, mới có chuyện trong các lễ hội người ta tranh nhau cướp phết, cướp ấn đền Trần (vừa rồi còn có thêm dịch chuyển phát nhanh ấn đền Trần trong và ngoài nước – thật hết chỗ nói); hay nhét tiền lẻ vào tay thần Phật, lấy tiền quẹt vào máu con lợn vừa bị chém dã man vì tin rằng như thế sẽ được may mắn cả năm... Hóa ra, Đảng và chính quyền Nhà nước vốn là “thực” nhưng khi dân chúng cần thì hóa nên “hư”; còn Thần, Thánh vốn từ chỗ “hư” nhưng trong phút chốc lại trở nên rất... “thực”!
Điều này cũng giống như chuyện anh luật sư không một chút đắn đo nói rằng: “không tin Đảng nữa thì cũng nên tin vào thần Phật”; còn anh giảng viên đại học thì nẩy ra cái ý tưởng “kinh doanh niềm tin” của dân chúng để làm giàu. Hay qua những bài viết của “nhà phê bình” nọ, những người có lương tri và hiểu biết đều dễ dàng nhận ra “nhà phê bình” chỉ giả vờ tin Đảng để xỏ mũi các vị lãnh đạo văn hóa văn nghệ u mê nhằm thỏa mãn thói háo danh và mê tín rất hợm hĩnh của mình. Còn người phụ nữ mà “nhà phê bình” xem như Bồ Tát (cứ cho là cô có một năng lực siêu nhiên mà khoa học chưa lsy giải đi nữa) chẳng qua chỉ là tấm bình phong để ông ta dễ bề “chém gió” mà thôi.
Như đã nói, những biểu hiện trên đây của người Việt, thời gian qua giới truyền thông cùng các nhà nghiên cứu văn hóa nước nhà gọi tên bằng cụm từ “khủng hoảng niềm tin”. Tuy vậy, ở phạm vi hẹp và cụ thể hơn, có lẽ phải gọi đây là căn bệnh hay hội chứng “rối loạn niềm tin” của người Việt mới chính xác hơn chăng?
Sở dĩ nói “rối loạn niềm tin” là vì đây là vấn đề thuộc về bệnh lý (tâm lý) nhiều hơn. Vì sao? Vì trong cả hai trường hợp (tin Đảng hay tin Thần Thánh) của người Việt hiện nay, đa phần đều đang ở trong trạng thái của sự hoang tưởng, mê muội từ đó dẫn đến sự thiếu lành mạnh, thiếu nhân văn thậm chí là man rợ, bất nhân trong hành xử, ứng xử với đồng bào, đồng loại xung quanh. Về chuyện này (hoàn toàn không có ý phân biệt vùng miền nhưng qua thực tế các lễ hội hàng năm) có thể nói, người Việt nhất là đồng bào các tỉnh phía Bắc có vẻ “bệnh” nặng và trầm trọng hơn đồng bào ở trong Nam.
2. Thử tìm nguyên nhân
Nguyên nhân sâu xa
Ở góc nhìn lịch sử - văn hóa, xã hội, bệnh “rối loạn niềm tin” của người Việt có lẽ bắt nguồn từ thời “cải cách ruộng đất” ở miền Bắc – cái thời mà sau này nhà thơ Nguyễn Duy đã khái quát lại qua mấy câu thơ trong bài “Nhìn từ xa tổ quốc”:
“...Xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc Ðức Tin lưu lạc
Thiện – Ác nhập nhằng
Công Lý nổi lênh phênh....”
          “Đình, chùa làm kho hợp tác” hay “tượng Phật khóc Đức Tin lưu lạc” là sự khái quát mang tính biểu tượng rất sinh động và chính xác về sự “đứt gãy văn hóa” (chữ dùng của giáo sư Trần Quốc Vượng) đặc biệt là văn hóa tâm linh của người Việt. Không những vậy đây là sự “đứt gãy” có nguyên nhân từ sự áp đặt và cưỡng bức.
Công tâm mà nói, trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ, sự ra đời của Đảng cùng khẩu hiệu đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi xiềng xích nô lệ là vô cùng hợp lòng dân. Tuy nhiên, phương thức tuyên truyền để người dân tin và nghe theo Đảng trong giai đoạn này là một sai lầm rất nghiêm trọng. Giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước là điều ai cũng muốn và sẵn sàng hy sinh nhưng niềm tin, đức tin tôn giáo hàng mấy ngàn, mấy trăm năm của dân tộc mà buộc phải gột rửa, tẩy xóa trong một sớm một chiều (để chứng minh lòng trung thành) là điều không thể.
Ngoài vấn đề trên, có thể nhận ra dấu tích của bệnh “rối loạn niềm tin” của người Việt hôm nay qua bản kê khai hồ sơ lý lịch của mỗi người dân khi đến tuổi trưởng thành. Đó là chữ “không” ngay sau dấu hai chấm của mục kê khai về tôn giáo. Một chữ “không” giản đơn nhưng nói lên rất nhiều điều. Cho dù trên thực tế anh là một con chiên ngoan đạo trước Chúa hay là một Phật tử đi nữa nhưng nếu muốn có một cuộc sống an lành hoặc cơ hội thăng tiến trong hàng ngũ của Đảng và chính quyền thì chữ “không” kia nhất định phải ghi vào. Đây không chỉ là bằng chứng nói lên tất cả những hoang mang, hoảng loạn của người Việt một thời mà đó còn là... đỉnh cao của sự dối trá. Dối trá ngay với chính mình nhằm mục đích làm đẹp lòng Đảng nhưng lại đau lòng Thần Thánh.
Tuy nhiên, đời việc gì đến sẽ đến, giờ đây, sau một chặng dài “quá độ” lê thê, những bài tụng ca về sự “tài tình, sáng suốt” đã trở nên bội thực, thừa mứa. Trong khi đó, soi vào thực tế những lời hay ý đẹp về một Việt Nam“dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” trong các bản Nghị quyết chẳng qua chỉ là cái khẩu hiệu nói cho sướng miệng mà thôi. Điều này đã làm cho dân chúng thật sự mệt mỏi, chán chường, thất vọng. Từ đó, họ bắt đầu có xu hướng tìm lại, xác định lại niềm tin đích thực của mình. Tuy nhiên, đau đớn và chua xót thay, những kẻ cơ hội thời đại đã nhanh nhạy “ngửi” thấy và nắm bắt được tâm lý này. Một lần nữa, chúng lại nhân danh văn hóa, cấu kết, “đi đêm” với nhau bày ra những chiêu trò phục dựng lễ hội, trùng tu đền đài miếu mạo; song song với đó là xây thêm những tượng đài, lăng tẩm hoành tráng để giăng bẫy người dân. “Có bệnh thì vái tứ phương”, người Việt, vì thế, ngày càng bị cuốn vào cái ma trận của những kẻ “kinh doanh niềm tin” bất nhân kia mà không có cách nào thoát ra được.
          Nguyên nhân trực tiếp
Nguyên nhân sâu xa là vậy, còn về trực tiếp có lẽ phải thừa nhận, từ sau ngày đất nước hòa bình thống nhất đến nay, nước Việt hình như không sản sinh ra một nhân vật nào có tầm ảnh hưởng lớn đối với dân chúng ở phương diện văn hóa, tư tưởng và nhân cách. Nói như GS Trần Hữu Dũng trong một bài viết cách đây mấy năm là Việt Nam đang vào trong thời kỳ “thiếu vắng những nhà văn hóa lớn”.
Đây thực ra là hậu quả tất yếu của một nền giáo dục chỉ chăm chăm vào một mục đích duy nhất là nhồi nhét những mớ kiến thức giáo điều và lỗi thời. Một nền giáo dục không những không dám, không muốn khai phóng mà trái lại còn một góp phần thủ tiêu mọi suy nghĩ và sự sáng tạo của cá nhân thì làm sao sản sinh ra những nhà văn hóa lớn để có thể định hướng, dẫn dắt dân chúng đi theo con đường “chính đạo”. Một đám đông mất niềm tin, mất phương hướng nhưng không có ai dẫn dắt nên sinh ra hỗn tạp, xô bồ, rối loạn âu cũng là một kết cục mang tính tất yếu.
3. Thay lời kết
Có thể nói, dù nhìn ở góc độ nào thì bệnh “rối loạn niềm tin” của người Việt hôm nay đều có chung một điểm: đây là hệ quả tất yếu của sự cưỡng bức, áp đặt niềm tin đối với dân chúng trong đời sống xã hội cụ thể nhất là ở lĩnh vực tư tưởng văn hóa, lịch sử, giáo dục... Nói như cố nhà văn Nguyễn Khải trong hồi ký sau khi mất là: “người dân có cái đầu để suy nghĩ nhưng cũng bị trưng thu luôn”. Hay như trước đó, Hồ Chủ Tịch đã nói “dân chủ là để cho người dân được mở miệng” nói ra những điều họ nghĩ nhưng người ta đã nhẫn tâm “bịt miệng”, “khớp miệng” nhân dân lại. Thế nên, mới có chuyện, cuộc đấu tranh chống bọn xâm lược Trung Quốc tháng 2/1979 của dân tộc được “ưu ái” dành cho vỏn vẹn 11 trang trong sách giáo khoa lịch sử. Nhưng ngược lại với “bọn” “thực dân Pháp” và “đế quốc Mỹ”... thì cho phép mắng chửi thả ga; bất cứ bất lúc nào và bất cứ nơi đâu; ngôn từ càng thậm tệ, càng cay nghiệt càng hay...
Từ đây, nếu phải khái quát cụ thể và sâu xa hơn nữa, phải chăng căn bệnh “rối loạn niềm tin” của người Việt hôm nay có nguyên nhân từ một cái bẫy mang tên “ý thức hệ” mà người láng giềng to xác và nham hiểm kia đã giăng ra để hãm hại dân tộc này cách nay đã mấy mươi năm? Nói khác đi, đây là hệ quả của những lối cai trị thừa độc tài thiếu dân chủ; tự nghĩ ra trong đầu một mục tiêu và lý tưởng nghe qua thì rất hay ho nhưng lại không được kiểm nghiệm qua thực tế lại bắt mọi người phải nghe theo, làm theo hay thậm chí phải tôn thờ nó vì (tự cho) đó là chân lý.
***
Người xưa nói, mọi chuyện hôm nay đều có căn nguyên, có đầu dây mối nhợ của nó trong quá khứ. Cho nên, nếu những giả thiết về những biểu hiện và nguyên nhân của căn bệnh “rối loạn niềm tin” của người Việt (như vừa phân tích ở trên) là đúng thì để giải quyết căn cơ và triệt để vấn đề trên thiển nghĩ chỉ còn một cách duy nhất. Trước hết là phải tìm ra một người có đủ dũng khí; dám gạt bỏ những lợi ích riêng tư, bè phái; đặt lợi ích và sự tồn vong của dân tộc lên trên hết. Sau đó là bình tĩnh và quyết tâm lần ra những đầu mối của cái “mớ” bùng nhùng kia. Nếu nhận thấy chỗ nào còn có thể tái sử dụng được thì cố gắng nhẹ nhàng tháo gỡ nó ra; chỗ nào quá tệ, không thể tái sử dụng được thì tốt nhất là lấy kéo ra và cắt phựt một cái cho xong. Nói như ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay là “thà đau một lần rồi rồi thôi chứ không nên dây dưa để rồi đau cả đời”.

Cần Thơ, 24/2/2016
Tác giả gởi cho viet-studies ngày 24-2-16

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét