Thứ Hai, 29 tháng 2, 2016

20160229. KINH NGHIỆM HỌC TIẾNG ANH CHO NHÀ KHOA HỌC

ĐIỂM BÁO MẠNG
TẠI SAO NGƯỜI NÓI TIẾNG ANH BẢN NGỮ  LẠI KHÓ TIN VÀO CHÚNG TA ?
NGUYỄN VĂN TUẤN/ tuan's blog 23/2/2016
Giọng nói của chúng ta -- những người không dùng tiếng Anh như là bản ngữ -- có thể làm cho người Mĩ thiếu tin tưởng vào phát biểu của chúng ta. Đó là một thí nghiệm rất thú vị (1), và có ý nghĩa lớn đến người Việt.
Phần lớn chúng ta sinh ra và lớn lên ở Á châu khi nói tiếng Anh đều có "accent", tức là cách phát âm dù cho đúng cũng không có cái âm hưởng của người nói tiếng Anh như là bản ngữ (tiếng mẹ đẻ). Theo giới tâm lí học, cái accent có thể ảnh hưởng đến sự tiếp nhận thông tin của người đối diện, bởi vì họ cảm thấy khó hiểu những gì chúng ta nói. Ngay cả accent của chúng ta nhẹ, thì theo tâm lí, người dùng tiếng Anh như là bản ngữ sẽ không xem chúng ta là cùng "bộ lạc". Và, do đó, accent có ảnh hưởng đến sự tin tưởng (thậm chí uy tín) của chúng ta. Cũng là một đề tài khoa học, nhưng trong thuyết trình người bản ngữ có thể tỏ ra "commanding" hơn người có accent, dù trình độ hai người tương đương nhau.
Chính tôi đã từng gặp vài trường hợp như thế. Một trường hợp tiêu biểu là một nhà khoa học gốc Tàu ở Viện tôi. Anh ấy là người rất tài ba, rất giỏi về kĩ thuật, và có thể nói là người đứng đằng sau những công trình lớn mà cả nhóm thực hiện. Thế nhưng sự nghiệp của anh ấy không lên cao được, một phần là do khả năng truyền đạt thông tin bằng tiếng Anh. Anh ấy nói tiếng Anh còn rất accent. Ngay cả tôi là người cũng có accent và cũng là dân Á châu, nhưng nhiều khi còn không hiểu anh ấy nói gì! Do đó, anh ấy gần như là đứng bên lề những thảo luận ngoài khoa học, có lẽ người ta không xem anh là cùng "bộ lạc". Trong những buổi dạ tiệc hay liên hoan, anh ấy như là một người cô đơn, vì ít ai đến trò chuyện (ngoại trừ, dĩ nhiên là, tôi và Nguyên thường hay trò chuyện với anh ấy).
Cá nhân tôi cũng từng có trải nghiệm về chuyện accent. Những năm đầu tôi còn làm tutor (như trợ giảng) ở ĐH Sydney, tôi thấy cũng buồn, vì mình đứng trên bục giảng cố gắng giải thích, vậy mà phía dưới sinh viên họ mở báo ra đọc, chẳng cần quan tâm tôi nói gì! Tôi nghĩ có lẽ họ không tin mình. Một lần khác (lâu lắm rồi), khi tôi công bố được một bài báo quan trọng, người làm PR của Viện có nhã ý giới thiệu tôi đến vài đài truyền hình để phỏng vấn. Nhưng khi chị ấy gặp và nói chuyện với tôi, thì chị ấy nói rằng có lẽ tôi không nên xuất hiện trên truyền hình, mà nên giao cho một đồng nghiệp khác. Chị ấy rất thẳng thắn nói rằng vì tôi "còn accent quá" nên đài truyền hình có thể không thích phỏng vấn! Khi tôi rất tình cờ nói vớp sếp lớn về vụ đó, thì ông đùng đùng nổi giận cho rằng chị PR là kì thị, và đích thân ông phụ trách vụ PR cho công trình đó. Thế là tôi được xuất hiện trên đài ABC và đài số 7 để nói. Tuy nhiên, cái nhận xét về accent đó tôi nghĩ cũng có lí chứ không hẳn là kì thị.
Đó chỉ là cảm nhận cá nhân, chứ chưa có bằng chứng khoa học gì đáng tin cậy. Nhưng một nghiên cứu mới đây (1) cho thấy cảm nhận trên là có cơ sở khoa học! Các nhà tâm lí học của ĐH Chicago làm thí nghiệm trên một nhóm người bản ngữ (tức người Mĩ), Ba Lan, Thổ Nhĩ Kì, Ý, Áo, và Hàn Quốc. Mỗi người được cho nghe 45 câu phát biểu: 15 câu có accent bản ngữ, 15 câu có accent nhẹ, và 15 câu có accent nặng. Sau đó, họ yêu cầu mỗi người đánh giá độ tin cậy mà họ gọi là "truth rating".
Kết quả cho thấy độ tin cậy giảm dần theo độ nặng của accent (Biểu đồ). Những câu có accent bản ngữ được đánh giá có độ tin cậy cao nhất. Những câu do người có accent nặng nói có độ tin cậy thấp nhất. Người có accent nhẹ có độ tin cậy cao hơn một chút so với nhóm có accent nặng. Các nhà nghiên cứu lặp lại thí nghiệm này với một qui trình khác (nhưng tôi không hiểu họ mô tả -- do họ dùng tiếng Anh không rõ ràng). Kết quả của thí nghiệm 2 cũng cho thấy người có accent nặng ít được tin tưởng hơn người có accent nhẹ và accent bản ngữ.
Trong thực tế, tôi nghĩ không chỉ người nói tiếng Anh, mà ngay cả người nói tiếng Việt cũng thế. Một số người trong chúng ta (người Việt) có thể thấy vui mừng khi một người ngoại quốc nói tiếng Việt, nhưng vì lí do nào đó, chúng ta tỏ ra nghi ngờ, không dám đặt niềm tin vào họ. Một người Khmer có thể nói tiếng Việt rất tốt, nhưng vì còn accent nên đôi khi chúng ta cảm thấy không thoài mái vì không biết anh ta có thật sự hiểu như người Việt. Có lẽ kết quả nghiên cứu trên đây giải thích một phần tại sao chúng ta có cái tâm lí đó. Tìm được cái lí do "bias" này tôi nghĩ sẽ là một đóng góp rất tốt cho khoa học xã hội.
Tôi nghĩ cái phát hiện này có ý nghĩa rất lớn. Thứ nhất, nó giúp chúng ta phải làm nhiều hơn người bản xứ để họ hiểu chúng ta trong các hội nghị khoa học. Thứ hai, nó giúp chúng ta xác định mức độ phấn đấu trong môi trường xã hội khác bản ngữ. Do đó, tôi thường hay nói để bằng người bản xứ, chúng ta người Việt phải hơn họ 2 cái đầu, hay phấn đấu làm hơn họ gấp 2 lần. Thứ ba là nó hàm ý khuyên chúng ta nên thấu cảm cho sự khó khăn của người có accent hay không nói tiếng bản ngữ; không nên kì thị họ, mà nên bao dung hơn.
Nói thế thôi, chứ trong thực tế, tôi thấy cũng có những trường hợp "phản biện" cho quan điểm này. Nếu một người có bề dày khoa học tốt hoặc có chức danh quan trọng, dù có accent nặng, thì vẫn được tin tưởng như thường (và điều này quay lại điểm thứ hai tôi muốn nói).
Thú thật, tôi rất yêu các nhà tâm lí học. Họ là hương hoa của đời. Họ thêm chất liệu sống ngọt ngào cho đời. Rất tiếc là ở VN mình ngành tâm lí học chưa được phát triển tốt.
====
(1) Why don't we believe non-native speakers? The influence of accent on credibility.
http://psychology.uchicago.edu/people/faculty/LevAriKeysar.pdf
CÁCH VIẾT MỘT "PERSONAL STATEMENT '
NGUYỄN VĂN TUẤN/ tuan's blog 26/2/2016
Hôm kia, khi bàn về cái cover letter, có bạn hỏi tôi làm thế nào để viết một Personal Statement (PS), và câu hỏi đó làm tôi có hứng chia sẻ với các bạn cái note này. Đối với các bạn ở trong nước xin học bổng đi học ở nước ngoài, đặc biệt là Mĩ, cái Personal Statement là một trong những phần trong hồ sơ. (Những phần khác là lí lịch, và hồ sơ chuyên môn). Nhưng cái khó khăn là viết làm sao để thuyết phục người đọc (tức là người duyệt hồ sơ) để nâng cao cơ may xin được học bổng. Tôi biết nhiều em nghiên cứu sinh và sinh viên rất "đau đầu" với cái văn bản này, nên tôi muốn chia sẻ một vài kinh nghiệm để các bạn có thể tham khảo.
Nguyên tắc
Tôi sẽ bàn những nguyên tắc và nội dung của một bản PS. Dĩ nhiên, đây chỉ là cái nhìn cá nhân tôi, có thể nó không phù hợp với một số bạn, nhưng tôi nghĩ về nguyên tắc thì ở đâu cũng thế. Tôi có thể nói rằng có 5 nguyên tắc viết một bản PS cho hoàn thiện: cá nhân, dùng thì chủ động, tích cực, nhân văn, và viễn kiến.
(a) Đó là một văn bản mang tính cá nhân. Khi tôi nói "cá nhân", tôi muốn nói đó là một "tự sự" về cuộc đời và ý nguyện của mình. Do đó, PS trong thực tế là một bài luận văn tự sự. Mà, tự sự thì có những chi tiết, những tình tiết đáng nhớ trong đời, những trải nghiệm làm thay đổi nhận thức và việc chọn nghề của mình. Có khi một lần mắc bệnh hay một tai nạn cũng có thể viết ra một cách ngắn gọn. Điều này cũng có nghĩa là cần phải tránh những thông tin chung chung, những thông tin mơ hồ (vốn đầy rẫy trên mạng qua các dịch vụ viết mướn).
(b) Dùng "tôi" thoải mái. Vì là văn bản cá nhân, nên các bạn có thể dùng đại danh từ "tôi" (hay "I", "me" trong tiếng Anh) để viết, mà không sợ người ta nói mình "phách". Có lần tôi viết đơn xin fellowship, và vì quen với văn hoá Việt Nam, nên hay dùng "we" (chúng tôi), sếp tôi đọc và thay bằng "I" hết! Ông giải thích chí lí rằng người ta cấp fellowship cho cá nhân anh, chứ không cho cái "chúng tôi" mơ hồ nào đó.
(c) Văn phong tích cực. Ở đời, người ta thích những người có thái độ tích cực, chứ chẳng ai ưa những kẻ than trách thân phận theo chiều hướng tiêu cực. Do đó, bằng mọi giá, các bạn phải chọn chữ và câu văn tích cực. Phải viết sao cho người đọc thấy các bạn là người ham học, muốn biết thêm tri thức và học thêm kĩ năng. Có cái mình chưa biết, thì mình nói là sẽ biết vì sẽ học tiếp.
(d) Tính nhân văn. Một cá nhân "tròn" là người chẳng những học giỏi mà còn có lòng từ tâm. Từ tâm thể hiện qua đối xử với cộng đồng và những người chung quanh. Do đó, văn bản PS phải làm sao toát lên được cái tính tử tế (nói theo Trịnh Công Sơn) của cá nhân, qua những việc làm ngoài khoa bảng. Nên nhớ là "nhân văn" chứ không phải cảm tính nhé.
(e) Viễn kiến. Có thể nói rằng cái PS là một phát biểu về viễn kiến (tiếng Anh là vision) của các bạn. Bất cứ một tổ chức nào, dù lớn hay nhỏ, đều phải có cái viễn kiến, tầm nhìn của tổ chức đó. Tương tự, mỗi một cá nhân -- dù là học sinh, sinh viên, hay nhà khoa học đã thành danh -- cần phải có cái viễn kiến. Nhưng ở Việt Nam thì học sinh và sinh viên ta rất kém về viễn kiến, vì họ không được khuyến khích trong học đường. Tuy nhiên, các bạn cần phải suy nghĩ về những gì mình làm trong tương lai, sẽ đóng góp gì cho xã hội, và những cái đó phải phát biểu thành 2-3 câu văn ngắn gọn. Tôi đã từng đọc một vision của một em sinh viên Pháp gốc Việt là em sẽ tìm thuật điều trị các nạn nhân chất độc da cam. Cố nhiên, cái viễn kiến đó rất tham vọng và khó thực hiện, nhưng người đọc thấy được cái tính sôi nổi và tầm nhìn xa của em ấy.
Nội dung
Đó là 5 nguyên tắc viết một bản PS. Bây giờ tôi sẽ nói về nội dung của một bản PS. Theo kinh nghiệm cá nhân tôi, một PS cần phải có 5 nội dung liên quan đến lí do theo học chuyên ngành, lí do chọn trường hay thầy cô, khả năng làm việc theo nhóm, hoạt động ngoại khoá, và tương lai. Tôi giải thích cụ thể hơn như sau:
1. Giải thích tại sao bạn muốn theo học môn học ban đang xin
Đây là một đoạn văn khá quan trọng, vì qua đó người ta có thể đánh giá bạn thật sự yêu môn học và có một hướng đi đã định trước. Giải thích tại sao chuyên ngành này hợp với kĩ năng và cá tính của bạn. Nó còn cho thấy những lí do cá nhân mà bạn theo học, và như nói trên, đây là thông tin giúp cho người đọc hiểu về hơn về động cơ bạn muốn theo học chuyên ngành đã chọn.
2. Giải thích tại sao bạn chọn trường hay thầy cô cụ thể
Ở những nước tiên tiến như Mĩ, mỗi một chuyên ngành học có khá nhiều trường đại học đào tạo. Nhưng cũng như bất cứ lĩnh vực nào, các chương trình đào tạo có thể rất khác biệt với nhau về danh tiếng học thuật, và chất lượng đào tạo. Cách tốt nhất là các bạn cần phải tìm hiểu bảng xếp hạng của trường về chuyên ngành mình theo học, và nói rằng vì trường nổi tiếng về lĩnh vực này (để họ ... thích!) nên bạn muốn theo học. Có thể tham khảo bảng xếp hạng QS hay một bảng xếp hạng tương tự.
Trong trường hợp nghiên cứu sinh cấp tiến sĩ, thì thường gắn liền với một người thầy/cô. Do đó, cái PS có khi phải giải thích tại sao bạn chọn thầy cô đó. Điều này có nghĩa là các bạn phải tìm hiểu về người thầy cô tương lai để viết. Những thông tin về thầy cô tương lai (thường có trên mạng qua các công bố quốc tế) là công trình họ đã công bố, cơ sở vật chất của lab, số công trình và citations, uy tín trên trường quốc tế, uy tín trong đào tạo hậu tiến sĩ, v.v. Những thông tin này giúp cho các bạn viết về người thầy cô tương lai, và giúp cho người đọc biết rằng bạn đã biết rõ mình chọn ai.
3. Viết về khả năng làm việc theo nhóm
Ở các nước phương Tây, làm việc theo nhóm (teamwork) là một điều hết sức quan trọng. Làm việc theo nhóm đòi hỏi người tham gia phải biết "give and take" (cho và nhận), biết dung hoà giữa những bất đồng, biết quản lí những tranh chấp. Những kĩ năng này tuy nói là "mềm" nhưng trong thực tế lại là kĩ năng "cứng", đối với sinh viên Việt Nam. Lí do là nhiều sinh viên Việt Nam hay hành xử theo tư duy cha ông để lại, kiểu như "Trời đã sinh Du, sao còn sinh Lượng", rất có hại cho tinh thần làm việc theo nhóm. Do đó, các bạn cần phải viết một đoạn văn chứng minh rằng trong quá khứ các bạn đã từng học hay làm việc theo nhóm. Nếu đã từng tham gia vào một nghiên cứu và từng đứng tên tác giả chung với người khác, thì đó là một minh chứng rất tốt.
4. Viết về những hoạt động ngoại khoá
Các đại học phương Tây rất quan tâm đến những hoạt động ngoài học thuật, vì họ muốn có một sinh viên hay nghiên cứu sinh "tròn trịa". Một người tròn trịa không chỉ học giỏi mà còn có đóng góp cho cộng đồng và địa phương. Do đó, trong phần này, các bạn phải viết về những hoạt động từ thiện, những hoạt động giúp người nghèo, những hoạt động thiện nguyện trong các hội đoàn tôn giáo, hội đoàn cộng đồng, v.v. Tất cả những việc làm như đứng đường xin tiền cho hội, dạy võ, dạy múa, khám bệnh miễn phí, v.v. đều có thể ghi vào cái PS. Cần lưu ý là một số bạn là đoàn viên đoàn cộng sản, thì tốt hơn hết là không nên viết ra cái tên đoàn đó ra (vì người phương Tây rất ngại chữ "communist" hay "communism").
5. Viết về tương lai
Nhà trường muốn đầu tư cho những cá nhân mà họ thấy có tiềm năng trong tương lai. Do đó, các bạn cần phải viết một đoạn văn về tương lai, sau khi bạn tốt nghiệp, thì bạn sẽ làm gì để chuyển giao kiến thức và kĩ năng. Nên nhớ là bạn cần phải có một cái big picture như tôi đề cập ngày hôm qua, nên đoạn văn này cần phải đặt kĩ năng của mình trong cái bức tranh lớn của đất nước. Ví dụ như Việt Nam đang hội nhập quốc tế, và bạn đang học ngành kế toán, bạn có thể viết rằng những gì bạn học được sẽ đem ra ứng dụng và giúp cho Việt Nam nhanh chóng hội nhập với thế giới bên ngoài.
Đối với các bạn xin học bổng của chính phủ nước ngoài, cần phải có một đoạn văn ngắn về đóng góp của bạn sau khi tốt nghiệp về mối bang giao giữa hai nước. Chẳng hạn như bạn có thể viết rằng trong tương lai, bạn sẽ là cầu nối để nâng cao mối bang giao của hai nước lên một tầm mới hơn. Bang giao ở đây không chỉ là chính trị, mà còn là khoa học và giáo dục. Do đó, bạn có thể viết rằng trong tương lai bạn có dự tính thiết lập những chương trình học hay dự án nghiên cứu để nâng cao sự hợp tác giữa các nhà khoa học nước sở tại và Việt Nam. Đoạn văn này tuy ngắn, nhưng ý nghĩa của nó khá quan trọng, vì nó giúp cho người đọc biết rằng bạn có một tầm nhìn xa.
Hi vọng rằng những chia sẻ trên đây có thể giúp ích cho các bạn trong việc soạn một cái Personal Statement. Sẵn đây, tôi chia sẻ với các bạn một bản PS viết bằng tiếng Anh. Mỗi lần về nước là tôi có dịp gặp nhiều bạn bè và các em sinh viên xin trợ giúp. Một trong những việc họ cần giúp là biên tập tiếng Anh hay chỉ cho họ cách viết cái PS để đi học ở nước ngoài. Có khi tôi làm phỏng vấn thử cho họ nữa. Và, tôi rất hân hạnh để báo hầu hết các em ấy đều có học bổng và đi học ở nước ngoài (chỉ có 1 trường hợp duy nhất thất bại, vì lí do cá nhân).
=====
Dưới đây là một PS mà tôi giúp cho một em bác sĩ ở tỉnh nhà, nhưng để bảo mật, tôi xoá bỏ các thông tin liên quan đến ngành nghề và dĩ nhiên là tên họ. Tôi hướng dẫn em này cách viết, rồi sau đó tôi biên tập văn bản của em ấy viết. Trong khi biên tập, tôi cố tình giữ những câu chữ chưa được lưu loát mấy, vì tôi nghĩ điều đó phản ảnh đúng văn phong và trình độ thực của một người dùng tiếng Anh không phải là bản ngữ.
Personal Statement of Dr. XYZ
[Vào đầu nói ngay tại sao theo học ngành y]. My interests in medicine and public health have root in my own personal experience as a patient and as a resident of an economically disadvantageous province. I was born with xxxx, a debilitating condition that could have been prevented by simple public health measure with vaccines. I was therefore determined to undertake medical study and public health, so that I could help my countrymen who are at risk of having preventable diseases. I have completed my medical training, but until this scholarship I have not had an opportunity to study public health. I am determined to take this opportunity to become an expert in clinical public health.
[Lí do chọn trường] I would like to pursue my study at the University of XXX, because the University is ranked among the world's top 10 institutions in public health medicine and clinical epidemiology. I have perused the programs and courses that are offered by the University, and think that the program, particularly XXX, is precisely what I am looking for. I would like to undertake the study under the supervision of Prof. ABC whose work has been influential in the field of XXX. I consider that I can be of assistance to him in this field. With his guidance, academic knowledge, especially the insightful understanding of the diversity in Asia context, I do believe that Prof. ABC will help me successfully complete the research.
[Vì học bổng này cấp cho những người từ vùng nghèo khó, nên phải có một đoạn "ca" về những khó khăn của miền Tây]. My home town is [...], a province in the Mekong Delta region of Vietnam. The region as a whole, and particularly my province, are considered economically “disadvantage” because of low average income, poor infrastructure for education and health care. Although with a population of 2 million, there is no university in the province. Prospective students have to enrol in neighboring provinces or cities to undertake university studies. Only 10% of students in my province enter university or college. In healthcare, the province has only one major hospital with ~1200 beds, but the hospital is consistently overloaded and overcrowded. Having seen the hospital struggling to cope with the continual influx of patients, I am determined to do something for the hometown, and I think that the solution is a good system of public health services for the province.
[Viết về những nỗ lực vượt qua số phận trong quá khứ, với chi tiết cụ thể, và giúp cho việc theo học tốt hơn -- có tiềm năng]. I do believe that the public health courses that are offered by various universities will help equip me with modern knowledge in public health strategies, evidence based public health policies; and skills in epidemiology and biostatistics. These knowledge and skills are new to me, and I believe that I will successfully complete the course. In the past, I overcame my own disability and financial hardship to complete my medical study. For example, I was determined to study English first so that I could keep up to date with medical information from international journals and books. During my first university year, I was rated as an average student, but one year later, I became an outstanding student. After completing my undergraduate study, I had enrolled in a competitive program of dermatology, which subsequently I completed and became a specialist in xxx.
[Viết về cái "nhân văn" và đóng góp cho cộng đồng]. As a physician, I have the privilege of witnessing the struggle of life and death of my patients and countrymen. That real life experience left me with a deep sense of human fragility. Being from an economically disadvantageous province, I know well the horrors of poverty, and often performed services for local charities. Since 2004, I have participated in providing free medical services, including medical checkup and xxx treatment, to many people in my local community. I have carried out medical examination and treated 631 xxx patients of all ages. I also helped educate them to take care of themselves, and prevent from disability caused by XXX.
[Một chút về tầm nhìn] My interaction with these patients gives me an opportunity to appreciate the significance and importance of public health. As my life is beginning to stabilize, and I decide that the time has come to think about the dream of a large picture of health care. I very well realize that in clinical practice I can help a limited number of patients, but in public health I can help millions of people. A simple and appropriate public health preventive program can bring benefits to millions of people and can help reduce the burden of diseases for the community.
[Viết về tương lai sau khi tốt nghiệp, đóng góp cho chuyên ngành] My life experience and disability have moulded me in to a hardworking and humane person. My future goals include establishing a career in research and educating people about XXX. I strongly believe that in Vietnam, as well as in my own province, the most important issue is how to improve the public health system, not to purchase more sophisticated medical equipments, because only with a good public health system, the burden of chronic and infectious diseases can be reduced, and I can contribute to reduce the overloaded hospital. Universities in developed countries have many world renowned experts and have accumulated years of experience in public health, and I would like to be one of the people learning in that system to realize my lifetime objective of becoming an expert in public health medicine.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét