Thứ Bảy, 30 tháng 6, 2018

20180630. BẪY NỢ TRUNG QUỐC Ở SRI LANKA

ĐIỂM BÁO MẠNG
TRUNG QUỐC ĐÃ ÉP SRI LANKA KHẠC RA  MỘT CÁI CẢNG BIỂN NHƯ THẾ NÀO NHƯ THẾ NÀO

MARIA ABI-HABIB/The New York Times/ BVN 30-6-2018
Trùng Dương dịch

https://static01.nyt.com/images/2018/06/25/world/00chinaw-srilanka-1/merlin_138500964_2c51bb2c-c678-4efc-9d87-caa055a3a826-articleLarge.jpg?quality=75&auto=webp&disable=upscale
Một tàu chở hàng đi qua một trong những tuyến đường vận chuyển nhộn nhịp nhất thế giới, gần Hambantota, Sri Lanka, vào tháng 5. Ảnh của Adam Dean cho The New York Times.
• HAMBANTOTA, Sri Lanka - Cứ mỗi lần Tổng thống Sri Lanka, Mahinda Rajapaksa, quay sang các đồng minh Trung Quốc để vay vốn và xin hỗ trợ cho một dự án cảng đầy tham vọng, câu trả lời là được.
Được, mặc dù các nghiên cứu khả thi cho là biết cảng sẽ không thể nào hoạt động được. Được, mặc dù những người cho vay thường xuyên khác như Ấn Độ đã từ chối. Được, mặc dù nợ của Sri Lanka đang phình ra nhanh chóng dưới thời ông Rajapaksa.
Qua nhiều năm xây dựng và đàm phán lại với China Harbor Engineering Company (Công ty Kỹ thuật Cảng Trung Quốc), một trong những doanh nghiệp nhà nước lớn nhất của Bắc Kinh, dự án Phát triển Cảng Hambantota được nổi tiếng chủ yếu bằng thất bại, như đã dự đoán. Với hàng chục ngàn tàu đi dọc theo một trong những tuyến đường vận chuyển đông đúc nhất thế giới, cảng này chỉ thu hút 34 tàu vào năm 2012.
Và rồi cảng trở thành của Trung Quốc.
Ông Rajapaksa bị mất ghế sau cuộc bầu cử năm 2015, nhưng Chính phủ mới của Sri Lanka phải vất vả để thanh toán các khoản nợ ông đã gánh ra. Dưới áp lực nặng nề và sau nhiều tháng đàm phán với Trung Quốc, vào tháng 12 Chính phủ đã giao cảng và 15.000 mẫu đất xung quanh nó cho Trung Quốc trong 99 năm.
Việc chuyển nhượng nầy đã giao cho Trung Quốc quyền kiểm soát một mảnh đất chỉ một vài trăm dặm ngoài khơi bờ biển của một đối thủ, Ấn Độ, và một chỗ đứng chiến lược dọc theo một con đường thủy thương mại và quân sự quan trọng.

A close up of a map

Description generated with high confidence
Các cảng do Trung Quốc tài trợ
Sự việc nầy là một trong những ví dụ sinh động nhất về tham vọng của Trung Quốc sử dụng các khoản cho vay và viện trợ để đạt được ảnh hưởng trên toàn thế giới - và sẵn sàng chơi mạnh để thắng.
Sự thỏa thuận về món nợ cũng làm nổi mạnh thêm một số lời buộc tội gay gắt nhất về Sáng kiến Vành Đai và Con Đường (Belt and Road Initiative) của Tập Cận Bình: rằng chương trình cho vay và đầu tư toàn cầu là một cái bẫy nợ cho các nước có thế yếu trên khắp thế giới, thúc đẩy tham nhũng và chuyên chế ở các nơi dân chủ đang tranh đấu vươn lên.

https://static01.nyt.com/images/2018/06/25/world/chinaw-srilanka-2sub/merlin_139161717_67693f7f-443f-4b23-94fb-3203ae73605b-articleLarge.jpg?quality=75&auto=webp&disable=upscale
Cựu Tổng thống Mahinda Rajapaksa của Sri Lanka, ở giữa, đang tán gẩu tại một đám cưới ở Colombo vào tháng Sáu. Ảnh của Adam Dean cho The New York Times
Những cuộc phỏng vấn với các quan chức người Sri Lanka, Ấn Độ, Trung Quốc và phương Tây qua hàng tháng trời cùng với những phân tích các tài liệu và thỏa thuận về dự án cảng cho thấy rõ cách thức mà Trung Quốc và các công ty thuộc quyền kiểm soát của họ đảm bảo quyền lợi của họ ở một quốc gia nhỏ khao khát tiền.
• Trong cuộc bầu cử năm 2015 ở Sri Lanka, các khoản thanh toán lớn từ quỹ xây dựng cảng của Trung Quốc đã được trực tiếp chuyển sang hỗ trợ cho hoạt động tranh cử của ông Rajapaksa, người đã đồng ý với các điều khoản của Trung Quốc ở mỗi khía cạnh và được xem là một đồng minh quan trọng trong nỗ lực của Trung Quốc đẩy xa ra ảnh hưởng của Ấn Độ ở Nam Á. Các khoản thanh toán đã được xác nhận bằng các tài liệu và ngân phiếu trả tiền được mô tả chi tiết trong một cuộc điều tra của Chính phủ mà The New York Times nhìn thấy.
• Mặc dù các quan chức và nhà phân tích Trung Quốc khẳng định rằng sự quan tâm của Trung Quốc đối với cảng Hambantota là hoàn toàn thương mại, các quan chức Sri Lanka nói rằng ngay từ đầu, tình báo và khả năng chiến lược của vị trí cảng là một phần của các cuộc đàm phán.
• Các điều khoản cho dự án cảng vay lúc ban đầu thì phải chăng nhưng trở nên nặng nề hơn khi các quan chức Sri Lanka yêu cầu đàm phán lại tiến độ và bổ sung thêm tài chính. Và khi các quan chức Sri Lanka trở nên tuyệt vọng muốn gỡ bỏ được khoản nợ trong sổ sách của họ trong những năm gần đây, các đòi hỏi của Trung Quốc tập trung vào việc bàn giao vốn chủ sở hữu tại cảng thay vì cho phép giảm nhẹ các điều khoản vay.
• Mặc dù thỏa thuận đã xóa được khoảng $1 tỷ đô la nợ cho dự án cảng, Sri Lanka hiện đang nợ Trung Quốc nhiều hơn bao giờ hết, vì các khoản vay khác vẫn tiếp tục và lãi suất vẫn cao hơn nhiều so với lãi suất từ các nhà cho vay quốc tế khác.
Ông Rajapaksa và các trợ lý của ông đã không trả lời nhiều yêu cầu bình luận, được gửi đến trong nhiều tháng trường, cho bài viết này. Các quan chức của China Harbour cũng không bình luận gì.
Các ước tính của Bộ Tài chính Sri Lanka vẽ ra một bức tranh ảm đạm: Năm nay, Chính phủ dự kiến ​​sẽ có được $14,8 tỷ đô la doanh thu, nhưng nợ phải trả theo lịch trình cho một loạt các nhà cho vay trên toàn thế giới lên tới $12,3 tỷ.
“John Adams đã có câu nói nổi tiếng rằng một cách để chinh phục một quốc gia là thông qua hoặc thanh kiếm hoặc nợ nần. Trung Quốc đã chọn cách sau”. Brahma Chellaney, một nhà phân tích thường hay tư vấn cho Chính phủ Ấn Độ và có liên hệ với Center for Policy Research (Trung tâm Nghiên cứu Chính sách), một thinktank ở New Delhi, nói.
Đặc biệt là các quan chức Ấn Độ lo ngại rằng vì Sri Lanka đang phải vật vã rất nhiều, Chính phủ Trung Quốc có thể đưa nhử việc giảm nợ để đổi lấy việc đưa cảng Hambantota cho quân đội họ sử dụng - mặc dù hợp đồng thuê cuối cùng cấm hoạt động quân sự ở đó nếu không có lời mời của Sri Lanka.
“Cách duy nhất để biện minh cho việc đầu tư vào Hambantota là từ quan điểm an ninh quốc gia - là họ sẽ mang Quân đội Giải phóng Nhân dân vào”, Shivshankar Menon, Bộ trưởng Ngoại giao và sau đó là Cố vấn An ninh Quốc gia của Ấn Độ khi cảng Hambantota được xây, nói.

https://static01.nyt.com/images/2018/06/22/world/00chinaw-srilanka-17/merlin_138500721_1854cc85-4f01-4e1a-82d0-8b0fd15fb94f-superJumbo.jpg?quality=75&auto=webp&disable=upscale
Cảng Hambantota chỉ được một tỷ lệ nhỏ trong kinh doanh cảng của Sri Lanka, nó bị làm lu mờ bởi khu công nghiệp liên hợp chính ở thủ đô. Ảnh của Adam Dean cho The New York Times.

https://static01.nyt.com/images/2018/06/22/world/00chinaw-srilanka-16/merlin_138500610_67115147-6bcd-464e-a2c2-82e11bba0928-superJumbo.jpg?quality=75&auto=webp&disable=upscale
Các công nhân Sri Lanka đang xử lý các xe được dỡ xuống từ một con tàu tại cảng Hambantota. Ảnh của Adam Dean cho The New York Times.

Một đồng minh đã được đính ước

Mối quan hệ giữa Trung Quốc và Sri Lanka đã nhu mì từ lâu, với Sri Lanka là một nước thừa nhận Chính phủ Cộng sản Mao sớm sau cuộc Cách mạng Trung Quốc. Nhưng trong cuộc xung đột gần đây hơn - cuộc nội chiến tàn khốc 26 năm của Sri Lanka với những người ly khai dân tộc Tamil - Trung Quốc trở thành không thể không có.
Ông Rajapaksa, người được bầu vào năm 2005, chủ trì những năm cuối của cuộc chiến, khi Sri Lanka ngày càng bị cô lập bởi những cáo buộc vi phạm nhân quyền. Dưới thời ông, Sri Lanka phụ thuộc rất nhiều vào Trung Quốc để được hỗ trợ kinh tế, trang thiết bị quân sự và sự che chở chính trị tại Liên Hợp Quốc để ngăn tránh các lệnh trừng phạt.
Cuộc chiến kết thúc vào năm 2009, và khi đất nước trổi lên từ hỗn loạn, ông Rajapaksa và gia đình đã củng cố thế lực. Ở đỉnh cao nhiệm kỳ của ông Rajapaksa, Tổng thống và ba anh em của ông đã kiểm soát nhiều bộ của Chính phủ và khoảng 80% tổng chi tiêu của Chính phủ. Các chính phủ như Trung Quốc đã đàm phán trực tiếp với họ.
Do đó khi Tổng thống bắt đầu nêu ra một dự án phát triển cảng mới rộng lớn tại Hambantota, nơi im lìm mà ông đang sống, một ít rào chắn chặn đường không có hiệu quả gì.
Ngay từ đầu, nhiều quan chức đã đặt câu hỏi về sự khôn ngoan của việc có một cảng lớn thứ hai, ở một nước có diện tích bằng một phần tư nước Anh và dân số 22 triệu người, khi cái cảng chính ở thủ đô đang phát triển mạnh và có chỗ để mở rộng. Các nghiên cứu khả thi do Chính phủ ủy nhiệm nghiên cứu đã kết luận rõ ràng rằng một cảng ở Hambantota không khả thi về mặt kinh tế.
“Họ tiếp xúc với chúng tôi về vấn đề cảng ngay từ đầu và các công ty Ấn Độ nói không”, ông Menon, cựu Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ nói. “Nó là một đồ vô dụng về kinh tế khi ấy, và nó là một đồ vô dụng về kinh tế bây giờ”.
Tuy nhiên, ông Rajapaksa đã bật đèn xanh cho dự án, sau đó còn rêu rao trong một thông cáo báo chí rằng ông đã bất chấp mọi lời cảnh báo thận trọng - và rằng Trung Quốc đang lên tàu để tham gia.
Theo một quan chức có tham gia dự án, năm 2007 Sri Lanka Ports Authority (Ban Quản lý Cảng Sri Lanka) bắt đầu hoạch ra những gì mà họ tin là một kế hoạch cẩn thận về kinh tế. Kế hoạch đó kêu cho mở cửa hạn chế để kinh doanh trong năm 2010, và sẽ đợi đến khi có doanh thu rồi sẽ cho mở rộng.
Khoản vay lớn đầu tiên của dự án đến từ Export-Import Bank, hoặc Exim, (Ngân hàng Xuất nhập khẩu) của Chính phủ Trung Quốc, với số tiền $307 triệu đô la. Nhưng để có được khoản vay đó, Sri Lanka bị yêu cầu phải chấp nhận một công ty được ưa thích của Bắc Kinh, China Harbour, với tư cách là người xây dựng cảng, theo như một cáp của tòa Đại sứ Mỹ khi đó do Wikileaks rỏ rỉ.
Đó là một đòi hỏi điển hình của Trung Quốc cho các dự án của họ trên thế giới, thay vì cho phép một quá trình đấu thầu mở. Theo các quan chức trên khắp khu vực, trên toàn khu vực, Chính phủ Bắc Kinh đang cho vay hàng tỷ đô la, phải được hoàn trả với giá cao hơn bình thường để thuê các công ty Trung Quốc và hàng ngàn công nhân Trung Quốc.
Ngoài ra, cũng có những điều kiện khác gắn liền với tiền vay, đó là một dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đã nhìn thấy giá trị chiến lược của cảng Hambantota ngay từ đầu.
Nihal Rodrigo, cựu Bộ trưởng Ngoại giao và Đại sứ Sri Lanka tại Trung Quốc, nói rằng các cuộc thảo luận với các quan chức Trung Quốc lúc đó đã đưa rõ ra rằng sự chia sẻ tình báo là một phần không thể thiếu, dầu không công khai, trong toàn bộ của thỏa thuận. Trong một cuộc phỏng vấn với tờ The Times, ông Rodrigo đã mô tả cách nói của Trung Quốc là, “Chúng tôi hy vọng các bạn cho chúng tôi biết ai sẽ đến và dừng lại ở đây”.
Trong những năm sau đó, các quan chức Trung Quốc và công ty China Harbour đã nỗ lực giữ mối quan hệ chặt chẽ với ông Rajapaksa, người đã trung thành chấp nhận những điều khoản đó trong nhiều năm.
Trong những tháng cuối cùng của cuộc bầu cử năm 2015 ở Sri Lanka, Đại sứ Trung Quốc đã phá vỡ các tiêu chuẩn ngoại giao và đi vận động cử tri, thậm chí đến cả những người phụ lượm gôn cho người đánh gôn tại sân gôn hàng đầu của Colombo, để hỗ trợ ông Rajapaksa chống lại phe đối lập đang dọa sẽ xé bỏ các thỏa thuận kinh tế với chính quyền Trung Quốc.
Khi cuộc bầu cử vào tháng Giêng đến gần, các khoản thanh toán lớn bắt đầu chảy về phía phe phái của Tổng thống.
Ít nhất $7.6 triệu đô la từ tài khoản của China Harbour tại Ngân hàng Standard Chartered được phân phát cho các người có liên hệ tới chiến dịch tranh cử của ông Rajapaksa, theo như một tài liệu từ một cuộc điều tra nội bộ của Chính phủ mà The Times thấy.
Tài liệu ghi chi tiết số tài khoản ngân hàng của China Harbour - quyền sở hữu tài khoản đã được xác minh - và các tin tức lượm được từ các cuộc thẩm vấn những người nhận được ngân phiếu trả tiền.
Trong vòng 10 ngày trước khi cuộc bầu cử bắt đầu, khoảng $3,7 triệu đô la được phân phối bằng ngân phiếu: $678,000 đô la để in áo thun vận động và các tài liệu quảng cáo khác và $297.000 đô la để mua quà tặng cho những người ủng hộ, kể cả saris cho phụ nữ. $38.000 đô la khác đã được trả cho một nhà sư Phật giáo có tiếng, người ủng hộ bầu ông Rajapaksa, trong khi đó hai ngân phiếu tổng cộng $1,7 triệu đô la đã được các tình nguyện viên giao cho Temple Trees, nhà ở chính thức của ông.
Hầu hết các khoản thanh toán là từ một tài khoản phụ được kiểm soát bởi China Harbor, tên là “HPDP Giai đoạn 2”, viết tắt của Hambantota Port Development Project (Dự án Phát triển Cảng Hambantota).

https://static01.nyt.com/images/2018/06/08/world/00chinaw-srilanka-5/merlin_138500961_680c1754-de19-45e8-b484-c67a9b43252c-superJumbo.jpg?quality=75&auto=webp&disable=upscale
Đoạn đường cao tốc nối dài dẫn đến Cảng Hambantota. Các nhà phân tích Trung Quốc đã không từ bỏ quan điểm rằng cảng có thể sinh lợi nhuận. Ảnh của Adam Dean cho The New York Times.

Mạng lưới của Trung Quốc

Sau gần năm năm mở rộng tán loạn Sáng kiến Vành Đai và Con ​​Đường của Trung Quốc trên toàn cầu, các quan chức Trung Quốc đang lặng lẽ cố gắng kiểm điểm xem có bao nhiêu thỏa thuận đã được thực hiện và mức độ rủi ro tài chính (financial exposure) của họ là bao nhiêu.
Giống như nhiều quan chức khác nói về chính sách của Trung Quốc chỉ nói với điều kiện được giấu tên, một nhà hoạch định chính sách kinh tế của Trung Quốc nói là chưa thấy được một bức tranh toàn diện nào.
Một số quan chức Trung Quốc đã lo ngại rằng sự tham nhũng gần như cả hệ thống xung quanh các dự án này là rủi ro cho Trung Quốc, và nâng cao rào cản cho lợi nhuận.
Tập Cận Bình đã thừa nhận sự lo lắng trong một bài phát biểu năm ngoái, nói rằng, “Chúng ta cũng sẽ tăng cường hợp tác quốc tế về chống tham nhũng để xây dựng Vành Đai và Con ​​Đường với tính chính trực”.
Ở Bangladesh chẳng hạn, các quan chức cho biết hồi tháng Giêng là China Harbor sẽ bị cấm tham gia các hợp đồng trong tương lai vì có cáo buộc là công ty đã cố hối lộ một quan chức Bộ Đường bộ, nhét $100.000 đô la vào một hộp trà, theo các quan chức chính phủ cho biết trong các cuộc phỏng vấn. Và công ty mẹ của China Harbour, China Communications Construction Company (Công ty Xây dựng Truyền thông Trung Quốc), trong năm 2009 đã bị cấm trong tám năm không được đấu thầu các dự án của Ngân hàng Thế giới vì các hoạt động tham nhũng tại Philippines.
Kể từ khi lấy được cảng ở Sri Lanka, các quan chức Trung Quốc đã bắt đầu nói rằng Vành Đai và Con Đường không phải là cam kết không có giới hạn của Chính phủ để tài trợ cho sự phát triển trên ba lục địa.
“Nếu chúng ta không thể quản lý rủi ro tốt, các dự án Vành Đai và Con Đường không thể đi xa hay tốt”, Jin Qi, chủ tịch của Silk Road Fund (Quỹ Đường tơ lụa), một quỹ đầu tư lớn của nhà nước, cho biết vào cuối tháng Ba tại China Development Forum (Diễn đàn Phát triển Trung Quốc).
Trong trường hợp của Sri Lanka, các quan chức cảng và các nhà phân tích Trung Quốc cũng không từ bỏ quan điểm rằng cảng Hambantota có thể mang lại lợi nhuận, hoặc ít nhất là tăng cường năng lực thương mại của Trung Quốc trong khu vực.
Ray Ren, đại diện của China Merchant Port tại Sri Lanka và là thủ trưởng cho các hoạt động của cảng Hambantota, nhấn mạnh rằng “vị trí của Sri Lanka là lý tưởng cho thương mại quốc tế”. Và ông bác bỏ các nghiên cứu khả thi tiêu cực, nói rằng họ đã được thực hiện cách đây nhiều năm khi Hambantota là “một làng chài nhỏ”.
Hu Shisheng, giám đốc nghiên cứu Nam Á tại China Institutes of Contemporary International Relations (Viện Quan hệ Quốc tế đương đại Trung Quốc), cho biết Trung Quốc đã nhận rõ ra giá trị chiến lược của cảng Hambantota. Nhưng ông nói thêm: “Khi Trung Quốc muốn phát huy giá trị địa chiến lược (geostrategic value), giá trị chiến lược của cảng sẽ biến mất. Các nước lớn không thể đánh nhau ở Sri Lanka - nó sẽ bị xóa sổ. “
Mặc dù cảng Hambantota được khai trương một cách hạn chế lần đầu tiên vào năm 2010, trước khi dự án Vành Đai và Con Đường được công bố, Chính phủ Trung Quốc nhanh chóng xếp dự án vào chương trình toàn cầu.
Ít lâu sau lễ bàn giao Hambantota, hãng thông tấn quốc gia Trung Quốc đã phát hành một video khoe khoang trên Twitter, tuyên bố thỏa thuận này “một cột mốc quan trọng khác trên con đường của #BeltandRoad”.

https://static01.nyt.com/images/2018/06/23/world/00chinaw-srilanka-18/merlin_139390080_c76002a3-64c3-406c-a0a3-9a79844cac61-superJumbo.jpg?quality=75&auto=webp&disable=upscale 
Sân đánh cricket quốc tế Mahinda Rajapaksa ở Hambantota. Sân vận động có nhiều ghế hơn là số dân số của thành phố chính ở đó. Ảnh của Adam Dean cho The New York Times.
https://static01.nyt.com/images/2018/06/08/world/00chinaw-srilanka-6/merlin_138500682_87d23e7a-7f99-4ee1-be90-20dfb1f8fd20-superJumbo.jpg?quality=75&auto=webp&disable=upscale
Các nhà sư hành hương đến thăm sân bay quốc tế Mattala Rajapaksa, phần lớn trống toan, chỉ 150 dặm về phía đông nam của sân bay chính của Sri Lanka. Ảnh của Adam Dean cho The New York Times.

Bến cảng chẳng đưa đi đến đâu

Cái cảng biển không phải là dự án lớn duy nhất được xây dựng với các khoản vay của Trung Quốc ở Hambantota, một khu vực thưa thớt dân cư trên bờ biển phía đông nam Sri Lanka, phần lớn còn tràn đầy rừng.
Một cái sân đánh cricket với nhiều ghế hơn dân số của quận lỵ Hambantota đánh dấu đường chân trời, cũng như thế, một sân bay quốc tế rộng lớn - mà trong tháng Sáu đã mất chuyến bay thương mại hàng ngày duy nhất khi hãng hàng không FlyDubai dứt bỏ lộ trình đó. Một quốc lộ cắt ngang qua khu vực này được voi dùng để đi và được nông dân sử dụng để cào phơi và sấy khô lúa đã hái tươi từ đồng lúa của họ.
Các cố vấn của Rajapaksa đã vạch ra cách tiếp cận cẩn thận để cảng có thể mở rộng sau khi khai trương, đảm bảo sẽ có một số doanh thu trước khi lấy thêm nhiều nợ.
Nhưng trong năm 2009, ông Tổng thống mất hết kiên nhẫn. Năm sau là sinh nhật thứ 65 của ông ta, và để đánh dấu dịp nầy ông ta muốn khai trương hoành tráng cảng Hambantota - bao gồm việc bắt đầu mở rộng đầy tham vọng, 10 năm trước thời hạn hoạch định ban đầu của Port Authority (Cơ quan Cảng).
Theo các quan chức cho biết các công nhân người Trung Quốc làm việc suốt ngày đêm để cho cảng được sẵn sàng. Nhưng khi các công nhân nạo vét đất và làm ngập nước vào để tạo ra lưu vực cảng, họ không màng để ý đến một tảng đá lớn nằm chắn ngang một phần của lối vào, ngăn chặn sự ra vào của các tàu lớn, như tàu chở dầu, mà mô hình kinh doanh của cảng đã dựa vào.
Các quan chức của Cơ quan Cảng không muốn làm phật lòng Tổng thống, cứ thế nhanh chóng làm tới. Cảng Hambantota được khai trương trong một buổi lễ ăn mừng linh đình vào ngày 18 tháng 11 năm 2010, ngày sinh của ông Rajapaksa. Sau đó, nó ngồi chờ buôn bán trong khi tảng đá vẫn nẳm chặn đường.
Một năm sau đó China Harbour phá nổ tảng đá, với chi phí $40 triệu đô la, một giá cắt cổ làm các nhà ngoại giao và các quan chức chính phủ quan tâm. Một số người công khai suy đoán liệu công ty có đơn giản chỉ tính giá quá mức hay giá đó đã bao gồm lại quả (kickback) cho ông Rajapaksa.
Đến 2012, cảng vất vả thu hút tàu ghé vào - các tàu thích ghé bến cảng Colombo ở gần đó hơn - và chi phí xây dựng tăng lên vì cảng bắt đầu mở rộng trước thời hạn dự kiến. Vào cuối năm đó Chính phủ ra lịnh rằng các tàu chở hàng nhập khẩu xe hơi cho cảng Colombo sẽ phải dỡ hàng tại Hambantota để cảng đó bắt đầu kinh doanh. Tuy nhiên, chỉ có 34 tàu neo đậu tại Hambantota vào năm 2012, so với 3.667 tàu tại cảng Colombo, theo một báo cáo thường niên của Bộ Tài chính.

https://static01.nyt.com/images/2018/06/25/world/00chinaw-srilanka-7/merlin_138500958_a3a1b419-b960-4280-8658-974fd6cae950-superJumbo.jpg?quality=75&auto=webp&disable=upscale
Một gian hàng cá tại khu vực sắp được chuyển thành khu công nghiệp lớn xung quanh cảng Hambantota. Ảnh của Adam Dean cho The New York Times.
https://static01.nyt.com/images/2018/06/08/world/00chinaw-srilanka-12/merlin_138500739_465da4c7-7205-490a-a578-9a5627f1606a-superJumbo.jpg?quality=75&auto=webp&disable=upscale
Gặt lúa tại một cánh đồng sẽ là nơi xây khu công nghiệp. Ảnh của Adam Dean cho The New York Times.
“Khi tôi đến Chính phủ, tôi gọi Bộ trưởng kế hoạch quốc gia và hỏi sự biện minh cho cảng Hambantota”, Harsha de Silva, Bộ trưởng cho các chính sách quốc gia và các vấn đề kinh tế, cho biết trong một cuộc phỏng vấn. “Bà ấy nói, ‘Chúng tôi được yêu cầu làm điều đó, vì vậy chúng tôi đã làm điều đó’”.
Quyết tâm tiếp tục mở rộng cảng, ông Rajapaksa quay lại với Chính phủ Trung Quốc vào năm 2012, yêu cầu $757 triệu đô la.
Người Trung Quốc lại đồng ý. Nhưng lần này, các điều khoản vay đã khó hơn nhiều.
Khoản vay đầu tiên, ở mức $307 triệu đô la, ban đầu có lãi suất biến động (variable rate) thường trên 1% hoặc 2% sau vụ khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. (Để so sánh, lãi suất cho vay tương tự của Nhật Bản đối với các dự án cơ sở hạ tầng thấp hơn nửa phần trăm).
Nhưng để đảm bảo được nguồn vốn mới, khoản vay ban đầu được thương lượng lại với lãi suất cố định (fixed rate) ở mức cao hơn nhiều 6.3%. Ông Rajapaksa đã chấp nhận.
Sự tăng cao của món nợ và chi phí dự án, ngay cả khi cảng đang gặp khó khăn, đã trao cho phe đối lập ở Sri Lanka một vấn đề to lớn, và họ vận động tranh cữ mạnh dựa vào những nghi ngờ về Trung Quốc. Ông Rajapaksa đã thất cử.
Chính phủ mới, do Tổng thống Maithripala Sirisena đứng đầu, được ủy nhiệm rà soát các giao dịch tài chính của Sri Lanka. Chính phủ cũng phải đối mặt với một khoản nợ khó xử: Dưới thời ông Rajapaksa, nợ của đất nước đã tăng gấp ba lần, lên tới $44,8 tỷ đô la khi ông rời chức vụ. Và chỉ tính riêng năm 2015, $4,68 tỉ đô la phải được tranh toán trước cuối năm.

https://static01.nyt.com/images/2018/06/09/world/00chinaw-srilanka-9/merlin_139155882_a41d05b0-de79-49a1-afa1-3689718a40ee-superJumbo.jpg?quality=75&auto=webp&disable=upscale
Công nhân xây dựng Trung Quốc, phía dưới bên trái, đang đi bộ về nhà trước đường chân trời luôn thay đổi của Colombo. Ảnh của Adam Dean cho The New York Times.

Ký tên bỏ đi

Chính phủ mới muốn định hướng Sri Lanka trở lại, về phía Ấn Độ, Nhật Bản và phương Tây. Nhưng các quan chức sớm nhận ra rằng không một quốc gia nào khác có thể lấp đầy không gian tài chính hay kinh tế mà Trung Quốc đã có tại Sri Lanka.
“Chúng tôi thừa kế một nền kinh tế có mục đích chạy xuống - doanh thu không đủ để trả lãi, chứ đừng nói gì đến chuyện trả món nợ gốc”, theo ông Ravi Karunanayake, người từng là Bộ trưởng tài chính trong năm đầu tiên của Chính phủ mới.
“Chúng tôi đã tiếp tục vay tiền”, ông nói thêm. “Một chính phủ mới không thể ngừng vay. Đó là một cách tiếp sức (relay); bạn cần phải lấy chúng cho đến khi kỷ luật kinh tế được thiết lập”.
“Ngân hàng Trung ương ước tính rằng Sri Lanka nợ Trung Quốc khoảng $3 tỷ đô la năm ngoái. Nhưng Nishan de Mel, một nhà kinh tế học tại Verité Research, cho biết một số khoản nợ đã được lấy ra khỏi sổ sách của Chính phủ và thay vào đó được đăng ký như là một phần của các dự án riêng rẻ. Ông ước tính rằng nợ Trung Quốc có thể lên tới $5 tỉ đô la và đang tăng lên hàng năm. Vào tháng 5, Sri Lanka đã vay một khoản nợ mới $1 tỷ đô la từ China Development Bank (Ngân hàng Phát triển Trung Quốc) để giúp họ trả món nợ sắp phải trả.
Vào năm 2016 các quan chức chính phủ bắt đầu họp với các đối tác Trung Quốc để đạt được thỏa thuận, với hy vọng rút cảng ra khỏi bảng cân đối kế toán (balance sheet) của Sri Lanka và tránh vỡ nợ hoàn toàn. Nhưng người Trung Quốc đòi là, để đổi lại, phải cho một công ty Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn vốn chủ sở hữu của cảng, theo như các quan chức Sri Lanka nói - xóa bớt nợ không phải là một lựa chọn mà Trung Quốc sẽ chấp nhận.
Khi Sri Lanka được cho một lựa chọn, đó là lựa chọn công ty nhà nước nào sẽ nắm quyền kiểm soát: hoặc là China Harbour hoặc China Merchants Port, theo thỏa thuận cuối cùng, mà The Times có được một bản sao, mặc dù nó chưa bao giờ được phổ biến đầy đủ một cách công khai.

https://static01.nyt.com/images/2018/06/25/world/00chinaw-srilanka-20/merlin_139155852_960cdd1c-d3f2-4bcd-aa88-d45a74af8f68-superJumbo.jpg?quality=75&auto=webp&disable=upscale
Công nhân của China Harbor đi làm việc tại Colombo. Ảnh của Adam Dean cho The New York Times.
https://static01.nyt.com/images/2018/06/10/world/00china-srilanka14sub/merlin_139155834_f31d671c-b1f6-4fdf-b262-9992cd590eab-superJumbo.jpg?quality=75&auto=webp&disable=upscale
Công nhân Trung Quốc trong ký túc xá ở Comlombo. Ảnh của Adam Dean cho The New York Times.
Công ty China Merchants có được hợp đồng và ngay lập tức họ đòi hỏi thêm: Các nhân viên công ty đòi 15.000 mẫu đất xung quanh cảng để xây dựng một khu công nghiệp, theo như hai quan chức có kiến ​​thức về các cuộc đàm phán cho biết. Công ty Trung Quốc lập luận rằng cái cảng tự nó không đáng giá $1,1 tỷ đô la họ sẽ trả cho vốn chủ sở hữu - số tiền để khóa sổ khoản nợ cảng của Sri Lanka.
Một số quan chức chính phủ phản đối một cách cay đắng các điều khoản, nhưng họ không thể làm gì khác, theo như các quan chức đã tham gia vào các cuộc đàm phán. Thỏa thuận mới đã được ký kết vào tháng 7 năm 2017 và có hiệu lực trong tháng 12.
Thỏa thuận để lại một chút diện mạo của quyền sở hữu của Sri Lanka: Trong số những vấn đề khác, nó tạo ra một công ty liên doanh để quản lý hoạt động của cảng và thu doanh thu, với 85% thuộc sở hữu của China Merchants Port và 15% còn lại do Chính phủ Sri Lanka kiểm soát.
Nhưng các luật sư chuyên về việc mua cảng cho biết số cổ phần nhỏ của Sri Lanka chẳng có ý nghĩa gì, vì China Merchants Port giữ các quyết định về nhân sự trong ban quản trị và về việc điều hành. Và Chính phủ không giữ chủ quyền trên vùng đất của cảng.
Bản thỏa thuận được đàm phán lúc ban đầu đã để ngỏ vấn đề là cảng và vùng đất xung quanh có thể được sử dụng bởi quân đội Trung Quốc hay không, vấn đề mà các quan chức Ấn Độ yêu cầu Chính phủ Sri Lanka phải ngăn cấm một cách rõ ràng. Thoả thuận cuối cùng ngăn cấm các quốc gia nước ngoài sử dụng cảng cho mục đích quân sự trừ khi được Chính phủ tại Colombo cho phép.
Điều khoản này có được là vì các tàu ngầm của Hải quân Trung Quốc đã có ghé vào Sri Lanka rồi.


https://static01.nyt.com/images/2018/06/22/world/00chinaw-srilanka-19/merlin_138500865_63e6293b-548c-4b4a-84e6-89ecd48b90d0-superJumbo.jpg?quality=75&auto=webp&disable=upscale 
Cảng Colombo, Sri Lanka. Ảnh của Adam Dean cho The New York Times.

Những quan tâm về chiến lược

Trung Quốc cũng có đặt cọc phần trong cảng chính của Sri Lanka: China Harbour đang xây dựng một nhà ga mới ở đó, lúc đó được gọi là Colombo Port City. Cùng với thỏa thuận đó là khoảng 50 mẫu đất, do công ty Trung Quốc chiếm giữ một mình, và Sri Lanka không có chủ quyền gì vào đó.
Điều này đã được biểu hiện một cách ấn tượng vào cuối nhiệm kỳ của ông Rajapaksa, năm 2014. Tàu ngầm Trung Quốc cập cảng vào cùng ngày mà Thủ tướng Shinzo Abe của Nhật Bản đến thăm Colombo, một điều mà người trong khu vực coi như một tín hiệu đe dọa từ Bắc Kinh.
Khi Chính phủ mới Sri Lanka lên cầm quyền, họ muốn có đảm bảo là cảng sẽ không bao giờ chào đón tàu ngầm Trung Quốc nữa - mối quan tâm đặc biệt vì chúng rất khó bị phát hiện và thường được sử dụng để thu thập thông tin tình báo. Nhưng các quan chức Sri Lanka có rất ít kiểm soát thật sự.
Ngày nay, việc giao Hambantota cho người Trung Quốc đã duy trì các lo ngại về khả năng nó được sử dụng cho mục đích quân sự - đặc biệt là khi Trung Quốc tiếp tục quân sự hóa các đảo trên Biển Đông bất chấp những cam kết trước đó là sẽ không làm như thế.
Các quan chức Sri Lanka nhanh chóng chỉ ra là thỏa thuận đó có quy định rõ ràng ngăn cấm Trung Quốc sử dụng cảng cho mục đích quân sự. Nhưng nhiều người khác cũng lưu ý rằng Chính phủ Sri Lanka, vì vẫn còn nợ Trung Quốc rất nhiều, nên có thể bị áp lực để cho phép điều đó.
Và ông de Silva, Bộ trưởng về các chính sách quốc gia và các vấn đề kinh tế, đã nói, “Chính phủ có thể thay đổi”.
Hiện ông và nhiều người khác đang theo dõi kỹ lưỡng ông Rajapaksa, đối tác ưa thích của Trung Quốc tại Sri Lanka, người đang cố gắng để trở lại chính trường. Đảng đối lập mới của cựu Tổng thống đã thắng thế trong các cuộc bầu cử thành phố vào tháng Hai. Cuộc bầu cử Tổng thống sắp đến sẽ vào năm tới, và các cuộc tổng tuyển cử sẽ vào năm 2020.
Mặc dù ông Rajapaksa không thể tranh cử một lần nữa vì bị giới hạn nhiệm kỳ, em trai của ông, Gotabaya Rajapaksa, cựu Bộ trưởng quốc phòng, dường như sẵn sàng cầm lấy vai trò thay thế.
“Đó sẽ là quyết định của Mahinda Rajapaksa. Nếu ông ta chọn một trong những anh em của ông, người đó sẽ có một cái thế rất mạnh”, Ajith Nivard Cabraal, Thống đốc Ngân hàng Trung ương dưới quyền của Chính phủ Rajapaksa, người vẫn làm cố vấn gia đình, cho biết. “Ngay cả khi ông không còn là Tổng thống, như hiến pháp đã qui định, Mahinda vẫn sẽ là cơ sở quyền lực chính”.

https://static01.nyt.com/images/2018/06/08/world/00chinaw-srilanka-8/merlin_138500481_066b0017-4cd1-4cb8-bbc7-21c406e7145e-superJumbo.jpg?quality=75&auto=webp&disable=upscale
Xây dựng Colombo Port City. Ảnh của Adam Dean cho The New York Times.
Báo cáo do Keith Bradsher và Sui-Lee Wee từ Bắc Kinh, và Mujib Mashal và Dharisha Bastians đến từ Sri Lanka đóng góp.
M.A.
Nguồn: https://www.nytimes.com/2018/06/25/world/asia/china-sri-lanka-port.html
Dịch giả gửi BVN.

QUẢNG NINH ĐÃ CHUẨN BỊ 'ĐẶC KHU  VÂN ĐỒN' RA SAO ?

BBC/ BVN 29-6-2018

Ông Phạm Minh Chính tại cuộc hội Quốc hội lần thứ hai hồi tháng 10/2017
Ông Phạm Minh Chính tại cuộc hội Quốc hội lần thứ hai hồi tháng 10/2017. Bản quyền hình ảnh GETTY IMAGES
Dư luận Việt Nam vốn xôn xao nghi vấn Dự luật Đặc khu đe doạ chủ quyền đất nước, giờ e ngại hơn trước thông tin cho thấy Trung Quốc đã có một ảnh hưởng không nhỏ đến đề án đặc khu Vân Đồn, Quảng Ninh.
Cuối tháng Giêng 2018, truyền thông trong nước đưa tin ông Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam thăm tỉnh Quảng Đông.
Mô tả chuyến đi này, Thông Tấn Xã Việt Nam viết: “Trong chuyến thăm, Đoàn cũng đã có các cuộc làm việc với Trưởng ban Tổ chức Tỉnh uỷ Quảng Đông Trâu Minh, khảo sát về công tác xây dựng Đảng ở tỉnh Quảng Đông, trong đó có đặc khu kinh tế Thâm Quyến”.
Tin trên không gây nhiều chú ý, cho mãi đến tháng Sáu, khi xảy ra tranh cãi lớn về dự án Luật Đặc khu, cư dân mạng Việt Nam mới “tìm lại” một bản tin tiếng Anh đăng ngày 6/2 của Trung tâm nghiên cứu Đặc khu kinh tế Trung Quốc - CCSEZR (China Center for Special Economic Zone Research) thuộc trường Đại học Thâm Quyến, Quảng Đông.
Bản tin này tường thuật chuyến thăm của phái đoàn ông Phạm Minh Chính đến Trung tâm ngày 27/1.
Theo bản tin tiếng Anh này, ông Phạm Minh Chính nói với Giáo sư Đào Nhất Đào, Giám đốc Trung Tâm Nghiên cứu Đặc khu Kinh tế Trung Quốc (CCSEZR), người gọi ông Chính là “một người bạn cũ”, rằng việc thăm lại Đại học Thâm Quyến lần nữa là “một trải nghiệm rất ấm cúng” giống như “trở về nhà, gặp lại các anh chị em”.
Phải nói thêm rằng bà Đào Nhất Đào hiện là chủ tịch Viện nghiên cứu Một vành đai Một con đường ở Thâm Quyến, theo tờ The Star.

Con đường dẫn tới ‘đặc khu Vân Đồn’

Dự luật đặc khu tuy gần đây mới được quần chúng chú ý, nhưng cần biết rằng đề án phát triển đặc khu kinh tế Vân Đồn, Quảng Ninh được Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam ủng hộ về chủ trương qua việc ban hành Thông báo số 108-TB/TW ngày 01/10/2012 về Đề án phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững và đảm bảo vững chắc quốc phòng, an ninh, và thí điểm xây dựng 2 đơn vị Hành chính - Kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Móng Cái.
Trước khi có thông báo này của Bộ Chính trị, tỉnh Quảng Ninh, khi đó do ông Phạm Minh Chính lãnh đạo với tư cách Bí thư Tỉnh ủy từ 2011, đã xây dựng Đề án “Phát triển KT-XH nhanh, bền vững; đảm bảo vững chắc quốc phòng, an ninh và thí điểm xây dựng hai đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Móng Cái”.

Hạ Long
Đề án đặc khu Vân Đồn dự tính sẽ tập trung vào phát triển ngành du lịch và công nghệ cao. Bản quyền hình ảnh STEFAN IRVINE
Một bài báo của ông Nguyễn Văn Phúc, chuyên gia Dự án Luật Đơn vị Hành chính - Kinh tế đặc biệt, làm rõ hơn vai trò của ông Phạm Minh Chính khi còn là Bí thư Quảng Ninh.
Theo ông Phúc, ông Chính đã “chỉ đạo và cùng các cơ quan của tỉnh quyết liệt xây dựng Đề án thành lập Đặc khu kinh tế Vân Đồn và Đặc khu kinh tế Móng Cái”.
“Anh đã cùng các đồng chí ở Quảng Ninh lên làm việc, trực tiếp thuyết trình, thuyết phục các cơ quan Trung ương, trong đó có các cơ quan của Quốc hội”.
“Đây có thể nói là bước đi đột phá tiên phong của Quảng Ninh vì lần đầu tiên sau 20 năm, kể từ khi Hiến pháp năm 1992 được ban hành mới có một địa phương chính thức đề xuất áp dụng quy định của Hiến pháp để thành lập đặc khu kinh tế”, ông Nguyễn Văn Phúc viết trên trang Đại Biểu Nhân Dân.
Là tỉnh giáp biên giới với Trung Quốc, cộng với quan hệ truyền thống của hai đảng cầm quyền, không ngạc nhiên khi Quảng Ninh đã tìm hiểu mô hình Đặc khu Thâm Quyến, được xem là đặc khu kinh tế thành công nhất của Trung Quốc.
Đến tháng 8/2012, một đoàn tỉnh Quảng Ninh lần đầu tiên thăm Đại học Thâm Quyến hai ngày để học kinh nghiệm về đặc khu, bản tin của Trung tâm nghiên cứu Đặc khu kinh tế Trung Quốc - CCSEZR cho hay.
Tháng 10/2012, Bộ Chính trị ủng hộ Đề án đặc khu kinh tế ở Vân Đồn, Móng Cái.

Đoàn TQ từng nhiều lần sang Quảng Ninh

Kể từ đó, từ 2013 đến 2014, các đoàn cố vấn Trung Quốc và đoàn Việt Nam thường qua lại giữa hai nước để tham vấn và thảo luận tư vấn xây dựng khung pháp lý, và kế hoạch thiết lập đề án đặc khu.
Đoàn cố vấn Trung Quốc đưa ra tư vấn về các vấn đề như điều kiện cơ bản, thiết kế chức năng, lựa chọn vị trí địa lý, định vị ngành, chính sách ưu đãi, quản lý kinh tế xã hội, vốn nước ngoài và quản lý nhân tài cho các khu kinh tế đặc biệt của Việt Nam.
Vào 19/3/2014, khi Hạ Long đăng cai Diễn đàn Phát triển Đặc Khu Kinh tế Thế giới, một đoàn chuyên gia CCSEZR thậm chí đã tiến hành điều tra thực địa để “hỗ trợ tư vấn cho tỉnh Quảng Ninh về các chính sách chiến lược”, theo CCSEZR.
Cũng vào thời điểm này, Dự luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt bắt đầu được soạn thảo.
Ngày 31/12/2014, Thủ tướng Việt Nam khi đó Nguyễn Tấn Dũng ban hành Quyết định số 2428/QĐ-TTg về một số cơ chế, chính sách đặc thù đối với tỉnh Quảng Ninh và Khu kinh tế Vân Đồn.
Tính đến hết năm 2015, thông tin chính thức của Quảng Ninh cho hay tỉnh này đã tập trung chỉ đạo thực hiện dứt điểm công tác giải phóng mặt bằng, tháo gỡ khó khăn về các thủ tục pháp lý liên quan, đồng thời hỗ trợ các nhà thầu về điều kiện thi công cho Khu kinh tế Vân Đồn.
Bản tin tháng 1/2016 của báo Quảng Ninh mô tả Vân Đồn đang được ví như “đại công trường” của tỉnh với hơn 70 dự án, công trình đầu tư hạ tầng đô thị, hạ tầng giao thông, dịch vụ du lịch đang được triển khai.
Theo bản tin của Tân Hoa Xã tháng 9/2016, khi đó tỉnh Quảng Ninh cần 12 tỷ USD để đầu tư phát triển đặc khu Vân Đồn, và tự tỉnh đã vận động được 1,8 tỷ - một con số lớn, gần 1% GDP Việt Nam.
Đến ngày 22/3/2017, Bộ Chính trị ra kết luận số 21-TB/TW về các đề án xây dựng Khu hành chính-kinh tế đặc biệt, đồng ý thành lập đặc khu kinh tế ở Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc.
Ngày 10/10/2017, dựa trên kết luận 21 của Bộ Chính trị, Dự án Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, được chuẩn bị từ năm 2014, mới chính thức được Chính phủ trình ra Kỳ họp thứ 4 của Quốc hội Việt Nam.
Cuối tháng 10/2017, Hội đồng Nhân dân tỉnh Quảng Ninh thông qua Nghị quyết về việc tán thành chủ trương thành lập Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn.

Thâm Quyến nhanh chóng trở thành một thành phố sầm uất sau khi thiết lập đặc khu kinh tế đặc biệt dưới thời Đặng Tiểu bình vào 1979
Thâm Quyến nhanh chóng trở thành một thành phố sầm uất sau khi thiết lập đặc khu kinh tế đặc biệt dưới thời Đặng Tiểu bình vào 1979. Bản quyền hình ảnh GETTY IMAGES
Chuyến thăm CCSEZR của ông Phạm Minh Chính tháng 1/2018 diễn ra trong bối cảnh lãnh đạo Việt Nam dự kiến Dự luật sẽ được thông qua tại kỳ họp tháng 5/2018 của Quốc hội.
Đầu năm 2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thành lập Ban chỉ đạo Quốc gia xây dựng đặc khu kinh tế do chính ông làm trưởng ban, và ông Phạm Minh Chính cũng là một trong ba phó ban.

Trung Quốc cố vấn gì về Vân Đồn?

Tại CCSEZR ngày 27/1/2018, ông Chính cảm ơn sự cố vấn của đoàn chuyên gia Trung Quốc và xin “chân thành nhờ tư vấn về một số thách thức quan trọng” như “có nên cho thuê 70 hay 99 năm?”.
Theo trang CCSEZR, trả lời câu hỏi của ông Chính, ông Yuan Yiming, phó giám đốc CCSEZR nói rằng chu kỳ ngành công nghiệp đang thu ngắn lại nên việc cho thuê đất 30-50 năm là phù hợp, nhưng trong trường hợp đất dân dụng thì cần gia hạn theo như nguyện vọng lâu dài của dân cư, nhưng ông Yuan không nói rõ bao nhiêu năm.
Thêm vào đó, ông Huang Yaying, trưởng khoa luật tại SZU thì cho rằng việc thiết lập chính quyền nhân dân cho phép đặc khu quyền hạn lập pháp, thiết lập ngân sách tài chính và bổ nhiệm nhân sự.
“Vì vậy, chính quyền Việt Nam được đề nghị là cho phép các đặc khu toàn quyền trong ba quyền hạn trên, vốn là đặc thù của hệ thống pháp lý cần thiết cho việc phát triển kinh tế đặc khu”, CCSEZR dẫn lời ông Huang Yaying.
Ông Phạm Minh Chính đáp lại rằng sự thành công vượt trội của Thâm Quyến thể hiện rõ ràng sự đúng đắn của chính sách và đề xuất của Đảng Cộng sản Trung Quốc và lợi thế của hệ thống xã hội chủ nghĩa so với chủ nghĩa tư bản.
Bản tin của CCSEZR cho thấy sự tham gia tư vấn của các chuyên gia Trung Quốc đối với việc xây dựng đặc khu kinh tế Vân Đồn.
Tuy nhiên, theo thông tin chính thức của chính phủ Việt Nam, được sự đồng ý của Thủ tướng, tỉnh Quảng Ninh đã lựa chọn các đơn vị tư vấn nước ngoài là PricewaterhouseCoopers (PwC) và Arcadis & Callison RTKL để lập Quy hoạch chung xây dựng và Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội Vân Đồn.
Tháng 8/2017, ông Nguyễn Văn Thành, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh làm việc với Công ty TNHH PWC Việt Nam và Arcadis & Callison RTKL để nghe trình bày năng lực lập Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và lập lại quy hoạch chung xây dựng cho Khu Hành chính - Kinh tế đặc biệt Vân Đồn.

‘Phải cảnh giác Trung Quốc’

Bình luận với BBC hôm 26/6, một chuyên gia lâu năm về Việt Nam, Giáo sư Carl Thayer, từ Úc, nói: “Trong khi Trung Quốc đang quân sự hóa ở Biển Đông nhưng lại vẫn tỏ ra duy trì tình hữu nghị với Việt Nam, thì điều này cho thấy bản chất hai mặt của Trung Quốc”.
“Khi Trung Quốc muốn mua lại một tập đoàn lớn, hay đầu tư vào một dự án công trình quy mô như cầu đường, ngân hàng tài chính, thậm chí viễn thông, thì Việt Nam cần phải rất cẩn thận để làm sao vừa bảo vệ an ninh quốc gia mà vẫn đạt được lợi ích kinh tế. Chỉ nhìn vào việc cho thuê 99 năm, thì hãy nghĩ đến việc Trung Quốc có thể lợi dụng suốt thời gian đó để thu thập thông tin tình báo, cũng như thông tin căn cứ quân sự của Việt Nam ở khu vực Quảng Ninh”.
“Trung Quốc hẳn đang tìm kiếm sự ảnh hưởng về kinh tế hoặc chính trị, hoặc cả hai”.
Ông Thayer cũng cho rằng dù Dự luật Đặc khu không đề cập đến Trung Quốc như Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nói, nhưng việc Trung Quốc tham gia cố vấn “hiểu rõ tường tận trong ra ngoài” sẽ có một lợi thế rất lớn cho Trung Quốc.
“Câu nói của ông Phạm Minh Chính khiến tôi nhớ lại khi Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh nói tại Đối thoại Shangri-la, rằng ‘Trung Quốc là bạn của Việt Nam’, dư luận chắc chắn sẽ không thể ngồi yên nếu họ biết ông Chính nói câu này”, Tiến sĩ Carl Thayer bình luận với BBC hôm 26/6.

Giáo sư Carl Thayer, từ Úc
Giáo sư Carl Thayer, từ Úc. Bản quyền hình ảnh GETTY IMAGES
Theo nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Trần Quốc Thuận thì ý tưởng xây dựng đặc khu đã có từ thời Thủ tướng Võ Văn Kiệt, khi Việt Nam còn bị cấm vận.
“Việt Nam sau đó chủ trương chính sách Đổi Mới năm 1986 và đã tìm ra con đường phát triển kinh tế. Chúng ta cũng có đi nghiên cứu mô hình Thâm Quyến của Trung Quốc, nhưng chỉ thoáng qua, khi đó không làm theo”, ông Thuận nói với BBC.
Ông Thuận nêu quan điểm: “Lý Thường Kiệt năm xưa cũng tụ ở đó trước khi đem quân đánh Trung Quốc. Đó là một vị trí rất quan trọng”.
“Việt Nam luôn luôn phải cảnh giác với Trung Quốc. Trong lịch sử hàng ngàn năm qua, Trung Quốc luôn sẵn sàng lấn chiếm Việt Nam, ngày nay cũng vậy”, ông Thuận quan ngại.
Hôm 10/06, tại nhiều thành phố ở Việt Nam, hàng ngàn người xuống đường phản đối Dự luật An ninh mạng và Dự luật Đặc khu Kinh tế.
Họ mang theo khẩu hiệu phản đối chuyện cho Trung Quốc “thuê đất 99 năm” ở các đặc khu, dù phía chính quyền không nêu tên nước nào trong các dự án này.

Sẽ vẫn làm Đặc khu?

Hôm 17/6, tiếp xúc cử tri, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập Dự luật Đặc khu.
Ông Trọng được dẫn lời nói Đảng, Nhà nước, Quốc hội đã lắng nghe, tiếp thu, dừng lại nghiên cứu tiếp, bao giờ hoàn thiện tốt mới thông qua.
Theo báo Nhân dân, ông Trọng nói thêm: “Pháp luật hiện thời quy định không cho thuê đất quá 70 năm, vì đây là đặc khu nên dự kiến ban đầu cho thuê đất không quá 99 năm để khuyến khích, song còn qua bao nhiêu quy trình phải thực hiện, khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt mới được làm”.
Hai ngày sau, cũng tiếp xúc cử tri, Chủ tịch nước Trần Đại Quang nêu quan điểm Dự luật Đặc khu là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước.
Tạp chí Cộng sản dẫn lời ông Quang: “Quốc hội cũng đã cho rằng cần phải lấy thêm các ý kiến cử tri sâu rộng và cần tiếp tục lắng nghe ý kiến chuyên gia, các vị lão thành cách mạng, nhân dân nên Quốc hội đã lùi thời gian thông qua”.
Nguồn: https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-44610484

TỪ CRƯM ĐẾN VIỆT NAM, XA HAY GẦN ?

JB NGUYỄN HỮU VINH/ BVN 30-6-2018

Nhân câu chuyện “Luật Đặc khu” đang rất nóng trong lòng xã hội Việt Nam, BVN xin đăng lại một bài viết đã hơn 4 năm về trước của J.B. Nguyễn Hữu Vinh mà hôm nay đọc lại vẫn nguyên tính thời sự “trông người mà ngẫm đến ta”.
Bauxite Vietnam
2014-03-18

gười dân Simferopol, Crimea đi bỏ phiếu trong cuộc trưng cầu dân ý hôm 16/3/20

Người dân Simferopol, Crimea đi bỏ phiếu trong cuộc trưng cầu dân ý hôm 16/3/2014. AFP PHOTO / VIKTOR DRACHEV
Sáng nay, 17/3/2014, Crưm (Crimea), phần lãnh thổ của Ukraina đã công bố kết quả “bỏ phiếu” để ly khai Ukraina và sáp nhập vào Nga. Kết quả được công bố là 96% số phiếu ủng hộ việc ly khai khỏi Ukraina để sáp nhập phần lãnh thổ này vào nước Nga. Như vậy, về hình thức, số phận của vùng lãnh thổ Crưm đã được định đoạt.

Một hình thức độc tài mới

Ukraina, một nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ đã tách ra khi khối cộng sản đổ sụp với những hệ lụy chưa dứt bởi sau khi chế độ cộng sản bạo tàn chấm dứt, đất nước này lại bị cai trị bởi nhà độc tài mang tên “Tổng thống” - một hình thức độc tài mới theo kiểu Putin. Ở đó, Tổng thống Viktor Yanukovych đã sống như đế vương với đầy đủ sự xa hoa, sang trọng có thể có của một ông hoàng và mang đầy đủ sự căm phẫn đến tột độ của người dân. Kết quả là một cuộc lật đổ ngoạn mục và con đường của nhà độc tài là tháo chạy đến đồng minh. Thông thường, các chế độ độc tài tìm đến nhau ở những điểm chung để nương náu. Ở đây, Yanukovych đã tìm đến Putin.
Crưm với diện tích gần 30 nghìn km2 và số dân gần hai triệu người, trước khi xảy ra biến cố ở Ukraina, nó vẫn thuộc về Ukraina. Nhưng, kể từ khi chính biến xảy ra ở Ukraina, nhà độc tài “Tổng thống Viktor Yanukovych và các phụ tá chạy trốn khỏi dinh thự tổng thống bằng trực thăng” sang Nga, thì tình hình tại đây có nhiều biến động. Những đoàn quân không đeo phù hiệu, những đoàn chiến xa, trực thăng của Nga bay trên bầu trời Crưm, viên “Tổng thống” lưu vong trên đất Nga… đã làm tình hình Crưm nóng lên từng ngày. Thế rồi với chiêu bài “bảo vệ lợi ích” của Nga trên khu vực này, Nga đã triển khai các hành động quân sự. Đi đôi với các hành động quân sự, là bộ máy ở Crưm được vận hành theo chiều hướng đổ về nước Nga ngoại bang. Kết quả là đi tới một cuộc “Trưng cầu dân ý” để “lấy ý kiến nhân dân” về việc sáp nhập vào Nga.
Và dĩ nhiên là con số 96% cử tri đi bỏ phiếu đã chọn cách bám theo Nga. Điều mà người Nga mong đợi và cũng là những người yêu mến Ukraina cảm thấy xót xa đau đớn. Nhưng, điều nguy hiểm hơn, là việc này đã tạo một tiền lệ cho việc đòi sáp nhập vào Nga lan sang các vùng khác của Ukraina.
Thế nhưng, chẳng lẽ cả khu vực rộng lớn 30.000 km vuông và hai triệu dân Crưm đã không ý thức được vấn đề dân tộc, đất nước… khi họ đồng tình với việc sáp nhập vào Nga? Tôi nghĩ rằng không hẳn vậy. Mặc dù có thể là cuộc “Trưng cầu dân ý” đã nêu lên tỷ lệ phiếu gần như tuyệt đối.
Sở dĩ những nghi ngờ này có cơ sở tồn tại, chỉ vì việc gọi là “Trưng cầu dân ý” được thực hiện trong hoàn cảnh của Crưm nằm dưới sự kiểm soát của quân đội Nga. Quân đội Nga hiện đang kiểm soát phần lớn bán đảo đông người Nga sinh sống này và các cử tri được cho là sẽ ủng hộ việc tách khỏi Ukraina. Trong khi đó Nga can thiệp vào Crưm bằng cách kiểm soát các tòa nhà chính quyền và phong tỏa quân lính Ukraina tại các căn cứ của họ sau khi Tổng thống thân Nga Viktor Yanukovych bị Quốc hội Ukraina phế truất trước sức ép biểu tình ở Kiev ngày 22/2.
Những lời nói từ chính miệng Tổng thống Nga Putin lộ rõ sự dối trá khi cho rằng lực lượng mặc quân phục giống Nga không mang phù hiệu là “Lực lượng phòng vệ của Crưm” đã nhanh chóng bị lật tẩy. Những lời nói này, chỉ khẳng định thêm một lần nữa rằng cái nguồn gốc cộng sản trong con người Putin vẫn chưa mấy thay đổi, chỉ chờ dịp là tái diễn mà thôi.

Trông người lại ngẫm đến ta

àn sóng người TQ tràn ngập lãnh thổ Việt Nam, các phố Tàu, xóm trọ người Tàu
Làn sóng người TQ tràn ngập lãnh thổ Việt Nam, các phố Tàu, xóm trọ người Tàu, khu công nghiệp người Tàu khắp nơi. Citizen photo. Photo: RFA
Thoạt trông, những thông tin về tình hình Ukraina được đăng tải trên báo chí Việt Nam, đa phần có thái độ ủng hộ và đưa tin có lợi cho việc chiếm đóng và bành trướng của Nga làm người ta giật mình. Cái giật mình này cũng dễ hiểu, đó là sự giật mình về số phận của một dân tộc, một đất nước, một vùng lãnh thổ đang bên cạnh một kẻ lớn xác, nhưng mang đầy dã tâm xâm lược. Đặc biệt là khi ở đó có một bộ máy cầm quyền hèn nhát luôn tìm cách vừa lòng quân giặc, ngược lại luôn hung hãn với dân.
Người ta có quyền đặt câu hỏi: Nếu một ngày nào đó, hoàn cảnh đất nước Việt Nam chúng ta trước bọn bành trướng Bắc Kinh tương đồng hoàn cảnh Ukraina trước nước Nga hiện nay, điều gì sẽ xảy ra? Những điểm tương đồng sau đây cho chúng ta những điều e ngại.
- Trước hết, với làn sóng người Trung Cộng tràn ngập lãnh thổ Việt Nam không chỉ ở Miền Bắc, Miền Trung và cả Miền Nam, không chỉ là du lịch, làm ăn một năm dăm bảy tháng mà là các dự án thuê đất trồng rừng, cho thuê đất, biển đến 70 năm, các công trình dân dụng, công nghiệp đều có nhà thầu Trung Quốc… Các phố Tàu, xóm trọ người Tàu, khu công nghiệp người Tàu khắp nơi. Ai dám chắc chắn rằng sẽ không có lúc nào đó, theo gương người Nga, nhà cầm quyền Trung Quốc không đưa binh lính, xe tăng, đại bác và các phương tiện chiến tranh đến Việt Nam để “bảo vệ lợi ích” của đám người Tàu đã cắm chốt tại đó?
- Với hai đảng “cùng ý thức hệ cộng sản”, khi lòng dân nổi giận, ai dám khẳng định rằng khi đó, Đảng CSVN không chạy sang Tàu để tìm chỗ dựa vững chắc cho sự tồn tại của ý thức hệ cộng sản. Và cũng chính vì thế, trên đất nước sẽ không thể thiếu những trò chính trị cù nhầy, bịp bợm, đánh tráo.
- Hẳn nhiên khi đó, chúng ta sẽ có những cuộc “Trưng cầu dân ý” và với sự lãnh đạo “sáng suốt, tài tình và tuyệt đối” hiện nay của Đảng CS, thì tỷ lệ 96% thì còn là quá ít. Hãy nhìn xem cuộc “Lấy ý kiến về Dự thảo Hiến pháp” (LYKDTHP) vừa qua ở Việt Nam thì sẽ rõ. Những con số hàng chục triệu ý kiến đồng tình với bản Dự thảo Hiến pháp mà tuyệt nhiên không thấy những ý kiến ngược lại đã nói lên tất cả. Thậm chí, riêng tỉnh Bình Dương chỉ với 1,5 triệu dân đã có… hơn 44 triệu ý kiến đóng góp Dự thảo Hiến pháp. Thế nhưng, cả nước lại chỉ có 26 triệu ý kiến góp ý, sửa đổi Hiến pháp (?). Mặc dù con số, lời nói và thực tế cứ đá nhau ào ào như vậy, nhưng Đảng vẫn cho rằng, như vậy là “hợp lòng dân”.
- Khốn nỗi, Đảng cứ đổ cho “cỗ lòng” của người dân, nhưng những “cỗ lòng” đó cứ chịu oan khuất mà không thể kêu lên như đám học sinh ngoài đường là: “đéo hợp”.
- Điểm tương đồng tiếp theo, là căn bệnh đánh tráo theo kiểu “bầu cua tôm cá” được sử dụng thành thạo bởi nhà nước độc tài gốc cộng sản. Đó là hình thức “lấy ý kiến”. Nếu như ở cuộc LYKDTHP vừa qua ở Việt Nam, tờ giấy ghi ý kiến đưa đến cho người dân chỉ được có hai cách đánh dấu là: 1* Đồng ý với toàn văn dự thảo (xin ghi nguyên chữ Đồng ý). 2* Đồng ý với nội dung khác trong dự thảo và xin bổ sung những điều, khoản…
Theo cách đưa ra hai lựa chọn đó, Đảng chắc chắn nắm phần thắng theo kiểu “Tao bảy, mày ba” còn nếu không đồng ý thì “mày ba, tao bảy” - một trò chợ giời.
Thì ở cuộc Trưng cầu dân ý tại Crưm, người ta cũng có hai lựa chọn:
1* Bạn có đồng ý với việc Crưm được sáp nhập vào lãnh thổ Liên bang Nga hay không?”
2* Bạn có muốn khôi phục Hiến pháp 1992 và Crưm vẫn là một phần lãnh thổ của Ukraine?”.
Và kết quả là “tuyệt đại đa số” nhân dân Việt Nam ủng hộ, đồng ý với bản DTHP do Đảng và Nhà nước đưa ra.
Và kết quả là 96% số người đồng ý sáp nhập lãnh thổ Crưm vào Nga.
Và điều đó cũng có nghĩa là một tương lai đang hiện dần ra trước mắt: Crưm hôm nay, Việt Nam ngày mai.
Hà Nội, ngày 17/3/2014.
Ngày chiến thắng Trung Quốc xâm lược trên biên giới Phía Bắc
J.B N.H.V

CÓ MỘT LOẠI 'TIN GIẢ' ĐƯỢC 'CẤP PHÉP'

TRÚC GIANG/VNTB /BVN 30-6-2018

Hiểu một cách đơn giản, tin giả là đối lập của tin thật: tin tức sai sự thật thì có thể coi là tin giả.

Khi tin giả là… định hướng của tuyên truyền

Định nghĩa “tin giả” là gì vẫn tiếp tục gây tranh cãi trong giới nghiên cứu. Đây là định nghĩa có thể là mới nhất từ Viện Nghiên cứu báo chí Reuters, Đại học Oxford: “Tin giả” là: 1) Tin được “sáng tác” để kiếm tiền hay hạ thấp uy tín người hoặc tổ chức khác; 2) Tin có dựa vào dữ kiện cơ bản, nhưng được “cắt gọt” để phù hợp với một mục đích; 3) Những tin tức khiến mọi người không thấy thoải mái, và/hoặc không đồng ý. (Báo cáo Tin tức Kỹ thuật số 2017, Viện Nghiên cứu Báo chí Reuters, Đại học Oxford -http://www.digitalnewsreport.org/).
Theo cách hiểu này thì rất nhiều bản tin trên báo chí của Việt Nam đang sản xuất “tin giả” để phục vụ công tác tuyên truyền theo định hướng của cơ quan Tuyên giáo.
Hôm 11-06-2018, báo chí đưa tin có cùng nội dung: “Sáng nay, 11-6, phát biểu ý kiến sau khi Quốc hội (QH) biểu quyết điều chỉnh thời gian xem xét, thông qua dự án Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (gọi tắt là Luật Đặc khu), Chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân lưu ý thêm một số thông tin liên quan đến việc ngày 10-6, tại nhiều nơi, người dân tụ tập đông người, gây ách tắc giao thông, làm ảnh hưởng đến đời sống nhân dân”.
Trong các bản tin đều không sử dụng cụm từ “biểu tình”, do đó có thể thấy rất rõ rằng việc tường thuật lời của bà Chủ tịch QH là một “tin giả”, vì ở đây người dân tụ tập nhằm để biểu tình phản đối dự Luật Đặc khu và dự Luật An ninh mạng. Hành vi biểu tình được Điều 25 của Hiến pháp bảo hộ. Ngăn cản người dân thực hiện quyền biểu tình là vi phạm Điều 167, Bộ luật Hình sự 2015.
Việc để bà Chủ tịch QH sử dụng cụm từ “tụ tập đông người” là để giúp tránh cho bà Chủ tịch QH trước cáo buộc vi phạm pháp luật hình sự.

Khi “tin giả” được dàn dựng từ “tin thật”

“Tin giả” nhiều khi vốn là “tin thật” được cắt gọn nhằm phục vụ ý đồ tuyên truyền nào đó của báo chí.
“Tôi không còn là tôi!”. Giáo sư Nguyễn Đức Dân chua chát thốt lên như vậy, khi ông bị chính những học trò của mình ‘biên tập’ phát biểu của ông để đưa lên sóng truyền hình. Ông kể: “Xem lại chương trình “Ghế nóng” tôi trả lời nhà đài HTV9 ngày 06-6-2018, tôi thấy lời lẽ và ý kiến của mình bị cắt bỏ, gọt nhẵn trơn tru đến mức tôi không còn là tôi nữa. Vậy, xin có đôi lời giải thích lại là điều cần thiết. Có hai khái niệm cần nói rõ lại.
Thứ nhất, HTV9 hỏi tôi về chuyện “trạm thu giá”, “giá dịch vụ đào tạo”… là “cách dùng từ trong ngôn ngữ hành chính nghe trúc trắc quá”? Tôi đáp, cách nói này mọi người nghe đều thấy kỳ cục, lạ tai vì nó không tồn tại trong tiếng Việt. Đây là cách nói do những người có quyền đặt ra, bịa ra rồi áp đặt vào tiếng Việt, nên “đây không phải là ngôn ngữ hành chính mà là thứ ngôn ngữ quan quyền; dân gian có câu “muốn nói oan làm quan mà nói”!
Tôi nêu ví dụ, trước đây ngành công an (hay ngành giao thông vận tải?) có đưa ra chỉ thị xe phân khối lớn thì phải làm thủ tục đăng ký và lấy bằng xe máy. Phân khối là một đơn vị đo thể tích hay dung tích. Trong hình học và trong vật lý làm gì có khái niệm phân khối lớn và phân khối nhỏ? Thuật ngữ này là sự áp đặt từ ngôn ngữ quan quyền. Nếu có trình độ trung học cơ sở người ta đã không ra một chỉ thị như vậy.

https://4.bp.blogspot.com/-xCEgcqWgNHg/WzSbiQFu9TI/AAAAAAAAE1c/VP3iZuOtV5QL9FNqOz7gNKGFjXmMqyekQCLcBGAs/s640/H1-20.jpg
Giáo sư Nguyễn Đức Dân trong chương trình Ghế nóng của đài HTV
Ví dụ thứ hai, “diễn biến hòa bình” là một thuật ngữ trung tính, không tích cực mà cũng chẳng tiêu cực, nhưng trong ngôn từ chính trị chúng ta đã áp đặt ra một thuật ngữ quan quyền “âm mưu diễn biến hòa bình” để chỉ khái niệm âm mưu lật đổ một chế độ bằng con đường diễn biến hòa bình. Dịch nguyên văn “âm mưu diễn biến hòa bình” sang tiếng Anh, Pháp hay Nga thì phải để trong ngoặc kép cụm từ “diễn biến hòa bình” người ta mới có thể hiểu được.
Trong tiếng Việt hiện nay nhiều khái niệm quan trọng vẫn phải để trong ngoặc kép là một minh chứng cho sự tồn tại của những thuật ngữ quan quyền nhưng không được xã hội chấp nhận. HTV9 đã gọt đi thuật ngữ “quan quyền” của tôi và thay bằng thuật ngữ ngôn ngữ hành chính rất chung chung.
Thứ hai, nếu như tôi gọi “trạm thu giá”, “giá dịch vụ đào tạo”… là loại thuật ngữ quan quyền, thì cách dùng thuật ngữ “tụ nước” thay cho “nước ngập” lại là một xảo thuật ngôn từ trong phép ngụy biện. Đó là sự ngụy biện bằng đánh tráo từ ngữ. Dùng những từ ngữ giảm nhẹ tạo ra sự thay đổi nhận thức xã hội nhẹ nhàng đi. Đây là những xảo thuật thường gặp trong chính trị, quân sự, ngoại giao và làm ăn kinh tế. Trong những ví dụ tôi nêu bị cắt bỏ có đoạn sau: Trong chuyến thăm Việt Nam, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã phát biểu trước Quốc hội Việt Nam như sau: “Láng giềng thì khó tránh xảy ra va chạm, […] hai bên cần kiên trì, lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng để xử lý bất đồng; khi đại sự đã được coi trọng thì tiểu sự sẽ không khó giải quyết” - trích báo Tuổi Trẻ, số phát hành ngày 7-11-2015.
Đây là những xảo ngôn đánh tráo thuật ngữ. Những hành động như đánh chiếm đảo Gạc Ma; đưa giàn khoan HD981 vào thềm lục địa Việt Nam; lập ra tấm bản đồ đường lưỡi bò 9 đoạn trên Biển Đông; bồi đắp, xây dựng những hòn đảo chiếm đóng trái phép thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam thành những sân bay-căn cứ quân sự… được gọi là những chuyện đại sự mù mờ.
Gây xung đột căng thẳng, xâm lấn chủ quyền lãnh thổ Việt Nam, phá tàu đánh cá, xua đuổi ngư dân Việt Nam khỏi vùng biển Việt Nam… đã được chuyển thành xảo ngôn “va chạm”, nghĩa đã giảm nhẹ hẳn đi và ám chỉ rằng đó là “chuyện nhỏ”, tiểu sự.
Đáng tiếc là hai khái niệm cốt lõi ngôn ngữ quan quyền và phép ngụy biện bằng xảo thuật đánh tráo từ ngữ đã bị cắt bỏ”.
Xem ra chỉ khi báo chí được tự do đưa tin, không chịu sự lệ thuộc vào ý kiến của Tuyên giáo Đảng, thì mới hy vọng giảm thiểu những “tin giả” nói trên, trả lại cho người dân quyền tự do ngôn luận, quyền biết được sự thật ngay trên đất nước của mình.
T.G.
VNTB gửi BVN.

Thứ Sáu, 29 tháng 6, 2018

20180629. NHÌN NHẬN VỀ VAI TRÒ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

ĐIỂM BÁO MẠNG
NHÌN NHẬN VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC ĐÃ THAY ĐỔI , NHƯNG CHƯA THỂ AN TÂM

PHAN MINH NGỌC/ TBKTSG 28-6-2018

(TBKTSG) - Quốc hội mới đây đã thông qua nghị quyết về tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Nghị quyết này có một số nội dung đáng chú ý liên quan đến số phận các DNNN trong thời gian tới.

Việt Nam không nhất thiết phải dồn nguồn lực khan hiếm cho DNNN để mong ngóng chúng đóng tròn vai “chủ đạo” một ngày nào đó trong tương lai. Ảnh: NGUYỄN NAM
Thái độ đã thay đổi?
Một nội dung rất quan trọng được nêu trong nghị quyết là “DNNN đã chuyển dịch theo hướng tập trung hơn vào những ngành nghề then chốt của nền kinh tế hoặc những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không tham gia, tiếp tục giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước, góp phần bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa”(1).
Trước đây, quan điểm chính thống vẫn là khoác cho DNNN vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần để đảm bảo định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa. Do thực tiễn đã thay đổi nên về sau quan điểm này đã được sửa đổi cho hợp thời hơn. Cụ thể, thay vì DNNN, các văn kiện, văn bản sau này đã dùng khái niệm kinh tế nhà nước, bao gồm trong đó DNNN, để rồi Đại hội XII của Đảng đã chính thức khẳng định “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”(2).
Tuy nhiên, trên thực tế, dường như không ít người hiểu rõ chuyện thay đổi chữ nghĩa trên chỉ là chuyện “hồn Trương Ba, da hàng thịt”.
Nay, với nghị quyết trên của Quốc hội, DNNN “tiếp tục giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế đất nước”, một vai trò có thể nói là khiêm tốn hơn nhiều so với vai trò chủ đạo trước đây và ngầm định như hiện nay.
Chưa thể an tâm
Nhận thức về DNNN tỏ ra là đã tiến thêm được một bước quan trọng như được thể hiện qua việc “giáng cấp” vai trò của chúng trong nền kinh tế, đi kèm với khẳng định không dùng ngân sách xử lý thua lỗ của chúng. Nhưng chắc chắn rằng việc đưa chuyển biến nhận thức này thành hành động, thành kết quả sẽ rất khó khăn.
Bên cạnh chuyện thay đổi thái độ đối với vai trò của DNNN để có thể từ đó Việt Nam không nhất thiết phải dồn (thêm) nguồn lực khan hiếm cho DNNN để mong ngóng chúng đóng tròn vai “chủ đạo” một ngày nào đó trong tương lai, nghị quyết trên của Quốc hội còn nêu rõ không dùng ngân sách để xử lý thua lỗ của doanh nghiệp. Nếu được thực hiện nghiêm túc, đây là những thay đổi, quyết định rất sáng suốt, hợp lòng dân. Bởi nếu mổ xẻ những dự án, những DNNN làm ăn thua lỗ trong suốt thời gian dài đều thấy rõ những nguyên nhân chủ quan là chủ yếu như tham ô, tham nhũng, cố ý làm trái quy định của pháp luật và sự yếu kém của lãnh đạo doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản. Không có một ngân sách nào, không có một nguyên tắc tài chính nào cho phép và/hoặc đủ khả năng để bù lỗ mãi cho những yếu kém và sai phạm như vậy. Và cũng không có một phép màu nào để nói “chắc như bắp” rằng nếu bỏ tiền ngân sách ra xử lý nợ nần, thua lỗ của DNNN thì chỉ cần một vài năm sau DNNN sẽ hồi phục và làm ăn có lãi, như đã từng được tuyên bố trước đây.
Tuy nhiên, nghị quyết là một chuyện, thực tế có thể là một chuyện khác. Từ góc độ của cơ quan chủ quản, của Chính phủ, nếu không được phép dùng ngân sách để xử lý nợ nần, thua lỗ của DNNN, Chính phủ chỉ còn hai lựa chọn. Một là để DNNN phá sản, đóng cửa. Hai là bằng một hình thức nào đó, Chính phủ vẫn (gián tiếp) sử dụng ngân sách để tài trợ cho các DNNN thua lỗ. Điều rõ ràng ở đây là lựa chọn thứ nhất sẽ rất khó khăn, “nhạy cảm” về chính trị, và là điều không mong muốn (cả vì lợi ích chính trị chung của quốc gia cũng như lợi ích riêng của cá nhân, của một nhóm người liên quan).
Trong khi đó, thực hiện lựa chọn thứ hai vừa có lợi hơn trên nhiều mặt, cho một số người, mà thực ra lại không khó khăn lắm, vì ít khả năng vấp phải sự phản đối của dư luận do không dùng đến từ nhạy cảm là “sử dụng ngân sách”!
Để minh họa, hãy xem kế hoạch xử lý một số dự án thua lỗ của Bộ Công Thương được công bố. Tuy các chủ dự án, các cơ quan chức năng không dám, không còn đề xuất nhà nước tiếp tục rót ngân sách để tái cấp vốn hay tăng vốn cho những DNNN thua lỗ này nữa, nhưng thay vào đó lại đưa ra nhiều kiến nghị và đề xuất mà xét cho cùng đều là lấy từ ngân sách, hoặc làm tổn hại đến ngân sách, hoặc làm tổn hại đến lợi ích công cộng.
Chẳng hạn, với Nhà máy PVTex, các đối tác của nhà máy “mong muốn Chính phủ cam kết bảo đảm quyền lợi của họ trong quá trình hợp tác, áp dụng các hàng rào kỹ thuật đối với nhập khẩu polyester, bảo đảm nguồn điện ổn định tại khu công nghiệp Đình Vũ...”(3).
Nếu Chính phủ cam kết đảm bảo quyền lợi thì cũng không khác gì một hình thức Chính phủ sẽ phải bù lỗ cho doanh nghiệp, và tất nhiên là bằng ngân sách. Áp dụng hàng rào kỹ thuật đối với nhập khẩu polyester chẳng qua là một hình thức bảo hộ, làm lợi cho doanh nghiệp và làm hại cho nền kinh tế nói chung, đồng thời gây ra xung đột thương mại với các nước đối tác. Bảo đảm nguồn điện ổn định nghe có vẻ hợp lý hơn, không dính dáng gì đến ngân sách, nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu Chính phủ vẫn phải bảo đảm cung cấp điện cho nhà máy kể cả khi nhà máy thua lỗ, không (muốn) chi trả tiền điện?
Tương tự, về phương án tài chính, phương án chung vẫn là giảm khấu hao và yêu cầu các tổ chức tín dụng khoanh nợ, giãn nợ (thông qua Ngân hàng Nhà nước). Có những nhà máy như PVTex và DAP thì lại đề nghị tiếp tục được vay (dùng) tiền của tập đoàn là Petro Vietnam hay Vinachem. Do tiền cấp hoặc cho vay từ những tập đoàn, tổ chức tín dụng này cũng là tiền ngân sách (hoặc ngân sách sẽ phải chịu trách nhiệm khi các tập đoàn, tổ chức tín dụng này không thu hồi được vốn cho vay hoặc cấp phát), nên rốt cuộc thì vấn đề sẽ quay trở về điểm xuất phát là không dùng ngân sách xử lý thì không xong!
Tóm lại, nhận thức về DNNN tỏ ra là đã tiến thêm được một bước quan trọng như được thể hiện qua việc “giáng cấp” vai trò của chúng trong nền kinh tế, đi kèm với khẳng định không dùng ngân sách xử lý thua lỗ của chúng. Nhưng chắc chắn rằng việc đưa chuyển biến nhận thức này thành hành động, thành kết quả sẽ rất khó khăn, ít nhất là trong vài năm tới. 
(1) http://cafef.vn/quoc-hoi-khong-dung-ngan-sach-xu-ly-thua-lo-cua-doanh-nghiep-20180615104506093.chn
(2) http://www.qdnd.vn/thuc-hien-hieu-qua-nghi-quyet-trung-uong-iv-khoa-xii-cua-dang/kinh-te-nha-nuoc-giu-vai-tro-chu-dao-501779
(3) http://vneconomy.vn/12-du-an-thua-lo-dang-tren-da-hoi-sinh-20180226230401355.htm
TIN BÀI LIÊN QUAN:
LẠM BÀN VAI TRÒ CHUYÊN VIÊN

GIA MINH /TBKTSG 28-6-2018

(TBKTSG) - Theo số liệu thống kê được trang tin The Next Web đăng tải, tại Việt Nam có 64 triệu người dùng Internet và 74% trong số này dùng Facebook, xếp thứ 7 trong số các nước sử dụng mạng xã hội này trên toàn cầu. Người dân giờ đây qua Internet và Facebook đã truy cập thông tin hàng ngày, chia sẻ suy nghĩ cũng như những tâm sự riêng tư.

Internet và Facebook đã thâm nhập vào cuộc sống của số rất đông người với tư cách là một phương tiện, nhưng kiến thức đầy đủ về mạng xã hội này thì không phải ai cũng có. Ảnh: Internet
Có thể nói Internet và Facebook đã thâm nhập vào cuộc sống của số rất đông người với tư cách là một phương tiện, nhưng kiến thức đầy đủ về mạng xã hội này thì không phải ai cũng có, thậm chí đa phần vẫn còn mù tịt dù hàng ngày “lên phây”. Nói chung không ai trong chúng ta hiểu biết hết mọi chuyện và chẳng có gì xấu hổ về những điều mình chưa biết hoặc không biết.
Mấy tuần qua, trên mạng xã hội lan truyền đoạn video về phát biểu của một vị đại biểu tại diễn đàn Quốc hội khi trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý dự thảo Luật An ninh mạng, bộ luật rất quan trọng gây nhiều tranh cãi mà sau đó đã được thông qua với hơn 86% số phiếu đồng thuận.
Cũng chẳng có gì đáng nói nếu phát biểu ấy không vang lên từ diễn đàn Quốc hội, nơi từng lời nói và thái độ cần được cân nhắc đến nơi đến chốn, nghiêm túc, đầy trách nhiệm và thể hiện tính trí tuệ vì liên quan đến qui trình làm luật.
Một quốc hội bán chuyên nghiệp với quy trình làm luật còn khập khiễng, thời gian làm luật không nhiều, thì đầu tư lớn cho một đội ngũ chuyên viên lại trở nên hết sức cấp bách để có một hệ thống luật pháp tiến bộ, phù hợp với thực tế xã hội.
Vậy thì làm sao khắc phục điều này, nhất là khi đa số đại biểu Quốc hội là kiêm nhiệm, quá bận rộn với bao nhiêu công việc, như có lần một bí thư tỉnh ủy là đại biểu Quốc hội than phiền: “Từ địa phương đầu tắt mặt tối, khi tới đây các đồng chí đưa cho cả đống tài liệu bảo nghiên cứu ngay thì chúng tôi không thể hình thành cơ sở lý luận để tham gia ý kiến được”. Chưa kể có những kỳ họp chỉ kéo dài hơn một tháng, Quốc hội đã biểu quyết và thông qua cả chục bộ luật quan trọng, điều mà Quốc hội các nước phải mất cả năm trời để thông qua. (Trong kỳ họp kỳ thứ 5 vừa qua, Quốc hội đã thông qua bảy luật và cho ý kiến về chín dự án luật khác để thông qua tại kỳ họp tới).
Thật ra, không phải vị dân cử nào cũng có kiến thức rộng, am hiểu mọi vấn đề và cũng chẳng cơ quan lập pháp nào đòi hỏi như thế. Ngay cả các nước phương Tây, quốc hội của họ đại diện đích thực cho nhiều thành phần khác nhau, trình độ khác nhau, cũng chẳng phải là nơi tập trung trí tuệ xã hội, nhưng đã cho ra đời nhiều bộ luật chặt chẽ để điều tiết hoạt động đất nước. Đó là nhờ trong mọi tình huống, những nhà lập pháp đều được sự hỗ trợ của hàng ngàn chuyên viên ưu tú thuộc nhiều lĩnh vực.
Như Quốc hội Mỹ chẳng hạn, Văn phòng Nghiên cứu của Quốc hội CRS (Congressional Research Service ) là một bộ máy đồ sộ phục vụ nhu cầu phân tích thông tin, nghiên cứu tình hình cho quốc hội trong thời gian nhanh nhất, khách quan và đầy đủ nhất.
Ngoài ra, tại các ủy ban còn có hàng trăm chuyên viên thuộc nhiều lĩnh vực lúc nào cũng sẵn sàng phục vụ quá trình làm luật, đó là chưa kể chuyên viên riêng của các vị dân cử hoạt động độc lập như một người tham mưu đồng hành. Tất cả tạo nên chất liệu sống làm nền tảng phát biểu cho các thành viên trong ngôi nhà lập pháp, nhất là khi cần có quyết định trong lá phiếu bởi luật lệ vốn “sai một ly đi một dặm”.
Quốc hội chúng ta không thiếu những đại biểu có bề dày kiến thức, cũng sử dụng chuyên viên trong quá trình làm luật, nhưng hình như từng đại biểu vẫn chưa được sự tiếp sức của chuyên viên để tự tin trong tranh luận và ứng xử trước các vấn đề mình chưa nắm vững. Phải chăng vì vậy mà thỉnh thoảng xuất hiện trên diễn đàn quốc hội những phát biểu đại loại như yêu cầu “kéo đám mây về Việt Nam” đang được bàn luận nhiều trên mạng.
Một quốc hội bán chuyên nghiệp (đa phần đại biểu kiêm nhiệm) với quy trình làm luật còn khập khiễng (hầu hết dự thảo luật xuất phát từ hành pháp), thời gian làm luật không nhiều (xuân thu nhị kỳ mới họp), thì đầu tư lớn cho một đội ngũ chuyên viên lại trở nên hết sức cấp bách để có một hệ thống luật pháp tiến bộ, phù hợp với thực tế xã hội trong tình hình hội nhập với bên ngoài. “Tiền nào của nấy” không chỉ là câu nói ví von trong dân gian mà là một quy luật trong đời sống kinh tế xã hội.
TIN BÀI LIÊN QUAN: