Thứ Bảy, 2 tháng 6, 2018

20180602. BĂN KHOĂN CHƯA HẾT VỀ DỰ LUẬT ĐẶC KHU KINH TẾ

ĐIỂM BÁO MẠNG
NGHỊCH LÝ VỀ ĐẶC KHU KINH TẾ

NGUYỄN QUANG DY/ viet-studies/ BVN 2-6-2018

o automatic alt text available.

Gần đây, dư luận quan tâm và tranh cãi nhiều về dự luật “đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt” (gọi tắt là “đặc khu kinh tế”) sắp được Quốc hội “bấm nút” thông qua. Dự kiến ba đặc khu kinh tế đầu tiên là Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang) có kinh phí đầu tư là 1.570.000 tỉ VNĐ (tính đến năm 2030). Tuy không phản đối khái niệm “đặc khu kinh tế” (special economic zone) và chưa biết họ lấy tiền từ đâu để đầu tư nhưng tôi không ủng hộ ba đặc khu kinh tế nói trên, vì các lý do sau.
Bối cảnh
Tuy đối với các nước có nền kinh tế chuyển đổi (như Việt Nam), đặc khu kinh tế vẫn là một mô hình phát triển hấp dẫn, nhưng dường như đã lỗi thời và có nhiều bài học thất bại. Nó đòi hỏi những điều kiện nhất định, vì vấn đề không phải là làm cái gì (what) mà là làm thế nào (how). Mọi chuyện đều có thể, nhưng “sai một ly đi một dặm”. Nếu đủ điều kiện và phát triển đúng hướng/đúng cách, nó có thể là đòn bẩy kinh tế và đầu tàu phát triển (như Thâm Quyến). Dubai là một bài học thành công mà nhiều nước khác muốn bắt chước. Nhiều người Việt đã từng mơ ước biến Chu Lai thành Dubai của Việt Nam, hay biến Phú Quốc thành Singapore của Việt Nam. Singapore thành công vì có Lý Quang Diệu (Việt Nam không có). Dubai thành công vì không có yếu tố Trung Quốc (Việt Nam có quá nhiều).
Tuy ý tưởng về đặc khu kinh tế không mới, nhưng người ta đã chóng quên bài học xấu về các dự án lớn như “đặc khu kinh tế gang thép Vũng Áng”, khai thác bauxite Tân Rai & Nhân Cơ (Tây Nguyên), cũng như kinh nghiệm xấu tại Chu Lai (Quảng Nam, 2003), Dung Quất (Quảng Ngãi, 2005), Nhơn Hội (Bình Định, 2005), Chân Mây (Thừa Thiên, 2006), Vân Phong (Khánh Hòa, 2006), Phú Yên (Phú Yên, 2008). Tại sao các nơi đó thất bại? Cái gì đảm bảo ba đặc khu mới này sẽ thành công? Nếu Việt Nam không cải tổ thể chế để kiểm soát quyền lực và tham nhũng, thì các mô hình phát triển tương tự sẽ lặp lại bài học “lợi bất cập hại”.   
Khi tài nguyên ngày càng cạn kiệt và quỹ đất ngày càng khan hiếm, các nhóm lợi ích tất nhiên sẽ đua nhau tận thu bằng nhiều cách, như tăng thuế (VAT, thu nhập, tài sản), tăng giá (xăng dầu, điện, nước), tăng phí (như BOT). Đặc khu kinh tế là một miếng mồi ngon mà họ sẽ vận động để có phần. Trong khi Trung Quốc ráo riết quân sự hóa và kiểm soát Biển Đông, không cho người Việt khai thác dầu khí và đánh cá trong vùng biển của mình, chắc họ sẽ tăng cường bành trướng thế lực để chiếm các vị trí hiểm yếu trên đất liền. Đặc khu kinh tế là một miếng mồi ngon mà họ thèm muốn. Các nhóm lợi ích Việt Nam có thể câu kết với các tập đoàn Trung Quốc (vì song trùng lợi ích) để thao túng chính sách và dự án.  
Tuy năng lực quản trị-điều hành của các cấp chính phủ (nhất là địa phương) còn yếu kém, nhưng lòng tham vô đáy, nên họ dễ bị các nhóm lợi ích thao túng. Trong khi bài học đau đớn về Formosa và bauxite Tây Nguyên còn chưa quên, thì bê bối về các dự án đầu tư công tại Ninh Bình đang làm dư luận giật mình kinh hoàng. Dù Ninh Bình không phải là đặc khu kinh tế, nhưng đã là “vương quốc” riêng.  Các nhóm lợi ích không chỉ “ăn của dân không từ một cái gì” (như bà Nguyễn Thị Doan nói) mà họ còn “ăn tàn phá hại” và để lại những hệ quả khôn lường, không chỉ về kinh tế và xã hội, mà còn về an ninh quốc gia. 
Bức tranh kinh tế  
Theo chuyên gia Vũ Quang Việt, các đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc “đặt lợi ích nhóm lên hàng đầu”. Các quy định trong dự luật về đặc khu chủ yếu nhằm vào thị trường địa ốc (property) và đánh bạc (casino) chứ không nhằm thu hút đầu tư công nghệ cao. Trong khi đó, cái mà Việt Nam cần là công nghệ cao và giáo dục để tăng năng suất lao động, phát triển công nghiệp và kinh tế trí thức, chứ không phải là phát triển địa ốc và casino. Ông Việt cho biết trong giai đoan 2011-2016, năng suất lao động trong khu vực công nghiệp tại Việt Nam tăng (hàng năm) rất thấp (chỉ đạt 2.9%), trong khi triển vọng tăng GDP (bình quân hàng năm) không thể cao hơn 5.0%, nếu năng suất lao động không tăng cao hơn 4.0%. Đó là một “hiện tượng kinh tế kỳ lạ”, và là một nghịch lý phát triển tại một đất nước mà năng suất lao động vào loại thấp nhất thế giới (thấp hơn Singapore 15 lần).
Do không có cuộc tranh luận (debate) để đánh giá nghiêm túc và định lượng cụ thể các mặt lợi & hại về kinh tế-xã hội cũng như về địa chính trị, nên dễ dẫn đến tình trạng ngộ nhận (do chủ quan duy ý chí) hoặc bị động làm liều (do các nhóm lợi ích thao túng) nên dễ mắc sai lầm (như trước đây). Có mấy kịch bản có thể xảy ra: Thứ nhất, chắc sẽ có một cơn “sốt đất mới” (new land rush) trong một thị trường địa ốc vốn đã quá nóng do giá đất đã bị giới đầu cơ địa ốc đẩy lên khá cao (thậm chí từ khi mới đồn đại về đặc khu). Thứ hai, dễ xuất hiện “bong bóng địa ốc” (property bubble) có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng cung-cầu (over supply) làm bức tranh kinh tế càng thêm méo mó và hỗn loạn. Thứ ba, do hệ quả của 2 hiện tượng nói trên, các đặc khu này sẽ không hấp dẫn đối với giới đầu tư công nghệ cao, vì họ cần một môi trường đầu tư sạch và một hệ sinh thái kinh doanh lành mạnh hơn.
Trong khi kêu gọi đầu tư cho công nghệ 4.0 thì những gì đang diễn ra tại các đặc khu này chỉ là tư duy kinh tế 1.0. Nếu định dùng ưu đãi cho thuê đất 99 năm để hấp dẫn đầu tư công nghệ cao thì không thực sự cần thiết, vì giới đầu tư công nghệ 4.0 không cần quyền sử dụng đất lâu dài. Để kinh doanh theo chuỗi cung ứng và giá trị toàn cầu, nhà đầu tư luôn cần kết nối với hệ thống hạ tầng và hệ sinh thái kinh doanh, mạng lưới đối tác và các tổ chức trung gian về tài chính, các dịch vụ chuyên nghiệp và nguồn lao động tay nghề cao, là những thứ mà các đặc khu kinh tế này không có. Điều duy nhất mà nó có chỉ đơn giản là thiết lập một không gian tự do kinh doanh trong một môi trường kinh doanh không tự do. Những ưu đãi đặc biệt thực ra chẳng có gì đặc biệt. Vậy mục đích thực sự của đặc khu kinh tế là gì (ngoài bất động sản)? Câu trả lời nhãn tiền là “casino và redlight” vì đây là nơi duy nhất (tại Việt Nam) họ được phép hành nghề tự do. Nhưng còn một lý do nữa mà nhiều người nghĩ đến nhưng ngại nói ra (vì sợ nhạy cảm) là yếu tố Trung Quốc. Ngoài ra không có gì khác.     
Bức tranh chính trị-xã hội  
Hành lang pháp lý của đặc khu quy định nhiều quyền hạn cho “chủ tịch đặc khu” như lãnh chúa (hay “vua con”) có quyền cho phép nhà đầu tư nước ngoài thuê đất 70 năm đến 99 năm (nếu được Thủ tướng đồng ý), và có quyền chọn thầu, ký hợp đồng lao động, tuyển công chức… Các nhà đầu tư được miễn thuế thuê đất 30 năm, có thể bán lại tài sản và thừa kế tài sản. Một số chuyên gia cho rằng cho thuê đất tối đa 99 năm chỉ có lợi cho các đại gia bất động sản, trong khi đó 85% các nhà đầu tư khẳng định chính sách ưu đãi thuế là không cần thiết (theo World Bank). Người nước ngoài được phép làm việc 180 ngày/năm (mà không cần giấy phép lao động). Họ chỉ cần đầu tư 110 tỷ VNĐ ($5 triệu) là được cấp thẻ tạm trú 10 năm. Người Việt được phép vào chơi casino, và được miễn thuế thu nhập cá nhân trong vòng 5 năm (và giảm tiếp 50% sau đó). Những ưu đãi này sẽ dẫn đến một làn sóng di dân mới, đặc biệt là lao động giản đơn từ Trung Quốc và các nước láng giềng khác, làm đảo lộn cơ cấu dân số (demographic structure) và có thể làm gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm như tình trạng “miền Tây Hoang dã” (Wild West). Đồng thời, đặc khu kinh tế còn là “cái nôi đặc biệt” (special cubator) cho chủ nghĩa tư bản thân hữu (hay “tư bản đỏ”).
Theo giáo sư Minxin Pei, sự cấu kết của “chủ nghĩa tư bản thân hữu” (crony capitalism) làm cho quá trình dân chủ hóa sẽ gặp khó khăn, rắc rối. Kịch bản dân chủ hóa do tầng lớp trung lưu dẫn dắt rất khó xảy ra dưới chế độ tư bản thân hữu (tại Trung Quốc). Các di sản của chủ nghĩa tư bản thân hữu (như tình trạng bất bình đẳng về tài sản, chính quyền địa phương mafia, cấu kết với các đại gia có đặc quyền) sẽ tạo điều kiện cho những kẻ chiếm đoạt được nhiều tài sản lớn sử dụng quyền lực chính trị để trấn áp các nhân tố dân chủ mới làm cho họ không thể phát triển. Chế độ thối nát (regime decay) sẽ hủy hoại thanh danh chế độ Đảng/Nhà nước bằng ba cách. Thứ nhất, khi các nhóm lợi ích hình thành và xâm nhập vào mọi ngõ ngách của chế độ, chúng sẽ thao túng quyền lực chính trị, biến quyền lực của chế độ thành công cụ quyền lực riêng. Thay vì phục vụ lợi ích của chế độ, chúng chỉ mưu cầu lợi ích riêng. Thứ hai, mạng lưới tham nhũng sẽ tranh giành quyền lực và lợi ích nhóm, làm suy yếu sự thống nhất của Đảng. Thanh trừng nội bộ gia tăng sẽ gây nguy hiểm cho sự an toàn cá nhân của lãnh đạo cấp cao. Thứ ba, khi tham nhũng cấu kết và lan rộng trong bộ máy an ninh của Đảng/Nhà nước, chắc chắn nó sẽ hủy hoại sự trung thành và hiệu quả của các thể chế trụ cột mà Đảng/Nhà nước đang dựa vào để tồn tại. (China’s Crony Capitalism, Minxin Pei, Harvard University Press, 2016).
Trong khi một số người cho rằng Phú Quốc có thể phát triển như Singapore (theo nghĩa tốt), một số người khác cho rằng Vân Đồn có thể trở thành Cremea (theo nghĩa xấu). Nhưng câu chuyện thành công của Singapore (the Singapore Story) dựa trên những tiền đề hoàn toàn khác. Ông Lý Quang Diệu từng nói: “Lẽ ra vị trí số một ở châu Á phải là của Việt Nam”. Theo ông, vị trí địa lý chiến lược, tài nguyên thiên nhiên phong phú là hai yếu tố hàng đầu có thể đưa Việt Nam trở thành “người khổng lồ ở châu Á”. Nhưng đáng tiếc ngày nay năng suất lao động của người Việt Nam chỉ bằng 1/15 của người Singapore (hay 1/5 của người Malaysia, 2/5 của người Thailand). Ông khẳng định sự thành công của một quốc gia bao gồm ba yếu tố chính là: (1) điều kiện tự nhiên (như vị trí chiến lược và tài nguyên thiên nhiên); (2) con người; và (3) thời cơ, nhưng căn bản nhất vẫn là yếu tố con người…  Vì vậy Ông Lý Quang Diệu rất tiếc vì Việt Nam không biết trọng dụng nhân tài, và cho rằng nhân tài của Việt Nam đã định cư ở nước ngoài hết rồi. (Việt Nam trong mắt Lý Quang Diệu, Cao Huy Huân, VOA, 14/9/2014).
Bức tranh an ninh quốc gia  
Giả sử các đặc khu kinh tế đó có thành công nhất định (trước mắt) về du lịch, địa ốc và casino, thì sẽ phải trả giá về vị thế địa chính trị và an ninh quốc gia. Nói cách khác là “lợi bất cập hại”. Nếu điều 62 về Luật Đất đai là một lỗ hổng chính sách, bị các nhóm lợi ích thao túng, thì điều 69 là cánh cửa mở rộng cho Trung Quốc xâm nhập Việt Nam…
Tại dự án thép Formosa (Hà Tĩnh) và dự án giấy Lee & Man (Hậu Giang) tràn ngập người Trung Quốc. Gần đây, dư luận phản ứng chính quyền Quảng Ngãi định di dời đồn Biên phòng Bình Hải để giao đất cho tập đoàn FLC làm dự án “quần thể du lịch nghỉ dưỡng và đô thị Bình Châu-Lý Sơn”. Không phải chỉ có Quảng Ngãi, mà trước đó Đà Nẵng cũng đã di dời đồn biên phòng để lấy đất giao cho dự án tư nhân. Thượng tướng Võ Tiến Trung (nguyên Giám đốc Học viện Quốc phòng) khẳng định, “việc bố trí đồn biên phòng ở đâu đã được nghiên cứu rất kỹ. Bởi lẽ đồn nằm trong thế trận phòng ngự, bảo vệ địa phương” (Zing, 22/4).
Điều 62 còn tiềm ẩn lợi ích nhóm, quy định chính quyền địa phương có quyền thu hồi đất của dân giao cho doanh nghiệp làm dự án. Các doanh nghiệp Việt Nam có quyền giao lại đất cho doanh nghiệp nước ngoài (như Trung Quốc). Trong một cuộc hội thảo tại Nhật (7/9/2017), ông Trịnh Văn Quyết (chủ tịch FLC) tuyên bố ngoài việc bán cổ phần, “FLC có thể chuyển nhượng cả dự án cho nhà đầu tư nước ngoài”. Theo tin báo chí, UBND tỉnh Quảng Trị đang chuẩn bị giao cho FLC 1000 ha tại bãi biển Cửa Việt, dự kiến để làm resort, sân golf, và xây dựng một sân bay. Ngoài Vũng Áng (đã nằm trong tay Trung Quốc), Vân Phong và Cửa Việt là hai vị trí chiến lược hiểm yếu đang bị Trung Quốc nhòm ngó. Từ Bắc Trung bộ đến Nam Trung bộ, nhiều vị trí phòng thủ chiến lược đã và đang được giao cho doanh nghiệp làm dự án mà không tính đến yếu tố an ninh quốc gia. Tại Đà Nẵng và Nha Trang, nhiều vị trí phòng thủ chiến lược dọc bờ biển đã bị các doanh nghiệp Trung Quốc chiếm.
Trong bối cảnh lợi ích kinh tế và chủ quyền Việt Nam tại Biển Đông đang bị Trung Quốc đe dọa nghiêm trọng, việc mở ba đặc khu kinh tế tại các địa điểm hiểm yếu đó vào lúc này không thể biện minh, cả về lý do phát triển kinh tế lẫn lý do an ninh quốc gia. Với năng lực quản trị yếu kém nhưng tiềm năng tham nhũng vượt trội, các khu vực đó sẽ trở thành các “đặc khu tham nhũng” của các nhóm lợi ích “tư bản đỏ” không bị kiểm soát, và là “cái nôi đặc biệt” cho “tư bản thân hữu”. Nếu trước đây hầu hết các dự án lớn tại Việt Nam rơi vào tay các tập đoàn Trung Quốc, thì không có lý gì các đặc khu kinh tế đó lại không rơi vào tay họ và biến thành các “tô giới của Trung Quốc”. Các tập đoàn “tư bản thân hữu” Trung Quốc được nhà nước chống lưng có thừa nguồn vốn và động cơ để thôn tính các đặc khu kinh tế này như một cuộc “xâm lược mềm”, không cần đánh vẫn thắng (như binh pháp Tôn Tử hay “Cờ Vây”). Những vị trí hiểm yếu trên đất liền mà Trung Quốc không chiếm được bằng vũ lực (như họ đã từng chiếm Hoàng Sa và Trường Sa) thì họ sẽ cưỡng chiếm bằng được qua đầu tư và “sức mạnh sắc bén” (sharp power). Vì vậy, “chủ tương lớn” về ba đặc khu kinh tế với những ưu đãi đặc biệt (như cho thuê đất 99 năm), chẳng khác gì “gửi trứng cho ác” hay “nối giáo cho giặc”.
Bức tranh địa chiến lược
Trong lịch sử, Vân Đồn vốn là một tiền đồn có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ phía Đông Bắc, để ngăn chặn thủy quân Trung Quốc xâm nhập bằng đường biển, như thời Ngô Quyền chống quân Nam Hán (tại Trận Bạch Đằng năm 938), thời Lý Thường Kiệt chống quân Tống, (1075-1077), thời Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên Mông (1287-1288). Khi Lý Thường Kiệt đem quân đánh Khâm Châu, Liêm Châu và Ung Châu, thì Vân Đồn và Móng Cái là địa điểm tập kết quân nhà Lý. Khi Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến Sông Cầu để chống quân Tống, Vân Đồn là căn cứ của thủy quân nhà Lý để ngăn chặn thủy quân Tống, không cho ngược sông để hội quân với bộ binh địch, nên quân Tống đã bại trận…
Nếu Vân Đồn có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ phía Đông Bắc nhìn ra Vịnh Bắc Bộ, thì Phú Quốc có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ phía cực Nam nhìn ra Ấn Độ Dương, trong khi Vân Phong có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ Miền Trung nhìn ra Biển Đông. Tại Miền Trung, ngoài cảng Sơn Dương (Vũng Áng) mà Trung Quốc đã nắm, nay chỉ còn Vân Phong và Cửa Việt là hai cảng trung chuyển lớn (nước sâu) có tầm quan trọng chiến lược, nhưng Trung Quốc chưa nắm được. Phú Quốc có vị trí đặc biệt trong tầm nhìn chiến lược Indo-Pacific (cách Sihanoukville và Bokor có mấy chục km). Trung Quốc đã thuê được (lâu dài) hai vị trí chiến lược đó của Campuchea, nên họ rất thèm có Phú Quốc, để hình thành một tam giác chiến lược. Một khi Trung Quốc thỏa thuận được với Thailand để làm kênh đào Kra thì vị trí chiến lược của Phú Quốc còn quan trọng hơn cả Singapore.
Theo James Holmes (một chuyên gia hàng đầu của Mỹ về chiến lược hải quân), một cuộc xung đột vũ trang tại Biển Đông là có thể, và Trung Quốc có thể thắng Mỹ trong một cuộc chiến tại Biển Đông bằng “chiến tranh nhân dân trên biển” (people’s war at sea). Các chính khách và chuyên gia tại Washington và Hà Nội không nên coi phát biểu của bộ trưởng quốc phòng Trung quốc Thường Vạn Toàn (tướng Chang Wanquan) chỉ là “dọa dẫm” (bluster). Trung Quốc có thể thắng dù họ vẫn yếu hơn Mỹ, bằng cách tập trung binh lực áp đảo Mỹ tại địa điểm và thời điểm quan trọng nhất. Tư tưởng “phòng ngự tích cực” (active defense) là tấn công chiến thuật để phòng ngự chiến lược. Hiện nay, các tư lệnh Trung Quốc có thể hợp đồng tác chiến bằng các lực lượng cả nhỏ lẫn lớn để đương đầu với Mỹ và đồng minh. Vì vậy các tư lệnh Mỹ và đồng minh phải nghiên cứu binh pháp của Trung Quốc để hiểu rõ tư tưởng phòng ngự tích cực ngoài khơi (offshore active defence) tại Biển Đông sẽ diễn ra thế nào. (China Could Win a War Against America in the South China Sea, James Holmes, National Interest, May 30, 2018).
Nếu xung đột tại Biển Đông xảy ra thì ba đặc khu Vân Đồn, Vân Phong, và Phú Quốc có ý nghĩa chiến lược hiểm yếu đối với mục tiêu ngăn chặn địch tiếp cận (A2/AD). Nếu ba vị trí chiến lược đó bị đối phương (Trung Quốc) chiếm thì coi như hết cờ (và “xong phim”), không chỉ đối với Việt Nam mà còn cả ASEAN và các cường quốc khác có lợi ích sát sườn tại Biển Đông như Mỹ-Nhật-Ấn-Úc, và EU (hoặc Nga). Nếu Biển Đông có ý nghĩa sống còn không chỉ đối với Việt Nam, mà còn với ASEAN và các cường quốc khác, thì câu chuyện đặc khu kinh tế Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc cũng có ý nghĩa tương tự. Ý nghĩa quan trọng nhất của ba đặc khu kinh tế này là chiến lược (chứ không chỉ kinh tế).
Thay lời kết
Ba đặc khu kinh tế mới là Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang) có kinh phí đầu tư là 1.570.000 tỉ VNĐ. (Riêng Vân Đồn là 270.000 tỉ, Bắc Vân Phong là 400.000 tỉ, Phú Quốc là 900.000 tỉ). Tuy chưa biết họ có định “đội vốn” lên như “hội chứng Ninh Bình” hay không, nhưng với con số 1.570.000 tỉ VNĐ, ngân sách nhà nước hay doanh nghiệp Việt đào đâu ra tiền (nếu không từ “phương bắc”). Điều này tiềm ẩn những rủi ro lớn và nguy cơ lâu dài về địa chính trị và an ninh quốc gia. Nếu đặt câu chuyện ba đặc khu kinh tế này trong bối cảnh xung đột lợi ích Biển Đông và tầm nhìn Indo-Pacific hiện nay, thì yếu tố Trung Quốc trong bức tranh địa chiến lược hiện lên rất rõ.   
Bản chất của các đặc khu Vân Đồn, Phú Quốc, Vân Phong, chủ yếu là sân chơi địa ốc và cờ bạc. Ngay khi vừa mới bàn đến triển vọng thành lập đặc khu thì người ta đã đổ xô đến chiếm đất để đầu cơ và đẩy giá lên rồi, vậy cần thành lập đặc khu làm gì nữa. Muốn Vân Phong trở thành một cảng trung chuyển thì không nhất thiết phải lập đặc khu. Đầu tư địa ốc thực chất cũng chỉ là đầu cơ để để trục lợi ngắn hạn. Yếu tố chính để thu hút đầu tư là một số ưu đãi để lách luật, trốn thuế, hay rửa tiền. Nhưng nếu thu hút đầu tư bằng mọi giá, thì cái giá phải trả cũng sẽ rất lớn. Muốn phát triển bền vững, phải cải tổ thể chế để hội nhập quốc tế theo các tiêu chuẩn chung đã cam kết thông qua các hiệp định như WTO, BTA, FTA (và CPTPP).
Tuy Đảng lãnh đạo “toàn diện và triệt để”, nhưng Quốc hội cũng phải gánh một phần trách nhiệm. Đây là lúc đại biểu Quốc hội và quan chức chính phủ cần suy xét kỹ và quyết định nên chọn cái gì (như nên “chọn cá hay thép”). Nếu quyết định đúng họ sẽ được hậu thế hàm ơn. Nếu quyết định sai họ sẽ bị hậu thế nguyền rủa (dù có cao chạy xa bay). Nhiều chuyên gia cho rằng để được thông qua, dự luật này cần phải bổ sung, sửa đổi rất nhiều, để đảm bảo lợi ích quốc gia, và tránh những sai lầm đáng tiếc. Hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội, thể chế, môi trường, và an ninh quốc gia, do các đặc khu để lại có thể khôn lường. Vì vậy, các đại biểu quốc hội và quan chức chính phủ cần suy xét xem ai được lợi từ đặc khu, và quyết định “bấm nút” vì lợi ích quốc gia, chứ không vì lợi ích nhóm (hay ngoại bang). 
Tham khảo  
1. Việt Nam trong mắt Lý Quang Diệu, Cao Huy Huân, VOA, 14/9/2014
2. China’s Crony Capitalism, Minxin Pei, Harvard University Press, 2016
3. Dự án luật về ba đặc khu Vân Đồn, Văn Phong và Phú Quốc, Vũ Quang Việt, Viet-studies, 30/5/2018
4. Mô hình đặc khu đã lỗi thời, Nguyễn Tiến Lập, MTG, 31/05/2018
5. China Could Win a War Against America in the South China Sea, James Holmes, National Interest, May 30, 2018
1/6/2018
N.Q.D.
Nguồn: http://viet-studies.net/kinhte/NQuangDy_NghichLyDacKhu.html

LUẬT ĐẶC KHU 'NHIỀU ƯU ĐÃI NHƯNG THIẾU RÀNG BUỘC TRÁCH NHIỆM'

pv BẢO HÀ/ VNEx 2-6-2018

Cho thuê đất lên tới 99 năm, ưu đãi về thuế cho lĩnh vực casino,... là vấn đề khiến nhiều đại biểu quan ngại.


Dự án Luật đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc đã được Quốc hội thảo luận ở hội trường lần cuối vào ngày 23/5, dự kiến biểu quyết thông qua vào 15/6.
Quá trình thảo luận, nhiều ý kiến đại biểu băn khoăn về quy định cho nhà đầu tư thuê đất với thời hạn lên đến 99 năm và một số ưu đãi được cho không cần thiết.
Trao đổi với Vnexpress bên hành lang Quốc hội ngày 1/6, đại biểu Hoàng Văn Cường - Phó giám đốc Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội cho hay, con số 99 năm khiến nhiều cử tri lo lắng.
"Nếu Ban soạn thảo vẫn dứt khoát quyết định chọn mốc thời gian này thì phải kèm theo những điều kiện ràng buộc chặt chẽ. Nhưng, tôi chưa thấy ràng buộc nào ở dự thảo Luật”, ông Cường nói và giải thích điều quan ngại của mình là, nếu chúng ta giao đất cho nhà đầu tư và họ được toàn quyền quyết định trên diện tích đó, rồi họ cứ trụ chân ở đó tuy không làm gì thì chúng ta có thể mất đi quyền quản lý cần thiết của mình.
Theo ông, việc cho thuê đất bao nhiêu năm phụ thuộc vào nhà đầu tư làm ăn, chấp hành tốt pháp luật hay không, nếu có điều kiện ràng buộc chặt chẽ thì không cần 99 năm, chỉ cần 50 năm và hết thời hạn lại xét thêm chu kỳ tiếp theo.

Đại biểu Hoàng Văn Cường, Phó giám đốc Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội. Ảnh: Nguyễn Phúc
Đại biểu Hoàng Văn Cường, Phó giám đốc Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội. Ảnh: Nguyễn Phúc
Đại biểu Trương Trọng Nghĩa cho rằng, đất đai dành cho các hoạt động kinh tế, xã hội ngày càng hiếm, đất ở đặc khu lại càng có hạn. Vì vậy việc cấp phép sử dụng đất cho các dự án phải hợp lý. Đơn cử, một dự án có vòng đời 30 năm mà cấp quyền sử dụng đất tới 40 năm, 50 năm nghĩa là doanh nghiệp khác mất cơ hội tiếp cận đất đai ngay cả khi dự án đã xong. 
Trong thực tế, quy định cho thuê đất hiện tối đa là 70 năm và mới chỉ có dự án Formosa ở miền Trung được cấp phép với thời hạn này.
"Cá nhân tôi thấy dự án này cũng không cần tới 70 năm. 50 năm đã là nửa thế kỷ. Chúng ta cấp 50 năm, xem nửa thế kỷ ấy một dự án thép hoặc dự án casino vận hành như thế nào, về sau xét thấy nhu cầu cần thiết lại cấp tiếp 20, 30 năm nữa”, ông Nghĩa nêu giải pháp.

Đại biểu Trương Trọng Nghĩa. Ảnh: PV.
Ông Trương Trọng Nghĩa, Đoàn đại biểu Quốc hội TP HCM. Ảnh: PV.
Ngoài ra, đại biểu Trương Trọng Nghĩa nhận định, nếu nhìn trên bản đồ thì những nơi dự kiến xây dựng đặc khu như Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hoà), Phú Quốc (Kiên Giang) đều ở vị trí nhạy cảm về an ninh, quốc phòng, cần tiếp cận thận trọng.
"99 năm là một thế kỷ, mấy thế hệ sinh ra và lớn lên, chúng ta có thể để cho con cháu sau này quyết định số phận của những dự án ở đặc khu, không nhất thiết quyết thay cho họ", ông Nghĩa nêu quan điểm.
Cũng đề cập đến vấn đề trên, bà Đỗ Thị Lan - Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Ninh nhìn theo một hướng khác. Bà Lan cho rằng hiện đã có cơ chế cho doanh nghiệp thuê đất trong thời hạn 70 năm, “giờ thêm 29 năm nữa là tạo ra cơ chế vượt trội". Hơn nữa, dự thảo Luật cũng đã quy định chỉ những trường hợp đặc biệt như nhà đầu tư lớn, lĩnh vực đặc biệt… mới được hưởng thời hạn 99 năm đó.
"Việc nới rộng thời hạn cho thuê đất nhằm thu hút các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, hiện chúng ta còn kém trong việc mời gọi các nhà đầu tư này”, bà Lan nói.
Đại biểu lo doanh nghiệp "chỉ cần giữ chỗ đã được hưởng lợi"
Dự thảo Luật đặc khu cũng đưa ra những chính sách ưu đãi đầu tư về thuế, đất đai đảm bảo vượt trội so với trong nước, nhằm "cạnh tranh được với các đặc khu trên thế giới để thu hút đầu tư vào các ngành, nghề ưu tiên phát triển"; áp dụng mức thuế suất tiêu thụ đặc biệt đối với dịch vụ kinh doanh casino, kinh doanh đặt cược thấp hơn mức thuế suất hiện hành....

Click vào ảnh để xem thêm Những ưu đãi tại 3 đặc khu tương lai. Đồ họa: Tạ Lư.
Click vào ảnh để xem thêm Những ưu đãi tại 3 đặc khu tương lai. Đồ họa: Tạ Lư.
Đại biểu Trương Trọng Nghĩa phân tích, sau mấy chục năm thu hút FDI, nhu cầu phát triển của Việt Nam và tình hình khoa học công nghệ trên thế giới đã khác rất nhiều.
“Cách đây 30 năm khi làm Luật Đầu tư nước ngoài, chúng ta không có gì kể cả các ngành gia công như dệt may, da giày,… nhiều vùng trắng kinh tế nên phải thu hút các nhà đầu tư và Việt Nam đã ưu đãi họ rất nhiều”, ông Nghĩa điểm lại tình hình.
Tuy nhiên, theo đại biểu này, những năm gần đây, Việt Nam đã chuyển hướng sang thu hút đầu tư các ngành công nghệ cao, không gây ô nhiễm môi trường... Trong bối cảnh như vậy, việc giao đất một cách rộng rãi và ưu đãi để doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, sử dụng nhân công giá rẻ không còn cần thiết.
"Tôi đọc kỹ dự thảo Luật và không rõ các đặc khu muốn gì? Nếu muốn thu hút công nghệ cao thì có thể xây dựng thành mô hình thung lũng silicon như thế giới. Nhưng nếu vậy dự án phải khác, ưu đãi cũng phải khác với cách thu hút đầu tư casino", ông Nghĩa nói và cho rằng, vấn đề nằm ở chỗ, nói là thu hút công nghệ cao nhưng lại đưa casino vào kinh doanh thì sẽ thành "lộn xộn".
Đại biểu Nghĩa phân tích thêm, những khu vực dự kiến phát triển thành đặc khu, ví dụ Phú Quốc, chưa cần ưu đãi thì nhà đầu tư đã vào rất nhiều, đất đai, biệt thự, khách sạn đã được xây dựng ồ ạt và bán sang tay hai lần, ba lần. "Vậy thì chúng ta nên tiếp tục ưu đãi để thu hút đầu tư hay nên tiếp cận vấn đề theo hướng khác?”, ông nêu vấn đề.
"Nếu chính quyền quản lý tốt thì giá đất trên địa bàn quy hoạch đặc khu có thể không đến 50 triệu, 70 triệu hay cả 100 triệu đồng mỗi m2, mà có thể chỉ là 10 triệu, 15 triệu đồng thôi. Nhưng bây giờ các nhà đầu cơ họ đã mua hết. Do đó, việc miễn thuế đất, miễn tiền thuê đất, tiền thuê mặt nước thực chất là điều tiết tiền ngân sách vào túi các nhà đầu cơ”, ông Nghĩa lo lắng.
Cũng nói về các chính sách ưu đãi ở đặc khu, đại biểu Hoàng Văn Cường cho rằng, trường hợp đất giao cho các nhà đầu tư kinh doanh thương mại mà lại miễn thuế là một vấn đề lớn. "Vấn đề không phải mất tiền thuế mà mất đi môi trường cạnh tranh. Việc miễn thuế lẽ ra mang mục đích khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất, ở đây lại ưu đãi cho lĩnh vực dịch vụ thì doanh nghiệp không cần cạnh tranh mà chỉ cần chiếm đất giữ chỗ, 5 năm, 10 năm sau chắc chắn có lợi nhuận”, ông Cường nói.
Phó giám đốc Đại học kinh tế quốc dân chia sẻ: "Cá nhân tôi và nhiều cử tri đều mong muốn Việt Nam sớm có hành lang pháp lý về đặc khu, thí nghiệm các thể chế tốt, thu hút nhà đầu tư để tạo ra các cực tăng trưởng lan toả, tuy nhiên đó phải là sự phát triển bền vững".
Đại biểu Đỗ Thị Lan thì cho rằng, những ưu đãi mà dự thảo Luật đề ra là cần thiết để tạo ra cơ chế đột phá. “Chúng ta muốn đột phá mà cứ chậm trễ thì sẽ không đạt được mục tiêu. Trong bối cảnh hiện nay, không sớm thông qua Luật đặc khu thì sẽ tạo ra sự lãng phí bởi hiện nay nhà đầu tư đã có, tài nguyên, cơ sở đã sẵn sàng, chỉ chờ Luật thôi”, bà Lan nhấn mạnh và bày tỏ kỳ vọng, đến năm 2022, các đặc khu sẽ cho những kết quả bước đầu.

Bảo Hà

TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG "TIỂU QUỐC" MANG TÊN "ĐẶC KHU"

M.KIM / BVN 2-6-2018

Cổng vào Kings Romans Casino thuộc “Đặc khu kinh tế Tam Giác Vàng” (South China Morning Post)
Dự luật thành lập ba đặc khu kinh tế (Vân Đồn-Quảng Ninh, Bắc Vân Phong-Khánh Hòa, Phú Quốc-Kiên Giang) đang gây chú ý không chỉ bởi yếu tố thời hạn cho thuê đất có thể lên đến 99 năm mà là sự lo lắng về một cuộc đổ bộ của Trung Quốc, cát cứ ba vị trí ảnh hưởng an ninh quốc gia. Mở rộng ảnh hưởng và bành trướng chủ nghĩa thực dân kiểu mới bằng lá bài “đặc khu kinh tế” là chủ trương Bắc Kinh. Thử xem Trung Quốc đang làm gì với những “đặc khu” ở các nước khu vực…
Năm 2007, Chính phủ Lào cấp phép cho thuê đất 99 năm cho tập đoàn Kings Romans có trụ sở tại Hong Kong, lập “Đặc khu kinh tế Tam Giác Vàng” tại tỉnh Bokeo. Lào đồng ý cho Kings Romans thuê 10.000 hecta đất trong đó 3.000 hecta được dành cho “đặc khu”, với nhiều chính sách ưu đãi chẳng hạn miễn thuế. Kings Romans dự kiến đầu tư tổng cộng 2,25 tỷ USD vào trước năm 2020, trong đó có một sân golf, khu massage, karaoke… Nói chung là ăn chơi chứ không phải hạ tầng hi-tech. Trong video clip 15 phút quảng bá phát trên nhiều website Trung Quốc năm 2013, Kings Romans tự hào việc xây dựng một khu du lịch và thương mại cùng với khu nghỉ dưỡng cao cấp, sân golf, câu lạc bộ du thuyền… Hầu hết 4.500 nhân viên-công nhân tại đặc khu là người Trung Quốc. Người điều hành Kings Romans là Zhao Wei 67 tuổi, mà theo Los Angeles Times, vốn là một y sĩ làng quê xuất thân từ Hắc Long Giang. Nói với South China Morning Post, Zhao Wei cho biết ông ta toàn quyền kiểm soát Đặc khu Tam Giác Vàng; và đặc khu là “một thế giới riêng của người Trung Quốc”. “Thế giới riêng” đó chiếm 102 km2, với 7 km dọc bờ Mekong nhìn sang Myanmar và Thái Lan.

Zhao Wei, ông chủ Kings Romans (South China Morning Post)
Hơn 10 năm sau khi “cam kết mang lại lợi ích kinh tế cho tỉnh Bokeo nói riêng và Lào nói chung”, Kings Romans đã biến Đặc khu Tam Giác Vàng thành một ổ tội phạm khổng lồ. Tháng 1-2018, Bộ tài chính Hoa Kỳ đã đưa công ty này vào danh sách các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia bị Mỹ cấm vận, bởi liên quan “ma túy, buôn người, buôn lậu động vật hoang dã và mại dâm trẻ em” (Reuters 31-1-2018). Cơ quan phòng chống ma túy (DEA) và Bộ Tài chính Mỹ thậm chí cấm vận một người mang quốc tịch Úc (Abbas Eberahim) làm việc cho Kings Romans, vì tội “chịu trách nhiệm an ninh cho Kings Romans Casino cũng như hối lộ giúp Zhao Wei”. Việc bị Mỹ cấm vận dĩ nhiên không ảnh hưởng hoạt động Kings Romans tại Lào. Vientiane không vì thế mà đóng cửa Kings Romans. Hang ổ ma túy đĩ điếm này còn mặc sức tung hoành với cái hợp đồng 99 năm. Trong khi đó, Vientiane vẫn tiếp tục mở cửa cho Trung Quốc. Tháng 8-2017, Lào bật đèn xanh cho Guangdong Yellow River (“Quảng Đông Hoàng Hà thực nghiệp tập đoàn”) lập Đặc khu Khonphapheng tại tỉnh Champassak. Dự án vẫn tập trung vào du lịch hơn là xây dựng hạ tầng công nghiệp kỹ thuật cao. Sẽ có một ổ cờ bạc mại dâm quốc tế nữa, được ghép với cái tên “đặc khu”?
Ngày 11-1-2018, tại Phnom Penh, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường ký 19 thỏa ước trị giá hàng tỷ đôla để phát triển hạ tầng giao thông, nông nghiệp và y tế cho Campuchia. Từ 2011-2015, các công ty Trung Quốc đã cung cấp gần 5 tỷ USD vốn vay và đầu tư vào nước này (South China Morning Post 14-1-2018). Tiền Trung Quốc cũng đổ vào Đặc khu kinh tế Sihanoukville. Kể từ thời điểm thành lập 2008, Đặc khu Sihanoukville đã trở thành một “tiểu quốc Trung Quốc” trong lòng Campuchia. Với 11,12 km2 (Cần biết: diện tích quận 1 Sài Gòn hiện tại là 7,73 km2), Đặc khu Sihanoukville có đầy đủ hạ tầng của một thành phố, từ hệ thống cống thoát nước, khu nhà ở, nhà hàng, giải trí, đến chợ búa cùng các dịch vụ tiện ích khác… Các bảng hiệu đều ghi bằng chữ Trung Quốc. Khoảng 100 công ty Trung Quốc với chừng 16.000 nhân viên-công nhân Trung Quốc đang sống trong Đặc khu. Một bài báo Tân Hoa Xã (18-11-2016) cho biết Đặc khu sẽ mở rộng với 300 công ty Trung Quốc vào trước năm 2020. Campuchia hẳn nhiên cũng “có lợi” trong sự phát triển Đặc khu Sihanoukville nhưng chắc chắn họ chỉ liếm láp mẩu bánh thừa rơi rớt từ bàn tiệc của các công ty Trung Quốc – những “ông chủ” đích thực của nền kinh tế Campuchia mà dân Campuchia trở thành người làm công trên chính mảnh đất mình.
Tính đến tháng 4-2018, Trung Quốc đang xây một công viên công nghiệp 303 hecta tại “Đặc khu kinh tế Bangladesh”. Phía Bangladesh góp 30%; còn lại là China Harbour Engineering Company (“Trung Quốc cảng loan công trình công ty”). “Đây là lần đầu tiên Trung Quốc có được một cơ sở lớn như thế tại Bangladesh, nơi giới đầu tư Trung Quốc có thể xây dựng các khu công nghiệp” – viên chức Li Guangjun thuộc Sứ quán Trung Quốc tại Dhaka nói với Reuters.
Tại Sri Lanka, Bangladesh, Nepal, Pakistan…, Trung Quốc đang đổ hàng núi tiền vào việc xây dựng hải cảng, khu công nghiệp và đặc khu kinh tế.

Một góc Đặc khu Sihanoukville đang được xây mở rộng
(South China Morning Post)
Có nước lớn nào đầu tư mạnh vào mô hình đặc khu tại nhiều quốc gia như Trung Quốc?
Gần như là không. Mô hình đặc khu đã lỗi thời.
Tại sao Trung Quốc thích xây dựng đặc khu?
Kế hoạch này, trước hết, nằm trong bản thiết kế vừa mang lại lợi ích kinh tế lẫn lợi ích chính trị: “Một vành đai-Một con đường”. Theo Caixinglobal (12-5-2017), tính đến tháng 4-2017, Trung Quốc có tổng cộng 77 đặc khu đang được xây tại 36 quốc gia, với 56 đặc khu nằm tại 20 quốc gia dọc theo tuyến “Một vành đai”. Hơn 1.000 công ty Trung Quốc đã đầu tư 18,55 tỷ USD tại các đặc khu dọc tuyến “Một vành đai”. Không như mô hình công viên công nghiệp mà Mỹ, Nhật hoặc Hàn Quốc xây dựng, nơi nguồn nhân lực chủ yếu là người bản địa, “đặc khu” Trung Quốc, tại bất kỳ quốc gia nào, chỉ ưu tiên cho người Trung Quốc. Đặc khu là một thành phố Trung Quốc được dựng ngay trong lòng một quốc gia khác, khai thác chính nền kinh tế quốc gia đó và mang lợi nhuận về bản quốc.
Được hưởng những chính sách ưu đãi, một đặc khu lớn (cỡ Kings Romans) – dù chỉ nhả ra vài mẩu bánh vụn hoặc khúc xương thừa – cũng trở thành một thành tố quan trọng đối với nền kinh tế quốc gia bản địa, và do vậy, nó có thể bẻ gãy một phần hoặc phá hủy cấu trúc tài chính-kinh tế của quốc gia sở tại nếu nó muốn. Thời gian thuê đất càng dài thì sự gắn kết của đặc khu vào nền kinh tế quốc gia sở tại càng chặt và khả năng khống chế hoặc thao túng của “tiểu quốc Trung Quốc” tại quốc gia sở tại càng cao.
Nhìn lại, có thể thấy Trung Quốc chỉ nhắm vào các nước nghèo để lập đặc khu. Sức mạnh kim tiền của Trung Quốc dù ghê gớm thế nào cũng không thể lập một đặc khu như Kings Romans hay Sihanoukville tại Mỹ hoặc thậm chí Hàn Quốc, nơi Trung Quốc không thể mua chuộc đám quan chức tham lam sẵn sàng vỗ béo mình bằng cách “kinh doanh” tương lai quốc gia khi bán đất đai cho nước ngoài với giá rẻ mạt; nơi Trung Quốc không thể hối lộ bọn quan quyền vô liêm sỉ sẵn sàng đưa quốc gia đến nguy cơ diệt vong chủ quyền.
Tháng 2-2018, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron mời 1.000 nông dân vào Điện Elysée với lời hứa, Chính phủ Pháp sẽ chặn đứng các thương vụ mua đất từ người nước ngoài sau khi dư luận Pháp phản ứng trước vụ một nhà đầu tư Trung Quốc mua 2.700 hecta đất tại vùng Allier và Indre. Câu chuyện của nước Pháp xa xôi và nước Pháp văn minh không giống với câu chuyện Việt Nam với một “đảng cai trị và nhân dân làm chủ”. Trong Dự thảo luật đặc khu, Điều 11 ghi: “Cơ quan lập quy hoạch đặc khu có trách nhiệm lấy ý kiến các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan, tổ chức có liên quan, chuyên gia, nhà khoa học, nhà đầu tư chiến lược, cộng đồng dân cư sinh sống tại đặc khu về quy hoạch đặc khu”. Tuy nhiên, ngày 16-4-2018, chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân “nhấn mạnh” tại phiên thảo luận về dự thảo Luật đặc khu Vân Đồn-Bắc Vân Phong-Phú Quốc rằng, “Bộ Chính trị đã kết luận rồi, dự thảo luật không trái Hiến pháp, phải bàn để ra luật chứ không không thể không ra luật”.
Bộ Chính trị của bà Kim Ngân có xét đến yếu tố an ninh quốc gia, trật tự xã hội, an toàn kinh tế…? Chưa bao giờ Bộ Chính trị của bà Kim Ngân trở nên nguy hiểm đối với quốc gia bằng lúc này. Chưa bao giờ Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đưa đất nước đến bờ vực tiêu diệt tương lai nhiều thế hệ bằng lúc này.
M.K.
Nguồn: https://www.triviet.news/trung-quoc-va-nhung-tieu-quoc-mang-ten-dac-khu/

BỐN CÁCH & HAI GIAI ĐOẠN TRUNG QUỐC CÓ THỂ KIỂM SOÁT VÂN ĐỒN

VÕ TRÍ HẢO/ BVN 2-6-2018

Bốn cách để Trung Quốc có thể (không nhất thiết phải xảy ra) kiểm soát Vân Đồn, sau khi Luật Đơn Vị Hành Chính - Kinh Tế đặc biệt được thông qua:

GIAI ĐOẠN I
Cách thứ nhất, M&A.
Luật Việt Nam hoàn toàn không cấm một Doanh nghiệp “Dân Túy” nào đó của Việt Nam đứng ra phất cao ngọn cờ “tinh thần dân tộc” để được lĩnh dự án qua chỉ định thầu. Khi giành được dự án, tập đoàn này sẽ thành lập ra một công ty con để sở hữu, quản lý, vận hành dự án. Sau khi “thành món thành tấm”, nhằm lúc thiên hạ ít để ý, lặng lẽ chuyển nhượng cổ phần của doanh nghiệp con này cho Doanh nghiệp có nguồn gốc Trung Quốc (không nhất thiết là Doanh nghiệp mang quốc tịch Trung Quốc, mà là thông qua một hệ thống chằng chịt các doanh nghiệp cháu chắt, chiu… mà công ty Trung Quốc, hoặc Chính phủ Trung Quốc có thể chi phối).
Cách thứ hai, BCC (Business Cooperation Contract).
Cách thứ nhất nêu trên, có thể bị hạn chế phần nào, bởi quy định về ROOM tối đa mà một doanh nghiệp nước ngoài có thể sở hữu cổ phần của một doanh nghiệp Việt Nam, một dự án..., khiến cho Doanh nghiệp Trung Quốc muốn áp dụng cách thứ nhất sẽ phải tốn mưu, tốn sức (thành lập một hệ thống công ty ông bà, công ty bố mẹ, công ty cháu chắt…) để lách quy định về ROOM (bản thân giải pháp khống chế bằng ROOM, khi áp dụng cũng phải phù hợp với WTO, CPTPP, MFN...), về điều kiện kinh doanh đặc biệt đối với FDI, thì cách thứ hai, có chút rủi ro hơn về tiền bạc. Đó là nhắm vào một doanh nghiệp Việt Nam đang chiếm giữ đất mà họ muốn kiểm soát; không cần M&A, mà chỉ cần ký một Hợp đồng Hợp tác Kinh doanh (BCC); trong BCC này chỉ cần hai nội dung cốt lõi (tạm gọi là hai điều khoản) là tình báo Trung Quốc có thể hạ gục, biến doanh nghiệp Việt Nam thành con rối (puppet/ botnet):
– Điều 1: Bên A (Doanh nghiệp Việt Nam được đầu tư số tiền X, được thanh toán cho các cổ đông của Doanh nghiệp A một lần; hoặc thanh toán định kỳ hàng năm một khoản lợi nhuận cố định bằng Y VND).
– Điều 2: Bên B (doanh nghiệp có nguồn gốc Trung Quốc hay bị Chính phủ Trung Quốc kiểm soát, chi phối) có quyền: chỉ định/ hoặc phủ quyết Người Đại diện theo pháp luật (nôm na là Giám đốc/ Chủ tịch)/ Kế toán trưởng…) và có các quyền sau đây:… -> Toàn quyền định đoạt Bên A.
So với cách thứ nhất, cách thứ hai có một chút rủi ro tài chính. Vì BCC phải do một luật sư rất cao tay soạn ra thì Bên B mới đạt được mục tiêu & nó bị tác động nhiều khi Bên A nổi lòng yêu nước; không chấp nhận bị khống chế nữa; tìm cách bất tuân BCC. Nhưng tiền bạc là cái mà Chính quyền Trung Quốc có thể bơm cho Doanh nghiệp Trung Quốc thực hiện để đạt được mục tiêu chính trị, an ninh, gián điệp của Chính phủ Trung Quốc & nổi loạn chống lại BCC không hề dễ chút nào.

Cách thứ ba, Marriage (kết hôn).

Cách này tuy không áp dụng đại trà được & có một chút rủi ro vì sự ‘đỏng đảnh” hay “bất tuân” của người vợ Việt Nam. Nhưng lại là cách khi đã “triển” thì rất khó đối phó. Bởi cô vợ Việt Nam là công dân Việt Nam, không thể áp dụng các hạn chế đối với doanh nghiệp do cô vợ đứng ra làm bình phong.

Cách thứ tư, hợp đồng công chứng ủy quyền định đoạt hoặc hợp đồng thuê nhà, thuê BĐS 99 năm.

Hiện nay pháp luật không cấm (và cũng không nên cấm) việc Bên A ủy quyền cho Bên B định đoạt một số quyền của Bên A; pháp luật cũng không cấm thời hạn của Hợp đồng thuê nhà, Hợp đồng thuê tài sản, Hợp đồng Khai thác tài sản bị giới hạn bao lâu. Nên sau khi triển khai xong dự án bất động sản, Bên A (Doanh Nghiệp Việt Nam) hoàn toàn có quyền ký Hợp Đồng Ủy Quyền Định Đoạt (bất động sản) cho Bên B (doanh nghiệp Trung Quốc) hoặc cho người Trung Quốc thuê nhà với thời hạn 99 năm & có quyền cho người khác thuê lại.
Pháp luật Việt Nam gần như chưa điều chỉnh về Trust. Sử dụng “trust” thì họ còn có vô vàn cách để kiểm soát doanh nghiệp bình phong.
Bốn cách nêu trên có thể áp dụng đối với bất cứ địa phương nào, không riêng gì Vân Đồn. Nhưng tại sao tôi lại quan ngại Vân Đồn. Bởi (1) giá trị quân sự của Vân Đồn đối với Trung Quốc & (2) đặc điểm Isolated của island của Vân Đồn; (3) “Vừa miếng”; (4) Gần về không gian địa lý, khiến cho Trung Quốc dễ chuyển sang Giai đoạn 2. Còn đường Tự Do ở Sài Gòn vẫn bị bao quanh bốn bề là người Việt; chứ không phải bốn bề là biển như một hòn đảo; nên khi bị kiểm soát nó chưa gây ra bất ổn nào đáng kể.
Còn một hòn đảo trong Vịnh Bắc Bộ, cận kề Trung Quốc, có lịch sử sinh sống của người Trung Quốc trước năm 1979 (thời kỳ Môi Hở Răng Lạnh, Núi Liền Núi, Sông Liền Sông, Chung Một Biển Đông) thì Trung Quốc có nhiều động lực (incentive), quyết tâm & điều kiện để chuyển sang Giai đoạn II. Sau chừng 10 năm áp dụng bốn cách ở nêu trên, Chính Quyền Trung Quốc có thể chuyển sang Giai đoạn II, theo kịch bản Crưm.

GIAI ĐOẠN II: KỊCH BẢN CRƯM

  1. Di dân (bằng tất cả mọi cách). Cái này ông Dương Trung Quốc có cảnh báo rồi; không phân tích chi tiết thêm.
  2. Tạo bất ổn chính trị; kiếm cớ biểu quyết ly khai;
  3. Ly khai;
  4. Xin gia nhập Trung Quốc.
Vì vậy tôi khẩn thiết đề nghị, nếu vẫn quyết tâm làm Đơn vị Hành chính – Kinh tế đặc biệt thì nên chọn 1 cái đầu tiên an toàn nhất về an ninh quốc phòng làm trước; sau 5 năm triển khai cái thứ hai; sau 10 năm đúc rút thì mới triển khai cái thứ ba. Và mỗi đặc khu phải có một luật riêng; bởi nguy cơ an ninh quốc phòng, cũng như các đặc điểm khác của Phú Quốc khác xa Vân Đồn, Vân Phong.
Và về mặt kinh tế học, nó sẽ tránh đầu tư dàn trải.
Trong Dự thảo hiện hành của Luật Đơn vị Hành chính - Kinh tế đặc biệt đã có đối sách với Bốn cách, Hai giai đoạn nêu trên hay chưa?
V.T.H.
Nguồn: https://www.facebook.com/notes/võ-tr%C3%AD-hảo/bốn-cách-hai-giai-đoạn-trung-quốc-có-thể-kiểm-soát-vân-đồn/2152736361471057/
NHỮNG ĐIỂM BẤT ỔN CỦA LUẬT ĐẶC KHU
LS LÊ LUÂN/ FB LL/ BVN 2-6-2018

Điều đáng lo ngại nhất của Luật Đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt là vấn đề liên quan mật thiết đến chủ quyền về lãnh thổ ở các khía cạnh:

Một là, khả năng mất quyền tài phán của toà án trong nhiều trường hợp, vì luật này cho phép toà án nước ngoài có thể được lựa chọn để giải quyết trong một số tranh chấp với tổ chức và cá nhân người nước ngoài. Trong khi đó, chỉ có Trọng tài mới là cơ chế giải quyết tranh chấp mà do các bên lựa chọn chủ động theo Điều ước quốc tế hoặc theo thoả thuận của các bên tham gia giao dịch (lĩnh vực thương mại quốc tế, thuộc tư pháp quốc tế). Nhưng nay Luật Đặc khu lại cho phép các bên lựa chọn toà án để giải quyết tranh chấp. Đây là một vấn đề pháp lý nguy hại nghiêm trọng, vì một đất nước thì toà án là cơ chế (nhánh tư pháp) thể hiện quyền tài phán riêng biệt và duy nhất để khẳng định chủ quyền của một quốc gia. Thế nhưng không hiểu lý do gì mà ta lại có thể coi đặc khu là một nơi được lựa chọn toà án của nước ngoài để giải quyết tranh chấp? Các nhà lập pháp có thực sự có nhận thức và tư duy đúng mực của một nhà lập pháp hay không? Tôi chưa bao giờ thấy nơi nào cho một cơ quan tài phán nào khác được phép xét xử các tranh chấp trên chính lãnh thổ của mình như vậy.
Hai là, việc giao đất có thời hạn đến 99 năm và kèm theo việc người nước ngoài được sở hữu nhà ở, căn hộ theo dạng nhà thương mại hoặc biệt thự nghỉ dưỡng. Tức là người nước ngoài có thể không chỉ sở hữu căn hộ kiểu nhà chung cư mà còn sở hữu nhà trên đất dưới dạng biệt thự trong khu nghỉ dưỡng. Như vậy thì thật sự nguy hiểm, và cộng thêm quyền tài phán của toà án tại đặc khu có thể bị loại bỏ trong một số trường hợp thì chúng ta bảo vệ chủ quyền kiểu gì đối với chính các giao dịch thuộc về sự gắn liền với lãnh thổ và địa giới trên thực địa?
Ba là, Luật Đặc khu tạo ra một kiểu mô hình chính quyền mới trong đó thêm Trưởng khu hành chính là người thừa hành quyền nhiệm từ Chủ tịch uỷ ban nhân dân đặc khu mà không rõ tiêu chuẩn của người này như thế nào. Việc thành lập Hội đồng nhân dân đặc khu giới hạn tối đa 15 đại biểu và không có thường trực cũng như các ban. Việc bầu chủ tịch và phó chủ tịch hội đồng phải được Uỷ ban thường vụ quốc hội phê chuẩn. Và toà án được phân thành các toà chuyên trách gồm: toà hành chính, toà kinh tế và toà chuyên trách khác. Và Toà án lại do Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập dựa trên đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao chứ không phải được thành lập theo sự phân cấp thông thường, viện kiểm sát cũng trong một tình trạng tương tự. Như vậy việc thành lập toà án đặc khu (tương đương cấp huyện) lại theo một trình tự khác biệt và vượt cấp ở mức đặc biệt, trong khi thẩm quyền tài phán của nó thì bị thu hẹp hơn là toà án thông thường.
Bốn là, chúng ta coi hành vi đánh bạc gồm cá cược, đặt cược và casino là một loại tội phạm, nhưng khi thành lập đặc khu thì những hoạt động này lại được coi là hợp pháp vì là một lĩnh vực đầu tư, kinh doanh. Vậy có nghĩa rằng trên một lãnh thổ, một hành vi ở nơi này là tội phạm nhưng ở nơi khác lại là được phép. Mâu thuẫn pháp lý này là một nghịch lý không thể được chấp nhận trong một hệ thống luật pháp và đối với một quốc gia.
Năm là, việc đầu tư hay thu hút đầu tư nước ngoài thông qua thành lập đặc khu là một hình thức đã lỗi thời và tiềm ẩn nguy cơ phương hại đến an ninh quốc gia và chủ quyền lãnh thổ nhiều hơn là cái lợi (chỉ về mặt kinh tế) mà nó đem lại. Chúng ta thiết lập nên những thực thể pháp lý đặc biệt và với phạm vi đặc biệt mà lại tạo ra nhiều lỗ hổng về mặt luật pháp cũng như trong việc tổ chức và kiểm soát chính quyền thì điều đó thực sự nguy hại đối với an ninh địa chính trị về lâu dài.
Đề nghị Quốc hội thực hiện trưng cầu dân ý và phải bàn thảo lại một cách kỹ lưỡng cũng như hết sức cẩn trọng vì đây là một vấn đề đặc biệt quan trọng, không chỉ liên quan đến an ninh quốc gia, chủ quyền mà còn ảnh hưởng rộng lớn đến lợi ích của toàn bộ xã hội.

o automatic alt text available.
L.L.
Nguồn: FB Luân Lê

TÔ GIỚI 99 NĂM VÀ CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC CHỦ NỢ TRUNG HOA

NGUYỄN QUỐC TẤN TRUNG/ Luatkhoa/ BVN 2-6-2018

Trong lịch sử thông luật, thời hạn thuê 99 năm được xem là thời hạn cho thuê bất động sản dài nhất có thể.
Nền tảng lý thuyết để lý giải cho thời hạn này không rõ ràng lắm. Một số cho rằng đây là một thời hạn an toàn để người thuê đất có thể an tâm đầu tư, khai thác và sử dụng đất, vì 99 năm thuê đủ để vượt qua kỳ vọng tuổi thọ của người thuê. Trong khi đó, nó cũng bảo đảm quyền sở hữu trong tương lai của người cho thuê và những người thừa kế của mình đối với mảnh đất.
Mặt khác, xét theo các khía cạnh tư luật, giới hạn thời hạn thuê thường được xem là một biện pháp bảo đảm các giao dịch chuyển nhượng đất không bị che giấu bằng thỏa thuận thuê đất. Ví dụ, pháp luật tiểu bang Alabama (Mỹ) không cho phép cho thuê bất động sản quá 99 năm.
Vương Quốc Anh đã phổ biến thời hạn 99 năm trở thành biểu tượng của chủ nghĩa đế quốc bằng việc cưỡng ép nhiều quốc gia yếu thế hơn tham gia vào các hiệp định hình thành tô giới (hay territorial concession) với chính sách ngoại giao pháo hạm khét tiếng (gunboat diplomacy). Ví dụ điển hình nhất của chính sách này là thoả thuận thuê Hong Kong mà Anh quốc ký với triều đình nhà Thanh của Trung Quốc vào năm 1898.
Còn hiện nay, Trung Quốc, với sự lớn mạnh kinh tế và bành trướng quân sự của mình đang ‘trả thù đời’ với thời hạn thuê 99 năm tương tự tại nhiều quốc gia, được nhiều nhà quan sát gọi là chủ nghĩa đế quốc chủ nợ Trung Hoa.
Tháng 12 năm ngoái, Sri Lanka chính thức bàn giao cảng Hambantotacho chính quyền Trung Quốc. Hambantota, nằm tại đường biển phía Nam Sri Lanka, là cảng biển có vị thế địa chính trị đặc biệt quan trọng, cho phép Trung Quốc tiếp cận nhiều cung đường biển giao thoa ở Ấn Độ Dương.
Đây là chiến thắng quan trọng của chính quyền Bắc Kinh trong việc hiện thực hóa chiến lược Vành đai và Cung đường (Belt and Road Initiative), được Chủ tịch Tập Cận Bình ca ngợi là ‘“dự án thế kỷ” – và chứng tỏ chính sách ngoại giao bẫy nợ của Trung Quốc hiệu quả đến thế nào trong việc kiểm soát các chính phủ tại nhiều quốc gia đang phát triển.
Theo thông báo chính thức của chính phủ Sri Lanka, việc giao quyền kiểm soát cảng biển này cho Trung Quốc trong thời hạn 99 năm trị giá 1,12 tỷ USD, dưới hình thức bán lại 85% cổ phần trong công ty quản lý Hambantota.
Tuy nhiên, phần lớn khoản tiền cho thuê này không vào túi chính phủ Sri Lanka, mà được dùng để trả khoản tiền mà Sri Lanka đang nợ chính phủ Trung Quốc cho chính việc xây dựng cảng biển này. Công ty China Merchants Port Holdings, cùng với Cơ quan Quản lý Cảng Quốc gia Sri Lanka, là các đại diện sở hữu vốn góp trong hai công ty chiếm hữu, sử dụng và quản lý cảng – Hambantota International Port Group (HIPG) và Hambantota International Port Services (HIPS).
Giới quan sát cho đây là hành vi hy sinh chủ quyền của chính phủ Sri Lanka nhằm khỏa lấp cho thất bại điều hành quốc gia của mình, và cho thấy giới chức Sri Lanka đang khuất phục trước thứ gọi là chủ nghĩa đế quốc chủ nợ, thuật ngữ do nhà phân tích Ấn Độ Brahma Chellaney tiên phong sử dụng.

Quang cảnh buổi lễ bàn giao cảng Hambantota cho Trung Quốc. Ảnh: The Sunday Leader.
Có vay có trả, tại sao gọi việc cho vay nợ này là chủ nghĩa đế quốc? Theo người viết, có ba lý do chính.
Trước tiên, Chính phủ Trung Quốc chủ động thực hiện chính sách phá giá cho vay và khuyến khích vay. Các dự án cho vay của các tổ chức phương Tây như OECD, USAID, UKAID hay các ngân hàng thế giới thường kèm theo các yêu cầu về cải thiện tình trạng dân chủ, cải cách thượng tầng hệ thống pháp luật, bảo đảm quyền con người, minh bạch hóa, kèm theo các chính sách không phân biệt đối xử hay yêu cầu bảo vệ môi trường, v.v. Người Trung Quốc không yêu cầu bất kỳ điều gì được liệt kê ở trên. Họ cực kỳ thành công khi áp dụng phương án cho vay ‘không vướng bận’ này tại châu Phi và đang củng cố vị thế của mình tại đây.
Hiển nhiên, chúng không khác gì mua chuộc và làm mục ruỗng giới cầm quyền. Con nợ, nắm nguồn tư bản lớn để thực hiện các dự án quốc gia mà không phải thông qua người dân, các nhà lãnh đạo được giải thoát khỏi trách nhiệm giải trình, trách nhiệm minh bạch hóa hay trách nhiệm hoàn thiện hóa bộ máy nhà nước để sử dụng ngân sách một cách hiệu quả. Tham nhũng và tiêu cực là câu chuyện một sớm một chiều. Nhưng cũng vì vậy, nó giúp chính quyền Bắc Kinh dễ kiểm soát nền chính trị quốc gia của con nợ hơn.
Với hơn hai nghìn tỷ USD trong ngân khố quốc gia và nhiều quỹ đầu tư nước ngoài chuyên biệt sở hữu hàng chục tỷ USD, không quá khó để chính quyền Trung Quốc thực hiện những chiến dịch cho vay vô điều kiện, miễn là họ kiểm soát được những thứ họ muốn. Tại châu Phi, đó có thể là nguyên liệu thô. Tại những quốc gia biển như Sri Lanka hay một số quốc gia khác, là những vị trí cảng, đất đai chiến lược.
Điểm nhấn thứ hai chứng tỏ Trung Quốc đang theo đuổi chủ nghĩa đế quốc chủ nợ là họ không kỳ vọng con nợ có thể trả được nợ. Sri Lanka cũng là một ví dụ kinh điển cho cách mà hệ thống hạ tầng xây bằng nợ của Trung Quốc vận hành. Cần tái thiết đất nước sau cuộc nội chiến đẫm máu, thủ đô Colombo đã nhận gần 15 tỷ USD trong giai đoạn 2005 – 2017 từ Bắc Kinh để xây dựng lại hệ thống đường xá, hạ tầng cùng nhiều dự án tham vọng như cảng biển chiến lược, sân bay quốc tế và cả một khu đô thị mới có tên gọi Colombo Port City.
Tuy nhiên, do thiếu giải trình, thiếu phản biện và lại được Bắc Kinh ngầm khuyến khích tham nhũng, thành quả của hàng tỷ USD đầu tư được tóm tắt rõ ràng nhất trong lời than vãn của Ravi Karunanayake – Bộ trưởng Bộ Tài chính Sri Lanka khi trả lời phỏng vấn CNN:
“Họ xây cầu những nơi không có sông… Đó là thứ tiêu cực đang diễn ra hằng ngày trên đất nước tôi”.
Sự thất bại của hàng loạt dự án trọng điểm tiêu tốn đến hàng tỷ USD đều được báo trước. Sân bay quốc tế Mattala Rajapaksa là một sân bay ma, nơi mà những người đến đó chỉ là khách du lịch địa phương muốn chiêm ngưỡng sân bay hoành tráng nhất nhì quốc gia, hiện đại chuẩn quốc tế giữa một khu rừng già. Cảng Hambantota là một thất bại thương mại thảm hại với tổng giá trị đầu tư lên đến 1,5 tỷ USD, nhưng gần như không tiếp đón được con tàu nào.
Song như đã nói, thất bại thương mại hay thất thu ngân sách là vấn đề của chính phủ và người dân Sri Lanka, Bắc Kinh không quan tâm. Khi các công trình do các công ty Trung Quốc thi công bằng tiền vay không tạo ra đủ doanh thu để chi trả nợ và chi phí duy trì, chúng ta đến với bước thứ ba của chủ nghĩa đế quốc chủ nợ Trung Quốc – thu hồi nợ bằng chủ quyền quốc gia.
“Nếu chúng tôi [Chính phủ Sri Lanka] tiếp quản cảng, doanh thu từ cảng thậm chí không đủ để duy trì hoạt động và chi trả các chi phí thường xuyên khác. Vậy nên chúng tôi từ lâu đã đàm phán với chính phủ Trung Quốc rằng […] một bản đồ quy hoạch công nghiệp hóa tỉnh Hambantota đang được hình thành, bao gồm 50 km vuông đất mặt bằng dùng cho sản xuất công nghiệp dành riêng cho các doanh nghiệp Trung Quốc”.
Vào tháng 12 năm 2016, Thủ tướng Sri Lanka Ranil Wickremesinghe lạc quan khẳng định mình có thể khiến cảng Hambatota hoạt động đúng kỳ vọng như trên, mặc cho sự thật là Hambatota sẽ không đạt được bất cứ kỳ vọng nào nếu không có những nhượng bộ lãnh thổ cho doanh nghiệp Trung Quốc nói riêng và chính quyền Trung Quốc nói chung.
Một năm sau, Hambatota (và có thể một phần lớn diện tích đất đai xung quanh cảng trong tương lai gần) trở thành tô giới của Trung Quốc như chúng ta đã biết.
Sri Lanka chắc chắn không đơn độc trong việc đối phó với chủ nghĩa đế quốc chủ nợ Trung Hoa. Hầu hết các quốc gia giàu tài nguyên thô ở châu Phi, các quốc gia láng giềng Đông Nam Á, gã khổng lồ Pakistan, những tiểu quốc vùng Nam Á hay cả kể thánh địa du lịch Maldives đều đã rơi vào bẫy nợ của Bắc Kinh.
Tô giới một khi đã hình thành, sẽ trở thành gánh nặng chính trị, rủi ro quốc phòng cũng như bãi nước bọt nhổ vào niềm tự hào dân tộc – thứ mà mỉa mai thay chỉ cách đây trăm năm chính người Trung Quốc đã phải đay nghiến chịu đựng và gọi nó là “thế kỷ ô nhục” – giờ họ đang áp đặt chúng lên những quốc gia yếu thế khác.
99 năm thuê đất không làm nên cái gọi là đặc khu kinh tế. Tên gọi đúng của chúng là tô giới, là sản phẩm của chủ nghĩa thực dân đang được một kẻ tân thực dân vận dụng. Và như thứ thuốc phiện người Anh xuất khẩu cho nhân dân Trung Hoa sử dụng, những khoản vay dễ dàng của Bắc Kinh ngày nay cũng gây nghiện như thế. Một quyết tâm chính trị cao để tự thân vận động, sửa đổi từ bên trong mô hình kinh tế – chính trị – xã hội Việt Nam, thay vì tìm kiếm câu trả lời bằng vay nợ và khuất phục chủ quyền, đang rất cần được đánh thức bên trong thâm tâm các đại biểu của Quốc hội Việt Nam.
N.Q.T.T.
Nguồn:
https://www.luatkhoa.org/2018/06/to-gioi-99-nam-va-chu-nghia-de-quoc-chu-no-trung-hoa/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét