Thứ Năm, 28 tháng 6, 2018

20180628. BÀN VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG

ĐIỂM BÁO MẠNG
PHÁT BIỂU CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG VỀ PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
TTXVN/GDVN 26-6-2018
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng phát biểu kết luận Hội nghị. Ảnh: Trí Dũng/TTXVN

Thưa các vị đại biểu,
Thưa các đồng chí, 
Sau một ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc và trách nhiệm, Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng đã hoàn thành nội dung, chương trình đề ra.
Hội nghị đã nghe Báo cáo tình hình, kết quả công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua, nhất là từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm trong thời gian tới.
Ý kiến phát biểu của các đồng chí nhìn chung đều bày tỏ sự nhất trí cao với nội dung Báo cáo, đồng thời bổ sung, làm rõ thêm nhiều vấn đề;
Nêu thêm một số kinh nghiệm, cách làm tốt trong lãnh đạo, chỉ đạo thời gian qua và đề xuất, kiến nghị, nhấn mạnh một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác phòng, chống tham nhũng thời gian tới.
Để kết thúc Hội nghị, tôi xin phát biểu làm rõ thêm một số vấn đề:

I-Nhìn tổng quát về công tác phòng, chống tham nhũng từ sau Đại hội lần thứ XII của Đảng đến nay: 
Chúng ta vui mừng nhận thấy, sau hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với sự nỗ lực phấn đấu, chung sức, chung lòng của toàn Đảng, toàn dân, đất nước ta tiếp tục phát triển và đạt được những kết quả khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực.
Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định; các cân đối lớn cơ bản được bảo đảm, lạm phát được kiểm soát; an sinh xã hội được chăm lo tốt hơn;
Lần đầu tiên sau nhiều năm chúng ta hoàn thành toàn diện và vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch kinh tế - xã hội đã đề ra, đạt tăng trưởng GDP 6,81% là mức cao so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững.
Công tác đối ngoại ngày càng được mở rộng, đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiện toàn hệ thống chính trị được đẩy mạnh.
Riêng công tác phòng, chống tham nhũng được chỉ đạo thực hiện ráo riết, quyết liệt, đạt nhiều kết quả tích cực, rõ rệt, để lại dấu ấn tốt, được nhân dân rất hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ; các tổ chức quốc tế ghi nhận, đánh giá tích cực.
Tham nhũng đang từng bước được kiềm chế và có chiều hướng thuyên giảm, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Nổi bật là:

1. Nhiều quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước được ban hành nhằm tăng cường công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và phòng, chống tham nhũng, vừa có tác dụng giáo dục, răn đe, ngăn chặn, vừa là căn cứ để phát hiện và xử lý các sai phạm.
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cơ quan tham mưu của Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, giải pháp mới, mạnh mẽ, quyết liệt về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phòng, chống tham nhũng;
Nhiều quy định, nghị quyết được quán triệt và thực hiện nghiêm túc, đi vào cuộc sống, có tác dụng cảnh báo, phòng ngừa có hiệu quả.
Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành chức năng đã quan tâm rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều quy định pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng;
Khắc phục một bước những sơ hở, bất cập trong các quy định của pháp luật làm phát sinh tiêu cực, tham nhũng.
Có thể nói, đến nay các chủ trương của Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng cơ bản đã tương đối đủ, cái cần nhất bây giờ là sự tự giác, sự thống nhất cao về ý chí và hành động, là tổ chức thực hiện. 

2. Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán được chỉ đạo quyết liệt, chặt chẽ, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các sai phạm, siết chặt kỷ luật, kỷ cương góp phần đắc lực nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng.

Cấp ủy đảng, ủy ban kiểm tra các cấp đã tăng cường chỉ đạo, chủ động, quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm;
Tập trung lựa chọn đối tượng, lĩnh vực, địa bàn nhạy cảm, phức tạp, dễ phát sinh vi phạm, những vấn đề bức xúc mà cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm để tiến hành kiểm tra, giám sát;
Kết luận, làm rõ nhiều vi phạm, trên cơ sở đó quyết định hoặc đề nghị thi hành kỷ luật nghiêm minh, chính xác, kịp thời đối với nhiều tổ chức và cá nhân vi phạm.
Sau hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 490 tổ chức đảng và 35 nghìn đảng viên vi phạm, trong đó có gần 1.300 đảng viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kiểm tra làm rõ nhiều sai phạm đặc biệt nghiêm trọng, quyết định kỷ luật và đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật đối với nhiều cán bộ cao cấp và tổ chức đảng vi phạm, trong đó có cả đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị;
Kỷ luật cả cán bộ đương chức và đã nghỉ hưu, cả trong lực lượng vũ trang; làm nghiêm từ trên xuống dưới,...
Đây là bước đột phá trong công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy Nhà nước, được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao.
Các cơ quan Thanh tra, Kiểm toán tập trung thanh tra, kiểm toán các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, nhất là các dự án gây thất thoát, thua lỗ lớn, kéo dài, dư luận xã hội quan tâm.
Qua thanh tra, kiểm toán đã kiến nghị thu hồi về ngân sách nhà nước gần 170 nghìn tỉ đồng, hơn 12 nghìn ha đất;
Kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ hơn 300 văn bản quản lý nhà nước không còn phù hợp trên các lĩnh vực;
Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền kiểm điểm trách nhiệm nhiều tập thể, cá nhân sai phạm, chuyển gần 200 vụ việc sang cơ quan có thẩm quyền để điều tra làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã tổ chức 31 Đoàn kiểm tra, giám sát việc thanh tra các vụ việc, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế tại 63 tỉnh, thành phố.
Qua kiểm tra, giám sát đã kiến nghị chỉ đạo xử lý 452 vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế.
Điều đáng mừng là tại một số địa phương, cấp ủy đảng, chính quyền đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo chuyển biến trong công tác kiểm tra, thanh tra, phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời nhiều cán bộ, đảng viên có sai phạm liên quan đến tham nhũng, kể cả những đồng chí trong ban thường vụ, thường trực cấp ủy;
Tình trạng "trên nóng, dưới lạnh" đã bước đầu được khắc phục tại một số địa phương (điển hình như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Sơn La, Đăk Lăk, Cần Thơ,...). 
3. Công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế được đẩy mạnh và có những chuyển biến tích cực, rõ nét, được coi là điểm sáng trong công tác phòng, chống tham nhũng thời gian gần đây.
Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, kể cả những vụ việc tồn tại từ nhiều năm trước đã được phát hiện, xử lý nghiêm minh, công khai, đúng pháp luật, rất nghiêm khắc nhưng cũng rất nhân văn; có lý, có tình, thể hiện rõ quan điểm "Nói đi đôi với làm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không có đặc quyền", góp phần nâng cao uy tín, sức chiến đấu của Đảng và cũng là biện pháp cảnh tỉnh, răn đe có hiệu quả (vụ án Dương Chí Dũng; vụ án Vũ Quốc Hảo; vụ án Huỳnh Thị Huyền Như; vụ án Phạm Công Danh; vụ án Hà Văn Thắm; vụ án Giang Kim Đạt; vụ án Đinh La Thăng; vụ án Trịnh Xuân Thanh; vụ án Phan Văn Anh Vũ (Vũ Nhôm); vụ án Đinh Ngọc Hệ (Út trọc); vụ án đánh bạc và tổ chức đánh bạc xảy ra tại Phú Thọ và một số địa phương;...). 
Đáng chú ý là, việc thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng được chú trọng hơn;
Việc kê biên, thu giữ tài sản trong một số vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng đạt khá cao (vụ Giang Kim Đạt hơn 300 tỉ đồng; vụ Hứa Thị Phấn hơn 10.000 tỉ đồng; vụ Ngân hàng Đông Á hơn 2.000 tỉ đồng; vụ Phạm Công Danh (giai đoạn I) hơn 6.000 tỉ đồng; vụ Đinh La Thăng hơn 20 tỉ đồng; vụ Trịnh Xuân Thanh hơn 45 tỉ đồng; vụ AVG hơn 8.500 tỉ đồng…).

4. Việc xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách về tổ chức, cán bộ để phòng, chống tham nhũng có nhiều chuyển biến rõ nét;
Cải cách hành chính, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị được tập trung chỉ đạo thực hiện và đạt những kết quả tích cực.
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có nhiều đổi mới, nhất quán, rõ ràng, chỉ đạo giải quyết được nhiều vấn đề tồn đọng trước đây trong công tác cán bộ; "không chạy chức, chạy quyền" đã trở thành tuyên ngôn mạnh mẽ.
Công tác nhận xét, đánh giá cán bộ chính xác hơn; việc luân chuyển cán bộ thực hiện bài bản hơn.
Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương đã đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường công khai, minh bạch, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế và phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng.
Cấp ủy, chính quyền, cán bộ lãnh đạo các cấp đã quan tâm hơn tới việc tiếp nhận, tổ chức đối thoại, giải quyết những phản ánh, kiến nghị, những vướng mắc, bức xúc của người dân, doanh nghiệp. 
5. Công tác thông tin, tuyên truyền có nhiều đổi mới, nhất là phát huy vai trò của báo chí, truyền thông trong phòng, chống tham nhũng.
Công khai kết quả thanh tra, kiểm tra, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế;
Chủ động cung cấp thông tin về những vấn đề nhạy cảm, dư luận xã hội quan tâm, giúp định hướng tốt dư luận xã hội và cũng thể hiện sự công khai, minh bạch của Đảng, Nhà nước trong xử lý tham nhũng.
Các cơ quan thông tấn, báo chí đã tích cực đồng hành cùng cơ quan chức năng trong phòng, chống tham nhũng;
Có nhiều tin, bài về công tác phòng, chống tham nhũng, đấu tranh phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta. 
6. Chú trọng kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị chức năng phòng, chống tham nhũng.
Ban Chỉ đạo có nhiều đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động, chú trọng nâng cao hiệu quả thực tế công tác, làm việc rất nghiêm túc, trách nhiệm, bài bản, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, có việc vượt yêu cầu đề ra;
Hầu như cứ sau mỗi phiên họp Ban Chỉ đạo, cuộc họp của Thường trực Ban Chỉ đạo thì tình hình thực tế lại có bước chuyển biến mới rõ rệt.
Các đồng chí thành viên Ban Chỉ đạo rất tích cực, trách nhiệm, sâu sát, quyết liệt chỉ đạo triển khai thực hiện các nội dung công việc theo chương trình, kế hoạch công tác của Ban Chỉ đạo.
Ban Nội chính Trung ương - Cơ quan Thường trực của Ban Chỉ đạo có nhiều nỗ lực, cố gắng, chủ động, sâu sát, quyết liệt hơn trong tham mưu, đề xuất, giúp Ban Chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch công tác.

Các cơ quan Kiểm tra của Đảng, Thanh tra, Kiểm toán, Công an, Kiểm sát, Toà án vào cuộc ngày càng tích cực, hiệu quả; các đơn vị chuyên trách chống tham nhũng tiếp tục được kiện toàn tổ chức, bộ máy, đẩy mạnh hoạt động nghiệp vụ trong phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng.
Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị chức năng phòng, chống tham nhũng ngày càng chặt chẽ, hiệu quả hơn.

Từ những kết quả trên cho thấy, những chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã góp phần củng cố niềm tin, tạo sự đồng thuận, phấn chấn trong nhân dân.
Và đây chính là nguồn động lực to lớn để chúng ta hoàn thành tốt các nhiệm vụ đã đề ra, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Không phải như một vài ý kiến lo ngại rằng, nếu quá tập trung vào chống tham nhũng, xây dựng, chỉnh đốn Đảng sẽ làm "chùn" sự chỉ đạo hay làm "chậm" sự phát triển, mà ngược lại, chính nhờ làm tốt công tác xây dựng Đảng, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường an ninh - quốc phòng, đối ngoại.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, chúng ta cũng phải thẳng thắn nhìn nhận công tác phòng, chống tham nhũng vẫn còn những tồn tại, hạn chế như Báo cáo đã nêu.
Công tác phòng, chống tham nhũng ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có sự chuyển biến rõ rệt, vẫn còn tình trạng "trên nóng, dưới lạnh", nể nang, né tránh, ngại va chạm;
Việc phát hiện, xử lý tham nhũng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu; tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng trong nội bộ cơ quan, đơn vị vẫn là khâu yếu.
Tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong khu vực hành chính, dịch vụ công vẫn gây bức xúc trong người dân, doanh nghiệp.

Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế là do nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa nhận thức sâu sắc mức độ nghiêm trọng của tình hình tham nhũng ở địa phương, lĩnh vực mình quản lý;
Chưa thực sự gương mẫu, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong đó có cả những người là lãnh đạo, quản lý thiếu tu dưỡng, rèn luyện, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, tham nhũng.
Thể chế, chính sách pháp luật trên một số lĩnh vực còn bất cập, tính khả thi không cao; chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực;
Công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn chưa được quan tâm thực hiện, nên dễ dẫn đến việc lạm quyền để trục lợi; chế độ trách nhiệm, chế độ công vụ chưa rõ ràng, cụ thể.
Việc thực thi pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương, kỷ luật trên một số ngành, lĩnh vực còn bị buông lỏng.
Tổ chức bộ máy, quyền hạn, phương tiện, điều kiện làm việc của các cơ quan, đơn vị chức năng phòng, chống tham nhũng chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao;
Năng lực, trình độ của một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu...

II- Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới
Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới với những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức mới đan xen.
Sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế, phát triển đất nước nhanh và bền vững đang chuyển sang giai đoạn mới, cao hơn, ngày càng đi vào chiều sâu, khó khăn, phức tạp hơn so với trước.
Tình hình, bối cảnh trong nước, quốc tế đã có nhiều thay đổi, đang diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường.

Sau nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, công tác phòng, chống tham nhũng đã đạt những kết quả rất quan trọng, rất đáng mừng.
Tuy nhiên, phòng, chống tham nhũng là công việc hệ trọng, phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, kiên quyết, kiên trì; chúng ta tuyệt nhiên không được tự thỏa mãn với những kết quả đã đạt được.
Mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu, phải gương mẫu, đi đầu, có sự tự giác, thống nhất cao về ý chí và hành động trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng; không sợ mất uy tín, không sợ khuyết điểm; trái lại, phải mạnh dạn làm để giữ gìn uy tín, củng cố niềm tin của nhân dân và phải công khai để nhân dân biết, ủng hộ và giám sát.
Phải biết dựa vào dân, lắng nghe dân, cái gì mà quần chúng nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì chúng ta phải quyết tâm làm và làm cho bằng được;
Ngược lại, cái gì nhân dân không đồng tình, thậm chí căm ghét, phản đối thì chúng ta phải cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm các sai phạm.

Bên cạnh việc xử lý nghiêm đối với những trường hợp sai phạm, chúng ta cũng cần có cơ chế để bảo vệ, khuyến khích những cán bộ, đảng viên, người đứng đầu dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, mạnh dạn, đi đầu trong đổi mới vì sự phát triển của đất nước;
Việc đánh giá, nhìn nhận về các sai phạm cũng cần phải đặt trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể để có quan điểm xử lý khách quan, phù hợp.
Đồng thời, cần kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phần tử xấu muốn lợi dụng cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng để chia rẽ nội bộ, nói xấu, bôi nhọ Đảng, Nhà nước và chế độ ta.

Hội nghị chúng ta thống nhất, đồng tình cao với các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong thời gian tới mà Báo cáo đã nêu.
Tôi muốn nhấn mạnh, lưu ý thêm một số vấn đề:

Một là, phải tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự tự giác, thống nhất cao về ý chí và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về phòng, chống tham nhũng.

Công tác tuyên truyền phải khẳng định rõ quyết tâm của Đảng, Nhà nước về phòng, chống tham nhũng;
Làm cho mọi người thấy rõ việc chỉnh đốn Đảng, xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ, đảng viên sai phạm không làm "chậm lại" sự phát triển, mà ngược lại, càng làm trong sạch, tạo sức mạnh thật sự của bộ máy và đội ngũ cán bộ, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân, tạo động lực mới, khí thế mới để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Tăng cường phối hợp, kịp thời cung cấp, công khai thông tin, định hướng tuyên truyền về phòng, chống tham nhũng, nhất là chủ động thông tin về kết quả kiểm tra, thanh tra, xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm;
Về khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế; về những vấn đề nhạy cảm, dư luận xã hội quan tâm trong xử lý tham nhũng.
Chú trọng thông tin tuyên truyền gương người tốt, việc tốt, khắc phục tình trạng thông tin một chiều, thông tin không chính xác, mang tính kích động, gây hoang mang hoặc quy kết về tội danh, mức án trước khi xét xử.
Bảo vệ, khen thưởng, động viên những người làm báo tích cực, dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng; đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, lợi dụng phòng, chống tham nhũng để chống phá Đảng, Nhà nước;
Xử lý nghiêm khắc việc đưa tin sai sự thật, vu cáo, bịa đặt gây hậu quả xấu.

Kiên trì rèn luyện đức tính liêm khiết, xây dựng văn hoá tiết kiệm, không tham nhũng trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.
Trước hết là phải xây dựng ý thức tự giác chấp hành, thực hiện nghiêm túc các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, lãng phí;
Chủ động xử lý khi có xung đột lợi ích; xây dựng, thực hiện tốt quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp;
Phê phán, lên án, đấu tranh với tham nhũng, lãng phí; trọng liêm sỉ, danh dự, biết xấu hổ khi bản thân và người thân tham nhũng, lãng phí.

Đặc biệt, báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng phải cổ vũ, động viên sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, huy động sức mạnh của toàn dân trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, "làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng vạn, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp"[1], như lời Bác Hồ đã căn dặn.

Hai là, phải tập trung chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng;
Phấn đấu từ nay đến hết nhiệm kỳ cơ bản hoàn thành một bước về xây dựng một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để "không thể tham nhũng".

Tập trung hoàn thành việc xây dựng các quy định của Đảng về phòng, chống tham nhũng theo Nghị quyết Trung ương 4, Trung ương 6 và Trung ương 7 khoá XII, nhất là:
Hoàn thiện quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên;
Các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm người đứng đầu khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch;
Quy định về việc ngăn chặn những người có chức, có quyền lợi dụng cương vị công tác để trục lợi;
Quy định về cho thôi, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý;
Quy định về điều chuyển, thay thế cán bộ khi có dư luận hoặc có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, uy tín thấp;
Cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung…

Đề nghị Quốc hội, Chính phủ tập trung chỉ đạo khẩn trương tiếp thu, hoàn thiện Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) bảo đảm khả thi và hiệu quả;
Sớm ban hành Luật Bảo vệ bí mật nhà nước; sửa đổi, bổ sung Luật Giám định tư pháp, Luật Thanh tra, Luật Cán bộ công chức, Luật Viên chức và các văn bản quy định chi tiết thi hành để khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong phòng, chống tham nhũng.
Đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, khắc phục những sơ hở trong quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng, nhất là ở các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng.

Ba là, tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, siết chặt kỷ luật, kỷ cương; xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới.

Tiếp tục làm tốt công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; đấu tranh mạnh mẽ chống chủ nghĩa cá nhân, thói ích kỷ vụ lợi, "lợi ích nhóm".
Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy nhà nước; đối với những người vi phạm phải có hình thức xử lý kịp thời, nghiêm minh, công khai.

Các cấp ủy, tổ chức đảng phải tăng cường quản lý, giám sát cán bộ, đảng viên để kịp thời phát hiện, giải quyết từ sớm, ngăn chặn từ đầu sai phạm;
Tiến hành mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn công tác kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi tham nhũng.
Mục đích kỷ luật là để "trị bệnh cứu người", cảnh tỉnh, răn đe, do đó phải quán triệt phương châm phòng ngừa chặt chẽ, ngăn chặn từ gốc, phát hiện từ sớm, xử lý từ đầu, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn.
Tăng cường giám sát của tổ chức đảng từ trên xuống, giám sát từ dưới lên, phát huy vai trò giám sát lẫn nhau trong cùng cấp, tăng cường quản lý, giám sát thường ngày đối với đảng viên và cán bộ lãnh đạo.
Xử lý nghiêm kỷ luật của Đảng, đồng thời kỷ luật đảng không thay thế kỷ luật hành chính, kỷ luật đoàn thể và các hình thức xử lý của pháp luật;
Đảng viên vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự.
Đảng viên ở bất cứ cương vị công tác nào vi phạm đều phải xử lý nghiêm, làm nghiêm từ trên xuống dưới;
Nơi nào tự kiểm tra không phát hiện, hoặc phát hiện nhưng xử lý vi phạm nương nhẹ thì cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương đó phải chịu trách nhiệm và có hình thức xử lý đúng mức, không "rút kinh nghiệm" chung chung.
Giao cho Uỷ ban Kiểm tra Trung ương có thể chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng xuống đến cả đảng bộ cấp huyện và cơ sở khi cần thiết, tránh tình trạng bao che sai phạm trong nội bộ của các địa phương, cơ quan, đơn vị.

Cần tập trung khắc phục bằng được những yếu kém trong công tác cán bộ, những sai phạm của cán bộ khiến dư luận bức xúc.
Kiểm tra toàn diện công tác cán bộ; chú trọng kiểm tra, giám sát cán bộ có biểu hiện tham nhũng; có nhiều dư luận quần chúng phản ánh, tố cáo tham nhũng; cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và cán bộ được quy hoạch vào các vị trí lãnh đạo, quản lý.
Cấp ủy, tổ chức đảng, bộ, ngành, chính quyền các cấp và cán bộ, đảng viên phải nhận diện rõ, đấu tranh quyết liệt, có hiệu quả với các việc làm sai trái, lợi ích nhóm, mưu lợi cá nhân, với các đối tượng có biểu hiện, hành vi chạy chức, chạy quyền;
Bảo vệ cái đúng, chỉ rõ cái sai, can ngăn những việc làm chưa đúng, phát hiện và xử lý kịp thời việc lạm dụng, lợi dụng quyền lực để thực hiện những hành vi sai trái trong công tác cán bộ hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền; kiên quyết hủy bỏ, thu hồi các quyết định không đúng về công tác cán bộ, đồng thời xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân sai phạm, có hành vi tham nhũng trong công tác cán bộ; thực hiện có hiệu quả chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, cấp huyện không phải là người địa phương.
Kiên quyết thực hiện có hiệu quả việc sắp xếp lại bộ máy, tinh giản biên chế, gắn với cải cách chế độ công vụ, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và đổi mới chính sách tiền lương;
Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6, Trung ương 7 khóa XII.

Bốn là, tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác giám sát, kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng.

Quyền lực luôn có nguy cơ bị "tha hóa", tham nhũng là "khuyết tật bẩm sinh" của quyền lực, cho nên phải thiết lập cho được một cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực đối với người có chức vụ, quyền hạn theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế;
Quyền hạn phải được ràng buộc với trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền hạn càng cao, trách nhiệm càng lớn.
Do vậy, phải tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát để bảo đảm quyền lực được vận hành công khai, minh bạch, đúng đắn, không bị "tha hóa"; phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời thực hiện nghiêm việc xử lý, điều chuyển, miễn nhiệm, thay thế cán bộ có biểu hiện tham nhũng gây nhiều dư luận;
Xử lý nghiêm trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách;
Và quan trọng hơn là phải ngăn ngừa tận gốc những sai phạm, khuyết điểm một cách căn cơ, bài bản bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nói một cách hình ảnh là phải "nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế".

Phải tăng cường giám sát việc sử dụng quyền lực của cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu, tăng cường giám sát trong nội bộ tập thể lãnh đạo; công khai quy trình sử dụng quyền lực theo pháp luật để cán bộ, nhân dân giám sát.
Cán bộ lãnh đạo các cấp phải ghi nhớ, bất cứ ai cũng không có quyền lực tuyệt đối ngoài pháp luật, bất kỳ ai sử dụng quyền lực đều phải phục vụ nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân và tự giác chịu sự giám sát của nhân dân.
Công quỹ là của công cho nên một xu, một hào cũng không được chi dùng bừa bãi; công quyền là vì dân cho nên không được mảy may vì riêng tư;
Phải thật sự chí công vô tư, công tư phân minh, công trước tư sau, vì công mà quên tư; mọi việc đều xuất phát từ dân, vì dân.

Năm là, nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, nhất là ở các địa phương, cơ sở; xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tệ "tham nhũng vặt"; nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng.

Cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, rõ rệt hơn trong phát hiện, xử lý tham nhũng ở địa phương, cơ sở, khắc phục tình trạng "trên nóng, dưới lạnh".
Tập trung chỉ đạo thanh tra, kiểm tra, kiểm toán vào những nơi có vấn đề phức tạp, dư luận quan tâm, các lĩnh vực dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng;
Xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng vòi vĩnh, nhũng nhiễu, "gợi ý", "lót tay", gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết công việc.
Đẩy nhanh tiến độ xác minh, điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế, nhất là các vụ việc, vụ án nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội đặc biệt quan tâm;
Kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, không có vùng cấm, không có đặc quyền, không có ngoại lệ.

Bổ sung, hoàn thiện quy định về xử lý trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra, kiểm toán nhưng không phát hiện được sai phạm, sau đó sai phạm này lại được phát hiện bởi các đoàn kiểm tra, thanh tra, kiểm toán khác.
Có các giải pháp phù hợp, thuận lợi, an toàn để khuyến khích và kịp thời xử lý thông tin do người dân phát hiện, phản ánh, tố cáo.

Tích cực xác minh, kịp thời áp dụng các biện pháp kê biên tài sản, phong toả tài khoản, thu hồi triệt để tài sản tham nhũng trong quá trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án;
Khuyến khích người phạm tội tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả trong các vụ án tham nhũng, kinh tế.

Sáu là, tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị có chức năng phòng, chống tham nhũng.

Tiếp tục kiện toàn, phát huy hơn nữa vai trò của các cơ quan phòng, chống tham nhũng, giúp việc các cấp uỷ từ Trung ương đến cơ sở.
Các cơ quan nội chính, kiểm tra, thanh tra, điều tra, kiểm sát, xét xử phải là những "thanh bảo kiếm" sắc bén, có dũng khí đấu tranh ngăn chặn những việc làm sai trái, lợi ích nhóm, mưu lợi cá nhân;
Có nghiệp vụ, bản lĩnh bảo vệ cái đúng, chỉ rõ cái sai, can ngăn những việc làm chưa đúng;
Có quy định để ngăn ngừa có hiệu quả những sự tác động không theo đúng quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào hoạt động của các cơ quan này.
Điều đặc biệt quan trọng có ý nghĩa quyết định là, những người làm công tác phòng, chống tham nhũng nói chung, những người trực tiếp làm việc trong các cơ quan chức năng phòng, chống tham nhũng nói riêng phải thật sự liêm chính, trong sạch, biết gương mẫu giữ mình, trọng liêm sỉ, không chịu bất cứ sức ép không trong sáng nào, bất cứ sự cám dỗ, mua chuộc nào của những kẻ phạm tội.

Thưa các đồng chí, 
Đấu tranh phòng, chống tham nhũng là công việc khó khăn, phức tạp và lâu dài.
Từ những kinh nghiệm, kết quả đạt được trong thời gian qua, nhất là từ sau Đại hội XII của Đảng đến nay, chúng ta có cơ sở để tin rằng:
Với quyết tâm chính trị cao của Đảng, Nhà nước; sự vào cuộc tích cực, đồng bộ của các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, công tác phòng, chống tham nhũng thời gian tới sẽ tiếp tục đạt được nhiều kết quả tích cực, rõ rệt hơn nữa; tham nhũng nhất định sẽ được ngăn chặn và từng bước đẩy lùi;
Góp phần xây dựng Đảng ta, Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và niềm mong đợi của nhân dân.

Tôi đề nghị các đồng chí, trên từng cương vị công tác của mình, trước hết là những người đứng đầu, hãy nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân và đất nước, gương mẫu, đi đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống tham nhũng, nhất là tập trung chỉ đạo nâng cao hiệu quả phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi tiêu cực, tham nhũng ngay trong bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị mình, góp phần vào thành công chung của cả nước.

Xin chúc các đồng chí sức khoẻ và thành công”.

[1] Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 13, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, năm 2011, trang 419.
Theo TTXV
BÀI LIÊN QUAN:
VÌ SAO CSVN 'CẤM KHẨU' THỦ THIÊM NHƯNG LẠI TUNG HÔ ĐẶC KHU ?

PHẠM CHÍ DŨNG/ NV/ BVN 26-6-2018

Người dân Thủ Thiêm tố cáo mình bị cướp đất trên báo chí Việt Nam hôm 9 tháng Năm, 2018, nhưng nay các báo được lệnh “cấm khẩu”.
https://i2.wp.com/www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2018/06/Thu-Thiem.jpg?fit=800%2C533&ssl=1
(Hình: Báo Thanh Niên)
Quốc hội Việt Nam một lần nữa, trong rất nhiều lần, đã chứng tỏ cái năng lực siêu việt của nó: không chỉ hùa theo các nhóm lợi ích để tăng vọt thuế và “bóc lột dân ta đến tận xương tủy”, cơ quan được xem là “đại diện cho dân” này cùng bà Chủ tịch Nguyễn Thị Kim Ngân còn khiến nước mắt hàng ngàn dân oan Thủ Thiêm - vừa tưởng được xả van để tuôn trào ra ngoài - lại phải trào ngược vào lồng ngực.

‘Cấm khẩu’ và chối bỏ giám sát

“Thắng lợi” lớn nhất và ấn tượng nhất của kỳ họp Quốc hội tháng Năm và tháng Sáu, 2018 chính là bầu không khí châu đầu vào “Luật Bán Nước” (một cách gọi của người dân đối với Dự luật Đặc khu) của bà Nguyễn Thị Kim Ngân cùng tuyệt đại đa số “nghị gật”, nhưng lại hoàn toàn “cấm khẩu” về Thủ Thiêm - điểm nóng khiếu nại tố cáo thuộc loại nghiêm trọng nhất quốc gia về giải tỏa, bồi thường và cưỡng chế đất đai cùng cái mùi khắm nồng rất đặc trưng của nhóm quan chức “ăn đất”.
Thậm chí dấu chấm hết của kỳ họp Quốc hội trên còn bục ra một kết luận bất ngờ và rất đáng nghi ngờ: ban lãnh đạo Thường vụ Quốc hội cho rằng “do nội dung không nằm trong chương trình nên đề nghị của một số đại biểu Quốc hội về việc giám sát tối cao năm 2019 về tình hình và kết quả thanh tra, điều tra, xử lý, xét xử các vụ vi phạm nghiêm trọng như: AVG, Thủ Thiêm, Tập đoàn Mường Thanh, các dự án thua lỗ, đội vốn nhiều… chưa được Quốc hội bổ sung vào chương trình giám sát năm 2019”.
Kết luận trên là hoàn toàn phản dội với một trong những kiến nghị khẩn thiết của dân oan Thủ Thiêm và cử tri Sài Gòn thông qua đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM: Quốc hội Việt Nam và Hội đồng Nhân dân TP.HCM phải giám sát thực hiện dự án khu đô thị mới Thủ Thiêm để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Cử tri đề nghị việc thực hiện dự án phải đúng quy định pháp luật, phải công khai, minh bạch. Nếu chính quyền thấy sai thì cần đối thoại với dân, cùng giải quyết và sửa sai, xác định rõ trách nhiệm cũng như xử lý nghiêm các trường hợp làm sai.
Thủ Thiêm là một khu vực được giới bất động sản Sài Gòn xem là cực kỳ đắc địa, là khu “đất vàng” chỉ cách khu trung tâm quận Nhất có ba trăm thước bề rộng mặt sông Sài Gòn. Vào thời điểm công bố đền bù lần đầu tiên cho dân, giá đền bù chỉ từ vài trăm ngàn đến vài triệu đồng một thước vuông đất, trong khi giá thị trường khi đó đã lên đến vài ba chục triệu đồng một thước vuông. Còn hiện thời, giá thị trường năm 2018 đã vọt đến hàng trăm triệu đồng cho mỗi thước vuông đất ở Thủ Thiêm. Với mức giá đó và ứng với khoảng 140 ha đất giải tỏa lố - mà hoàn toàn có thể xem là “giải tỏa ăn cướp”, các doanh nghiệp đầu tư vào khu đô thị Thủ Thiêm và giới quan chức ăn theo có thể thu lời ngay cho riêng tiền chênh lệch đất ít nhất 140 ngàn tỷ đồng, tương đương hơn $6 tỷ!
Vụ giải tỏa Thủ Thiêm diễn ra trong suốt chiều dài thời gian mà Lê Thanh Hải đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch TP.HCM (2001-2006) và hai nhiệm kỳ liên tiếp giữ chức bí thư thành ủy TP.HCM (2006-2015).
Lê Thanh Hải lại là quan chức bị dân oan Thủ Thiêm tố cáo ghê gớm nhất về “cướp đất vàng” ở Thủ Thiêm. Vào thời đó, người được xem là “đệ tử ruột” của ông Hải là Tất Thành Cang là bí thư quận 2 đã có nhiều biểu hiện tiếp tay rất đắc lực cho các nhóm lợi ích để cưỡng chế đẩy đuổi dân nghèo Thủ Thiêm ra khỏi mảnh đất duy nhất của họ.
Không chỉ bị Quốc hội chối bỏ giám sát, vụ việc Thủ Thiêm - với nhiều dấu hiệu tham nhũng và cố ý làm trái còn lớn hơn nhiều vụ AVG - lại đang được chính phủ “kiến tạo” để chìm xuồng.

Kẻ nào muốn Thủ Thiêm chìm xuồng?

Trước kỳ họp Quốc hội tháng Năm - tháng Sáu, 2018, nước mắt dân oan và áp lực quá lớn của dư luận xã hội cùng cái lò lây lất khói của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã buộc Đảng bộ và chính quyền TP.HCM không thể nhắm mắt làm ngơ. Thế nhưng, bản báo cáo của chính quyền TP.HCM cho chính phủ về vụ Thủ Thiêm đã hoàn toàn “xù” trách nhiệm.
Bản báo cáo này đã hoàn toàn không giải thích thỏa đáng về những dấu hỏi rất lớn mà dư luận xã hội và báo chí công phẫn nêu ra. Bản báo cáo này cũng không thừa nhận bất kỳ cái sai nào thuộc về trách nhiệm của đảng bộ và chính quyền TP.HCM, mà chỉ thòng một câu “Ủy ban Nhân dân thành phố đang xem xét, trao đổi với thanh tra chính phủ để thống nhất hướng xử lý báo cáo thủ tướng chính phủ”.
Như thể “hiệp đồng tác chiến”, cùng thời điểm Ủy ban Nhân dân TP.HCM phát ra báo cáo trên, vào trung tuần tháng Năm, 2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có một cuộc họp chính phủ về vụ Thủ Thiêm. Tuy nhiên trong kết luận chỉ đạo của mình, Thủ tướng Phúc dường như đã cố tình bỏ qua việc làm rõ tính pháp lý của quyết định 367 của Thủ tướng Võ Văn Kiệt phê duyệt quy hoạch khu độ thị mới Thủ Thiêm vào năm 1996 và một quyết định bị xem là ký vượt quyền của Phó Chủ tịch chính quyền TP.HCM Nguyễn Văn Đua vào năm 2005 khi “thay thế” quyết định 367 trên. Ông Phúc cũng tỏ thái độ rất lập lờ khi chấp nhận 99% diện tích giải tỏa của chính quyền TP.HCM, tức chấp nhận cả phần ít nhất 140 đất giải tỏa lố mà đã đẩy đuổi cưỡng chế hàng chục ngàn người dân khỏi mảnh đất sinh nhai duy nhất của họ.
Ông Phúc cũng hoàn toàn không đề cập một từ nào về sự biến mất vô cùng khó hiểu của tấm bản đồ gốc quy hoạch Thủ Thiêm được phê duyệt vào năm 1996. Ông Phúc lại chỉ dùng từ “sai sót” đối với trách nhiệm của giới quan chức TP.HCM, trong khi vụ Thủ Thiêm có quá nhiều dấu hiệu của hành vi “cố ý làm trái” và tham nhũng…
Trong suốt kỳ họp Quốc hội tháng Năm - tháng Sáu, 2018, cũng như bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, ông Phúc đã tuyệt đối “cấm khẩu” về vụ Thủ Thiêm.

Nhưng lại bảo vệ Dự luật Đặc khu!

Nhưng về dự Luật Đặc khu thì lại hoàn toàn khác. Không khí của Quốc hội và chính phủ được cho là “sôi nổi tranh luận” và toàn tâm toàn ý cho dự luật đã khiến nổ ra cuộc tổng biểu tình lên đến hàng trăm ngàn người và lan rộng trên 50% tỉnh thành ở Việt Nam vào ngày Mười tháng Sáu.
“Giao đất 99 năm không phải mấu chốt của Luật Đặc khu” - chỉ đến lúc tâm trạng bức xúc của dân chúng lên cao độ, Thủ tướng Phúc mới lộ hình để thanh minh.
Nhưng trước ngày 10 tháng Sáu khi không khí giận dữ của dân chúng và trí thức không còn là mỉa mai hay chỉ trích đối với dự luật đặc khu mà đã bùng nổ thành rất nhiều văn thư, bài viết phản bác và phản kháng, đồng thời manh nha một làn sóng biểu tình phản đối dự luật này, ông Phúc lại “tự diễn biến” khi tự thay đổi quan điểm trước đó của mình sang “Sẽ điều chỉnh cho thuê đất đặc khu xuống dưới 99 năm”.
“Một dân tộc yêu nước như thế thì không lo gì mất nước” - Thủ tướng Phúc không quên thòng.
Kể từ thời “Cờ Lờ Mờ Vờ”, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã tiến một bước dài đến phong cách đa ngôn ngữ và “đa nhân cách” trong hệ thống từ điển tiếng Việt và hồ sơ phân tâm học - bằng vào những gì ông ta bộc lộ liên quan đến cuộc chiến Dự luật Đặc khu.
Còn bà Nguyễn Thị Kim Ngân thì sao?
Dù chưa bao giờ có được một nghị quyết hay thậm chí hé môi một tiếng nói để lên án Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam và bắn giết ngư dân Việt, Quốc hội Việt Nam lại vừa ghi thành tích với Bộ Chính trị Đảng bằng tuyên bố “lên án những hành động lợi dụng dân chủ, xuyên tạc sự thật”.
Tại phiên bế mạc Quốc hội vào buổi sáng 15 tháng Sáu, 2018, tuyên bố trên được dõng dạc phát ra bởi Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân khi quan chức này “khẳng định Quốc hội nghiêm khắc lên án những hành động lợi dụng dân chủ, xuyên tạc sự thật, kích động, quá khích, gây mất trật tự an ninh xã hội. Đồng thời đề nghị chính phủ xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật”.
Nhưng sau khi Dự luật Đặc khu bị phản ứng dữ dội, người dân đã phát hiện ra nguồn cơn vì sao Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân lại nhấn mạnh theo lối áp đặt “Bộ Chính trị đã quyết định về Luật Đặc khu rồi…”: vào thời gian hội thảo về chủ trương đặc khu Vân Đồn ở Quảng Ninh, Nguyễn Thị Kim Ngân nằm trong số quan chức VIP tham dự hội thảo này và đã “nhiệt tình vỗ tay” dành cho “Luật Bán Nước”!
Trước khi dự luật trên được tung ra, quan chức Thường trực Ban Bí thư Đinh Thế Huynh đã ký một thông báo thay mặt Bộ Chính trị kết luận về chủ trương “làm” các đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc, chính thức mở đường cho một khung pháp lý mà sau này bị dư luận xã hội phản ứng quyết liệt vì cho đó là “Luật Bán Nước”.
Đáng chú ý, bản thông báo do Đinh Thế Huynh ký được dựa trên đề xuất của bí thư tỉnh Quảng Ninh - một địa phương giáp biên giới với Trung Quốc - vào thời đó là Phạm Minh Chính.
Có một mẩu chuyện rất đáng mổ xẻ và cần thiết thì “hồi tố” kể cả về sau này: đề xuất của tác giả Phạm Minh Chính đã muốn cho thuê đất đặc khu đến 120 năm chứ không chỉ là 99 năm!
Không biết có phải do “thành tích” đề xuất ý tưởng và cả kế hoạch về xây dựng đặc khu Vân Đồn dành nhiều ưu ái cho nhà đầu tư cùng giới tài phiệt Trung Quốc và lại khá tương thích với ý đồ lấn dần lãnh thổ Việt Nam của Bắc Kinh, ông Chính đã được Tổng Bí thư Trọng tưởng thưởng và đưa quan chức này vào Bộ Chính trị Kiêm Trưởng ban Tổ chức Trung ương tại Đại hội 12 của đảng cầm quyền vào đầu năm 2016.
Chỉ đến sát kỳ họp Quốc hội tháng Năm - tháng Sáu, 2018, “Luật Bán Nước” mới được công bố một cách chính thức như sự đã rồi. Trước đó, đã không có bất kỳ một động tác nào, dù là nhỏ nhất hoặc chỉ mang tính mị dân, nhắm đến việc thông báo cho dân hoặc lấy ý kiến của dân về dự Luật Đặc khu.

Đã ‘đi đêm’ với nhau?

Trong lúc giới chóp bu và Quốc hội Việt Nam còn châu đầu vào Dự luật Đặc khu cùng tương lai giá đất tăng vọt nếu “Luật Bán Nước” được thông qua, một giả thiết đáng sợ được đặt ra từ khi vụ Thủ Thiêm bùng phát nhưng dường như đang lao nhanh đến hiện thực: phải chăng đã có sự thỏa hiệp, hay nói trắng ra là “đi đêm” giữa các nhóm quyền lực - lợi ích mới với nhóm quyền lực - lợi ích cũ để “chuyển giao lợi ích” và đương nhiên cho chìm xuồng vụ Thủ Thiêm cùng đổ sạch biển nước mắt của dân oan?
Theo giả thiết trên, vào giai đoạn đầu của “chiến dịch, nhóm lợi ích mới sẽ dùng báo chí nhà nước để tổng công kích nhóm lợi ích cũ, gây áp lực ghê gớm để từ đó tiến hành mặc cả. Một khi mặc cả đã có giá, báo chí nhà nước lập tức được chỉ đạo “ngưng sủa”.
Hoặc sau khi đã có kết quả kiểm tra hoặc thanh tra, một thế lực chính trị - lợi ích sẽ lấy kết quả đó để tống tiền và ngã giá với những quan chức sắp bị tống vào “lò”.
Lối thoát duy nhất của những quan chức tham nhũng là phải “ói ra”, tức phải nhả ra nhiều lô đất vàng tại khu vực Thủ Thiêm cho nhóm lợi ích mới với giá cực thấp hoặc “cho không”. Nếu chịu “ói ra”, sẽ chẳng có quan chức “ăn đất” nào phải trả giá, hoặc cùng lắm chỉ bị “cách hết mọi chức vụ trong quá khứ” như một động tác ma mị đối với dân chúng. Và cũng chẳng có đồng tiền bồi thường nào đến tay dân oan, mà tất cả sẽ chui vào túi của những kẻ tống tiền.
Ngày càng lộ diện một “đường dây” từ chính quyền TP.HCM đến Chính phủ và móc xích cả với Quốc hội.
Nếu giả thiết trên biến thành hiện thực, người dân sẽ phải dìm chút hy vọng còn lại vào Nguyễn Phú Trọng xuống tận đáy vực thẳm.
P.C.D.
Tác giả gửi BVN.

NHÀ NƯỚC CAI TRỊ

PHẠM ĐÌNH TRỌNG/ BVN 26-6-2018

Theo chiều dọc thời gian, lịch sử loài người đã có nhà nước nô lệ, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản… Theo chiều ngang không gian trong thời đương đại chúng ta đang sống lại có hai loại hình nhà nước là nhà nước phục vụ và nhà nước cai trị.
Nhà nước phục vụ là nhà nước từ dân, của dân, do dân. Bằng tài trí của mình, người dân tự do ứng cử để được bầu chọn vào vị trí quản lí nhà nước. Bằng lá phiếu thực sự tư do, người dân bầu chọn hiền tài trong dân, tìm ra người tài trí lãnh đạo nhà nước. Nhà nước từ dân, nhà nước lại hướng về dân, phục vụ mọi nhu cầu chính đáng của dân và bảo đảm mọi nhu cầu cho sự hoạt động lành mạnh của một xã hội dân sự. Lợi ích của dân là lí do tồn tại của nhà nước phục vụ. Những lợi ích mang lại cho dân, cho nước là chỉ số về năng lực, hiệu quả của nhà nước phục vụ và người dân căn cứ vào chỉ số đó để tỏ thái độ với nhà nước bằng lá phiếu tín nhiệm, bằng biểu tình, bằng phán quyết của cơ quan dân cử để duy trì hay phế truất nhà nước.
Từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp của nhà nước phục vụ đều tập trung vào việc bảo vệ và nâng cao phẩm giá con người của người dân. Người dân được đưa lên vị trí chủ thể, chủ thể của nhà nước và chủ thể của xã hội. Quan chức nhà nước chỉ là công bộc, là người làm thuê của chủ thể nhân dân. Là hiền tài của dân, nhà nước đó là tinh hoa, là tầm vóc, là khí phách của giống nòi, là đại diện xứng đáng của một giống nòi trước nhân loại. Đó là những nhà nước dân chủ.
Nhà nước cai trị là nhà nước hình thành từ bên ngoài dân áp đặt cho dân. Bằng lừa dối và bạo lực, nhà nước cai trị buộc người dân phải cam chịu sự áp đặt đó. Một thế lực từ bên ngoài dân đã sắp đặt, phân chia cho nhau các vị trí quyền lực nhà nước rồi biến dân thành những rô bốt cầm lá phiếu đi bầu cử theo lập trình, theo cài đặt sẫn của thế lực cầm quyền để hợp thức hóa cho sự cai trị áp đặt. Các chế độ độc tài đều phải thiết lập, duy trì một nhà nước cai trị và nhà nước cai trị ở chế độ độc tài cộng sản là tinh vi nhất, khắc nghiệt nhất, chà đạp lên phẩm giá con người, cả thể xác lẫn tâm hồn, độc ác nhất, man rợ nhất.
Những năm tháng này trong dân gian ta có câu thành ngữ mới khái quát về một đặc tính, một lối hành xử của nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam là “hèn với giặc, ác với dân”. Những gì đã diễn ra ở Hoàng Sa năm 1974, ở biên giới phía Bắc từ năm 1979, ở Trường Sa năm 1988, ở Biển Đông những năm tháng qua đủ để người dân nhận ra tên giặc truyền kiếp của giống nòi Việt Nam, của lịch sử Việt Nam lại đang hiển hiện, lại đang thách thức dân tộc Việt Nam. Nhưng với nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam, một nhà nước của giai cấp vô sản thế giới chứ không phải nhà nước của dân tộc Việt Nam thì tên giặc truyền kiếp đó lại là bạn vàng ý thức hệ của nhà nước cộng sản. Chỉ riêng điều này đã là minh chứng vững chắc, hiển nhiên, đanh thép rằng nhà nước cộng sản từ cốt lõi đến hình hài hoàn toàn không phải nhà nước của giống nòi Việt Nam, đó chỉ là nhà nước cai trị áp đặt cho dân Việt Nam ở một thời đau đớn, tủi nhục nhất của lịch sử Việt Nam mà thôi.
Nhà nước cộng sản chỉ là một nhà nước chiếm đóng, một nhà nước cai trị, như nhà Nam Hán ở thế kỉ thứ nhất, nhà Đông Hán thế kỉ 10, nhà Minh thế kỉ 15 cai trị nước ta. Không phải nhà nước của dân tộc Việt Nam, lợi ích của nhà nước cộng sản cai trị hoàn toàn khác với lợi ích của người dân Việt Nam bị trị.
Vì lợi ích của nhà nước cộng sản, nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam đã gây cho dân tộc Việt Nam hết tội ác này đến tội ác khác. Tội ác Cải cách Ruộng đất. Tội ác Nhân Văn-Giai Phẩm. Tội ác cắt đôi đất nước, cắt đôi giống nòi rồi đẩy hai nửa giống nòi cùng mang dòng máu Việt của Mẹ Âu Cơ vào cuộc nội chiến đẫm máu. Tội ác lùa hàng triệu trí tuệ, tậm hồn Việt Nam không cùng ý thức hệ cộng sản vào tù mút mùa không bản án. Tội ác tiêu diệt một nền văn minh công nghiệp, văn minh đô thị, tiêu diệt nền sản xuất công nghiệp hiện đại mang khát vọng dân tộc để rước về một nền công nghiệp lạc hậu với công nghệ phế thải của Tàu Cộng, biến đất nước Việt Nam thành bãi rác công nghệ của Tàu Cộng. Tội ác đầy đọa, chia rẽ, li tán dân tộc Việt Nam, biến đất nước Việt Nam đất đầy hoa và trời đầy chim thành một nhà tù khổng lồ, tạo nên dòng người phải trốn bỏ ngục tù cộng sản đi tìm tự do, gây nên thảm họa gần nửa triệu người phải vùi xác đáy biển. Tội ác coi dân như kẻ thù, coi mạng sống của dân chỉ như sự sống của con ong, cái kiến, tùy tiện đánh giết dân. Mỗi năm có hàng trăm người dân lương thiện đã bị đánh chết trong đồn công an, trong trại giam. Tội ác hủy hoại giá trị đạo đức, văn hóa Việt Nam, làm tha hóa con người Việt Nam, biến đổi con người Việt Nam sáng tạo, trung thực và yêu thương thành con người công cụ, tàn ác và giả dối. Tội ác cắt nửa thác Bản Giốc kì vĩ ở Cao Bằng, cắt cả bức tường thành cổng nước sừng sững của lịch sử ở Lạng Sơn dâng cho Tàu Cộng. Tội ác mang lợi ích của đất nước, của giống nòi đánh đổi lấy lợi ích của Đảng Cộng sản. Tội ác kí những cam kết ràng buộc dân tộc Việt Nam vào thân phận chư hầu của Tàu Cộng. Kí những cam kết mở cửa đón Tàu Cộng vào ém quân ở những vùng đất chiến lược như dải rừng đầu nguồn rộng lớn ở Tây Bắc, nóc nhà Tây Nguyên, cảng nước sâu Vũng Áng, dải đất ven biển miền Trung. Tội ác đưa nền kinh tế Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào Tàu Cộng, ngày càng ngập trong bẫy nợ của Tàu Cộng… Không sao kể xiết tội ác của nhà nước cộng sản cai trị suốt hơn nửa thế kỉ qua.
Với những tội ác “Trúc Lam Sơn không ghi hết tội” nhưng nhà nước cộng sản cai trị vẫn ngạo ngược tồn tại vì nhà nước cộng sản cai trị vừa vô pháp, vô luân, cai trị bằng bạo lực chà đạp lên pháp luật. Ngang nhiên tước đoạt quyền con người và quyền công dân của người dân. Cho an ninh đến bao vây chặn cửa nhà dân, không cho người dân ra khỏi nhà tham gia những hoạt động bình thường, chính đáng và hợp pháp của công dân. Tùy tiện bắt dân, đánh dân. Trong cuộc biểu tình ôn hòa hợp pháp ngày 10.06.2018 phản đối luật Đặc khu kinh tế và Luật An ninh mạng diễn ra rầm rộ từ Bắc đến Nam, hàng ngàn người dân bị bắt giam phi pháp, bị công an nhà nước cộng sản cai trị đánh đòn thù. Công dân trẻ Nguyễn Minh Kha vừa bước vào tuổi 18 ở Phan Rí, Bình Thuận bị đánh đến cận kề cái chết đang phải cấp cứu ở bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn. Công dân Trịnh Văn Toàn, 32 tuổi bị đánh chấn thương sọ não ở nhà giam dã chiến dựng lên trong sân Tao Đàn, quận Một, Sài Gòn. Vừa cai trị bằng bạo lực vô pháp, vô luân, vừa cai trị bằng tự tạo ra thứ luật pháp phản con người, phản tiến hóa và vô cùng nghiệt ngã với dân.
Nhà nước cộng sản cai trị dành tối đa công sức xây dựng luật pháp tước đoạt những giá trị làm người của người dân, tước đoạt sức mạnh của nhân dân. Tài sản của dân, tài nguyên của nước bị luật hóa thành tài sản riêng của nhóm quyền lực cai trị. Luật pháp nhà nước cai trị chỉ tập trung vào hai điều.
Một là tước đoạt giá trị làm người của người dân mà Luật An ninh mạng là dẫn chứng mới nhất, rõ nhất. Tôi sẽ có bài viết riêng về bộ luật mang tên An ninh mạng nhưng thực chất chỉ là bộ Luật An ninh Đảng. Ở đây chỉ nêu ngay một ý nhỏ là:
Cách mạng công nghiệp và cách mạng tư sản dân quyền thế kỉ 18 đã đánh thức ý thức cá nhân trong mỗi con người thức dậy. Với ý thức cá nhân, con người có mặt trong cuộc đời là những cá thể riêng biệt không còn lẫn lộn trong bầy đàn nữa, là những cái Tôi nhỏ bé nhưng lấp lánh. Cái Tôi có mặt ở hạ tầng xã hội thì ở thượng tầng kiến trúc, pháp luật liền ghi nhận quyền của những cái Tôi cá nhân làm chủ cuộc đời mình và quyền của những cái Tôi công dân làm chủ đất nước mình. Đó là điều đã diễn ra ở những nhà nước phục vụ từ thế kỉ 18. Đến cách mạng công nghệ thông tin cuối thế kỉ 20 đã nâng những cá nhân lên thành những người khổng lồ mang tầm vóc vũ trụ và pháp luật nhà nước phục vụ một lần nữa lại mở rộng quyền của những cá nhân trong không gian vũ trụ mà nền văn minh tin học mở ra.
Đã bước sang thế kỉ 21 nhưng Luật An ninh Đảng núp dưới cái tên Luật An ninh mạng của nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam vẫn không nhìn nhận những quyền cơ bản của con người, như: Quyền có đời sống riêng, có thế giới riêng của cái Tôi, quyền riêng tư. Quyền tiếp nhận thông tin. Quyền tự do ngôn luận. Quyền có tư tưởng, chính kiến riêng. Quyền tự do công khai bộc lộ tư tưởng chính kiến đó. Quyền làm chủ đất nước. Quyền hạch tội, lên án và phế truất những công bộc được dân trao cho quyền lực nhà nước, được nhận lương cao của dân, được hưởng ơn dày của nước nhưng chỉ làm những việc hại dân, hại nước. Bộ luật hình sự với những điều 79; 88; 258 đã dán băng keo bịt mồm, bưng mắt, dán tai người dân thì nay Luật An ninh Đảng núp dưới tên An ninh mạng với những điều 2; 8; 15 lại dán thêm một lớp băng keo đen lên mồm, mắt, tai người dân.
Hai là làm luật biến quyền lực của dân thành quyền lực của nhà nước cai trị, biến tài sản của dân, tài nguyên của nước thành tài sản của nhà nước cai trị. Nhà nước cai trị thực chất chỉ là một nhóm lợi ích lớn nhất trong những nhóm lợi ích đối lập với lợi ích nhân dân do nhà nước cai trị tạo ra. Luật pháp nhà nước cai trị không những dành cho nhóm lợi ích cai trị nhiều đặc quyền, đặc lợi mà còn tước đoạt quyền lực của dân, tước đoạt tài nguyên của nước giao cho nhóm lợi ích cai trị. Hiến pháp 2013 với Điều 4: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội đã tước đoạt quyền lực của dân là tự do bầu chọn lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội, giao quyền lực đó cho Đảng Cộng sản, nhóm lợi ích lớn nhất trong nhà nước cai trị. Điều 53: Đất đai là sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lí đã tước đoạt quyền sở hữu tài sản đất đai của người dân, giao tài sản lớn nhất của người dân là đất đai cho nhóm lợi ích cai trị.
Luật đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn - Bắc Vân Phong - Phú Quốc cho thấy nhà nước cai trị đã xây dựng cả những bộ luật mang tài nguyên đất đai lãnh thổ của nước ra đánh đổi lấy sự bảo đảm từ nhà nước thực dân chủ nợ Đại Hán cho sự tồn tại của nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam.
Cách mạng công nghệ liên tiếp diễn ra với nhịp độ ngày càng gấp gáp, dồn dập. Hoạt động sản xuất kinh doanh cũng biến động không ngừng đòi hỏi sự nhạy bén, thích ứng không ngừng của nhà sản xuất kinh doanh. Trong sự biến đổi đó, những nhà đầu tư công nghiệp thực sự, chỉ nhằm lợi nhuận kinh tế không cần thời gian thuê đất 70 năm, 99 năm.
Chỉ kinh doanh bất động sản hoặc núp bóng kinh doanh nhằm mưu đồ đất đai lãnh thổ mới cần thời gian thuê đất lâu dài để thay sắc tộc, thay dòng máu, thay màu cờ mảnh đất thuê. Chỉ có khát vọng đất đai, lãnh thổ mới cần đến quyền chuyển nhượng, quyền kế thừa mảnh đất thuê. Chỉ có đầu óc thực dân mới cần mảnh đất thuê 99 năm cùng với quyền chuyển nhượng, kế thừa. Đáp ứng mọi đòi hỏi về mưu đồ đất đai, lãnh thổ của thực dân chủ nợ Đại Hán, Luật đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân phong, Phú Quốc thực chất chỉ là văn bản hợp thức hóa việc cắt đất dâng nhượng cho thực dân chủ nợ Đại Hán mà thôi.
Chủ nghĩa thực dân cũ và thực dân mới đã vĩnh viễn lùi vào quá khứ lịch sử từ giữa thế kỉ trước. Ngày nay với sự trổi dậy của nhà nước Đại Hán, trong túi đã rủng rỉnh đồng tiền, trong dạ luôn thèm khát đất đai, lãnh thổ và trong đầu luôn thôi thúc ý chí cai trị thiên hạ thì cũng là lúc trỗi dậy một nhà nước thực dân kiểu mới, nhà nước thực dân chủ nợ Đại Hán.
Không những là con nợ kinh tế mà với cam kết Thành Đô 1990, Nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam còn là con nợ chính trị của nhà nước thực dân chủ nợ Đại Hán. Làm ra cả một bộ luật mở đặc khu kinh tế ở ba vùng đất đẹp, ba vùng đất hiểm Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc không phải từ đòi hỏi của nền kinh tế Việt Nam mà chỉ là sự vâng lời trước đòi hỏi của nhà nước chủ nợ thực dân Đại Hán, là văn bản thế chấp của con nợ với chủ nợ mà thôi.
Những nhà đầu tư thực sự vì mục đích kinh tế cũng không chọn chốn tù túng Vân Đồn, không chọn nơi đã quá chen chúc, quá chật chội và quá đắt đỏ là Bắc Vân Phong, Phú Quốc. Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc chỉ có hai giá trị nổi trội là:
Giá trị nổi trội dễ thấy của Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc là kinh tế du lịch. Đó là nơi rừng thẳm, núi biếc soi bóng xuống biển cả hùng vĩ. Nơi lung linh thơ mộng của núi non gặp hùng tráng, kì vĩ của biển cả.
Đang là thời của du lịch. Thời của những dòng người bất tận đi khám phá vẻ đẹp tư nhiên của thế giới và khám phá vẻ đẹp dân dã ở những nền văn hóa của loài người. Ngành du lịch đang là thời thượng và biết khai thác du lịch bền vững thì Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc sẽ là sản phẩm du lịch hấp dẫn, độc đáo siêu hạng. Chỉ làm kinh tế du lịch thì không cần đặc khu kinh tế, càng không cần thời gian thuê đất 70 năm, 99 năm. Nhưng mượn cớ đầu tư kinh doanh để làm chủ mảnh đất chiến lược mới cần đặc khu. Mượn cớ du lịch để di dân chiếm đất mới cần được quyền chuyển nhượng, quyền kế thừa mảnh đất thuê, mới cần thời gian thuê đất 70 năm, 99 năm. Càng lâu càng tốt. Càng lâu càng nhiều cứt trâu hóa bùn.
Nhưng giá trị lớn nhất, đặc biệt nhất ở Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc là giá trị quân sự, giá trị quốc phòng. Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc thực sự là những yếu huyệt trong phòng thủ đất nước với Việt Nam. Nhưng cũng là những đầu cầu đổ bộ của quân xâm lược thôn tính Việt Nam. Khi đó Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc sẽ là những cứ điểm quân sự liên kêt với Tây Nguyên, với Vũng Áng, Hà Tĩnh mà Tàu Cộng đã làm chủ, liên kết với căn cứ tàu ngầm hat nhân Du Lâm trên đảo Hải Nam, liên kết với hạm đội Nam Hải ngoài Biển Đông, liên kết với căn cứ quân sự trên đá Chữ Thập trong Quần đảo Trường Sa, liên kết với căn cứ quân sự trên đảo Phú Lâm trong Quần đảo Hoàng Sa thì cả dải đất Việt Nam đã nằm gọn trong bàn tay thép Tàu Cộng.
Trước mắt, đó là chỗ dựa, là điểm tựa cho nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam đang đi sâu vào con đường chống lại giống nòi Việt Nam. Đó là sức mạnh bạo lực nhà nước Tàu Cộng đàn anh có mặt thường trực tại chỗ bảo đảm cho sự tồn tại của nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam trước sức mạnh bão táp của người dân đang cuồn cuộn nổi lên chống bè lũ bán nước và cướp mước, giành lại sự toàn vẹn lãnh thổ cho nước, giành lại giá trị làm người cho người dân. Đến lúc nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam phải run rảy và công khai núp dưới họng súng Tàu Cộng để tồn tại thì nhà nước đó cũng chỉ còn là chính quyền quận, huyện của nhà nước Đại Hán mà thôi.
Có ý thức dân tộc và lòng yêu nước thì không khi nào mang giá trị quân sự, mang thế hiểm về phòng thủ đất nước ra kinh doanh. Mượn cớ làm kinh tế mở toang những yếu huyệt trong thế trận phòng thủ đất nước cho nước ngoài vào chiếm đóng lâu dài 70 năm, 99 năm, như cách nói của một ngài đương nhiệm Phó Chủ tịch Quốc hội là: đón phượng hoàng vào làm tổ! Vâng, phượng hoàng vào làm tổ ở đó, có mặt ở đó để bảo lãnh cho lũ chim sẻ, chim ri tại chỗ phá nát dải đất hình chữ S.
“Xin khẳng định với cô bác, các anh chị cử tri là không bao giờ có chuyện bán đất cho nước ngoài”. Ông đại biểu quốc hội của tỉnh Đồng Nai và là Trưởng ban Tuyên giáo của Đảng Cộng sản, Võ Văn Thưởng véo von với người dân Biên Hòa sáng ngày 20.6.2018 như vậy. Cũng như ông Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Nguyễn Chí Dũng chủ trì soạn thảo Dự luật đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc trợn mắt, gân cổ cãi trước Quốc hội khóa 13 kì họp thứ năm rằng trong luật không có một từ Trung Quốc nào mà bảo luật mở cửa đón Trung Quốc chỉ là suy diễn. Trong luật cũng không có từ bán đất nào, và ông Trưởng ban Tuyên giáo cứ mạnh miệng: “không bao giờ có chuyện bán đất cho nước ngoài”.
Vâng, các ông không bán đất. Các ông chỉ đón sự có mặt của sức mạnh Tàu Cộng vào đất nước Việt Nam bảo lãnh cho sự sống còn của đảng các ông, bảo lãnh cho nhà nước cai trị của các ông mãi mãi nô dịch người dân Việt Nam mà thôi. Nhưng khi nhà nước cai trị của các ông làm xong nhiệm vụ là đàn áp, tù đày, bắn giết, đánh phá tan tác sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam thì lúc đó nhà nước cai trị của các ông cũng hết vai trò lịch sử. Nhà nước Đại Hán sẽ loại các ông khỏi vị trí nhà nước, đưa các ông về thân phận bù nhìn tay sai cấp khu, cấp vùng và nhà nước Đại Hán sẽ trực tiếp cai trị giống nòi Việt Nam như họ đang cai trị Tây Tạng, Tân Cương.
Khi đó các ông sẽ phải kí giao kèo bán sỉ cả đất nước Việt Nam gấm hoa cho Tàu Cộng chứ các ông không bán lẻ từng mảnh đất. Thời kì cắt từng mảnh đất, nửa thác Bản Giốc, cả bức tường thành cổng nước ở Lạng Sơn, bãi đá Gạc Ma ở Biển Đông ra bán lẻ đã qua lâu rồi. Bán như vậy vừa lộ liễu, bị nguyền rủa đời đời kiếp kiếp, vừa không thành tấm thành món. Buôn bán cò con quá, không xứng với thế hệ cai trị đều có bằng giáo sư, tiến sĩ như các ông. Hơn nữa kẻ mua đất đã là thực dân chủ nợ của thế giới rồi, kẻ mua đã nắm trọn đất nước Việt Nam và đã là chủ nợ cả về kinh tế và chính trị nhà nước cai trị của các ông rồi, chủ nợ thực dân Đại Hán cũng không cần mua bán cò con với các ông nữa.
Vì sự tồn tại của một đảng chính trị, một nhà nước cai trị đã gây quá nhiều nợ máu với dân, đã là rác thải của lịch sử, vì ý chí quyết duy trì một nhà nước cai trị trung cổ với hơn 90 triệu dân Lạc Việt và vì run sợ trước sự cựa quậy thức tỉnh của người dân, các ông đã cả gan lấy tiền thuế nghèo của dân mua máy bay lên thẳng vũ trang, mua tên lửa vác vai trang bị cho công an cấp huyện chống lại sự nổi dậy giành quyền làm chủ đất nước của người dân thì việc các ông đón đội quân thực dân Đại Hán mặc thường phục vào ém sẵn ở Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc cũng là tất yếu.
Người dân đã thấy rõ cách giải bài toán của các ông khi dân nổi can qua là: Cùng với những máy bay lên thẳng có gắn đại liên, rốc két túc trực ở sân trước sân sau trụ sở công an huyện, cùng với những ống phóng tên lửa trên vai đội quân công an huyện đông như kiến, đội quân thực dân Đại Hán mặc dân sự ém sẵn ở Bô xít Tây Nguyên, ở Formosa Vũng Áng, ở Vân Đồn, ở Bắc Vân Phong, ở Phú Quốc sẽ bảo đảm cho các ông không phải chui ống cống, bảo đảm cho nhà nước cai trị đầy tội ác của các ông chưa bị ném vào sọt rác lịch sử khi 90 triệu người dân Việt Nam thức tỉnh và can qua nổi lên. Với đạo quân khác máu tanh lòng có mặt thường trực trên đất nước Việt Nam, với trực thăng vũ trang, tên lửa vác vai trang bị tới tận công an cấp huyện, nhà nước cai trị của các ông sẽ tồn tại trên máu dân đổ ra lênh láng khắp đất nước. Các ông đã lấy máu dân giải bài toán về sự tồn tại của nhà nước cộng sản cai trị.
Cam kết Thành Đô 1990 cũng không mang từng mảnh đất Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc ra bán lẻ mà mang cả đất nước Việt Nam, cả giống nòi Việt Nam ra thế thấp để nhận sự bảo lãnh của sức mạnh bạo lực nhà nước Trung Cộng cho sự tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam, cho sự tồn tại của nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam. Luật mở cửa đón Tàu Cộng vào Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc cũng chỉ là một bước đi theo lộ trình mà cam kết Thành Đô 1990 đã vạch từ gần 30 năm trước mà thôi.
Dù lịch sử chọn lối đi bất ngờ đến đâu, dù nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam có chống lại nhân dân, chống lại qui luật của lịch sử hung hãn điên cuồng đến đâu cũng không tránh được cái kết thúc tất yếu: Hơn 90 triệu người dân Việt Nam thức tỉnh đứng lên giành lại quyền làm chủ đất nước Việt Nam thân yêu của mình.
Người dân không thể cam chịu mãi. Những gì diễn ra trong hai ngày chủ nhật 10.6.2018 và 17.6.2018 ở Hà Nội, Sài Gòn, Bình Thuận cho người dân nhận ra rõ ràng rằng nhà nước cộng sản cai trị đã coi 90 triệu người dân Việt Nam như kẻ thù, như tội phạm. Công an nhà nước cộng sản cai trị rải đầy trung tâm thành phố Sài Gòn, nơi thường diễn ra những cuộc biểu tình chống Tàu Cộng xâm lược, biểu tình phản đối nhà nước cộng sản hèn với giặc, ác với dân. Biểu tình là quyền hợp pháp của công dân nhưng công an cộng sản đã tùy tiện bắt bất cứ người dân nào đi trên đường, ngồi trong quán cà phê. Bắt giữ thô bạo như bắt con vật xổng chuồng đưa về nơi giam giữ, xét hỏi, tra tấn dã man, vu cho tội tham gia biểu tình phản đối luật đặc khu kinh tế, Luật An ninh mạng. Nhà nước cộng sản đã hiện nguyên hình chỉ là một lực lượng chiếm đóng tàn bạo.
Càng gây tội ác với dân là càng gần đến ngày tàn ô nhục của một nhà nước cai trị chống lại nhân dân, càng gần đến ngày người dân điểm mặt, tính số tội ác của từng tên tội đồ với nhân dân, với lịch sử Việt Nam: Những tên đã rước thảm họa cộng sản về tàn sát giống nòi Việt Nam. Những tên áp đặt và duy trì học thuyết cộng sản quái thai, học thuyết tiêu diệt tầng lớp thượng lưu, tiêu diệt những người giầu có của cải, giầu có trí tuệ, đưa những người kém cỏi không tự nuôi nổi mình phải cam phận nghèo đói từ đời này sang đời khác lên địa vị thống trị xã hội. Nhờ có cộng sản, những kẻ tầm thường leo tót lên vị trí vai vế trong nhà nước cộng sản cai trị. Vì vậy họ đã không từ một tội ác nào để duy trì nhà nước cộng sản cai trị. Cả tội ác bán nước, rước giặc về, dâng đất nước cho giặc để giữ được chiếc ghế cai trị của họ, họ cũng không từ.
P.Đ.T.
Tác giả gửi BVN.

"TOÀN LÀ BẤT HẢO", VẬY THÌ LÀM SAO ĐÂY ?

TƯƠNG LAI/ BVN 28-6-2018

 (Mênh mông thế sự để gió cuốn đi số 43b)

Vừa rồi, trong một cuộc họp với cử tri Hà Nội, ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nổi đóa lên mà rằng “Xem những thành phần bị công an bắt là ai? Toàn là bất hảo cả”! Để khỏi dài lời, xin dẫn ra đây những người mà ông Trọng gọi là “bất hảo” qua hai đoạn trích trong câu chuyện của họ đã viết rõ ràng và công khai trên facebook, những chuyện hoàn toàn có thể kiểm chứng:

Biểu tình 2016
Đoạn thứ nhất, trong lời kể của chị Hoài Diễm ngày 21.6.2018: “…Dù hôm ấy thật đáng sợ, dù bị bắt về với chẳng vì lý do nào cả, nhưng tôi thật sự cảm ơn vì ngày hôm ấy tôi đã ở đó, đã nghe tận tai, mắt tận thấy những hành động vô cương, vô pháp, vô nhân đạo của bọn chúng. Trải qua một ngày để nhận ra cái thiên đường mà tôi đang sống nó như thế nào. Một ngày quá xứng đáng để tôi có trong đời. Tôi không định nói ra, vì tôi không biết sau những gì tôi kể, tôi và gia đình, bạn bè tôi có bị chúng làm phiền hay không. Nhưng tôi nghĩ sự thật vẫn là sự thật. Tội ác của chúng ngày hôm đó đáng được phơi bày…”.
Đoạn thứ hai, trong lời kể của anh Nguyễn Tín:
“…- Khi nào thì nhận được đồ
- Giờ mày tỉnh táo làm việc thì tao trả
- Tôi không tỉnh táo để làm việc
Bốp… một cái tát trời giáng họ dành cho tôi khiến tôi bất ngờ, tôi cúi gầm mặt xuống và không nói bất cứ lời nào. Ánh mắt đầy căm phẫn, tôi cúi xuống và không nói gì nữa. Viên AN lớn tuổi nhìn đồng hồ và nói: trả nó đi.

https://ichef.bbci.co.uk/images/ic/720x405/p069mz6r.jpg
- Mày đừng để tao gặp mày biểu tình một lần nữa, ra đường gặp tao thì né đi chỗ khác. Lần sau mày không may mắn được vậy đâu!...
Tôi nhận lại điện thoại của mình và CMND, bước ra khỏi căn phòng tôi như vỡ oà trong sung sướng, muốn la lên thật to và chạy đến bắt tay với những người đã giam giữ, đánh đập tôi trong suốt 48 tiếng vừa qua như những người Việt Nam nhìn thấy đội tuyển mình vô địch năm 2008, không một chút hận thù, tôi bước ra khỏi đồn CA phường 15 và bắt xe ôm đi về nhà, phía sau là những AN bắt đầu theo dõi khi tôi vừa bước ra khỏi đồn…
… Lần đầu tiên của tôi vào đồn là thế đấy, khi chúng ta được nghe nhiều về ma nhưng điều khiến ta sợ là vì ta chưa biết con ma nó ra sao. Một lần vào đồn đã khiến tôi xua tan nỗi sợ đánh đập và nó làm tôi mạnh mẽ hơn trong công cuộc khó khăn này “lửa thử vàng, gian nan thử sức” là những thứ tôi đã trải nghiệm!”…
Thế đấy, “toàn là bất hảo” theo nhận định của ông Trọng!


Thưa ngài Tổng Bí thư, lúc chép những dòng này, tôi nhớ lại một câu chuyện tôi đã viết trong Thư Ngỏ gửi Tổng Bí thư cách đây 5 năm, ngày 28.2.2013:
Ngày 17 tháng 1 năm 2011 tại Hội trường Hội nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở Hà Nội, khi tôi đi đăng ký phát biểu ý kiến với Đoàn Chủ tịch Hội nghị, ngang qua chỗ ông ngồi, ông đã chủ động đứng dậy chào và bắt tay tôi.
Tôi nói "Xin chúc mừng Tân Tổng Bí thư". Ông cười và hỏi: "Anh mà cũng chúc mừng tôi cơ à?". Tôi đoán biết và mang máng hiểu ra ông đang nghĩ gì và định nói gì, nên cũng vui vẻ trả lời: "Phải chúc mừng chứ. Hãy cứ chúc mừng đã. Và rồi tôi sẽ dõi theo công việc của anh làm, hành động và ứng xử của anh với tư cách Tổng Bí thư, để rồi có tiếp tục chúc mừng hay không là chuyện về sau, còn bây giờ thì phải chúc mừng đã". Cả ông và tôi cùng cười. Những người đứng cạnh cũng cười vì tôi vốn nói to, mọi người đều nghe và nhìn thấy.


Nhắc lại chuyện này để nói rằng, hai năm qua, dõi theo những công việc ông làm, quả thật tôi nghĩ là phải rút lại lời chúc mừng đã đưa ra với ông hai năm trước. Vì sao? Vì chưa lúc nào vận mệnh của đất nước lại bấp bênh, chao đảo như hiện nay khi mà bàn tay của Trung Quốc đã thọc quá sâu vào mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước, của đời sống đất nước ta. Chính vì thế, chưa bao giờ uy tín của Đảng xuống thấp đến vậy. Điều này liên quan trực tiếp đến trách nhiệm của Tổng Bí thư. Thực trạng này được phơi bày quá rõ ràng mà chính ông, cũng như nhiều người giữ vị trí cao trong bộ máy cầm quyền, đã nhiều lần trực tiếp hoặc gián tiếp nói ra, chứ chẳng phải do "những phần tử thù địch" nào bôi nhọ cả!”.
Ba năm nữa trôi qua, tình hình ngày càng xấu đi, và điều dễ kiểm chứng nhất là sức chịu đựng của người dân đã tới cái ngưỡng. Lòng nhẫn nại đã vượt ngưỡng, bục vỡ là điều khó tránh. Những cuộc biểu tình liên tục nổ ra khắp cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Càng đàn áp tàn khốc, dân càng bật dậy dữ dội. Những bàn chân nổi giận đã xuống đường, không gì ngăn cản nổi đâu.

https://1.bp.blogspot.com/-S5o5HV81hEw/WyW9PNnQAxI/AAAAAAAAERY/dbqOvvlSwEwxlmrpj_4VPFuOYBdoptnIQCLcBGAs/s640/34840506_167759467409499_7139524844810403840_n.jpg
Giới quan sát quốc tế, bằng trải nghiệm chính trị của họ đã đưa ra nhận định gần như thống nhất với phân tích của BBC ngày 22.6.2018 vừa rồi: “Lý do biểu tình: “Chống Trung Quốc và Mong mỏi dân chủ”! Báo chí quốc tế giật những cái tít nổi bật: “Ác cảm với Trung Quốc và sâu xa hơn, nhu cầu có một xã hội dân chủ là nguyên nhân bùng nổ biểu tình tại Việt Nam”.
Bloomberg News nhắc lại mối quan hệ căng thẳng giữa Việt Nam với quốc gia láng giềng hùng mạnh Trung Quốc từng dẫn tới chiến tranh biên giới năm 1979. Một sự kiện nữa từng làm bùng nổ biểu tình tại Việt Nam là khi Trung Quốc đem giàn khoan thăm dò dầu khí vào vùng biển tranh chấp năm 2014.
The Diplomat thì nói rõ rằng các cuộc biểu tình gần đây tại Việt Nam tập trung vào phản đối Luật Đặc khu kinh tế. Người dân lo ngại chính quyền giao đất Trung Quốc thông qua hợp đồng cho thuê đất 99 năm. Các thông điệp biểu tình phản đối chủ yếu là "Không cho Trung Quốc thuê đất dù chỉ một ngày".
Tờ Asia Times dẫn lời của David Hutt phân tích rằng “các cuộc biểu tình vừa qua tại Việt Nam không đơn thuần là biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc chống Bắc Kinh. Bên cạnh các biểu ngữ chống Trung Quốc được trưng ra tại trong các cuộc biểu tình vừa qua, còn có những thông điệp mong mỏi và yêu cầu một xã hội dân chủ hơn. Một số người biểu tình mang biểu ngữ "Trả lại quyền tự chủ cho người dân”. Một biểu ngữ khác nói rằng cuộc biểu tình nhằm chống lại sự vi phạm Hiến pháp của Quốc hội”.

Blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (giữa) tại phiên tòa ở thành phố Nha Trang hôm 30/11/2017

Liệu họ có thuộc vào “bọn bất hảo” theo chỉ dụ của ngài Tổng Bí thư Trọng không nhỉ? Dù có nói liều đến cỡ nào cũng không dám quy kết dại dột vì có dốt mấy cũng láng máng biết được cái giá phải trả cho sự dại dột nổi dóa lên với họ.
Thế thì e là chỉ đám dân đen là đành phải cam chịu phận “bất hảo” để rồi tha hồ bị bắt bớ, đánh đập, bị vu khống, nhục mạ sao? Làn sóng biểu tình đang trào dâng khắp cả nước kia đều do “bọn bất hảo” dẫn dắt, xúi giục cả hay sao? Chắc giật mình hiểu ra được phần nào nguy cơ bùng nổ, nên mới có sự lùi bước hoãn việc thông qua “Luật Đặc khu kinh tế”, để kìm bớt sự phẫn nộ của dân. Vậy thì “nhân dân” chính là những kẻ “bất hảo” trong mắt của ông Tổng Bí thư Trọng?
Nếu thế rồi đây Đảng của ông sẽ tồn tại với ai? Ai sẽ đóng thuế nuôi bộ máy Đảng và Nhà nước, nuôi cái “hệ thống chính trị”, nuôi bộ máy chuyên chính, nuôi lực lượng bạo lực để giữ cái ghế quyền lực từ cơ sở lên đến chóp bu? Xem ra chỉ có hai phương án phải chọn:
Một là: “Giải tán nhân dân. Bầu ra một nhân dân khác” theo “Giải pháp” độc đáo của Bertolt Brecht đưa ra năm 1940 mặc dù ý tưởng của tác gia nổi tiếng người Đức ẩn chứa một ý thâm thúy khác trong bối cảnh ngột ngạt khủng khiếp dưới ách phát xít.
Hai là: “Các chính trị gia đều giống như tã lót. Cả hai đều phải thay thường xuyên vì những lý do giống nhau”, một danh ngôn rất phũ phàng song rất thực tế và nghiêm túc!
Sài Gòn ngày 25.6.2018
T. L.
Chú thích ảnh, từ trên xuống:
1. Đây, những người “bất hảo” giương cao khẩu hiệu trên đường phố Sài Gòn ngày 16.6.2016.
2. Đây, người “bất hảo” đang bị Công an kéo lê như kéo con vật trên đường phố Sài Gòn trong cuộc biểu tình ngày 16.6.2018.
3. Đây, “người bất hảo” đang ngồi làm bệ đỡ cho cảnh sát dã chiến vứt bỏ khiên giáp leo lên tường thoát ra ngoài tại Bình Thuận sau khi thất bại đàn áp cuộc biểu tình theo lệnh trên!
4. Đây, những người bất hảo trong cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược ngày 11.5.2014, đi hàng đầu là linh mục Huỳnh Công Minh, Tổng Giáo phận Sài Gòn.
5. Đây, trong “bọn bất hảo”, một quân nhân chít khăn tang đang đứng trước tấm băng rôn trong cuộc biểu tình phản đối Luật “Đặc khu kinh tế” ngày 16.6.2018.
6. Đây, người “bất hảo” đang bị quyền lực của ông Trọng tống vào tù với bản án cực kỳ tàn nhẫn và phi luân vừa được trao giải Tự do Báo chí Quốc tế của Ủy ban Bảo vệ các Nhà báo (CPJ) có trụ sở ở New York, cũng vừa được đề cử giải Nobel Hòa Bình 2018.
Tác giả gửi BVN.
THỜI CỦA CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ HẾT*
THIÊN ĐIỂU/VNTB/ BVN 26-8-2018
Lịch sử là dấu mốc các sự kiện đã chuyển hóa, thay đổi theo thời gian. Các thể chế chính trị của nhân loại cũng theo dòng lịch sử mà hình thành, tịnh vượng rồi suy tàn để nhường chỗ cho một giai đoạn mới. Nền chính trị Việt Nam sau gần 80 năm dưới chế độ chủ nghĩa cộng sản là giai đoạn bi hùng, đậm nét về kiểu phát triển chậm tiến tương tự như các nước phe CNXH của cộng sản khác và khá giống với văn hóa chính trị Phi châu. Chính trị Việt Nam giống các nước phe cộng sản bởi chung ý thức hệ chính trị, chung đường lối lãnh đạo bởi những ý tưởng hoang đường và ý chí tàn ác bậc nhất trong lịch sử nhân loại. Giống văn hóa chính trị của Phi châu bởi sự chậm lụt về mặt nhận thức chính trị của số đông dân chúng. Nó khiến cho các thay đổi chính trị thực chất chỉ là thay đổi bộ máy quyền lực. khi quyền lực chuyển từ nhóm cầm quyền này sang nhóm cầm quyền khác thì người dân lập tức quay về an phận với vị trí thần dân, tuân phục vô điều kiện cho đến khi bị bộ máy cầm quyền ấy đẩy vào đường cùng, bị lợi dụng bởi một nhóm tham vọng quyền lực khác mới chịu thay đổi vào sự hình thành bộ máy quyền lực mới. Đói nghèo và lạc hậu luôn là tất yêu với vòng quay bị xâu xé bởi các nhóm quyền lực thay nhau vơ vét là điều đương nhiên.
https://1.bp.blogspot.com/-AJtPV-unboo/Wy46bqGBNzI/AAAAAAAAEuM/bx8k575-U20Mpin09qW6TK7JbipZkFWRwCLcBGAs/s640/Bi%25E1%25BB%2583u%2Bt%25C3%25ACnh%2Bch%25E1%25BB%2591ng%2B%25C4%2591%25E1%25BA%25B7c%2Bkhu.jpg
Hình ảnh biểu tình trước dinh độc lập ngày 10.06
Sau gần 80 năm cầm quyền, bề nổi là một chế độ duy nhất nhưng nền chính trị cộng sản chủ nghĩa ở Việt Nam luôn mang đậm dấu ấn cá nhân không khác gì với mô hình chính trị thời phong kiến. Toàn cảnh kinh tế, xã hội Việt Nam trong suốt gần 80 năm đó có thể tóm tắt tựu trung lại là các thử nghiệm quản lý theo ý chí của nhóm lãnh đạo thay thế nhau được che giấu bởi cái vỏ bọc “bầu cử” giả tạo. Trong thời kỳ mới hình thành, hòa chung với phong trào đấu tranh giải phóng thuộc địa toàn thế giới. thời kỳ Đảng CSVN dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh có thể nói là thời kỳ được dân tin tưởng nhất trong lịch sử của chế độ cộng sản ở Việt Nam. Điều dó không hẳn là do bộ máy chính trị lúc đó tốt hay hoàn hảo mà nó đơn giản là một logic tự nhiên mà hầu hết các triều đại khi mới nổi lên đều nhận được. Chính yếu tố bang quan chính trị, tâm lý “buông tay” của đa số người dân chỉ muốn bình yên để làm ăn sau chiến tranh, không quan tâm tới quyền lực nhà nước và thể chế chính trị khiến xã hội Việt Nam dễ dàng chìm đắm trong các tuyên truyền kiểu thần thánh hóa. Tâm lý bàng quan chính trị của người dân vô tình giúp chính quyền cộng sản nhanh chóng đi vào ổn định quyền lực. Cuộc cải cách ruộng đất đã là cái cớ dẫn đến vai trò thực sự của ông Hồ Chí Minh cùng các học trò thân tín nhanh chóng phải nhường chỗ cho phe nhóm mới giành được lấy quyền lực. Tiếp tục hoàn thành mục tiêu thống lĩnh quyền lực trên cả hai miền nam bắc. Cuộc chiến Bắc-Nam kết thúc năm 1975 tiếp tục cho bộ máy chính quyền thêm một vầng hào quang giả tạo dù để lại không ít đau thương nếu không nói là bi thảm trong lịch sử dân tộc.
Sau khi thống nhất. cuộc cải tạo công thương nghiệp sau 1975 thực chất là một cuộc chiến nhằm thâu tóm những của cải còn sót lại sau chiến tranh vào tay nhà nước. Chính thức hình thành mô hình XHCN trên toàn nước Việt Nam. Mất 5 năm củng cố chế độ và 25 năm cho cuộc chiến thống nhất đất nước. Bộ máy cầm quyền của Đảng CSVN đã không có thời gian để biết được những kinh nghiệm thật sự cần thiết của mô hình nhà nước chủ nghĩa cộng sản của các nước khác. Thành trì của CNCS sụp đổ chỉ hơn chục năm sau khi Đảng CSVN giành được trọn quyền ở Việt Nam. Nội bộ Đảng CSVN bị phân hóa và chi phối nặng nề cả về quan điểm chính trị và mục tiêu quản lý xã hội dưới ảnh hưởng tác động từ tình hình chính trị thế giới,
Về chính trị, trước thực tế sụp đổ toàn bộ hệ thống XHCN trên thế giới. Học thuyết cộng sản đương nhiên không thể còn đủ thuyết phục ngay chính trong nội bộ Đảng nhưng việc tìm kiếm một mô hình chính trị mới lại gặp cản trở lớn bởi bộ máy nhân sự thiếu tầm vóc và trình độ cần thiết dẫn đến Đảng CSVN bắt buộc phải duy trì danh nghĩa Chủ nghĩa xã hội và cả hình tượng Hồ Chí Minh như một bức bình phong trên con đường tồn tại. Tuy nhiên, sự giao thoa về văn hóa, chính trị trong thời đại công nghệ và internet đã khiến bức bình phong ngày cảng mỏng manh. Khó lòng thuyết phục và đứng vững chỉ bằng tuyên truyền mị dân cho xã hội.
Về mục tiêu. Sự đổ vỡ trong nhận thức chính trị dẫn đến sự phân hóa mạnh mẽ, hình thành và tạo nên mâu thuẫn giữa các nhóm theo khuynh hướng khác nhau. Phe bảo thủ do thiếu kiến thức vĩ mô thì không dám từ bỏ bức bình phong chính trị ngày càng rệu rã. Phe lợi ích hình thành từ nhóm các quan chức vốn thực chất không còn coi trọng lý tưởng cộng sản, nhưng lại bị cản trở bởi phe bảo thủ nên quay sang tìm mọi cách vơ vét cho bản thân. Việc giàu lên nhanh chóng của phe lợi ích tiếp tục kéo theo thành phần trong phe bảo thủ cũng lao theo mục tiêu lợi dụng quyền lực để trục lợi, dẫn đến nạn tham nhũng ngày càng nặng nề, không thể kiểm soát khi không còn phe nhóm nào đặt lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc lên trên lợi ích cá nhân.
Tuy bề ngoài, các nhóm vẫn hợp tác với nhau vì mục tiêu duy trì quyền lực, nhưng các mâu thuẫn và tác động từ xã hội cả trong lẫn ngoài ngày càng nặng nề đã dẫn đến cuộc thay máu bằng phong trào “chống tham nhũng” do đương kim Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu năm 2016 đến nay. Quan sát và phân tích những gì xung quanh cuộc chiến chống tham nhũng. Thực tế đã cho thấy rằng nó thực tế chỉ là cuộc chiến tranh giành quyền lực. Tiếp tục rơi vào vòng xoáy cũ là chỉ nhằm thay đổi phe nhóm trong chế độ. Việc thay thế quyền lực và chuyển giao lợi ích giữa các phe nhóm cũ mới nhìn thấy khá rõ qua rất nhiều vụ án lớn: Vụ thanh tra mỏ Núi Pháo dẫn đến em trai của Chủ tịch nước Trần Đại Quang thay thế lãnh đạo cũ vốn là sân sau của con gái cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Dư luận cũng đồn đãi việc liên quan cá nhân ông Trần Đại Quang với Phan Anh Vũ (Vũ nhôm) ở Đà Nẵng và hàng loạt vụ án trong Bộ Công an liên quan nhiều tướng lĩnh đều vốn là thủ hạ của ông Quang trước khi lên làm Chủ tịch nước ít nhiều chỉ ra sự xác tín là các lợi ích liên quan mỏ Núi Pháo, Mỏ vàng Văn Bàn (Lào Cai); Các công ty bình phong làm kinh tế của Bộ Công an… đã nhanh chóng thay chủ khác chỉ sau một thời gian ngắn mới đổi chú cho thấy có sự liên quan nào đó về tranh chấp chính trị ở thượng tầng. Sự nhùng nhằng trong vụ án AVG của Mobiphone; một số đại án ngân hàng liên quan Bộ Tài chính… cũng phản ánh mối nghi ngờ đang có những thế lực “bí mật” đúng sau những cuộc đấu tuy âm thầm nhưng vô cùng quyết liệt. Việc bàn tay nào đó gần như ngay lập tức phủ bóng lên các dự án đội vốn hàng chục, hàng trăm ngàn tỷ ở Ninh Bình cho thấy rõ ràng, vai trò của ông Nguyễn Phú Trọng thực chất cũng chỉ là hình tượng bề nổi của phe đang có ý đồ dẫn dắt và thâu tóm toàn bộ quyền lực trong chính trường Việt Nam.
Việc Đảng CSVN bất ngờ đưa ra hai dự luật gây tranh cãi dữ dội là Luật An ninh mạng và Luật Đặc khu được chính ông Trọng và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân công khai ra chỉ lệnh ban hành cho thấy phe đang muốn thâu tóm quyền lực đã chọn giải pháp ngả hẳn về phía Trung quốc hòng tranh thủ sự hỗ trợ của Trung quốc để hoàn thành mục tiêu nắm quyền hoặc chính phe này đã nhận được sự hỗ trợ của Trung quốc từ trước để đi chung con đường theo chính sách mà Trung quốc đã đề ra.
Mâu thuẫn và tranh cãi về hai luật nói trên bùng nổ đến mức mà có lẽ chính ông Trọng và phe cánh của mình cũng không thể ngờ tới. Điều đó là minh chứng về khả năng kỹ trị quá yếu kém nên đã quá chủ quan khi nghĩ rằng cuộc chiến chống tham nhũng đã tạo được niềm tin trong nhân dân. Bước đi lộ liễu và thiếu tính toán này đã khiến chút lòng tin vừa được khơi dậy không những mất đi sạch sẽ mà còn đẩy chế độ đến sự đối nghịch với lợi ích quốc gia, lợi ích người dân khi nó tổn thương tới mọi ngóc ngách trong đời sống xã hội. Câu chuyện thị trường chúng khoán mỗi ngày mất đi mấy tỷ dolar Mỹ sau khi phê chuẩn Luật An ninh mạng rơi đúng vào bối cảnh các nhà đầu tư nước ngoài đang có xu hướng rút khỏi khu vực vì bất ổn liên quan cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung. Chính Luật An ninh mạng và Dự luật Đặc khu đã đẩy xu hướng này phản ứng nhanh hơn. Sự tổn thương về kinh tế chắc chắn sẽ còn nặng nề hơn khi Luật Đặc khu được đưa ra trong tháng 10 tới đây. Không có cơ sở nào cho thấy nhà nước có đủ khả năng chịu đựng được thiệt hại kinh tế trong tình cảnh nợ nần chồng chất như hiện nay.
Chính sách ngả về Trung quốc, bẫy nợ và sự gia tăng hoạt động quân sự lấn chiếm Biển Đông của Trung quốc sẽ đẩy bộ máy chế độ đi vào quẫn bách mà biểu hiện trấn áp dã man các cuộc biểu tình vừa qua là minh chứng sự bế tắc nghiêm trọng, không dễ gì tháo gỡ ngay cả với tầm quản lý Cú bấm nút thông qua Luật An ninh mạng có thể là tiếng chuông báo hiệu chấm hết mối quan hệ giữa chính quyền và người dân trong giai đoạn thoái trào của chế độ. Nút bấm thông qua Luật Đặc khu sẽ là phát pháo kết thúc vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN vì dù có dùng sức mạnh để níu giữ quyền lực thì Đảng CSVN chắc chắn sẽ phải đối mặt với cuộc hồi tố về tính chính danh của cả Đảng, Quốc hội và cả Chính phủ. Người dân sẽ căn cứ cuộc bầu cử mà thực chất là cuộc chuyển giao giữa “người mãn nhiệm bầu cho người lên thay” một cách trơ tráo năm 2016 để làm nền tảng đấu tranh. Khidanh nghĩa lãnh đạo của chế độ đã bị người dân phanh phui và phủ nhận thì không cách gì chế độ có thể tồn tại.
Rất khó có khả năng để Đảng CSVN lùi bước để thay đổi trước khi quá muộn vì rất có thể đường lui đã bị chặn lại bởi một âm mưu quyền lực ghê gớm hơn.
T.Đ.
VNTB gửi BVN.
__________
(*) Bài viết thể hiện góc nhìn riêng của tác giả. Nội dung được bảo hộ bởi Điều 19 - Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền.

CÁC CUỘC BIỂU TÌNH QUY MÔ VÀ THẾ LƯỠNG NAN HÀ NỘI TRƯỚC TUNG QUỐC

THỤY MYThụy My/BVN 28-6-2018

media
Người biểu tình ở Hà Nội phản đối dự luật Đặc khu, ngày 10/06/2018. REUTERS/Staff
Các cuộc biểu tình trên toàn quốc làm rung chuyển Việt Nam cách đây gần hai tuần đã làm nổi bật bài toán khó của Hà Nội khi giao dịch với Trung Quốc - vừa là cừu địch ở Biển Đông, lại vừa là đối tác thương mại và nhà đầu tư chủ chốt.
Lịch sử quan hệ Việt-Trung chìm đắm trong một ngàn năm Bắc thuộc, chiến tranh, loạn lạc. Cuộc xâm lược gần đây nhất của Trung Quốc là cuộc chiến tranh biên giới kéo dài hai tháng vào năm 1979.
The Diplomat ghi nhận, các cuộc xuống đường mới đây nhằm phản đối Luật Đặc khu, một dự luật đặt ra các “đặc khu kinh tế” (SEZ) với mục tiêu thúc đẩy đầu tư và cải cách kinh tế. Tuy nhiên, viễn cảnh những giao dịch đáng ngờ, được cho là nhượng đất cho các nhà đầu tư Trung Quốc, đã gây ra một làn sóng các cuộc biểu tình phản đối.
Những người biểu tình cầm các biểu ngữ trên đó người ta đọc được “Không đặc khu - Không cho Trung Cộng thuê đất dù chỉ một ngày”, “Đả đảo bán nước”. Phong trào phản kháng khởi đầu ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội rồi nhanh chóng lan ra các thành phố ở sáu tỉnh, có thể kể: Đà Nẵng, Nha Trang, Bình Thuận, Tây Ninh.
Ông Phạm Chí Dũng, cựu sĩ quan quân đội nay là chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, nói với The Diplomat: “Luật Đặc khu bị người dân Việt Nam gọi là luật bán nước. Rất nhiều người tỏ ra phẫn nộ. Đây là kiểu nhượng địa mà chỉ những quốc gia nghèo, lạc hậu mới vận dụng đến”.
Chắc hẳn ông Dũng muốn nói đến hai nước láng giềng nghèo nàn là Lào và Cam Bốt, đã chấp nhận cho các nhà đầu tư Trung Quốc thuê đất đến 99 năm.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã nhượng bộ về việc cho thuê ba đặc khu ở vị trí chiến lược 99 năm. Điều khoản này 99% giúp người ngoại quốc sở hữu đất đai, và các nhà đầu tư Trung Quốc hầu như là người hưởng lợi chính. Chính quyền dường như muốn giảm thời hạn cho thuê đất còn 70 năm như 18 đặc khu đã có.
Ông Nguyễn Chí Tuyến, một blogger đấu tranh ở Hà Nội có 42.500 người theo dõi trên Facebook, không bị thuyết phục trước lời hứa xem xét lại thời hạn cho thuê đất của thủ tướng Phúc. Ông nói: “Chúng tôi có một lịch sử lâu dài với người Trung Quốc, họ luôn muốn xâm lăng đất nước chúng tôi, thế nên rất nguy hiểm khi cho phép họ sử dụng các đặc khu này để kiểm soát đất nước”.
Mặt khác, Việt Nam lên án Trung Quốc quân sự hóa các đảo ở Biển Đông, và đòi hỏi chủ quyền trên nhiều đảo ở vùng biển mà Hà Nội luôn khẳng định phải gọi đúng tên này, chứ không phải “Biển Nam Trung Hoa”.
Chỉ vài ngày sau đợt biểu tình chống Trung Quốc đầu tiên, ngày 14/06/2018, ngoại trưởng Việt Nam tố cáo việc Trung Quốc tái bố trí hỏa tiễn trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Hà Nội đòi hỏi chủ quyền. Thông cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam gọi việc Bắc Kinh triển khai hỏa tiễn là “vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam”.
Cho dù tình hình trên biển vẫn căng thẳng, và một lịch sử đầy biến động sâu sắc với nước láng giềng khổng lồ, chính phủ Việt Nam vẫn hoan nghênh đầu tư của Trung Quốc, để đầy mạnh nền kinh tế đang khó khăn.
Nhưng Luật Đặc khu được đưa ra tranh luận tại Quốc hội bao gồm cả đặc khu Vân Đồn thuộc tỉnh Quảng Ninh, mà đối với nhiều người Việt, nằm sát biên giới Trung Quốc một cách đáng ngại. Một đặc khu khác là đảo Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang, nằm cạnh vùng duyên hải Cam Bốt đang bị các dự án của Trung Quốc thống trị.
Những nghịch lý cố hữu trong việc giữ thăng bằng giữa đối đầu trên biển và hợp tác kinh tế trên đất liền, giữa việc cao giọng xác quyết chủ quyền lãnh thổ nhưng lại bắt tay với các nhà đầu tư Trung Quốc, đã bị giới trí thức chỉ trích dữ dội, kể cả một vài đại biểu Quốc hội Việt Nam.
Một trong những tiếng nói phản đối mạnh mẽ nhất là ông Nguyễn Quang Dy, nhà cựu ngoại giao nay là nhà phân tích, giảng viên, đã công bố một bài viết với các lý lẽ chống lại Luật Đặc khu, vài tuần trước khi diễn ra các vụ biểu tình.
Ông viết: “Trong khi Trung Quốc ráo riết quân sự hóa và kiểm soát Biển Đông, không cho người Việt khai thác dầu khí và đánh cá trong vùng biển của mình, chắc họ sẽ tăng cường bành trướng thế lực để chiếm các vị trí hiểm yếu trên đất liền. Đặc khu kinh tế là một miếng mồi ngon mà họ thèm muốn… Trong bối cảnh lợi ích kinh tế và chủ quyền Việt Nam tại Biển Đông đang bị Trung Quốc đe dọa nghiêm trọng, việc mở ba đặc khu kinh tế tại các địa điểm hiểm yếu đó vào lúc này không thể biện minh, cả về lý do phát triển kinh tế lẫn lý do an ninh quốc gia”.
Các bộ trưởng đã cố gắng quảng bá cho đặc khu kinh tế là “Singapore thu nhỏ” - môi trường kinh doanh thân thiện, tập trung công nghệ cao.
Tuy nhiên nhà kinh tế Vũ Quang Việt, từng là cố vấn cho thủ tướng cải cách Võ Văn Kiệt (1992-1995) không chấp nhận lý lẽ này. Ông nhấn mạnh, các đặc khu mới sẽ thúc đẩy “đặt lợi ích nhóm lên hàng đầu, chủ yếu nhằm vào thị trường địa ốc và casino”. Theo ông: “Cái mà Việt Nam cần là công nghệ cao và đầu tư vào giáo dục để tăng năng suất lao động, và một nền kinh tế tri thức, chứ không phải địa ốc và dự án sòng bạc”.
“Nhóm lợi ích” là cụm từ thường được dùng để chỉ lớp đại gia mới đầy quyền lực, và những người đầu cơ địa ốc được cho là thông đồng với các nhà đầu tư Trung Quốc. Nông dân nghèo tố cáo giới này cướp đất của họ với sự đồng lõa của quan chức địa phương tham nhũng.
Một vài đại biểu trong Quốc hội do Đảng Cộng sản kiểm soát cũng không cảm thấy thuyết phục. Đại biểu Dương Trung Quốc nói trước nghị trường, là “dự luật nếu được thông qua thì chỉ làm lợi cho các nhà đầu cơ địa ốc, chứ không phải các công ty công nghệ cao”.
Một trong ba đặc khu là đảo Phú Quốc, gần vùng duyên hải Kep của Cam Bốt, cảng biển chính Shihanoukville và đảo Koh Kong. Nhà phân tích Nguyễn Quang Dy nhìn thấy ở đây mối nguy hiểm cực kỳ cho an ninh quốc gia: “Trung Quốc hết sức quan tâm đến Phú Quốc, coi đây là mục tiêu sắp tới”.
Chuyên gia về Việt Nam Carl Thayer ở Úc cũng coi Phú Quốc là địa điểm chiến lược, chỉ rõ “Koh Kong đang nhanh chóng trở thành lãnh địa của Trung Quốc. Tầm quan trọng của Phú Quốc dựa trên vị trí là điểm cuối phía nam của Biển Đông tiếp giáp với tuyến đường hàng hải đi qua eo biển Malacca và Singapore”.

Việt Nam đứng ở đâu?

Hầu hết mồi lửa nhen nhóm cho làn sóng phẫn nộ gần đây là từ di sản độc hại của nhiều vụ xì-căng-đan đầu tư Trung Quốc. Trong đó có dự án bô-xít ở Tây Nguyên đã gây ra đợt phản kháng trên toàn quốc năm 2009. Vai trò của công ty Trung Quốc và mối đe dọa khổng lồ cho môi trường từ bùn đỏ độc hại đã gây ra phong trào phản đối rộng lớn, từ các nhà ly khai cho đến các đảng viên tên tuổi, thậm chí cả vị tướng huyền thoại đã nghỉ hưu là Võ Nguyên Giáp.
Dù vậy, dự án này vẫn được tiến hành, sau khi cải thiện các biện pháp bảo vệ môi trường và có giám sát của Bộ Môi trường vốn có tiếng nói yếu ớt.
Rõ ràng là chính quyền đã bị rúng động bởi các vụ biểu tình mới đây. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cố gắng tỏ ra hòa giải, khẳng định với công chúng là “Chúng tôi đã lắng nghe nhiều nhà trí thức, nhân dân, đại biểu Quốc hội, cán bộ lão thành và Việt kiều”.
Tuy nhiên đúng vào tuần lễ mà thủ tướng bắt đầu lắng nghe, internet, một trong những không gian tranh luận chính trị chủ yếu, lại bị đặt dưới những quy định nghiêm ngặt và bị kiểm duyệt bởi Luật An ninh mạng mới được thông qua, bất chấp dư luận lên án.
Trước hàng loạt các xì-căng-đan tham nhũng có liên quan đến đầu tư Trung Quốc, đã có những lời kêu gọi tranh luận và đối thoại nhiều hơn từ trong nội bộ Đảng, báo chí do Nhà nước kiểm soát, và trên các mạng xã hội.
Một nhà xã hội học Việt Nam giấu tên mong muốn đối thoại và mở cửa nhiều hơn. “Chính quyền cần chấp nhận quan điểm đa phương, lắng nghe xã hội dân sự và trí thức, như chúng tôi đã từng kêu gọi trong thời kỳ đổi mới của ông Võ Văn Kiệt”, thủ tướng cải cách trong thập niên 90.
Tương tự, chuyên gia về Việt Nam, tiến sĩ Benedict Kerkvliet, giáo sư danh dự trường đại học quốc gia Úc bình luận: “Chính quyền cần tỏ rõ là họ tôn trọng quan ngại của công dân về chủ quyền quốc gia, và chân thành về điều này”.
Cho đến nay, chính quyền vẫn không chịu thừa nhận là độc lập quốc gia có thể bị nguy hiểm khi Trung Quốc đầu tư vào các đặc khu. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng kêu gọi bình tĩnh, nhưng ông cũng như các nhà lãnh đạo khác đều tránh nhắc đến Trung Quốc, vào lúc Bắc Kinh tỏ ra tức giận trước các cuộc biểu tình chống Trung Quốc.

Cuộc đấu tranh lâu dài cho độc lập

Chiến đấu để giữ vững nền độc lập cho Việt Nam, không bị người láng giềng khổng lồ phương bắc nuốt chửng, chẳng phải là công việc dễ dàng gì. Kerkvliet nhận định: “Trung Quốc là một thách thức vĩ đại, và Hà Nội cần phải phối hợp với các nước láng giềng cũng đang lo ngại trước các hành động của Trung Quốc”.
Một số quốc gia Đông Nam Á khác cũng đòi hỏi chủ quyền Biển Đông, nhưng Việt Nam là tiếng nói lớn nhất đả kích chính sách hung hăng của Bắc Kinh. Việt Nam cũng là quốc gia duy nhất có kháng cự lại việc Trung Quốc bóp nghẹt tài nguyên nước của dòng sông Mêkông.
Philippines dưới thời chính quyền cũ đã kiện Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye, và giành được một chiến thắng lịch sử. Nhưng tân tổng thống Rodrigo Duterte chủ yếu tập trung vào đầu tư kinh tế hơn là chủ quyền lãnh thổ, bỏ lại Việt Nam đơn độc.
Tuy Tòa Trọng tài bác bỏ yêu sách phi lý của Bắc Kinh trên hầu như toàn bộ các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng không ngăn được việc Trung Quốc nhe nanh múa vuốt đe dọa về quân sự, buộc Hà Nội phải ngưng thăm dò và khai thác dầu khí trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Trong năm nay, một dự án khai thác dầu khí trị giá 200 triệu đô la của tập đoàn Tây Ban Nha Repsol, có tên Cá Rồng Đỏ, đã bị ngưng lại do áp lực của Trung Quốc.
Sự bành trướng kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc qua sáng kiến Một vành đai, một con đường có thể vấp phải một số trở ngại tại Việt Nam. Tất cả các cố vấn chính phủ và các chuyên gia mà tôi gặp tại Hà Nội đều bày tỏ sự hoài nghi sâu sắc, tin rằng chiến lược của Bắc Kinh trên Biển Đông và sông Mêkông đều có mục đích làm Việt Nam yếu đi.
Mỗi học sinh Việt Nam đều được dạy rằng đất nước bị các hoàng đế và lãnh chúa Trung Hoa thống trị trong suốt một ngàn năm, từ năm 111 trước Công nguyên đến năm 938 sau Công nguyên. Đến thế kỷ 19 thì Pháp lập ra Đông Dương để đô hộ.
Bản sắc Việt Nam với tư cách một quốc gia độc lập đã được khắc họa qua việc đánh bại các kẻ thù mạnh hơn rất nhiều - đế quốc Trung Hoa cũ, thực dân Pháp năm 1954, và Hoa Kỳ năm 1975.
Nhưng chiến thắng khó khăn hơn hết là phải duy trì cho được nền độc lập, trước cuộc tấn công kinh tế của Trung Quốc trên nhiều mặt trận - đặc khu, sông Mêkông, và Biển Đông.
Các cuộc biểu tình đậm màu sắc dân tộc của các công dân Việt Nam gần đây rõ ràng trái hẳn với các nhà lãnh đạo Hà Nội đang chia rẽ, thiếu vắng một chiến lược rõ ràng để đối phó với sự thống trị ngày càng tăng trong khu vực của người khổng lồ kinh tế, ngay trước cửa nhà mình.
T.M.

CẦN CÓ LUẬT VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 

TRÚC GIANG/VNTB/BVN 28-6-2018

“Cán bộ lãnh đạo phải ghi nhớ, bất cứ ai cũng không có quyền lực tuyệt đối ngoài pháp luật, bất kỳ ai sử dụng quyền lực đều phải phục vụ nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh yêu cầu này khi phát biểu kết thúc Hội nghị toàn quốc về phòng, chống tham nhũng chiều ngày 25-6.

Giám sát theo… ý của Đảng?

Đoạn trích nói trên có toàn văn như sau: “Cán bộ lãnh đạo các cấp phải ghi nhớ, bất cứ ai cũng không có quyền lực tuyệt đối ngoài pháp luật, bất kỳ ai sử dụng quyền lực đều phải phục vụ nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân và tự giác chịu sự giám sát của nhân dân. Công quỹ là của công, cho nên một xu, một hào cũng không được chi dùng bừa bãi; công quyền là vì dân cho nên không được mảy may vì riêng tư; phải thật sự chí công vô tư, công tư phân minh, công trước tư sau, vì công mà quên tư; mọi việc đều xuất phát từ dân, vì dân”.

Theo tường thuật từ báo chí, kết thúc Hội nghị vẫn chưa thấy nhân dân sẽ giám sát cán bộ lãnh đạo bằng cách nào? Vì ngay cả chuyện khi ông Phó Chủ tịch TP.HCM Tất Thành Cang vi phạm pháp luật - như xảy ra ở các vụ áp phe mua bán đất quận 7, quận 2, thì do ông Cang (và cả cựu Bí thư Lê Thanh Hải) là nhân sự thuộc Bộ Chính trị quản lý, nên ngay cả tòa án cũng chưa thể xử ông Tất Thành Cang, nếu như chưa có sự đồng ý của Bộ Chính trị, chứ nói chi đến ‘quyền giám sát’ của người dân vốn chỉ là mỹ từ ‘hữu danh vô thực’.
https://2.bp.blogspot.com/-OcJrLTyCr3Y/WzJZZ3arCjI/AAAAAAAAEyI/PHkZ45oRi6QRF8uh-RFGTEETdLuDfOEgQCLcBGAs/s640/co-truong-thang-co-dang-tung-bay.jpg
Ảnh minh họa.
Hiến pháp 2013, Điều 4 viết rằng các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Bình luận về quy định này, nói theo ngôn ngữ tuyên giáo thì trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật là tối thượng nên không chỉ tổ chức của Đảng, mà mọi đảng viên đều phải có trách nhiệm nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Tuy nhiên cần minh định rằng Hiến pháp và pháp luật không phải và cũng không thể là sự thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Như vậy nếu đặt ra yêu cầu như lời ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, là cần nâng cao nhận thức về pháp luật và ý thức tự giác thi hành pháp luật của mọi cán bộ, đảng viên; đảng viên phải gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật, kiên quyết chống lại những hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật, vi phạm quyền và nghĩa vụ công dân, vi phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội... thì trên thực tế, đảng viên trước tiên phải tuân thủ theo các quy định mang tính nội bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người dân không thể biết đầy đủ các quy định nội bộ của Đảng để mà thực hiện quyền giám sát ‘cán bộ lãnh đạo’ như kêu gọi của ông Nguyễn Phú Trọng vào chiều ngày 25-6. Phải chăng người dân có quyền căn cứ vào Hiến định, Điều 16.2 “Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”, để có thể ‘gọi tên chỉ mặt’ những ‘cán bộ lãnh đạo’ là bầy sâu dân, mọt nước?

Nếu không có Luật về Đảng thì tham nhũng vẫn cứ ung dung cười ngạo nghễ?

Tưởng cũng nên nhắc lại câu chuyện về tướng Phan Anh Minh. Tại Hội nghị tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí năm 2015 do Thành ủy TP.HCM tổ chức vào chiều 8-3 (Bí thư Thành ủy lúc đó là ông Lê Thanh Hải), Thiếu tướng Phan Anh Minh - Phó Giám đốc Công an Thành phố đã thẳng thắn: “Tôi cũng xin lý giải thêm vì Ban Nội chính yêu cầu Công an TP giải trình là tại sao án tham nhũng được phát hiện do trinh sát là ít, tôi đã nói thẳng không phải là ít mà là không có. Lý do là vì công an TP cũng phải chấp hành chỉ thị 15, hầu hết đối tượng thực hiện hành vi tham nhũng là đảng viên mà công an thì không được quyền tổ chức trinh sát đảng viên”.
Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 07-7-2007 của Bộ Chính trị (khóa X) về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án và công tác bảo vệ Đảng, viết rằng các cơ quan bảo vệ pháp luật khi phát hiện có dấu hiệu đảng viên vi phạm đều phải báo cáo bằng văn bản với tổ chức đảng, cấp uỷ đảng quản lý trực tiếp đảng viên đó, khi được tổ chức đảng, cấp uỷ đảng xem xét đồng ý cho điều tra, khởi tố, bắt... thì cơ quan bảo vệ pháp luật mới được tiến hành các biện pháp tố tụng. Vì thế “công an không được quyền tổ chức trinh sát đảng viên” nằm trong ý nếu không được tổ chức đảng, cấp uỷ quản lý trực tiếp đảng viên đó ra văn bản đồng ý.
Cũng vẫn là câu chuyện cũ. Tại Hội nghị lần thứ 9 Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc (MTTQ) Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 28-6-2012, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Vũ Trọng Kim đã nêu một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 của Mặt trận. Trong đó, đáng lưu ý nhất là việc MTTQ Việt Nam kiến nghị nên có một đạo luật riêng về Đảng.
Điều lệ của chính đảng nói chung quy định những điều cơ bản về tính chất, mục tiêu, nguyên tắc, tổ chức và đảng viên của đảng đó. Mọi tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh điều lệ, không cho phép tổ chức đảng, đảng viên ở bất cứ cương vị và cấp bậc nào làm trái điều lệ. Qua quy định này, các chính đảng mặc nhiên thừa nhận điều lệ mang tính chất một “luật cơ bản” trong nội bộ của nó. Điều lệ của chính đảng chịu sự điều chỉnh của hiến pháp và pháp luật. Một chính đảng hoạt động hợp pháp thì đương nhiên điều lệ của nó phải phù hợp với hiến pháp và luật pháp.
Nếu so phần lý thuyết về ‘chính đảng’ như nói ở trên, thì ở Đảng Cộng sản Việt Nam, người ta thấy có quá nhiều nội dung điều lệ vượt lên trên cả quyền Hiến định. Đơn cử, ông Trần Quốc Vượng, lúc còn ở cương vị Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đã ký ban hành Quyết định 102, trong đó quy định rằng những đảng viên cộng sản nào đề cập đến những vấn đề như là tam quyền phân lập, hay xã hội dân sự sẽ bị khai trừ ra khỏi Đảng.
Trong khi đó không có một đạo luật nào của Nhà nước Việt Nam ngăn cấm xã hội dân sự cả. Thậm chí, đôi khi báo chí của Nhà nước và cả website của Bộ Tư pháp đã nói rằng xã hội dân sự là cần thiết cho sự phát triển của đất nước [Nguồn: http://bit.ly/2yHueCp]. Như vậy những quan chức Việt Nam, đại đa số là những đảng viên Đảng Cộng sản, một mặt phải tuân theo Quyết định 102, là không đề cập đến xã hội dân sự, nhưng mặt khác, với tư cách là người điều hành đất nước họ phải thúc đẩy xã hội dân sự phát triển.
Cá nhân người viết cho rằng ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cần tự tin mạnh dạn khẳng định tính chính danh của đảng cầm quyền, bằng việc xây dựng một Luật về Đảng Cộng sản. Dự luật này cũng có quy trình làm luật bình đẳng như tất cả các luật khác.
Bởi nếu không thì mai này người dân chẳng biết thực hiện quyền giám sát được Hiến định tại Điều 4.2 ra sao, khi mà người ta cứ tiếp tục nhân danh tập thể, nhân danh “bảo vệ” cán bộ thì không ai có thể động đến lông tay lông chân bọn tham nhũng được. Và cứ thế, tham nhũng vẫn ung dung… cười ngạo nghễ.
T.G.
VNTB gửi BVN.

TIN THẤT THIỆT CHÍNH THỐNG

Nguyễn Hùng/ VOA/ BVN 28-6-2018

Hình minh họa.
Hình minh họa.
Có cuộc biểu tình nào diễn ra ở Việt Nam trong tháng Sáu không?
Theo truyền thông chính thống, có lẽ là không. Nếu bạn dùng các từ khoá ‘biểu tình Việt Nam 2018’ để tìm trên Google, tin tức đầy đủ và không thiên vị về các cuộc biểu tình chỉ có trên mạng xã hội, BBC, RFI, VOA và các trang tin từ bên ngoài Việt Nam khác.
Một trong những người đi biểu tình nói họ ước gì các nhà báo có mặt và chứng kiến cảnh bạo lực phi lý đối với những người xuống đường thực hiện quyền mà Điều 25 của Hiến pháp đã ghi nhận.

Điều 25 Hiến pháp cũng thừa nhận quyền “tự do tiếp cận thông tin” và “tự do báo chí”. Vậy tại sao các nhà báo từ mấy trăm tờ báo không thực hiện các quyền này? Không phải ở Việt Nam không có các nhà báo giỏi và xông xáo, nhưng đừng mong họ giỏi và xông xáo trong lĩnh vực chính trị nhạy cảm ở Việt Nam.
Khi tôi còn làm ở BBC, đôi khi tôi đùa với các đồng nghiệp là nhờ chính sách kiểm duyệt thông tin của Việt Nam mà chúng tôi có việc làm. BBC đã đóng cửa một loạt các ban ngôn ngữ châu Âu trong đó có Ba Lan, Slovakia và Hy Lạp chỉ vì các quốc gia đó không còn thiếu thông tin độc lập nữa.
Điều rõ ràng là truyền thông chính thống vờ như một số sự kiện ở Việt Nam không xảy ra hoặc xảy ra theo cách hoàn toàn khác so với những gì truyền thông không bị sức ép thuật lại.
Một số nhà báo như Huy Đức hay Trương Duy Nhất buộc phải dùng mạng xã hội để truyền đi những thông điệp mà truyền thông chính thống không đủ can đảm để đăng tải.
Cái gốc của sự thiếu vắng những thông tin trung thực hoặc sự tồn tại của những tin tức biến dạng trên truyền thông chính thống ở Việt Nam chính là sự tham nhũng quyền lực.
Mặc dù các nhà lãnh đạo Việt Nam hay nói “của dân, do dân và vì dân”, những gì họ làm trong lĩnh vực truyền thông cho thấy họ chỉ nói vậy nhưng không làm vậy.
Có trang web, tờ báo, đài phát thanh hay truyền hình có ảnh hưởng nào là “của dân” không? Hoàn toàn không? Các cơ quan đảng và nhà nước sở hữu tất cả.
Người dân có được tham gia tự do vào các hoạt động truyền thông không? Dĩ nhiên là không ngoại trừ họ lên Facebook và rồi vẫn có thể gặp rắc rối với chính quyền vì dám làm vậy.
Và nếu truyền thông không phải “của dân” và “do dân” thì đương nhiên họ không thể vì dân được mà phải vì những người ban phát cho họ quyền lực và bổng lộc.
Tại các đất nước mà truyền thông thực sự là của dân và do dân, lãnh đạo báo chí không phải họp hàng tuần với lãnh đạo tư tưởng của một đảng để được khen, bị chê, nhận chỉ thị không đưa tin gì, được đưa tin gì và đưa như thế nào.
Xin dẫn một ví dụ để cho thấy thế nào là sự độc lập trong các quyết định về tin tức và thời sự. Khi quyết định chọn nơi đăng cai World Cup 2018 đang được các quan chức FIFA thảo luận, BBC làm phóng sự điều tra về ba quan chức FIFA nhận hàng triệu đô la tiền hối lộ.
Khi đó Anh và Nga là hai đối thủ được cho là nặng ký và các quan chức Anh muốn BBC không phát phóng sự điều tra trước khi diễn ra một cuộc bỏ phiếu quan trọng của FIFA. Tuy nhiên BBC đã không nghe theo và bị coi là “không yêu nước” và là “điều đáng hổ thẹn”. Có lẽ phóng sự đó đã góp phần nào đó giúp Nga về sau được quyền đăng cai World Cup 2018. Nhưng nghĩa vụ của nhà báo là đưa tin trung thực và có trách nhiệm. Nhiều quan chức FIFA sau này đã điêu đứng vì cuộc điều tra của FBI, vốn phần nào bắt nguồn từ các phóng sự điều tra của báo chí.
Nhiều phóng viên trong nước thừa hiểu những nguyên tắc căn bản của báo chí độc lập đó là đưa tin trung thực và không chịu tác động của quyền lực, ân sủng hay các sức ép nào khác. Nhưng họ phải tự kiểm duyệt để bài viết được đăng và điều này nhiều khi gắn với thu nhập hàng tháng của họ. Nếu họ viết đúng, viết đủ, bài của họ vẫn có thể bị cắt xen hay nhiều khi đăng lên rồi lại bị gỡ xuống. Họ cũng có thể mất việc hoặc thậm chí bị điều tra nếu không uốn cong ngòi bút. Những rủi ro này khiến báo chí chính thống nhiều khi trở thành kênh tin thất thiệt chính thống với cách đưa tin có lợi cho những người có quyền và bất lợi cho người dân.
Tin thất thiệt chính thống cũng là lý do mỗi năm các chính phủ nước ngoài bỏ ra nhiều triệu đô la để duy trì các kênh phát thanh và truyền hình bằng tiếng Việt để đảm bảo người dân tiếp cận được với các thông tin gần với sự thật nhất có thể. Có một điều có lẽ không nhiều quan chức Việt Nam hiểu ra là chính họ cũng có thể trở thành nạn nhân của một hệ thống truyền thông thiên vị chính quyền. Cựu uỷ viên bộ chính trị Đinh La Thăng đã từng bị gỡ bài viết và có lẽ không vui vẻ gì với cách đưa tin của truyền thông sau khi ông bị bắt. Và mới đây ngay cả phát biểu của đương kim Chủ tịch nước Trần Đại Quang được đăng lên nhưng cũng sớm bị gỡ xuống. Khi truyền thông bị gắn sẵn vòng kim cô tư tưởng của Đảng Cộng sản thì chuyện nó bị buộc phải lên đồng hay buộc phải nhắm mắt, bịt tai là ‘chuyện thường ngày ở huyện’.
N.H.
Nguồn: https://www.voatiengviet.com/a/bbc-rfi-voa-tin-that-thiet/4454110.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét