Thứ Ba, 20 tháng 11, 2018

20181120. GIỚI THIỆU SÁCH 'ĐƯỜNG VỀ NÔ LỆ'

ĐIỂM BÁO MẠNG
GIỚI THIỆU SÁCH 'ĐƯỜNG VỀ NÔ LỆ'

NGUYỄN ĐÌNH CỐNG/ BVN 20-11-2018

Kết quả hình ảnh cho sách con đường nô lệ
TS Chu Hảo cho xuất bản sách này năm 2009. Đó là một trong những chứng cứ để ĐCSVN kết tội ông. Đoán rằng nhiều người muốn đọc nhưng ngại sách dài, tôi xin tóm tắt thành vài trang để các vị dễ tham khảo. Nội dung sách nhằm trình bày luận đề sau: “Nền kinh tế kế hoạch hóa (KHH), tập trung quan liêu bao cấp, do nhà nước thống nhất quản lý sẽ tất yếu dẫn toàn xã hội đến tình trạng nô lệ”.
Tác giả là HAYEK, xuất bản lần đầu tại Anh năm 1944, nhiều lần tái bản. Tên sách: The Road to Serfdom. Phạm Nguyên Trường dịch ra tiếng Việt. Trong lời giới thiệu của bản tiếng Việt có viết: Việt Nam đã bắt đầu từ bỏ cơ chế KHH tập trung quan liêu bao cấp… Tuy thế, những di chứng mà cơ chế này gây ra cho xã hội vẫn còn đó và đang gây nhức nhối cho xã hội…. Khi cơ chế KHH tập trung ngăn cản các cá nhân quyền tự tìm kiếm thu nhập và sử dụng tài sản của mình cho những mục đích riêng tư tất dẫn đến những tác động tiêu cực về mặt đạo đức, thái độ, lối sống và cách ứng xử của con người,… khiến cho người ta chỉ biết phục tùng, mất khả năng tư duy độc lập, chỉ biết rập khuôn;… thay vào đó là các biện minh nhân danh cộng đồng hay sứ mệnh cao cả; kích thích người ta chạy theo lối sống xin xỏ, chạy chọt để hưởng đặc quyền đặc lợi, và quyền ban ơn huệ cho người khác, v.v… Những khó khăn mà người Việt Nam chúng ta đã trải nghiệm trong thời kỳ KHH đã được Hayek nhìn thấy trước từ cách đây hơn 60 năm khi ông cảnh báo những hậu quả xấu nhất có thể xảy ra cho nước Anh.
Sách có các lời giới thiệu, dẫn nhập và 16 chương.
Dẫn nhập
Đã đến lúc phải nói rõ sự thật, dù nó có thể cay đắng đến đâu: chúng ta có nguy cơ lặp lại số phận của nước Đức (phát xít Hitle)… Đó là nền kinh tế KHH nằm trong tay nhà nước. Các xu hướng xã hội chủ nghĩa theo mô hình này. Sự tương đồng giữa những đặc điểm xấu xa nhất của các chế độ cộng sản Nga và chủ nghĩa xã hội quốc gia Đức đã trở nên rõ ràng… Chúng ta có thể rút ra được những bài học từ quá khứ nhằm ngăn chặn sự lặp lại của một số quá trình nào đó…
Chương1 - CON ĐƯỜNG BỊ CHỐI BỎ
Đó là con đường phát triển tự do, phát triển cá nhân đang bị chối bỏ ở một số nước như Đức, Ý, Liên xô, để xây dựng chế độ toàn trị. Châu Âu đang bước vào khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng này chính là hậu quả của một sai lầm mang tính nguyên tắc, đấy là việc theo đuổi một vài lí tưởng đã đưa đến những kết quả khác xa những điều chúng ta kì vọng. Trong quá trình phát triển, khi nền văn minh bỗng làm một cú rẽ ngoặt bất ngờ, khi đáng lẽ phải là tiến bộ thì ta lại phát hiện thấy những mối đe dọa từ tất cả các hướng, dường như đang đưa ta trở về thời kì mông muội, thế là chúng ta sẵn sàng kết án tất cả mọi thứ, trừ chính chúng ta… Trong hai mươi lăm năm qua (1918-1943), khi bóng ma của chủ nghĩa toàn trị còn chưa trở thành mối đe dọa thực tế, chúng ta đã càng ngày càng xa rời những lí tưởng nền tảng của nền văn minh phương Tây. Con đường phát triển mà chúng ta đã bước chân lên với những hi vọng trong sáng nhất lại dẫn chúng ta đến những nỗi kinh hoàng của chế độ toàn trị.
Chương 2 - GIẤC MƠ ĐỊA ĐÀNG
Đó là giấc mơ về tự do, công bằng, hạnh phúc mà người ta đang ra sức kiến tạo ở nước Đức và Ý với chủ nghĩa phát xít và ở Liên xô với chủ nghĩa cộng sản. Cả hai bên đều chống lại con đường phát triển cá nhân, đều nêu cao con đường XHCN. Người ta cho rằng: “Chỉ có CNXH mới có khả năng đưa cuộc đấu tranh vì tự do diễn ra trong nhiều thế kỉ đến thắng lợi cuối cùng, trong đó tự do chính trị mới chỉ là bước đầu tiên mà thôi”.
Phát xít và cộng sản có lúc xung đột. Đấy là vì họ cạnh tranh với nhau trong việc thu phục những người có cùng não trạng và căm thù nhau vì đảng này coi đảng kia là những kẻ dị giáo, nhưng hành động của họ lại chứng tỏ rằng đấy là những kẻ đồng hội đồng thuyền. Kẻ thù thực sự của cả hai đảng, người chẳng có gì chung với họ, người mà họ chẳng thể nào thuyết phục được lại chính là người theo chủ nghĩa tự do kiểu cũ.
Lời hứa về một sự tự do rộng lớn hơn, không nghi ngờ gì nữa, đã trở thành một trong những vũ khí mạnh mẽ nhất của bộ máy tuyên truyền XHCN và niềm tin rằng CNXH sẽ mang lại tự do là niềm tin chân thành và chân thật. Bi kịch vì vậy sẽ trở thành nặng nề hơn khi người ta nhận ra rằng Đường đến Tự do mà người ta hứa hẹn, trên thực tế lại là Đại lộ dẫn về Nô lệ. Không nghi ngờ gì, rằng chính lời hứa có nhiều tự do hơn đã ngăn cản, không cho người ta nhận ra mâu thuẫn không khoan nhượng giữa các nguyên lí nền tảng của CNXH và chủ nghĩa tự do. Chính nó đã làm cho ngày càng có nhiều người theo trường phái tự do chạy sang phe XHCN và tạo điều kiện cho những người XHCN chiếm đoạt tên gọi của các đảng theo trường phái tự do trước đây. Kết quả là phần lớn giới trí thức đã chấp nhận CNXH vì họ coi nó là sự tiếp tục của truyền thống tự do: đối với họ, CNXH sẽ dẫn đến việc mất tự do là một ý tưởng không thể nào chấp nhận được.
Về phát xít và cộng sản, Max Eastman, một người bạn cũ của Lenin, rút ra kết luận đã làm cho ngay cả những người cộng sản cũng phải choáng váng. Ông viết: “Chủ nghĩa Stalin, không những không tốt hơn mà còn xấu hơn cả chủ nghĩa phát xít vì nó tàn nhẫn hơn, dã man hơn, bất công hơn, vô luân và thiếu dân chủ hơn, không thể biện hộ bằng hi vọng hay sám hối… Đúng hơn, phải gọi nó là siêu phát xít”.
Chương 3 - CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN VÀ CHỦ NGHĨA TẬP THỂ
Trong phát triển kinh tế, chủ nghĩa cá nhân thể hiện bới sự cạnh tranh lành mạnh, còn chủ nghĩa tập thể đặc trưng bởi kế hoạch hóa. CNXH là một dạng chủ nghĩa tập thể. Về CNXH, cần phân biệt mục tiêu và biện pháp. Mục tiêu tự do, công bằng, hạnh phúc, là những điều tốt đẹp, hấp dẫn. Biện pháp là sự toàn trị, KHH v.v… Nhiều người ngộ nhận giữa mục tiêu và biện pháp. Có lẽ lầm lẫn là ở chỗ đáng lẽ phải sử dụng thuật ngữ CNXH để mô tả các biện pháp thì người ta lại dùng thuật ngữ mà đối với nhiều người lại có nghĩa là lí tưởng cao nhất.
Ý tưởng KHH được nhiều người ủng hộ trước hết là vì muốn giải quyết các vấn đề chung một cách hợp lí nhất, bằng năng lực viễn kiến có thể làm chủ được. Cái mà các đồ đệ của lí thuyết KHH yêu cầu là quản lí tập trung toàn bộ các hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất, trong đó có ghi rất rõ các nguồn lực của xã hội được “chủ ý phân bổ” ra sao, nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể nào.
Chủ nghĩa cá nhân ủng hộ việc sử dụng một cách tốt nhất các lực lượng cạnh tranh, coi đấy là biện pháp phối hợp hữu hiệu nhất các nỗ lực của con người. Nó xuất phát từ niềm tin rằng hệ thống cạnh tranh hiệu quả chính là kim chỉ nam tốt nhất cho các cố gắng của từng cá nhân. Nó không những không phủ nhận mà còn nhấn mạnh rằng để hệ thống cạnh tranh hoạt động hiệu quả thì phải có một khung pháp lí thật rõ ràng và các điều luật, cả trong quá khứ cũng như hiện tại, đều không tránh khỏi những khiếm khuyết nghiêm trọng. Nó cũng không phủ nhận thực tế rằng trong những lĩnh vực không thể tạo được điều kiện cho cạnh tranh hiệu quả thì phải dùng các biện pháp quản lí kinh tế khác.
Ý tưởng về việc quản lí tập trung toàn bộ nền kinh tế vẫn chưa nhận được sự ủng hộ của nhiều người, không chỉ vì đấy là vấn đề cực kì phức tạp mà còn vì nỗi sợ hãi khi nghĩ đến việc quản lí tất cả mọi thứ từ một trung tâm duy nhất. Và nếu chúng ta, bất chấp tất cả, vẫn tiếp tục lao theo hướng đó thì chỉ là vì nhiều người vẫn nghĩ rằng có thể tìm được một con đường trung dung giữa cạnh tranh cá thể và KHH tập trung. Mới nhìn thì đấy là quan điểm hấp dẫn và thông minh. Đúng là có lẽ không nên đòi hỏi phi tập trung hóa và cạnh tranh tuyệt đối, cũng đừng nên tập trung hóa và KHH hết tất cả mọi thứ, mà là sự kết hợp một cách thông minh cả hai phương pháp. Nhưng hóa ra trong trường hợp này lương tri chỉ là một cố vấn tồi. Mặc dù cạnh tranh có thể chấp nhận một sự điều tiết nào đó, nhưng không thể kết hợp nó với KHH mà không làm giảm hiệu quả của nó trong việc dẫn dắt quá trình sản xuất. Đến lượt mình, KHH cũng không phải là một thứ thuốc có thể chữa được bệnh bằng liều lượng nhỏ. Sử dụng dưới dạng cắt xén thì cả cạnh tranh lẫn KHH đều sẽ mất hiệu lực vốn có của chúng. Đây là những phương án mà ta có thể lựa chọn để giải quyết cùng một vấn đề, áp dụng cả hai cùng một lúc sẽ dẫn đến thiệt hại, nghĩa là dẫn đến các kết quả đáng buồn hơn là chỉ áp dụng một cách nhất quán một trong hai nguyên tắc nói trên. Nói cách khác, có thể kết hợp giữa KHH và cạnh tranh để lập kế hoạch hỗ trợ cạnh tranh chứ không phải lập kế hoạch chống cạnh tranh.
(chú thích của NĐC- Trong nhiều năm ở VN đã tuyên truyền rằng chủ nghĩa cá nhân là một thứ xấu xa, bỉ ổi, đê tiện v.v…, cần đấu tranh loại bỏ. Đó là một cách nhìn thiên lệch, chưa thấy được những mặt tích cực, tốt đẹp của nó, đã hình thành từ thời Phục Hưng)
Chương 4 - KẾ HOẠCH HÓA LÀ TẤT YẾU
Đầu đề của chương không phải là một kết luận mà là một câu hỏi (nên thêm từ Phải chăng…?). Những người đề ra KHH viện dẫn nhiều lý do như sự tiến bộ của công nghệ, chống độc quyền của các tập đoàn, là khả năng đem lại công bằng và phát triển v.v… Họ cho rằng đó là con đường tất yếu, họ viện dẫn những thành tựu KHH của nước Đức để chứng minh. Tác giả đã lấy những nghiên cứu ở nhiều nước, đặc biệt ở Anh và Mỹ để cho rằng KHH nền kinh tế không phải là một nhu cầu tất yếu ngoại tại, mà là kết quả của một sự lựa chọn có ý thức của một số người nào đó, là rút ra từ học thuyết marxit. Tuy vậy cần phải suy nghĩ xem vì sao lại có nhiều chuyên gia trong lĩnh vực kĩ thuật luôn đi tiên phong trong việc ủng hộ KHH đến như thế. Việc giải thích hiện tượng này liên quan mật thiết đến một sự kiện quan trọng mà ta phải luôn ghi nhớ nếu muốn phê phán KHH: vấn đề là mọi ý tưởng kĩ thuật của các chuyên gia của chúng ta đều có thể được thực hiện trong một thời gian tương đối ngắn nếu có thể buộc cả loài người coi đấy là mục tiêu duy nhất. Phong trào ủng hộ KHH lôi kéo được tất cả những người có lí tưởng, những người sẵn sàng hi sinh cả cuộc đời vì một mục đích vinh quang nào đó. Niềm hi vọng mà họ đặt vào KHH chính là kết quả của một cách hiểu đời sống xã hội rất hạn hẹp của họ, và thường là kết quả của một sự khuếch đại quá mức những mục tiêu mà họ cho là quan trọng nhất. Điều này thực ra không làm giảm giá trị thực dụng của họ trong xã hội tự do như xã hội của chúng ta, ở đây họ còn được mọi người thán phục nữa. Nhưng nếu như KHH được phép thực thi thì chính những người kêu gào KHH to mồm nhất sẽ trở thành những kẻ nguy hiểm nhất, và là những kẻ không khoan nhượng nhất đối với kế hoạch của những người khác. Vì từ người mộng mơ chân chính đến kẻ cuồng tín chỉ là một bước ngắn. Và mặc dù hiện nay các chuyên gia bất mãn chính là những người kêu gọi KHH lớn tiếng nhất, thật khó tưởng tượng nổi sự khủng khiếp và phi lý của cái thế giới nơi mà giả dụ các chuyên gia lém nhất trong những lĩnh vực khác nhau được tự do thực hiện các lí tưởng của mình mà không có sự kiểm soát nào. Và dù những người ủng hộ KHH có nói gì đi nữa thì “điều phối” cũng không thể trở thành một chuyên ngành mới được. Các nhà kinh tế học biết rõ hơn ai hết rằng họ không có kiến thức cần thiết để trở thành “nhà điều phối” vì phương pháp điều phối của họ là phương pháp không cần một nhà độc tài toàn trí toàn năng. Cách điều phối như thế chỉ có nghĩa là duy trì sự kiểm soát vô nhân tính, sự kiểm soát nhiều khi không thể hiểu nổi đối với những nỗ lực của các cá nhân, những sự kiểm soát mà các nhà chuyên môn kịch liệt phản đối.
Chương 5 - KẾ HOẠCH HÓA VÀ DÂN CHỦ
Người ta cho rằng KHH nhằm phục vụ mục tiêu chung, nhằm đáp ứng nhu cầu tập thể, phù hợp với đạo đức ứng xử của xã hội. Đó là những suy luận mang tính ngụy biện. “Các mục tiêu xã hội”, “các mục đích chung” xác định xu hướng xây dựng xã hội được gọi một cách mù mờ là “lợi ích chung”, “phúc lợi chung”, “quyền lợi chung”. Dễ dàng nhận ra rằng tất cả các khái niệm đó không có một ý nghĩa rõ ràng để có thể thực hiện những hành động cụ thể nào. Mỗi người có mục tiêu và nhu cầu riêng, khác nhau. Điều quan trọng nhất là đạt được, thỏa mãn được cái riêng ậy. Có một số mục tiêu và nhu cầu của nhiều người giống nhau, nhưng lấy cái đó để làm cái chung, lấn át cái riêng là thiếu nhân văn.
Để làm kế hoạch của quốc gia người ta cũng thảo luận, biểu quyết, thông qua quốc hội, nhưng phần lớn chỉ là dân chủ hình thức. Quốc hội chỉ được xem là nơi tán dóc, vô tích sự, nó không thể hoạt động có hiệu quả khi trực tiếp quản lý nền kinh tế quốc gia.
Dân chủ thực chất là phương tiện, là một công cụ thiết thực để bảo vệ hòa bình trong xã hội và tự do cá nhân. Tự bản thân nó, dân chủ không phải là hoàn hảo, cũng chẳng phải là chắc chắn. Nhưng kế hoạch hóa nhất định sẽ dẫn đến chế độ độc tài vì độc tài là công cụ cưỡng bức và nhồi sọ tư tưởng hữu hiệu nhất, nhất là nếu KHH tập trung được thực hiện trên quy mô lớn. Xung đột giữa dân chủ và KHH xảy ra là vì dân chủ chống lại việc hạn chế tự do, nó là chướng ngại trên đường phát triển của nền kinh tế KHH.
Chương 6- KẾ HOẠCH HÓA VÀ PHÁP TRỊ
Pháp trị là điểm khác biệt rõ ràng nhất giữa một đất nước tự do với một đất nước nằm dưới quyền cai trị của một chính phủ độc đoán. Pháp trị có nghĩa là mọi hoạt động của chính phủ đều phải tuân thủ các quy tắc đã được ấn định và tuyên bố từ trước. Các quy tắc này cho phép người ta dự đoán được một cách chắc chắn cách thức chính phủ sử dụng lực lượng cưỡng bức trong những hoàn cảnh cụ thể nào đó và người ta có thể lập kế hoạch cho các công việc của cá nhân trên cơ sở những hiểu biết như thế.
KHH kinh tế theo kiểu tập thể chủ nghĩa nhất định sẽ sinh ra một cái gì đó hoàn toàn ngược lại. Cơ quan lập kế hoạch không thể bằng lòng với việc cung cấp các cơ hội rồi để mặc cho những người xa lạ muốn sử dụng thế nào cũng được. Cơ quan này không thể tự trói mình vào những quy tắc chung, những quy tắc mang tính hình thức vốn dùng để ngăn cản những hành động độc đoán. Bởi vì chính cơ quan này phải lo cho các nhu cầu thực tế của người dân, mỗi khi nhu cầu xuất hiện, và sau đó cân nhắc xem nhu cầu nào cần đáp ứng, nhu cầu nào không.
Không nghi ngờ gì rằng KHH nhất định sẽ kéo theo việc phân biệt đối xử có chủ ý đối với những nhu cầu khác nhau của những người khác nhau, mặt khác, nó cho người này nhưng lại cấm người khác làm một việc gì đó. Nó ghi hẳn vào luật người nào thì được làm gì, được có những gì hay sung túc đến mức nào. Trên thực tế đấy chính là sự quay trở lại với quy định về địa vị, nghĩa là bánh xe lịch sử bị quay giật lùi, khỏi “xu hướng tiến bộ”
Pháp trị, theo nghĩa quy tắc luật hình thức, là nhà cầm quyền không được tạo ra đặc quyền đặc lợi cho một số người nào đó, là bảo đảm quyền bình đẳng của mọi người trước pháp luật, là đối trọng của một chính phủ độc tài.
Nền kinh tế KHH không thể dung hòa với nhà nước Pháp trị.
Chương 7- KIỂM SOÁT KINH TẾ VÀ CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ
Kiểm soát việc sản xuất của cải vật chất là kiểm soát chính đời sống con người.
KHH nền kinh tế là việc quản lí một hệ thống phức tạp những hành động liên quan với nhau của rất nhiều người thì cần, một mặt, một nhóm chuyên gia thường trực và mặt khác, một vị tống chỉ huy không bị gò bó bởi bất kì thủ tục dân chủ nào. Đây là hậu quả tất yếu  và những người ủng hộ nó cũng hiểu như thế, chỉ có điều họ an ủi chúng ta rằng việc này “chỉ” liên quan đến lĩnh vực kinh tế mà thôi.
Thực tế không phải như vậy. Đa số những người ủng hộ KHH đã từng nghiên cứu một cách nghiêm túc các khía cạnh thực tiễn của vấn đề đều không nghi ngờ gì rằng việc quản lí đời sống kinh tế chỉ có thể thực hiện được bằng một chế độ độc tài, dù ít hay nhiều.
Nếu hoạt động kinh tế của chúng ta bị kiểm soát thì muốn làm bất cứ chuyện gì chúng ta đều phải báo trước dự định và mục tiêu của mình. Nhưng báo trước vẫn chưa đủ, chúng ta còn phải được chính quyền chấp thuận. Như vậy là toàn bộ đời sống của chúng ta đã bị kiểm soát rồi.
Vì thế vấn đề KHH kinh tế không chỉ giới hạn ở câu hỏi liệu chúng ta có thể đáp ứng các nhu cầu của mình theo cách ta muốn hay không. Vấn đề là chúng ta có được tự giải quyết cái gì đối với ta là quan trọng hay các cơ quan lập kế hoạch sẽ giải quyết điều đó cho chúng ta. KHH  sẽ động chạm không chỉ các nhu cầu cơ bản như chúng ta vẫn hiểu khi nói về các vấn đề “thuần túy” kinh tế. Vấn đề là chúng ta, với tư cách là các cá nhân sẽ không được quyền quyết định nhu cầu nào là cơ bản nữa.
Khi chính quyền đã quản lí hoạt động kinh tế thì nó cũng sẽ kiểm soát không chỉ các khía cạnh vật chất của cuộc sống của chúng ta; nó sẽ nắm quyền phân phối các phương tiện có hạn mà nhất định chúng ta sẽ cần khi muốn hoàn thành bất kì mục tiêu nào đó. Và dù người kiểm soát tối cao đó có là ai thì một khi đã kiểm soát tất cả các hoạt động kinh tế sẽ kiểm soát tất cả các phương tiện có thể đáp ứng các mục tiêu của chúng ta, và sẽ phải quyết định mục tiêu nào đáng được thỏa mãn còn mục tiêu nào thì không. Bản chất vấn đề là như thế. Kiểm soát kinh tế không chỉ là kiểm soát một phần tách biệt của đời sống của con người; đấy là sự kiểm soát tất cả các phương tiện nhằm thỏa mãn các mục tiêu của chúng ta. Bất cứ người nào nắm độc quyền kiểm soát các phương tiện sẽ phải quyết định mục tiêu nào xứng đáng được đáp ứng, phải quy định các giá trị nào cao hơn, giá trị nào thấp hơn, tóm lại là quyết định các thần dân của họ phải có tư tưởng thế nào, phải phấn đấu vì cái gì. KHH tập trung có nghĩa là không phải từng người mà toàn xã hội sẽ giải quyết các vấn đề kinh tế và vì thế xã hội, đúng hơn là các đại diện của nó, sẽ quyết định tầm quan trọng của các mục tiêu khác nhau.
Việc kiểm soát sản xuất và giá cả tạo ra quyền lực gần như vô giới hạn
Người ta thường nói không có tự do kinh tế thì tự do chính trị cũng chẳng có giá trị gì. Đúng như thế, nhưng không phải theo cách mà những người ủng hộ kế hoạch hóa thường nói. Tự do kinh tế - vốn là tiền đề cho mọi quyền tự do khác - không phải là được giải phóng khỏi những lo lắng về kinh tế, nghĩa là giải thoát khỏi nhu cầu lựa chọn và quyền được lựa chọn như những người xã hội chủ nghĩa hứa hẹn với chúng ta; tự do kinh tế phải là tự do hoạt động kinh tế, và cùng với quyền lựa chọn là rủi ro và trách nhiệm.
Chương 8- AI LÀ AI
Thế hệ của chúng ta đã quên rằng chế độ tư hữu là sự bảo đảm quan trọng nhất của tự do không chỉ của người có của mà cả người không có của nữa. Đấy là vì tư liệu sản xuất nằm trong tay nhiều người hoạt động độc lập với nhau, không người nào có toàn quyền đối với chúng ta, cho nên chúng ta, với tư cách là cá nhân, mới có thể tự quyết định và hành động theo ý mình. Nhưng nếu tất cả các phương tiện sản xuất đều được tập trung vào tay một người, dù đấy có gọi là “toàn xã hội” hay nhà độc tài thì người đó sẽ có quyền lực tuyệt đối đối với chúng ta.
Ngay khi nhà nước bắt đầu lập kế hoạch cho toàn bộ nền kinh tế thì vấn đề địa vị của những cá nhân và các nhóm xã hội khác nhau lập tức trở thành vấn đề chính trị chủ yếu. Vì sức mạnh cưỡng bức của nhà nước là lực lượng duy nhất quyết định ai được có cái gì, cho nên ai cũng muốn có phần trong cái lực lượng lãnh đạo đó. Không có một vấn đề kinh tế hay xã hội nào lại không mang màu sắc chính trị, theo nghĩa là việc giải quyết các vấn đề như thế hoàn toàn phụ thuộc vào việc ai nắm được bộ máy cưỡng chế và quan điểm của ai sẽ giữ thế thượng phong trong mọi trường hợp.
Tôi tin rằng chính Lenin đã đưa ra câu hỏi nổi tiếng “Ai là ai?” Trong những năm đầu của chính quyền Xô Viết, “ai là ai” là vấn đề chính của chủ nghĩa xã hội[. Ai là người lập kế hoạch, ai là người thực hiện kế hoạch? Ai là người cai trị, còn ai là kẻ bị trị? Ai là người sắp xếp địa vị cho những người khác và ai là người phải sống theo các quy định do người khác đưa ra? Chỉ có quyền lực tập trung cao độ mới có quyền giải quyết được các vấn đề như thế mà thôi.
Ngay khi nhà nước bắt đầu lập kế hoạch cho toàn bộ nền kinh tế thì vấn đề địa vị của những cá nhân và các nhóm xã hội khác nhau lập tức trở thành vấn đề chính trị chủ yếu. Vì sức mạnh cưỡng bức của nhà nước là lực lượng duy nhất quyết định ai được có cái gì, cho nên ai cũng muốn có phần trong cái lực lượng lãnh đạo đó. Không có một vấn đề kinh tế hay xã hội nào lại không mang màu sắc chính trị, theo nghĩa là việc giải quyết các vấn đề như thế hoàn toàn phụ thuộc vào việc ai nắm được bộ máy cưỡng chế và quan điểm của ai sẽ giữ thế thượng phong trong mọi trường hợp.
Chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quốc xã đã thành công trước hết là vì lí thuyết mà chúng đưa ra đã hứa cho những người ủng hộ một số đặc quyền đặc lợi.
Chương 9- AN TOÀN VÀ TỰ DO
An toàn về kinh tế là cơ sở để có được tự do thật sự.
Cần phải phân biệt ngay từ đầu hai loại an toàn: loại an toàn có giới hạn, có thể đạt được cho tất cả mọi người và vì vậy không phải là đặc ân mà là yêu cầu chính đáng của mỗi thành viên trong xã hội và loại an toàn tuyệt đối mà xã hội tự do không thể bảo đảm cho tất cả mọi người và không được coi như một đặc quyền đặc lợi, trừ những trường hợp đặc biệt. Loại an toàn thứ nhất, bảo đảm để người ta không lâm vào hoàn cảnh thiếu thốn quá mức, bảo đảm một mức sống tối thiểu cho tất cả mọi người; và loại thứ hai là bảo đảm một lối sống hay một địa vị tương đối mà một người hoặc một nhóm người được hưởng so với những người khác. Loại thứ nhất là bảo đảm một mức thu nhập tối thiểu chung cho tất cả mọi người và loại thứ hai bảo đảm một mức thu nhập mà một người cho là mình xứng đáng được hưởng. Chúng ta phải thấy sự khác nhau một trời một vực giữa sự bảo đảm mà mọi người đều được hưởng, với sự bảo đảm chỉ dành cho một số người.
Muốn giữ được tự do nói chung thì không có lí do gì mà một xã hội đã đạt đến mức độ thịnh vượng như xã hội chúng ta lại không bảo đảm cho tất cả mọi người loại an toàn thứ nhất. Dĩ nhiên là xác định một mức sống tối thiểu là vấn đề vô cùng phức tạp.
Kế hoạch hóa để bảo vệ loại an toàn thứ hai là có hại cho tự do. Đấy là kế hoạch được thiết kế nhằm bảo đảm cho một số người hoặc nhóm người tránh được thất thu, mà đấy lại là chuyện bình thường trong xã hội dựa trên nguyên tắc cạnh tranh.
Sự bảo đảm càng trở thành đặc ân thì những người không được hưởng đặc quyền đặc lợi càng gặp nhiều nguy hiểm, khiến cho sự bảo đảm như vậy càng trở nên có giá hơn. số người có đặc quyền đặc lợi càng gia tăng, khoảng cách giữa họ và những người khác càng cách biệt thì sẽ xuất hiện các xu hướng và giá trị hoàn toàn mới. Không phải là tính tự chủ mà là việc được bảo đảm về kinh tế sẽ quyết định địa vị xã hội của một người. Các cô con gái sẽ không lấy những người tự tin và tử tế mà sẽ lấy người có đồng lương đảm bảo, còn chàng thanh niên không tìm được cách chui vào tầng lớp đặc quyền đặc lợi có nguy cơ sẽ vĩnh viễn trở thành một kẻ khốn khổ, một kẻ suốt đời nằm dưới đáy của xã hội.
Muốn bảo vệ tự do thì phải có một số bảo đảm kinh tế nào đó, vì nhiều người sẵn sàng chấp nhận rủi ro khi rủi ro không quá lớn. Nhưng không có gì khủng khiếp hơn là cái mốt ca ngợi sự an toàn với cái giá phải trả là tự do. Điều quan trọng là chúng ta phải học lại để nhận chân sự thật rằng tự do có giá của nó và từng cá nhân phải sẵn sàng chấp nhận những hi sinh to lớn về vật chất để bảo vệ tự do. Chúng ta phải tái khẳng định lại niềm tin và cũng là cơ sở của tư tưởng tự do trong các nước Anglo-Saxon, đã được Benjamin Franklin thể hiện trong một câu, có thể áp dụng cho từng cá nhân cũng như cho các dân tộc, như sau: “Người nào từ bỏ tự do thực sự để đổi lấy một ít an toàn tạm thời thì không xứng đáng được tự do, cũng chẳng xứng đáng được an toàn”.
Chương 10- VÌ SAO NHỮNG KẺ XẤU XA NHẤT LẠI LEO CAO NHẤT
Quyền lực dẫn đến tha hóa, quyền lực tuyệt đối dẫn đến tha hóa tuyệt đối.
Xem xét quan niệm làm chỗ dựa cho những người cho rằng chế độ toàn trị là tất yếu; nó là quan niệm làm suy sụp sức kháng cự của nhiều người khác. Quan niệm này cho rằng các đặc điểm kinh tởm nhất của các chế độ toàn trị xảy ra là do sự ngẫu nhiên của lịch sử, ở đâu cũng đều do những người đê tiện và lưu manh thiết lập nên. Và nếu, thí dụ, ở Đức những người như Streicher và Killinger, Ley và Heine, Himler và Heydrich nắm được quyền lực, thì điều đó chỉ chứng tỏ rằng người Đức là một dân tộc xấu xa chứ không phải việc nổi lên của những kẻ như thế là kết quả tất yếu của hệ thống toàn trị. Chả lẽ những người tử tế, những người lo lắng cho lợi ích của cộng đồng, những người sẽ giải quyết những nhiệm vụ vĩ đại lại không thể đứng đầu hệ thống toàn trị được ư?
Có đầy đủ lí do để tin rằng những đặc điểm xấu xa nhất của các hệ thống toàn trị hiện nay không phải là sản phẩm phụ ngẫu nhiên mà là những hiện tượng mà chế độ toàn trị trước sau gì cũng sẽ tạo ra. Khi một chính khách dân chủ quyết định lập kế hoạch cho toàn bộ các hoạt động kinh tế thì chẳng mấy chốc ông ta sẽ phải đối mặt với một trong hai lựa chọn: chấp nhận chế độ độc tài hay từ bỏ các dự định của mình, còn nhà lãnh đạo toàn trị thì phải giẫm lên đạo đức truyền thống nếu không muốn thất bại. Đấy là lí do vì sao trong các xã hội có khuynh hướng toàn trị những kẻ vô liêm sỉ thường dễ thành công hơn. Không hiểu điều đó là không hiểu được khoảng cách mênh mông, có thể nói một trời một vực, giữa chế độ toàn trị và chế độ tự do, không hiểu điều đó là không hiểu được rằng đạo đức tập thể không thể đội trời chung với những giá trị nền tảng của chủ nghĩa cá nhân của nền văn minh phương Tây.
Vị lãnh tụ tối cao là người duy nhất có quyền đặt ra mục tiêu cho nên các trợ thủ trong tay ông ta không được có quan điểm đạo đức riêng của mình. Yêu cầu quan trọng nhất đối với người cán bộ là lòng trung thành tuyệt đối đối với cá nhân lãnh tụ, kèm theo lòng trung thành là tính vô nguyên tắc và sẵn sàng làm bất cứ việc gì. Cán bộ không được có lí tưởng thầm kín của riêng mình hoặc quan điểm riêng về thiện ác, có thể ảnh hưởng tới các dự định của lãnh tụ. Từ đó có thể thấy rằng các chức vụ cao khó có sức hấp dẫn đối với những người có quan điểm đạo đức vốn từng là kim chỉ nam cho hành động trong quá khứ của người Âu châu. Bởi vì, chẳng có gì có thể đền bù được cho những hành động bất lương mà họ nhất định phải làm, sẽ không còn cơ hội theo đuổi những ước mơ lí tưởng hơn, chẳng có gì có thể đền bù được những mạo hiểm không thể nào tránh khỏi, chẳng có gì có thể đền bù được những niềm vui của cuộc sống riêng tư và sự độc lập của cá nhân mà chức vụ lãnh đạo cao nhất định phải làm. Chỉ có một khát khao, đấy là khát khao quyền lực theo nghĩa đen của từ này và cái khoái cảm được người khác phục tùng và được là một phần của một cỗ máy quyền lực khổng lồ không ai có thể cản trở được, là có thể được thỏa mãn theo cách đó mà thôi.
Chương 11- SỰ CÁO CHUNG CỦA CHÂN LÝ
Muốn cho mọi người cùng phục vụ một hệ thống các mục tiêu duy nhất, được kế hoạch của xã hội trù liệu, thì cách tốt nhất là buộc tất cả cùng phải tin tưởng vào các mục tiêu đó. Chỉ dùng các biện pháp cưỡng bách thì bộ máy toàn trị chưa thể hoạt động hữu hiệu được. Điều quan trọng là làm sao mọi người cùng coi các mục tiêu đó là của chính mình. Mặc dù những quan điểm như thế được lựa chọn và áp đặt từ bên ngoài, nhưng chúng phải trở thành niềm tin của quần chúng, phải trở thành tín điều của tất cả mọi người, sao cho các cá nhân có thể hành động một cách tự phát mà vẫn theo đúng ý của người lập kế hoạch. Và nếu trong các nước toàn trị người dân không cảm thấy họ bị áp bức như là những người sống trong các nước tự do tưởng tượng thì chủ yếu là vì chính phủ các nước này đã khá thành công trong việc buộc người dân suy nghĩ theo hướng chính quyền muốn.
Có thể làm được điều đó bằng những hình thức tuyên truyền khác nhau, kĩ thuật này đã phổ biến rộng rãi, chẳng cần nói thêm ở đây làm gì. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng công tác tuyên truyền cũng như kĩ thuật tuyên truyền không phải là những đặc điểm riêng biệt của chủ nghĩa toàn trị, Điều duy nhất, đặc trưng cho chính sách tuyên truyền trong chế độ toàn trị là tất cả bộ máy tuyên truyền đều hướng đến cùng một mục tiêu và tất cả các công cụ đều được phối hợp nhằm tạo ảnh hưởng đối với các cá nhân theo cùng một hướng và tạo ra một  đặc thù trong đầu óc mọi thần dân, Kết quả là, hiệu ứng mà nó tạo ra khác hẳn không chỉ về lượng mà còn khác về chất so với hiệu ứng tuyên truyền cho những mục tiêu khác nhau do nhiều chủ thể độc lập và cạnh tranh với nhau tiến hành. Khi tất cả các phương tiện thông tin đều bị một bộ máy duy nhất kiểm soát thì vấn đề không còn là gieo rắc quan điểm này hay quan điểm kia nữa, Khi đó một tuyên truyền viên khéo léo có thể nhào nặn tâm trí quần chúng theo bất kì hưởng nào mà anh ta chọn, ngay cả những người thông minh và có tư duy độc lập cũng không thể hoàn toàn tránh được ảnh hưởng của bộ máy tuyên truyền, nhất là nếu họ lại bị cách li với các nguồn thông tin khác trong một thời gian dài.
Nhu cầu thiết lập các giáo điều chính thống như là công cụ định hướng và tập hợp các cố gắng của tất cả mọi người đã được nhiều lí thuyết gia của hệ thống toàn trị đặt ra…. Chúng chỉ là những quan niệm cá biệt dựa trên các sự kiện mà sau đó được trau chuốt thành các lí thuyết khoa học nhằm biện minh cho các định kiến có sẵn mà thôi. Các lí thuyết giả khoa học trở thành một phần của hệ tư tưởng chính thống, là kim chỉ nam cho hành động của nhiều người, xuất hiện như thế đấy.
Ước muốn áp đặt lên dân chúng một tín điều được coi là bổ ích đối với họ dĩ nhiên không phải là điều mới lạ hay đặc biệt mà chỉ thời chúng ta mới có. Cái mới là lí lẽ mà các nhà trí thức của chúng ta dùng để biện hộ cho nó. Họ bảo rằng không làm gì có tự do tư tưởng trong xã hội hiện nay, vì rằng ý kiến và thị hiếu của dân chúng được định hình bởi tuyên truyền, sẽ định hướng tư duy của dân chúng vào những lối mòn có sẵn. Từ đó họ rút ra kết luận rằng nếu ý kiến và thị hiếu của đa phần dân chúng được nhào nặn bởi hoàn cảnh mà ta có thể kiểm soát được thì ta phải sử dụng cái quyền lực này một cách chủ động để lái tư duy của dân chúng vào hướng có lợi nhất.
Có lẽ đúng là phần lớn dân chúng không có khả năng tư duy độc lập, đúng là người ta sẵn sàng chấp nhận các quan điểm có sẵn về hàng loạt vấn đề và người ta cảm thấy hài lòng với những đức tin hình thành từ thời thơ ấu hay được lôi kéo vào. Trong mọi xã hội, tự do tư tưởng chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với một thiểu số không đáng kể. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng một người nào đó có quyền quyết định rằng ai mới là người được phép tự do tư tưởng. Cũng không có nghĩa là một nhóm người nào đó được quyền tuyên bố rằng người dân phải nghĩ thế này hay phải tin thế kia. Sẽ là sai lầm khi cho rằng hệ thống nào thì đa số dân chúng cũng đi theo sự lãnh đạo của một người nào đó, cho nên nếu tất cả mọi người cùng đi theo sự lãnh đạo của một người thì cũng thế mà thôi. Phủ nhận quyền tự do tư tưởng vì không phải ai cũng có khả năng tư duy độc lập như nhau là hoàn toàn bỏ qua những lí lẽ biện minh cho tự do tư tưởng. Tự do tư tưởng là động cơ chủ yếu thúc đẩy sự tiến bộ về mặt tri thức không phải là vì ai cũng có thể nói hay viết bất kì cái gì mà là bất cứ lí do hay tư tưởng nào cũng có thể được đem ra thảo luận. Khi bất đồng quan điểm không bị đàn áp thì bao giờ cũng có người tỏ ra nghi ngờ những tư tưởng dẫn đạo đương thời và đưa ra những tư tưởng mới cho mọi người thảo luận và tuyên truyền.
Quá trình tương tác giữa các cá nhân có những hiểu biết và đứng trên các quan điểm khác nhau tạo ra đời sống tinh thần. Sự phát triển của lí tính là tiến trình xã hội đặt căn bản trên sự khác biệt như thế. Bản chất của vấn đề là ta không thể tiên đoán được kết quả, ta không thể biết quan điểm nào sẽ thúc đẩy sự phát triển còn quan điểm nào thì không, nói tóm lại, không có quan điểm nào hiện nay lại có thể định hướng được sự phát triển mà đồng thời lại không ngăn chặn chính sự phát triển đó. “Lập kế hoạch” hay “tổ chức” sự phát triển của tâm trí cũng như sự phát triển nói chung là vô nghĩa, là mâu thuẫn ngay trong thuật ngữ. Ý tưởng cho rằng tâm trí của con người phải “tự giác” kiểm soát sự phát triển của chính nó xuất phát từ nhận thức sai lầm về lí tính của con người; sự thực là, chỉ có lí tính mới có thể “chủ động kiểm soát” được cái gì đó khác và sự phát triển của lí tính là kết quả của quá trình tương tác giữa các cá nhân với nhau, cố tình kiểm soát nó là chúng ta đã đặt giới hạn cho sự phát triển của nó và không chóng thì chầy sẽ dẫn đến sự trì trệ về tư tưởng và sự suy thoái của lí trí.
Bi kịch của tư tưởng tập thể là ở chỗ nó bắt đầu bằng việc coi lí tính là tối thượng nhưng lại kết thúc bằng việc tiêu diệt lí tính vì đã hiểu sai tiến trình đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển của lí trí. Có thể nói rằng đấy chính là nghịch lí của tất cả các học thuyết theo đường lối tập thể và yêu cầu kiểm soát một cách “tự giác” hay “chủ động” lập kế hoạch nhất định sẽ dẫn đến nhu cầu phải có một trí tuệ tối cao điều khiển tất cả, trong khi cách tiếp cận của chủ nghĩa cá nhân cho phép chúng ta nhận chân rằng các lực lượng siêu-cá-nhân mới là lực lượng dẫn dắt sự phát triển của lí tính. Chủ nghĩa cá nhân chính là thái độ nhún nhường trước các tiến trình xã hội và thái độ khoan dung đối với những ý kiến khác biệt, trái ngược hẳn với thói tự phụ nằm sẵn trong cội nguồn của yêu cầu lãnh đạo toàn diện

Chương 12- CỘI NGUỒN TƯ TƯỞNG CỦA CHẾ ĐỘ PHÁT XÍT
Nhiều người đã lầm khi cho rằng chủ nghĩa quốc xã chỉ là một vụ nổi loạn chống lại lí trí, là phong trào phi lí tính, không có một căn bản trí tuệ nào. Đấy là quan điểm sai lầm và hoàn toàn thiếu căn cứ. Học thuyết của chủ nghĩa quốc xã là đỉnh điểm của một quá trình tiến hóa tư tưởng kéo dài, trong đó có sự đóng góp của các nhà tư tưởng có ảnh hưởng vượt rất xa bên ngoài ranh giới nước Đức.
Thế thì tại làm sao cuối cùng quan điểm của một thiểu số phản động đó lại được đa số dân Đức và hầu như toàn bộ thanh niên Đức ủng hộ? Đấy không chỉ là do thất trận (chiến tranh 1914-1918), không chỉ là do những khó khăn sau chiến tranh và làn sóng dân tộc chủ nghĩa. Lại càng không phải là, như nhiều người muốn tin như thế, phản ứng của chủ nghĩa tư bản nhằm chống lại sự tiến công của chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, chính sự ủng hộ của phái xã hội chủ nghĩa đã giúp những người có tư tưởng như thế nắm được quyền lực. Không phải tư sản mà chính là sự thiếu vắng giai cấp tư sản đủ mạnh đã giúp họ leo lên đỉnh cao quyền lực.
Giáo sư Plenge, một nhà tư tưởng lớn đã viết : “Vì trong lĩnh vực tư tưởng, Đức là nước ủng hộ triệt để nhất giấc mơ xã hội chủ nghĩa, còn trên thực tế thì Đức cũng là kiến trúc sư quyền năng nhất trong việc thiết lập hệ thống kinh tế được tổ chức một cách chặt chẽ nhất. Chúng ta là thế kỉ XX. Dù chiến tranh có kết thúc như thế nào đi nữa, chúng ta vẫn là hình mẫu cho nhân dân các nước khác. Tư tưởng của chúng ta sẽ quyết định mục đích sống cho toàn thể loài người. Lịch sử thế giới đang chứng kiến một đại hí trường, cùng với chúng ta, một tư tưởng vĩ đại mới về cuộc đời nhất định sẽ giành chiền thắng, trong khi một trong những nguyên lí mang tầm lịch sử thế giới của Anh cuối cùng nhất định sẽ sụp đổ”.
Lí tưởng được Plenge trình bày một cách rõ ràng như thế vốn được rất nhiều nhà khoa học và kĩ sư Đức cũng như hiện nay đang được các đồng nghiệp của họ ở Anh và Mĩ ủng hộ, họ chính là những người kêu gọi tổ chức toàn bộ đời sống xã hội theo kế hoạch tập trung. Đóng vai trò chủ đạo là nhà hoá học nổi tiếng tên là Wilhelm Ostwald, ông này đã phát biểu một câu nổi tiếng. Có người nói rằng ông ta đã phát biểu công khai: “Nước Đức muốn tổ chức châu Âu, cho đến nay ở đó vẫn chẳng có tổ chức gì cả. Tôi xin giải thích cho các bạn cái bí mật lớn nhất của Đức: Chúng tôi, hay có thể nói, dân tộc Đức đã phát hiện ra ý nghĩa quan trọng của tổ chức. Trong khi các dân tộc khác còn đang lặn hụp dưới chính thể cá nhân chủ nghĩa thì chúng tôi sống dưới chế độ có tổ chức rồi”.
Chương 13-  NHỮNG NGƯỜI TOÀN TRỊ GIỮA CHÚNG TA
Tác giả điểm một số tên các giáo sư, nhà lý luận có tiếng tăm ở Anh ( vào khoảng 1915-1944) đã từng viết sách, báo ủng hộ chế độ toàn trị và KHH kinh tế. Các tên này khá xa lạ với độc giả VN hiện tại ( như là : Harold Nicolson, Lỏd Mỏley, Hẻny Sidgwick, Lỏd Action A.V Dicey, Gladstone v.v..). Đặc biệt Hayek phân tích  các tác phẩm của E.H Carr (Twenty Years’s Crisis - Cuộc khủng hoảng kéo dài hai mươi năm và Conditions of Peace - Điều kiện của hòa bình).
Và cuối cùng, trừ một vài ngoại lệ, việc các học giả và các nhà khoa học sẵn sàng phục vụ cho những người cầm quyền mới là một trong những cảnh tượng gây thất vọng nhất và đáng xấu hổ nhất trong toàn bộ lịch sử ngóc đầu dậy của chủ nghĩa xã hội quốc gia. Như mọi người đều biết, chính các nhà khoa học và các kĩ sư to mồm nhất đòi dẫn dắt hành trình tiến tới một thế giới tốt đẹp hơn lại là những người sẵn sàng quỵ lụy chế độ độc tài mới hơn bất kì giai cấp nào khác.
Vai trò của giới trí thức trong việc chuyển hóa xã hội thành xã hội toàn trị đã được Julien Benda dự báo từ trước, tác phẩm Trahison des clercs (Sự phản bội của các học giả) của ông có một ý nghĩa hoàn toàn mới khi ta đọc nó hôm nay, mười lăm năm sau ngày xuất bản. Đặc biệt có một đoạn trong tác phẩm rất đáng suy nghĩ và ghi nhớ khi xem xét một vài cuộc du ngoạn của các nhà khoa học Anh vào địa hạt chính trị. Đấy là đoạn Benda nói về “Sự mê tín, tôi nhắc lại, có từ thế kỉ XIX, cho rằng khoa học có thẩm quyền về mọi lĩnh vực, kể cả lĩnh vực đạo đức. Còn phải tìm hiểu xem liệu những người tuyên truyền cho học thuyết này có thực sự tin như thế hay họ chỉ muốn khoác cho niềm đam mê của họ cái vỏ khoa học mà họ biết chắc là chẳng có gì ngoài niềm đam mê. Cần phải ghi nhận là cái giáo điều cho rằng lịch sử tuân theo các quy luật khoa học thường hay được những người ủng hộ các chính quyền độc đoán rao giảng.
Cuốn sách mỏng của C. H. Waddington với tựa đề đặc trưng The Scientific Attitude (Thái độ khoa học), là một thí dụ tốt cho loại sách mà tuần báo Nature, một tuần báo có ảnh hưởng ở Anh, tài trợ. Cuốn sách này liên kết yêu cầu cho các nhà khoa học tham gia nhiều hơn vào lĩnh vực chính trị với những lời kêu gọi cháy bỏng cho việc “kế hoạch hóa” toàn diện. Mặc dù không trắng trợn khinh miệt tự do như ông Crowther, tiến sĩ Waddington cũng chẳng làm người ta ít lo ngại hơn. Nhưng ông khác với những người cầm bút viết về cùng đề tài là ông nhận thức rõ và nhấn mạnh rằng những xu hướng mà ông mô tả và ủng hộ nhất định sẽ dẫn đến hệ thống toàn trị. Song điều đó, theo ông, còn tốt hơn là cái mà ông gọi là “nền văn minh chuồng khỉ tàn bạo hiện nay”.
Muốn khảo sát một cách đầy đủ các xu xướng toàn trị khác nhau ở Anh cần phải chú ý đến những nỗ lực khác nhau nhằm tạo ra một kiểu chủ nghĩa xã hội cho các tầng lớp trung lưu, dù không nghi ngờ gì rằng các tác giả của chúng không nhận thức được, một xu hướng giống một cách đáng lo ngại với những gì đã diễn ra ở Đức thời trước khi Hitler nắm được chính quyền[11]. Còn nếu chúng ta quan tâm đến các phong trào chính trị thì chúng ta phải xem xét các tổ chức mới như phong trào Forward-March (Tiến lên) hay phong trào Common-Wealth (Thịnh vượng Chung) của Sir Richard Acland, tác giả cuốn Unser Kampi (Cuộc đấu tranh, của chúng ta), hay các hoạt động của “ủy hội 1941” của ông J. B. Priestley, có thời liên kết với phong trào bên trên. Nhưng mặc dù sẽ là sai lầm nếu coi thường các hiện tượng có tính triệu chứng nói trên, chúng vẫn không thể được coi là các lực lượng chính trị quan trọng. Ngoài những ảnh hưởng mang tính trí tuệ mà chúng tôi đã dẫn ra bằng hai thí dụ bên trên, động lực chủ yếu đưa đến chủ nghĩa toàn trị xuất phát từ hai nhóm quyền lực lớn: tư bản được tổ chức và lao động được tổ chức. Có lẽ mối đe dọa lớn nhất chính là chính sách của hai nhóm quyền lực lớn nhất này lại đang hướng về cùng một phía.
Hai nhóm này cùng ủng hộ việc tổ chức độc quyền nền công nghiệp nên thường phối hợp hành động với nhau; đây là xu hướng cực kì nguy hiểm. Không có lí do để tin rằng phong trào này là tất yếu, nhưng nếu chúng ta tiếp tục đi theo con đường mà chúng ta đã đặt chân lên thì nó nhất định sẽ dẫn chúng ta tới chế độ toàn trị.
Những người đã làm quen với lịch sử các nước lớn trên lục địa châu Âu hẳn phải lấy làm cực kì thất vọng khi nghiên cứu Cương lĩnh mới của Đảng Lao động Anh được thông qua gần đây với cam kết xây dựng “xã hội kế hoạch hóa”, được lấy từ hệ tư tưởng Đức.
Một phần tư thế kỉ trước còn có thể thông cảm với niềm tin ngây thơ rằng “xã hội được kế hoạch hóa có thể là xã hội tự do hơn xã hội cạnh tranh mà nó chuẩn bị thay thế”. …. Trong quá khứ các lực lượng truyền thống của cánh Hữu chống lại tiến bộ, đấy là hiện tượng đã xảy ra trong mọi thời đại và chẳng làm chúng ta lo lắng. Nhưng nếu vị trí của phe đối lập, cả trong các cuộc thảo luận công khai lẫn tại quốc hội sẽ trở thành sự độc quyền kéo dài của một đảng phản động thứ hai thì quả thật sẽ chẳng còn một chút hi vọng nào.
Chương 14- ĐIỀU KIỆN VẬT CHẤT VÀ MỤC ĐÍCH LÝ TƯỞNG
Thế hệ chúng ta thường hãnh diện là họ ít quan tâm đến các vấn đề kinh tế hơn các thế hệ cha ông. “Sự cáo chung của con người kinh tế” hứa hẹn trở thành huyền thoại quan trọng nhất của thời đại chúng ta. Trước khi chấp nhận lời khẳng định này hay coi sự thay đổi như thế là có ý nghĩa ta phải kiểm tra một chút xem nó đúng đến mức nào. Khi xem xét những lời kêu gọi về việc tái thiết xã hội đang vang lên mạnh mẽ khắp nơi, chúng ta đều thấy rằng tất cả đều có tính chất kinh tế: chúng ta đã thấy rằng việc “giải thích lại theo thuật ngữ kinh tế” các lí tưởng chính trị của quá khứ như tự do, bình đẳng, và an ninh là một trong những đòi hỏi cơ bản của chính những người vừa tuyên bố về sự cáo chung của con người kinh tế.
Một số người khẳng định rằng chúng ta đã học được cách làm chủ các lực lượng tự nhiên nhưng chưa biết cách phối hợp các hoạt động xã hội. Hoàn toàn đúng, nếu chỉ nói như thế. Nhưng sẽ là sai khi người ta so sánh tiếp và khẳng định rằng chúng ta cũng phải học để có thể làm chủ các lực lượng xã hội giống như chúng ta đã học được cách làm chủ các lực lượng tự nhiên vậy. Đây không chỉ là con đường dẫn tới chế độ toàn trị mà còn là con đường dẫn tới sự hủy diệt nền văn minh của chúng ta và chắc chắn sẽ chặn đứng sự tiến bộ trong tương lai. Những người kêu gọi như thế chỉ chứng tỏ rằng họ không hiểu một điều là muốn giữ những thành tựu mà chúng ta đạt được cho đến nay thì chúng ta phải tìm cách phối hợp những cố gắng của cá nhân bằng những lực lượng vô nhân xưng.
Trong quá khứ, chính sự phục tùng các lực lượng vô nhân xưng của thị trường đã tạo điều kiện cho sự phát triển của nền văn minh, không có sự phục tùng như thế thì nền văn minh không thể phát triển được
Những người cho rằng các xu hướng chính trị hiện nay đang gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với triển vọng kinh tế của chúng ta và thông qua hiệu ứng kinh tế đe dọa cả những giá trị cao hơn nhiều, lại tiếp tục tự lừa phỉnh mình rằng chúng ta đang hi sinh quyền lợi vật chất nhân danh những mục đích lí tưởng. Tuy thế, liệu năm mươi năm tiếp xúc với chủ nghĩa tập thể có nâng cao được tiêu chuẩn đạo đức của chúng ta hay sự thay đổi sẽ đi theo chiều ngược lại? Mặc dù chúng ta thường tỏ ra tự hào là nhạy cảm hơn với các bất công xã hội, nhưng hành động của mỗi người chúng ta thì lại chưa chứng tỏ được điều đó, về khía cạnh tiêu cực, thế hệ chúng ta có lẽ tỏ ra phẫn nộ hơn các thế hệ cha anh trước những bất bình đẳng của trật tự xã hội hiện hành. Nhưng ảnh hưởng của nó lên các tiêu chuẩn tích cực trong lĩnh vực đạo đức, trong các hành vi cá nhân và thái độ của chúng ta trong việc giữ vững các nguyên tắc đạo đức khi phải đối mặt với các thủ đoạn và đòi hỏi của bộ máy xã hội thì lại là vấn đề hoàn toàn khác.
Không phải là những cải tiến các định chế mà chúng ta thực hiện gần đây, chúng có vai trò nhất định, nhưng vai trò đó thật là nhỏ bé so với sự khác biệt căn bản giữa hai cách sống trái ngược nhau, mà chính là niềm tin không hề lay chuyển của chúng ta vào những truyền thống đã làm cho nước Anh và nước Mĩ trở thành quốc gia của những con người tự do, ngay thẳng, khoan dung và độc lập mới là điều đáng quan tâm.
Chương 15- TRIỂN VỌNG CỦA TRẬT TỰ THẾ GIỚI
Quan hệ quốc tế, nơi các nguyên tắc của chủ nghĩa tự do thế kỉ XIX bị từ bỏ trước tiên cũng là lĩnh vực mà thế giới đã phải trả giá đắt nhất cho sự từ bỏ như thế. Nhưng chúng ta mới chỉ học được một phần nhỏ cái bài học mà kinh nghiệm chắc chắn đã dạy cho chúng ta. Có thể, hơn bất cứ lĩnh vực nào khác, ở đây các quan niệm của chúng ta về những điều chúng ta mong mỏi và những việc chúng ta có thể làm vẫn còn là những quan niệm có thể tạo ra kết quả ngược hẳn với những điều mà chúng hứa hẹn.
Những người đã phần nào nhận ra những mối nguy hiểm này thường đưa ra kết luận rằng KHH  kinh tế phải được tiến hành “trên bình diện quốc tế”, tức là bởi một chính quyền siêu quốc gia nào đó. Mặc dù việc này có thể ngăn chặn được một vài mối nguy do việc lập kế hoạch trên bình diện quốc gia tạo nên, nhưng có vẻ như những người ủng hộ các cương lĩnh đầy tham vọng như thế chưa nhận thức được rằng các đề nghị của họ sẽ tạo ra những khó khăn và nguy cơ còn lớn hơn nhiều.
Chỉ có những người hoàn toàn không nhận thức được các vấn đề mà KHH sẽ tạo ra mới nghĩ rằng có thể quản lí và lập kế hoạch cho nền kinh tế của một khu vực rộng lớn với nhiều dân tộc khác nhau. KHH trên bình diện quốc tế chắc chắn, còn hơn cả trên bình diện quốc gia, sẽ là một nền chuyên chế không che đậy, một sự áp đặt của một nhóm nhỏ lên toàn bộ xã hội các chuẩn mực và việc làm mà những người làm kế hoạch nghĩ là phù hợp cho tất cả mọi người. Đây chính là kiểu ” sản xuất lớn” mà người Đức đã nhắm tới,
Sau những lí lẽ đã trình bày trong các chương trước, có lẽ chẳng cần phải nhấn mạnh rằng chúng ta sẽ không thể vượt qua được các khó khăn nếu “chỉ” trao cho các nhà chức trách quốc tế quyền giải quyết các vấn đề kinh tế. Cái niềm tin rằng đấy chỉ là giải pháp thực tiễn xuất phát từ quan niệm sai lầm rằng KHH kinh tế chỉ là nhiệm vụ kĩ thuật, có thể được các chuyên gia giải quyết một cách hoàn toàn khách quan, còn những vấn đề thực sự quan trọng sẽ được dành cho các chính trị gia. Nhưng một tổ chức kinh tế quốc tế không bị kiểm soát bởi một tổ chức chính trị cao hơn, ngay cả nếu có bị giới hạn nghiêm ngặt trong một lĩnh vực nhất định, vẫn có thể trở thành một cơ quan quyền lực độc đoán và vô trách nhiệm nhất mà ta có thể tưởng tượng được. Việc kiểm soát độc quyền một loại hàng hóa hay dịch vụ (thí dụ như ngành hàng không) trên thực tế chính là quyền lực không hạn chế. Chúng ta cũng ít có khả năng kiểm soát được quyền lực vì hầu như tất cả mọi việc đều có thể coi là “yêu cầu kĩ thuật” mà người bên ngoài không thể nào hiểu nổi hay coi là vấn đề nhân đạo, viện cớ là cần trợ giúp một nhóm người bị thiệt thòi nào đó (có thể là đúng như thế).
Nếu được sử dụng một cách khôn khéo, các nguyên tắc liên bang có thể cung cấp giải pháp tốt nhất cho những vấn đề khó khăn nhất của thế giới hiện đại. Nhưng áp dụng nó là nhiệm vụ cực kì khó và chúng ta sẽ không thể thành công nếu bắt nó phải làm những việc vượt quá khả năng của nó.
Dĩ nhiên là việc thành lập một liên bang khu vực như vậy chưa loại bỏ khả năng xảy ra chiến tranh giữa các khối khác nhau và muốn giảm nguy cơ xảy ra chiến tranh đến mức thấp nhất thì phải thành lập một hiệp hội rộng lớn hơn và lỏng lẻo hơn. Tôi cho rằng nhu cầu về một tổ chức như thế không phải là trở ngại cho việc hình thành liên hiệp gắn bó hơn giữa các nước gần gũi với nhau về văn hóa, quan điểm và tiêu chuẩn sống. Trong khi tìm cách ngăn chặn mọi cuộc chiến tranh trong tương lai, chúng ta không được ngộ nhận rằng có thể tạo ra ngay lập tức một tổ chức quốc tế đủ sức ngăn chặn mọi cuộc chiến tranh trong bất kì khu vực nào trên thế giới. Chúng ta không chỉ sẽ thất bại mà còn bỏ lỡ cơ hội giải quyết những vấn đề khiêm tốn hơn. Cũng như mọi cuộc đấu tranh chống lại cái ác khác, những biện pháp nhằm ngăn chặn chiến tranh trong tương lai có thể còn có hại hơn là chính chiến tranh nữa. Giảm thiểu nguy cơ xung đột có thể dẫn đến chiến tranh, đấy là tất cả những gì chúng ta có thể kì vọng.
Chương 16- KẾT LUẬN
Mục đích của cuốn sách này không phải là vạch ra một chương trình chi tiết cho trật tự xã hội trong tương lai. Và trong khi xem xét các vấn đề quốc tế, chúng ta đã đi hơi quá nhiệm vụ phê phán những vấn đề cơ bản vì trong lĩnh vực này chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ phải đối mặt với nhu cầu tạo ra một cơ cấu tổ chức để cho sự phát triển tương lai có thể diễn ra trong một thời gian dài. Tất cả phụ thuộc vào việc chúng ta sẽ sử dụng cơ hội đó như thế nào. Nhưng dù chúng ta có làm gì thì đấy cũng chỉ là sự khởi đầu của một quá trình khó khăn và lâu dài, trong đó tất cả chúng ta đều hi vọng có thể dần dần tạo ra một thế giới khác biệt hoàn toàn với cái thế giới mà chúng ta đã sống suốt hai mươi lăm năm qua.
Ta hoàn toàn có quyền nghi ngờ rằng trong giai đoạn này liệu việc xây dựng một kế hoạch chi tiết về cơ cấu nội tại của xã hội có mang lại nhiều lợi ích hay không; và cũng khó tin rằng có một người nào đủ sức đưa ra được kế hoạch như thế. Điều quan trọng là chúng ta phải thỏa thuận được một số nguyên tắc nhất định và giải thoát khỏi một số sai lầm đã hướng dẫn hành động của chúng ta trong thời gian qua. Dù có khó chịu đến đâu, chúng ta cũng phải công nhận rằng ngay trước chiến tranh, một lần nữa chúng ta đã ở vào giai đoạn đòi hỏi phải dọn dẹp những trở ngại do sự ngu dốt của con người tạo ra trên đường đi của chúng ta và phải giải phóng năng lượng sáng tạo của từng cá nhân thay vì tiếp tục cải tiến bộ máy “lãnh đạo” và “quản lí”, nghĩa là tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển chứ không phải là “lập kế hoạch cho sự phát triển”. Nhưng việc đầu tiên là phải giải phóng chúng ta khỏi việc tuyên truyền lừa mị rằng những việc chúng ta đã làm trong thời gian vừa qua đều là những việc khôn ngoan hoặc là không thể tránh khỏi, Chúng ta sẽ chẳng thể trở thành khôn ngoan hơn nếu không nhận thức được rằng chúng ta đã làm nhiều việc cực kì ngu xuẩn.
Nếu chúng ta đặt ra cho mình nhiệm vụ xây dựng thế giới mới thì chúng ta phải có gan khởi sự từ đầu, ngay cả khi điều đó có nghĩa là “ Lùi lại để nhảy tốt hơn”  Những người tin vào các xu hướng tất yếu, những người rao giảng về “Trật tự Mới” nghĩa là sự phóng chiếu những xu hướng từng tồn tại suốt bốn mươi năm qua, những người chẳng nghĩ được điều gì hay ho hơn là bắt chước Hitler, là những người không có dũng khí như thế. Những người kêu gọi áp đặt “Trật tự Mới” to mồm nhất chính là những kẻ bị ảnh hưởng nặng nề nhất của những thế lực đã gây nên cuộc chiến tranh vừa qua cũng như những tai họa mà nó đã gây ra cho chúng ta. Thế hệ thanh niên hoàn toàn có lí khi họ nghi ngờ niềm tin của thế hệ cha anh.
Nhưng họ sẽ lầm nếu tin rằng đấy vẫn là lí tưởng tự do của thế kỉ XIX, những lí tưởng mà thế hệ trẻ sau này hoàn toàn không biết. Mặc dù chúng ta không muốn cũng như không có khả năng quay lại thế kỉ XIX, chúng ta có điều kiện thực hiện các lí tưởng cao cả của nó. Chúng ta không có quyền có thái độ trịch thượng với thế hệ cha ông mình, không được quên rằng chính chúng ta, những người sống trong thế kỉ XX, chứ không phải là họ, đã làm cho mọi thứ rối tung lên. Nếu họ chưa biết cách tạo ra thế giới mà họ mong muốn thì với kinh nghiệm thu thập được, chúng ta đã được chuẩn bị tốt hơn cho nhiệm vụ này. Nếu chúng ta đã thất bại trong lần thử nghiệm đầu tiên trong việc tạo ra thế giới của những người tự do, chúng ta phải thử một lần nữa. Nguyên tắc thì vẫn thế, hôm nay cũng như trong thế kỉ XIX, chính sách tiến bộ duy nhất vẫn là: tự do cho mỗi cá nhân.
VÀI LỜI GIẢI THÍCH
Thời kỳ ở Pháp khi đọc được những tập tóm tắt các tác phẩm lớn, tôi rất thích thú. Nghĩ rằng đây là một cách có thể giúp nhiều người bình thường tiếp cận với tri thức nhân loại, khi họ không có đủ thời gian hoặc thiếu kiên nhẫn để đọc những bộ sách dày. Việc đọc những bộ sách như thế thường chỉ cần thiết đối với người nghiên cứu.
Khi làm tóm tắt tôi đã đọc kỹ từng chương, chọn ra những câu, những đoạn mà tôi cho là đã nêu được ý chính của chương đó, rồi chép lại nguyên văn. Chỉ thỉnh thoảng tôi mới viết vài câu với tính chất dẫn truyện. Việc  làm này khó tránh nhược điểm là sự chủ quan của người làm tóm tắt. Có thể vì một lý do không tự giác nào đó mà đã bỏ qua một số ý quan trọng, làm cho nội dung cơ bản, tư tưởng chủ đạo của tác giả chưa thể hiện được đầy đủ.
Phạm Nguyên Trường đã dịch The Road to Serfdom thành Đường về nô lệ. Tiếng Anh, từ Serfdom có nghĩa chính là chế độ nông nô hoặc tình trạng nông nô, được Việt hóa thành Nô lệ là khá chính xác, lột tả được bản chất.
ĐCSVN kết tội: “Đường về nô lệ” của F.A. Hayek “đã thổi phồng các mặt hạn chế của chủ nghĩa xã hội, đánh đồng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô với chủ nghĩa phát xít”. Kết tội như vậy, lấy cớ để thi hành kỷ luật Chu Hảo và răn đe những ai dám đọc quyển sách ấy. Tôi đoán rằng các cán bộ cao cấp của Đảng có ít người đã đọc toàn bộ sách, phần lớn chỉ là “nghe hơi nồi chõ” rồi phán bừa.
Tôi mạnh dạn làm việc tóm tắt này, hy vọng nhận được những lời phản biện của quý vị gần xa để rút kinh nghiệm. (Liên lạc : ndcong37@gmail.com;   Số ĐT 0389 578 620)
N.Đ.C.
Tác giả gửi BVN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét