Thứ Bảy, 24 tháng 11, 2018

20181124. GIÁO SƯ PHẠM MINH HẠC BÀN VỀ TRIẾT LÝ GIÁO DỤC VIỆT NAM

ĐIỂM BÁO MẠNG
TRIẾT LÝ GIÁO DỤC VIỆT NAM CỦA GS PHẠM MINH HẠC

THÙY LINH/ GDVN 24-11-2018

Theo nguyên Bộ trưởng Phạm Minh Hạc, nếu không có triết lý giáo dục, chúng ta sẽ không thể từ 5% người dân biết chữ trước Cách mạng tháng Tám, hiện đã lên hơn 90% người dân biết chữ…(Ảnh: Báo Lao động)
LTS: “Triết lý giáo dục Việt Nam” là gì?” là câu hỏi rất “nóng” thời gian gần đây. Tại hai kỳ họp Quốc hội vừa qua, nhiều đại biểu Quốc hội cũng như thành viên Chính phủ đã đề cập đến triết lý giáo dục. 
Trước băn khoăn này, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với Giáo sư Phạm Minh Hạc - nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục– người từng viết cuốn sách “Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam”, xuất bản lần đầu năm 2011 và tái bản năm 2013. 
Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
Phóng viên: Giáo sư từng thực hiện đề tài nghiên cứu cấp bộ về triết lý giáo dục trên thế giới và Việt Nam, đồng thời đã xuất bản cuốn sách về vấn đề này. Vậy triết lý giáo dục là gì và nó có ý nghĩa thế nào đối với sự phát triển của một nền giáo dục, thưa ông?
Giáo sư Phạm Minh Hạc: Trước hết, phải khẳng định triết lý giáo dục là vấn đề lớn của xã hội nói chung và ngành giáo dục nói riêng, vì nó có ý nghĩa quan trọng để phát triển sự nghiệp giáo dục.
Triết lý giáo dục nêu lên tư tưởng tổng quát, để xác định chủ trương, đường lối xây dựng và phát triển giáo dục. Nói cách khác, muốn phát triển giáo dục thì phải có triết lý giáo dục.
Lý do nào để Giáo sư làm nghiên cứu cũng như ra sách về triết lý giáo dục?
Giáo sư Phạm Minh Hạc: Khi đó, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận có cuộc họp với các Bộ trưởng và Thứ trưởng của Bộ đã nghỉ hưu tại Hạ Long. 
Sau cuộc họp đó, Bộ trưởng Luận nói với tôi là nên có tuyên bố về triết lý giáo dục. Tôi đề xuất cần có đề tài, Bộ đồng ý đề tài nghiên cứu khoa học  cấp bộ về vấn đề này.
Tôi cũng đồng thời viết cuốn sách “Triết lý giáo dục của thế giới và Việt Nam”, sau khoảng 6 tháng thì hoàn thiện, dày 300 trang. 
Khi nghiên cứu và viết sách, Giáo sư xác định triết lý giáo dục của Việt Nam là gì?
Giáo sư Phạm Minh Hạc: Khi đó, tôi xác định triết lý giáo dục là phải giáo dục cho mỗi người có “giá trị bản thân”, tức là dạy và học phải giúp người học hình thành hệ giá trị của từng người, có hiểu biết, có thái độ đúng, có năng lực. 
Mỗi người học phải làm cho mình thực sự có năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu của xã hội, bảo đảm cuộc sống cũng như trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội. “Giá trị bản thân” mà tôi đề xuất đã được ban soạn thảo Chương trình giáo dục phổ thông môn Giáo dục công dân tiếp thu.
Theo đó, “giá trị bản thân” hay “phẩm chất chủ yếu” của mỗi người sẽ gồm 5 giá trị: Yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm.
Mặc dù đến thời điểm này, chưa có một văn kiện nào của Đảng hay chính sách nào của Chính phủ dùng cụm từ “triết lý giáo dục”, song thực tế, triết lý này đã có và luôn là sợi chỉ xuyên suốt trong quá trình phát triển của nền giáo dục nước nhà. Thưa giáo sư, triết lý giáo dục của Việt Nam hiện nay cần hướng tới gì?
Giáo sư Phạm Minh Hạc: Đúng là từ năm 1945 đến nay, không có văn kiện nào của Đảng cũng như chính sách nào của Chính phủ đề cập đến cụm từ “triết lý giáo dục”.
Khi tôi làm ở Viện Khoa học giáo dục và Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng không dùng cụm từ này. Chính vì thế, người ta có nhu cầu đi tìm triết lý giáo dục mang tính thống nhất.
Đặc biệt khi cuộc sống đặt ra “triết lý giáo dục” thì chúng ta gọi như thế, nhưng điều đó không có nghĩa chúng ta không có triết lý giáo dục. Triết lý giáo dục luôn là sợi chỉ xuyên suốt trong quá trình phát triển giáo dục của nước nhà. 
Bởi nếu không có triết lý giáo dục, chúng ta sẽ không thể từ 5% người dân biết chữ trước Cách mạng tháng Tám, hiện đã lên hơn 90% người dân biết chữ…
Cụ thể, sau Cách mạng tháng Tám, xuất phát điểm của nước ta rất thấp, chỉ 5% người dân biết chữ.
Do vậy, khoảng một tuần sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945, Chính phủ đã ban hành 3 chỉ thị về phát triển giáo dục, xóa nạn mù chữ. Theo triết lý giáo dục mà Bác Hồ đề ra khi đó “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” thì giáo dục Việt Nam rất phát triển. 
Trải qua 73 năm qua, chúng ta không dùng thuật ngữ triết lý giáo dục mà đường lối phát triển giáo dục là các khẩu hiệu để chỉ đạo sự phát triển giáo dục Việt Nam.
Triết lý giáo dục của chúng ta hiện nay chính là tư tưởng Nghị quyết số 29 - NQ/TW năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Trong đó, Nghị quyết đã đề ra triết lý giáo dục nói vắn tắt là “năng lực và phẩm chất”. 
Tức là, giáo dục không chỉ dạy kiến thức để học sinh có năng lực làm việc cho bản thân, gia đình, xã hội, góp phần đưa đất nước phát triển, mà còn tạo ra những phẩm chất tương ứng cho từng con người trong thời đại mới.
Đó là: Chăm chỉ, yêu nước, ứng xử tốt với mọi người, có học vấn, có nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, trách nhiệm, lương tâm.
Trân trọng cảm ơn Giáo sư Phạm Minh Hạc. 
Thùy Linh (ghi)
TIN VÀ BÀI LIÊN QUAN:

HÃY BÀN NHỮNG ĐIỀU THIẾT THỰC

TBKTSG 23-11-2018

Ảnh minh họa Bảo Uyên.
(TBKTSG) - Đọc qua những thông tin nổi lên về giáo dục ở các nước, có thể thấy họ đang quan tâm đến những vấn đề khác với chúng ta. Trong khi chúng ta say mê bàn về “triết lý giáo dục”, sự khác nhau giữa “đại học” và “trường đại học”, kỳ thi tốt nghiệp phổ thông nên là “mấy trong một”... thì ở các nước họ bàn những thứ rất thiết thực.
Pháp, chẳng hạn, vừa thông qua luật cấm học sinh dưới 15 tuổi sử dụng điện thoại di động, máy tính bảng, đồng hồ thông minh không chỉ trong giờ học mà còn trong giờ giải lao, lúc ăn trưa, ngoài hành lang, nói chung vào trường phải tắt máy, bỏ vào hộc tủ riêng. Mặc dù biện pháp này có thể xem là quá nghiêm khắc nhưng đó chính là “triết lý giáo dục” của người Pháp - một “luật cho thế kỷ 21” như lời Bộ trưởng Giáo dục nước này!
Mỹ thì công bố một khảo sát, trong đó, những người được khảo sát cho rằng trong tương lai bằng đại học không còn quan trọng bằng kỹ năng nghề nghiệp. Trong 20 kỹ năng xã hội ngày càng cần đến, không có kỹ năng nào cần đến bằng cấp đại học. Đã có 15 doanh nghiệp đa quốc gia tuyên bố khi tuyển dụng sẽ không đòi bằng đại học nữa. Riêng Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công bố một báo cáo, ước tính 65% học sinh ngày nay bước chân vào trường tiểu học sẽ ra đời và làm những nghề hiện nay chưa tồn tại. Dĩ nhiên một khi đã xác định được xu hướng nền giáo dục của các nước sẽ tìm cách xoay chuyển để thích nghi với xu hướng mới.
Vì vậy, thay vì đi sâu bàn những vấn đề hoặc là mang tính câu chữ, hoặc là quá chung chung, thiết nghĩ nên xác định những vấn đề nền giáo dục của chúng ta đang gặp phải và tìm cách giải quyết. Lấy ví dụ, Luật Giáo dục đại học được sửa chữa, bổ sung nhằm mục đích nâng cao tính tự chủ của các trường đại học - thế thì cứ nhắm vào tính tự chủ để thiết kế, làm sao để trao quyền nhiều nhất cho các trường nhưng không tạo khe hở để kẻ xấu lợi dụng biến trường học thành nơi “sản xuất bằng cấp” hay phục vụ các mục đích tư lợi khác. Tính tự chủ ấy phải đặt trong bối cảnh đang có những thay đổi về công nghệ rất lớn, tác động mạnh lên nội dung cũng như hình thức giáo dục.
Lấy thước đo đó để đối chiếu, chúng ta sẽ thấy ngay đâu là hướng phải đi. Tự chủ trong chuyên môn là phải để các trường tự do tuyển sinh, tự thiết kế môn học, tự chọn môn học để đưa vào chương trình; giáo sư, phó giáo sư phải do trường công nhận và bổ nhiệm... Tự chủ trong bộ máy và nhân sự là tạo không gian pháp lý rộng rãi để trường nào có điều kiện sẽ tự nhận mình là đại học đa ngành, bên dưới có nhiều trường đại học chuyên ngành trực thuộc; hiệu trưởng phải do hội đồng trường chọn và bổ nhiệm, kể cả trường công lập... Tự chủ trong tài chính là phải tạo điều kiện để các trường công lập vẫn có thể trả lương cao cùng các điều kiện làm việc tối ưu khác để mời được thầy giỏi; thu đủ học phí nhưng phải có tỷ lệ nhất định sinh viên có học bổng nhằm tạo cơ hội cho người nghèo... Đó chỉ là một vài ví dụ minh họa.
Xác định những vướng mắc trở ngại thật sự cho ngành giáo dục, nhất là giáo dục đại học thì không khó. Vấn đề là chúng ta đã sẵn sàng để giải quyết chúng hay chưa mà thôi.
TIN VÀ BÀI LIÊN QUAN:
LƯỢNG ĐỔI THÌ CHẤT ĐỔI, TRIẾT LÝ GIÁO DỤC CŨNG VẬY THÔI

XUÂN DƯƠNG/ GDVN 26-11-2018

Triết lý giáo dục của Việt Nam là gì? Ảnh minh hoạ: giaoduc.net.vn
Gần đây không ít người đề cập đến khái niệm “Triết lý giáo dục” của Việt Nam.
Có ý kiến cho rằng đến thời điểm hiện tại, Việt Nam chưa có triết lý giáo dục vì không thấy văn bản, nghị quyết nào đề cập đến “Triết lý giáo dục” của Việt Nam. 
Cũng có người khẳng định Việt Nam đã có triết lý giáo dục từ khá sớm thể hiện qua câu “Tiên học lễ, hậu học văn”,… 
Một số thì cho rằng triết lý giáo dục phải mang tính bao quát, phát biểu gọn trong một câu nói, chẳng hạn giáo dục nhằm đào tạo một thế hệ đủ tầm “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. 
Tại diễn đàn Quốc hội, một số đại biểu đã chất vấn Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về “Triết lý giáo dục” và Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho biết:
Đã chỉ đạo nhóm nghiên cứu đề tài cấp quốc gia, nghiên cứu một cách thật sự, cẩn thận” về vấn đề cần sự đồng thuận cao trong xã hội là “Triết lý giáo dục”. [1]
Nhiều năm trước, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đồng ý với Giáo sư Phạm Minh Hạc - nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo - về việc triển khai một đề tài khoa học cấp bộ nhằm xác định “Triết lý giáo dục” của Việt Nam. [2]
Hiện chưa biết “Triết lý giáo dục” theo đề tài cấp bộ mà nguyên Bộ trưởng Phạm Vũ Luận chỉ đạo tiến hành đã thực hiện chưa, kết quả thế nào, đã được vận dụng vào các chủ trương, quyết sách giáo dục của nhà nước hay đang lưu trữ chờ ngày “giải mật”?
Có điều chắc chắn là sang nhiệm kỳ của Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ, đề tài “Triết lý giáo dục” Việt Nam đã được nâng lên cấp quốc gia chứ không phải cấp bộ.
Nếu “truyền thống” từ thời Bộ trưởng Luận, Bộ trưởng Nhạ được phát huy thì có lẽ sẽ phải hình thành đề tài cấp ASEAN hay cấp châu lục về triết lý giáo dục của Việt Nam.
Nếu điều đó xảy ra thì kinh phí đề tài sẽ do cơ quan nào chi trả.
Gần đây, một số ý kiến cho rằng “Triết lý giáo dục của chúng ta hiện nay chính là tư tưởng Nghị quyết số 29 - NQ/TW năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Theo dõi phát biểu của các đại biểu Quốc hội Nguyễn Thanh Hải, Phạm Trí Thức, Phạm Trọng Nhân hoặc quan điểm của các tác giả khác như Hoàng Xuân Vinh, Nguyễn Khánh Trung,… có thể thấy một điều thú vị, “Triết lý giáo dục” nhận được sự quan tâm từ một bộ phận khá đông những người không làm việc trong ngành giáo dục. 
Đặc biệt là chưa thấy truyền thông đưa tin về quan điểm của các thành viên “Hội đồng Quốc gia giáo dục và phát triển nguồn nhân lực” cũng như “Ủy ban Quốc gia Đổi mới giáo dục, đào tạo” liên quan đến “Triết lý giáo dục” của Việt Nam?
Nếu thành viên hai cơ quan mang trọng trách “Quốc gia” ấy chưa lên tiếng, cùng với đó là cả hai cơ quan này chưa lên tiếng, nếu chỉ một “Đề tài khoa học” do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì là đủ để xây dựng “Triết lý giáo dục” quốc gia thì liệu có thể yên tâm đó sẽ là một “triết lý” khoa học, hoàn chỉnh có tầm tác dụng nhiều thập kỷ, hoặc là cả thế kỷ?
Với mỗi quốc gia, “Triết lý giáo dục” có quan trọng không?
Câu trả lời là có.
Từ năm 1945 đến nay, chưa có một văn kiện chính thức nào đề cập đến “Triết lý giáo dục” của Việt Nam mặc dù “Triết lý giáo dục quan trọng như Hiến pháp của quốc gia, là kim chỉ nam cho hoạt động dạy và học”. [3]
Vậy có phải vì thiếu “triết lý” mà giáo dục nước nhà có nhiều bất cập?
Câu trả lời của cá nhân người viết là không.
Trên thế giới, khi một lực lượng chính trị lên nắm quyền, chẳng hạn sau các cuộc đảo chính quân sự, việc đầu tiên mà giới tướng lĩnh cầm quyền tiến hành là sửa hiến pháp, đôi khi là bãi bỏ hiến pháp. 
Xem thế đủ thấy Hiến pháp trong không ít trường hợp chỉ là công cụ mà giới chính trị sử dụng nhằm củng cố quyền lực.
Cũng có trường hợp một số điều được ghi trong hiến pháp chỉ là để mỵ dân chứ không bao giờ được thực hiện.
Suy ra hoạt động giáo dục ngay cả khi có “Triết lý giáo dục” cũng chưa chắc mang lại kết quả (theo mong đợi của số đông) nếu lực lượng cầm quyền dành sự quan tâm nhiều hơn đến kinh tế, chính trị chứ không phải giáo dục. 
Chính vì lẽ đó, bài viết này không có tham vọng đề cập đến vấn đề “cao siêu” là triết lý giáo dục (Educational philosophy statement), cũng không muốn nói đến vấn đề chuyên sâu là “Triết học về giáo dục” (Philosophy of education) mà chỉ xin nêu một vài suy nghĩ. 
Cứ cho rằng “Triết lý giáo dục” được các chuyên gia xây dựng xong, liệu nó có giúp cho giáo dục nước nhà thực sự đổi mới theo tinh thần Nghị quyết 29 của Trung ương, có tạo nên sự biến chuyển về chất của nền giáo dục nước nhà?
Một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin là Quy luật Lượng - Chất.
Quy luật này có thể khái quát như sau: “Trong mỗi sự vật, sự thay đổi về lượng diễn ra từ từ, đến một mức độ nhất định sẽ dẫn tới sự thay đổi (nhảy vọt) về chất”.
Như vậy, muốn nền giáo dục thay đổi về “chất” thì nền giáo dục đó phải có sự thay đổi căn bản về lượng.
Đòi hỏi hình thành “Triết lý giáo dục Việt Nam” chỉ là những phát biểu hình thức hay thực sự các diễn giả muốn “chất” của giáo dục thay đổi? 
Phải chăng các ý kiến phát biểu đều cho rằng giáo dục nước nhà đã hoàn thành giai đoạn biến đổi về “lượng”, giờ là lúc “biến chất” để trở thành nền giáo dục có “triết lý”?
Không khó để nhận diện sự thay đổi về lượng của giáo dục nước nhà thông qua nghiên cứu ba lĩnh vực chủ chốt:
Các chính sách giáo dục; Cơ sở vật chất phục vụ giáo dục; Chất lượng đào tạo sư phạm và trình độ thực tế của đội ngũ nhà giáo.
Về chính sách giáo dục:
Hiến pháp, Nghị quyết 29 của Trung ương đều khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, vậy cho đến nay điều này đã trở thành hiện thực hay vẫn còn đang tranh luận?
Một nền giáo dục bị điều chỉnh bởi rất nhiều đạo luật (Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Viên chức,…);
Các cơ sở giáo dục đại học bị “chủ quản” bởi rất nhiều bộ, ngành, địa phương, tổ chức chính trị - xã hội là hợp lý hay bất cập? 
Một Bộ Giáo dục và Đào tạo “hữu danh vô thực” gần như không quản lý ngân sách và đội ngũ nhà giáo là hợp lý hay bất cập?
Với việc hiện nay, Quốc hội đang phải tiến hành sửa đổi các Luật Giáo dục, vừa sửa xong Luật Giáo dục đại học, việc chưa ban hành được Luật Nhà giáo,… có thể thấy chính sách giáo dục của Việt Nam cho đến năm 2018 này vẫn còn đang trong giai đoạn hoàn chỉnh. 
Về cơ sở vật chất:
Hệ thống trường học bị chia nhỏ, số trường liên cấp bậc phổ thông không đáng kể; Mạng lưới trường đại học, trường đào tạo nghề không hợp lý; 
Cơ sở vật chất khối trường phổ thông nghèo nàn, nhất là các phòng học ngoại ngữ, tin học; 
Tại các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông gần như không có trang thiết bị cho mảng giáo dục thể chất, thậm chí nhiều đại học tầm cỡ cùng không có bể bơi, phòng tập thể thao,… 
Tại thủ đô Hà Nội, tình trạng một lớp học có tới 60-70 học sinh không phải là cá biệt.
Nếu cần nói thêm thì đó là tình trạng xuống cấp trường lớp tại nhiều địa phương không chỉ là đe dọa an toàn tính mạng học trò mà thực sự đã khiến không ít học sinh nhập viện.
Hệ thống trường học miền núi, vùng sâu vùng xa, mạng lưới giao thông đến các điểm trường có bao nhiêu phần trăm đạt chuẩn theo quy định?
Có thể khẳng định cơ sở vật chất của giáo dục nước nhà còn nghèo nàn, ít được đầu tư và hình như chưa dành được sự quan tâm đúng mức của các cấp chính quyền địa phương. 
Những cố gắng mà hệ thống chính trị mang lại rõ nét nhất là 20% ngân sách dành cho giáo dục và một số quy định trong Hiến pháp, trong các Nghị quyết mà cho đến nay không ít quy định vẫn chưa có chế tài thực hiện. 
Với nguồn ngân sách hạn hẹp, việc xã hội hóa giáo dục tuy đã đặt ra song vướng quá nhiều rào cản cả về cơ chế lẫn tâm lý cán bộ nên hầu như dậm chân tại chỗ.
Về đội ngũ nhà giáo:
Chất lượng đào tạo giáo viên, sự quan tâm của xã hội và những người hoạch định chính sách đến nghề dạy học là vấn đề không phải bàn luận thêm bởi đã có quá nhiều phân tích, đánh giá. 
Cho đến thời điểm hiện tại, khi Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đề xuất các tiêu chuẩn nâng cao trong tuyển chọn giáo sinh sư phạm thì sau bao năm nữa Việt Nam sẽ có đội ngũ nhà giáo đạt chuẩn? 
Đến lúc nào sẽ tuyệt đối chấm dứt nạn cô giáo cho học sinh tát bạn hơn 200 cái, hay chuyện giảng viên Học viện Quản lý giáo dục đã đấm vào mặt trưởng khoa ngay trong cuộc họp?
Những năm qua, giáo dục là ngành có nhiều người thi tuyển viên chức nhất, và dư luận cho rằng đây là mảnh đất rất giàu “dinh dưỡng” cho những người phụ trách “canh tác”. 
Nhà giáo có lẽ là đối tượng phải “thi” nhiều nhất, thi từ lúc chưa vào ngành đến lúc cầm quyết định hưu trí.
Nhà giáo cũng là đối tượng dễ bị sa thải nhất, có khi tới hơn 400 người bị mất việc cùng lúc chỉ bởi một quyết định hành chính của chính quyền tỉnh, huyện.
Nhà giáo có lẽ là đối tượng duy nhất sau mấy chục năm công tác, khi về hưu phải được nhà nước “bù lỗ” mới nhận được mức lương hưu bằng lương cơ bản.
Đấy là thực trạng về “lượng” của giáo dục Việt Nam cho đến nay.
Với “lượng” như vậy giáo dục Việt Nam đạt được những gì?
Thứ nhất là xóa nạn mù chữ, thành tích này luôn được so sánh với thời kỳ 1945, khi đó trên 90% dân số mù chữ.
Không ít lãnh đạo và cơ quan truyền thông đề cập đến những thứ hạng cao mà nước ngoài dành cho giáo dục Việt Nam.
Đôi khi có người “tự sướng” mà quên rằng trên đời này không phải là không có kiểu “khen cho chết”.
Nếu giáo dục Việt Nam đạt chất lượng cao như thế thì vì sao rất ít người nước ngoài đến Việt Nam học tập?
Người Việt Nam mỗi năm bỏ ra từ 3 đến 4 tỷ USD cho con du học là biểu hiện rõ nhất về chất lượng giáo dục nước nhà. 
Quy ra tiền Việt, số tiền này tương đương 70 - 90 nghìn tỷ đồng nghĩa là bằng khoảng 1/3 ngân sách quốc gia chi cho giáo dục (năm 2017 chi ngân sách cho giáo dục là 248.118 tỷ đồng).
(Còn nữa)
Xuân Dương
TIN BÀI LIÊN QUAN:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét