Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2018

20181117. THẢO LUẬN VỀ DỰ ÁN SỬA ĐỔI LUẬT GIÁO DỤC

ĐIỂM BÁO MẠNG
DỰ THẢO LUẬT GIÁO DỤC SỬA ĐỔI CÒN NHIỀU BẤT CẬP VỀ TÍNH HỆ THỐNG

THANH SƠN/ GDVN 17-11-2018

Ngày 15/11, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật Giáo dục sửa đổi. Tại đây, nhiều đại biểu quốc hội cũng đã bày tỏ ý kiến của mình quanh một số vấn đề còn vướng mắc tại dự thảo luật này.
Mở đầu phiên làm việc, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Tuấn Anh (đoàn Long An) cho rằng:
“Qua nghiên cứu luật Giáo dục (sửa đổi) tôi nhận thấy có nhiều vấn đề lớn mang tính bao trùm hệ thống giáo dục, khi luật Giáo dục (gốc) được ra đời sau luật chuyên ngành và luật Giáo dục (sửa đổi). Ở đây, tôi góp ý 2 vấn đề về dự án luật Giáo dục (sửa đổi) lần này như sau:
Thứ nhất, luật Giáo dục quy định các vấn đề chung của giáo dục, các luật chuyên ngành phải được xây dựng trên cơ sở luật Giáo dục.
Hiện dự án luật Giáo dục (sửa đổi) còn nhiều vướng mắc về luật Giáo dục đại học như mục tiêu giáo dục đại học, hội đồng trường tư thục, hoạt động không vì lợi nhuận… 
Qua rà soát tôi nhận thấy Luật Giáo dục có ít nhất 16 nội dung được sửa đổi, bổ sung có liên quan mật thiết đến Luật Giáo dục đại học. 
Cụ thể tại các điều: 4, 6, 37, 38, 39, 40, 41, 42, 43, 46, 51, 52, 53, 54, 59 và 60. Ngoài ra, nếu Luật Giáo dục (sửa đổi) được thông qua, Luật Giáo dục đại học phải chờ đến khi Luật Giáo dục (sửa đổi) có hiệu lực mới thực hiện được, nếu không sẽ trái luật. Tôi kiến nghị xem xét lại vấn đề này. 
Thứ hai, về hệ thống giáo dục tại Điều 5. Tôi bắt đầu bằng nội dung nêu trong Nghị quyết 29.
Cụ thể nghị quyết nêu: "Đổi mới hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ giữa các phương thức giáo dục, đào tạo, hội nhập quốc tế". Tuy nhiên, quy định như dự thảo Luật Giáo dục tôi thấy chưa thể chế hóa được nội dung rất quan trọng này”. 

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Tuấn Anh (đoàn Long An) nêu ý kiến (Ảnh: quochoi.vn)

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Tuấn Anh chỉ ra 3 nội dung. Cụ thể: 

Một là, chưa hội nhập quốc tế về giáo dục đào tạo. Phân loại giáo dục theo chuẩn quốc tế của UNESCO viết tắt là ISCED 2001 thì các trình độ sơ cấp và trung cấp quy định cho giáo dục nghề nghiệp trong dự thảo Luật Giáo dục là không tương ứng với bất kỳ một cấp độ nào của phân loại này. 
Ví dụ, đối với trình độ trung cấp, tùy theo trình độ học vấn đầu vào của người học, nếu người học đã tốt nghiệp phổ thông trung học cơ sở thì chỉ đạt cấp độ 2 của phân loại, vì thời gian đào tạo ngắn. Nếu người học đã tốt nghiệp phổ thông trung học thì đã đạt cấp độ 4 của phân loại. 
Nhưng theo dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi), cả 2 đối tượng nêu trên đều có cùng một trình độ. Ngoài ra, phân loại này cũng quy định trình độ cao đẳng phải thuộc về giáo dục đại học, trong khi dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) thì cao đẳng không được xem thuộc giáo dục đại học.
Hai là, chưa có sự phân luồng học sinh sau trung học cơ sở. Thực tế người học không có hướng đi lên cho dù là cao đẳng, vì muốn học lên cao đẳng còn cần có bằng tốt nghiệp phổ thông.
Do đó, nếu quy định như dự thảo luật sẽ giống như từ trước đến nay, tức là sau trung học cơ sở người học có thể đi vào trung học phổ thông, sau trung học phổ thông người học có xu hướng đi vào đại học.

Vì vậy, đi vào cao đẳng sau này sẽ rất khó học tiếp lên đại học do cấu trúc của 2 trình độ này khác nhau.
Điều này có thể được xem là một trong những nguyên nhân tạo ra cơ cấu nguồn lực bất hợp lý, đó cũng là một trong những lý do cử tri cả nước và đại biểu Quốc hội đã chất vấn rất nhiều về việc sinh viên tốt nghiệp đại học mà không có việc làm, gây lãng phí cho xã hội.

Ba là, chưa đảm bảo tính liên thông, tính mở của hệ thống giáo dục. Theo phân loại quốc tế về giáo dục cho thấy hầu hết hệ thống giáo dục của các nước phân thành các cấp độ từ 0 đến 8, tương ứng với giáo dục mầm non, tiểu học, trung học bậc thấp, trung học bậc cao, trung học, cao đẳng, cử nhân hoặc tương đương, thạc sĩ hoặc tương đương, tiến sĩ hoặc tương đương.
Từ cấp độ 2 đến cấp độ 4 được coi là cấp độ giáo dục phổ thông, với các trình độ giáo dục được chia làm 2 hướng là giáo dục phổ thông và giáo dục nghề.
Từ cấp độ 5 đến 8 được gọi là cấp độ giáo dục đại học, với các chương trình giáo dục được chia làm 2 hướng, hàn lâm, hướng nghề nghiệp ứng dụng và hướng chuyên nghiệp. 
Quy định như vậy tạo sự thuận tiện trong việc chuyển trường cũng như chuyển từ chương trình giáo dục này sang chương trình giáo dục khác hoặc chuyển từ chuyên ngành đào tạo này sang chuyên ngành đào tạo khác. 
Nói cách khác là tạo ra cơ chế liên thông trong toàn hệ thống. Nhờ vậy người học có thể dễ dàng học được chương trình phù hợp nhất, tùy thuộc vào sở thích, năng lực cá nhân hoặc biến động trong thị trường nhân lực.
Tuy nhiên, dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) đang quy định khối giáo dục nghề nghiệp nằm ở vị trí giáo dục trung học, dưới giáo dục đại học, nếu người học muốn dự tuyển vào cao đẳng phải đồng thời vừa có bằng trung cấp, vừa có bằng trung học phổ thông hoặc đã học và đạt đủ điều kiện khối lượng kiến thức văn hóa phổ thông trung học phổ thông.
Các trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng trong khối giáo dục nghề nghiệp cũng không có sự liên thông thật sự.
Nếu người học muốn từ cao đẳng chuyển lên đại học cũng gặp nhiều khó khăn vì có sự khác nhau về cấu trúc chương trình đào tạo do hai cơ quan quản lý khác nhau.
Người học đại học, sau đại học không có sự phân biệt rõ bởi trình độ, văn bằng như định hướng đào tạo như các đại biểu đã nêu. 
Điều này là một trong những nguyên nhân dẫn đến không thực hiện được phân luồng trung học cơ sở trong nhiều năm qua. Việc chưa tạo ra cơ chế liên thông trong toàn hệ thống, làm cho nhiều học sinh thường chọn học lên đại học thay vì con đường khác. 
Từ những phân tích nêu trên, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Tuấn Anh kiến nghị dự thảo Luật Giáo dục cần được chỉnh sửa theo hướng quy định tại khoản 2 Điều 5, cụ thể là về phân hệ các trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân, bao gồm: 
a. Giáo dục mầm non, có nhà trẻ và mẫu giáo,
b. Giáo dục tiểu học.
c. Giáo dục trung học có trung học cơ sở và trung học toàn phần. Trung học toàn phần bao gồm 2 luồng: trung học phổ thông và trung học hướng nghiệp 
d. Giáo dục nghề có dạy nghề sơ cấp, dạy nghề trung cấp và dạy nghề cao cấp.
e. Giáo dục đại học đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ cử nhân và tương đương, trình độ thạc sĩ và tương đương, trình độ tiến sĩ và tương đương.

“Nếu dự thảo luật được quy định theo hướng như vậy thì sẽ thể chế hóa được Nghị quyết 29, Nghị quyết 19. Tạo ra hình hài của một hệ thống giáo dục mở, theo đó thể hiện rất rõ ràng sự phân luồng người học sau trung học cơ sở và trung học phổ thông cũng như tính liên thông mỗi luồng cho tới trình độ cao nhất. …”, Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh nhấn mạnh. 
Thanh Sơn
QUY ĐỊNH CẤM BÁN BIA TRÊN MẠNG TẠO MÂU THUẪN TRONG LUẬT
LAN NHI/ TBKTSG 16-11-2018
(TBKTSG Online) - Dự thảo Luật phòng chống tác hại của rượu bia được thảo luận rất sôi nổi tại nghị trường Quốc hội hôm 16-11 xoay quanh vấn đề tại sao dự luật lại cấm bán bia trên mạng Internet?

Liên quan đến vấn đề rất thiết thực trong đời sống là các quy định quản lý về rượu, bia, khi Chính phủ trình dự luật phòng chống tác hại của rượu, bia ra Quốc hội để thảo luận, rất nhiều ý kiến đại biểu đã tranh luận sôi nổi quanh vấn đề quản lý quảng cáo đối với rượu và bia phân biệt thế nào để không mâu thuẫn với các quy định pháp luật hiện có.
Theo đại biểu Trần Quang Chiểu (Nam Định), tại khoản 3, điều 20 dự thảo luật quy định “không được bán rượu, bia trên mạng Internet” là không phù hợp vì chỉ nên áp dụng đối với rượu (có nồng độ cồn theo quy định) vì rượu là mặt hàng kinh doanh có điều kiện. Còn bia mà quy định không được bán trên mạng là trái pháp luật hiện hành. Vì theo Luật đầu tư năm 2014, bia không phải là mặt hàng kinh doanh có điều kiện. Do vậy không bị phân biệt đối xử là cấm bán trên mạng hay không. Vì nếu theo dự thảo Luật là trái với điều 5 (khoản 4) Luật đầu tư, trái với điều 10 Luật Thương mại.
Đại biểu Phan Thái Bình (Quảng Nam) cũng chỉ ra mâu thuẫn của quy định cấm bán bia trên mạng. Theo ông, sẽ tạo ra những mâu thuẫn trong các quy định của pháp luật. Ông cũng đồng quan điểm như ông Chiều và giải thích thêm rằng: bia và rượu khác nhau về nồng độ cồn. Đưa bia vào đối tượng điều chỉnh như rượu là không bình đẳng và không phù hợp với các quy định. Như tại điều 7, Nghị định 105/2017 của Chính phủ về kinh doanh rượu đã quy định không được bán rượu có nồng độ cồn từ 15 độ trở lên qua mạng Internet. Quy định này nhất quán với Luật đầu tư. Nhưng viện dẫn cả sản phẩm bia không thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện để điều chỉnh là không phù hợp.
Luật Thương mại chỉ quy định cấm quảng cáo rượu từ 30 độ cồn trở lên, còn Luật Quảng cáo cấm quảng cáo rượu từ 15 độ cồn trở lên, doanh nghiệp không biết làm theo luật nào.
Với quy định về các hành vi bị nghiêm cấm và kiểm soát trong việc quảng cáo rượu, bia dưới 15 độ cồn, ông Bình đề nghị ban soạn thảo phải nghiên cứu và cân nhắc vì hoạt động quảng cáo được chi phối bởi Luật Quảng cáo. Hiện Luật Quảng cáo quy định cấm quảng cáo rượu từ 15 độ cồn trở lên, không cấm quảng cáo đôi với bia. Dự thảo Luật phòng chống tác hại của rượu, bia cho phép quảng cáo rượu dưới 15 độ cồn và cho phép quảng cáo bia đối với bia từ 5,5 đến dưới 15 độ cồn. Nên một trong hai luật phải thống nhất, tránh luật này cấm còn luật kia lại cho phép. Như Luật Thương mại chỉ quy định cấm quảng cáo rượu từ 30 độ cồn trở lên, còn Luật Quảng cáo cấm quảng cáo rượu từ 15 độ cồn trở lên, doanh nghiệp không biết làm theo luật nào.
Ông còn đề nghị điều kiện kinh doanh rượu theo dự thảo là giao cho Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục cấp phép là chưa phù hợp vì cần quy định minh bạch, cụ thể về điều kiện kinh doanh ngay trong dự luật và quy định nguyên tắc về trình tự, thủ tục cấp phép kinh doanh rượu.
Theo Báo cáo của Bộ Y tế trình trước Quốc hội, tình trạng sử dụng rượu bia ở Việt Nam đang ở mức cao. Mức tiêu thụ bình quân của người Việt Nam (trên 15 tuổi) hàng năm ước tính là 8,3 lít, ở vị trí 64/194 quốc gia (thống kê của WHO). Nếu tính riêng nam giới trên 15 tuổi vào năm 2010 thì trung bình một nam giới Việt Nam tiêu thụ 27,4 lít cồn/năm.
Việt nam cũng thuộc nhóm các quốc gia có tỉ lệ nam giới uống rượu, bia cao và tỉ lệ này ở cả hai giới đang gia tăng. Năm 2015 có 80,3% nam và 11% nữ giới trên 15 tuôi có uống rượu, bia.
SỬA LUẬT ĐẶC XÁ: PHẢI TRẢ TỰ DO CHO TẤT CẢ TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM !
PHẠM CHÍ DŨNG/ BVN 17-11-2018
Thông cáo của Now Campain! việc Việt Nam đang giam giữ 246 tù nhân lương tâm. Photo dvov.org.
Thông cáo của Now Campain! việc Việt Nam đang giam giữ 246 tù nhân lương tâm. Photo dvov.org.
Không phải thả theo cách nhỏ giọt để đánh đổi những lợi ích thương mại, mà chính thể độc đảng ở Việt Nam phải trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm thì mới có thể nhận được những hiệp định thương mại hầu cứu vãn chế độ chính trị này khỏi sớm sụp đổ.

Phải trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm!

Lần đầu tiên từ khi Luật Đặc xá được thông qua vào tháng Mười Một năm 2007, luật này mới được bổ sung cơ chế đặc xá cho những tù chính trị ‘phạm tội an ninh quốc gia’ mà giới đấu tranh dân chủ nhân quyền và nhiều người dân gọi là tù nhân lương tâm.
11 năm sau 2007, dự thảo Luật Đặc xá với nội dung hoàn toàn mới trên đã được đưa ra Quốc hội thảo luận tại kỳ họp tháng 10 - 11 năm 2018.
Trong khi đó, làn sóng vận động trả tự do cho tù nhân lương tâm ở Việt Nam từ năm 2017 đến nay đã biến thành một phong trào rộng lớn chưa từng có: nhiều chính phủ như Hoa Kỳ, Đức, Canada, Úc… và các tổ chức nhân quyền quốc tế chỉ còn nói đến một điều kiện duy nhất: không phải thả theo cách nhỏ giọt để đánh đổi những lợi ích thương mại, không phải ‘thả càng nhiều càng tốt’, mà Việt Nam phải trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm thì mới có thể nhận được những hiệp định thương mại hầu cứu vãn chế độ chính trị này khỏi sớm sụp đổ.
Đặc biệt vào năm 2017, cả Liên minh châu Âu - chủ thể của EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - châu Âu) - cũng đã thực sự ‘mở mắt’ sau vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, đã tận mắt nhìn ra một ‘nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa’ là như thế nào, và do đó đã trở nên cứng rắn hơn hẳn về các điều kiện cải thiện nhân quyền so với thái độ mềm mỏng thái quá của họ từ năm 2016 trở về trước.
Hai áp lực lớn về cải thiện nhân quyền đến từ Mỹ và Liên minh châu Âu lại diễn ra trong bối cảnh chính thể độc đảng ở Việt Nam, chưa bao giờ trong lịch sử 73 năm tồn tại của nó, phải đối mặt với những nguy cơ không còn trừu tượng, mà rất chi tiết và đầy đe dọa, về nợ công thực tế đã lên đến hơn 210% GDP - tương đương gần 450 tỷ USD, nợ xấu ngân hàng vẫn ‘phát triển bền vững’ xấp xỉ gần 1 triệu tỷ đồng mà gần như chắc chắn sẽ đẩy tới cảnh phá sản domino ngân hàng và gây rối loạn kinh tế - xã hội, ngân sách quốc gia vào thời cạn kiệt - dù vẫn phải cho Ngân hàng nhà nước in tiền đồng ồ ạt - nhưng lại thiếu trầm trọng ngoại tệ để trả nợ nước ngoài lên đến hàng chục tỷ USD mỗi năm, chưa kể một tai họa thứ tư đang ập đến: trữ lượng dầu khí hiện tại chỉ còn đủ để khai thác đến năm 2021 hoặc 2022 để trút vào nền ngân sách hộc rỗng những đồng đô la cuối cùng.
Chuyến công du Việt Nam vào tháng Mười năm 2018 của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis - trùng với thời điểm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh bị Việt Nam tống xuất sang Mỹ - có thể tiết lộ một “bí mật” lớn của Nguyễn Phú Trọng: sau nhiều năm cố gắng đu dây giữa Trung Quốc và Mỹ nhưng chỉ mang lại kết quả bị Bắc Kinh áp chế theo lối kẻ cướp xông thẳng vào nhà đòi chia bôi tài sản, cuối cùng Bộ Chính trị Đảng ở Việt Nam đã phải quyết định thử nghiệm phương án “đi với Mỹ” mà trước mắt là dựa vào sức mạnh của hải quân và không quân Mỹ để có thể khai thác được dầu khí trên “vùng biển thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam” nhưng vẫn bị Đường lưỡi bò của Trung Quốc quét qua hầu hết các lô dầu mang tiềm năng cứu vãn ngân sách đảng khỏi tai họa hộc rỗng.
Những ai sẽ được ‘đặc xá’?
Trong kỳ họp Quốc hội Việt Nam tháng 10-11/2018 đã xuất hiện một nội dung - tuy cố ý không được nhấn mạnh nhưng lại liên quan mật thiết với những sự kiện chính trị trên và với những tín hiệu ngày càng rõ về triển vọng thông qua hai hiệp định EVFTA lẫn CPTPP (Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương - còn gọi là TPP - 11 không có Mỹ). Dự thảo Luật Đặc xá lần đầu tiên đã phải nêu ra cơ chế đặc xá đối với “tội phá hoại chính sách đại đoàn kết, tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, tội phá hoại an ninh, tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân”.
Đây là lần đầu tiên cơ chế đặc xá đề cập đến những tội danh ‘an ninh quốc gia’ mà trước đó Luật Đặc xá lẫn thói quen hành xử của nhà nước công an trị chưa bao giờ thèm ngó ngàng.
Không chỉ đề cập đến việc đặc xá cho những tù nhân lương tâm trong nước, dự thảo Luật Đặc xá còn dự kiến cả ‘tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân’ - có thể hiểu là nhắm đến những ‘đối tượng ngụy quân ngụy quyền’ ra nước ngoài từ năm 1975 đến nay và cả những nhà hoạt động nhân quyền đã phải tạm lánh ra nước ngoài để tránh thoát chiến dịch bắt bớ dữ dội vào năm 2017.
Động thái trên hiện ra sau một động thái ngấm ngầm diễn ra trong 10 tháng đầu của năm 2018: có 3 trường hợp tù nhân chính trị được ‘đặc xá’ do ‘nhu cầu đối ngoại’ là Đặng Xuân Diệu - thành viên đảng Việt Tân - bị tống xuất sang Pháp vào tháng 1/2018, đến tháng 6/2018 là Nguyễn Văn Đài - bị tống xuất sang Đức, và Nguyễn Ngọc Như Quỳnh bị tống xuất sang Mỹ vào tháng 10/2018.
Nhưng con số phải trả tự do ấy vẫn còn quá ít. Quá ít so với báo cáo thống kê của các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam và các tổ chức nhân quyền quốc tế về hơn 200 tù nhân chính trị đang bị chính quyền Việt Nam giam giữ.
Vì sao không có ‘lật đổ chính quyền nhân dân’?
Nhưng đã không có quy định đặc xá tội ‘Lật đổ chính quyền nhân dân’ trong dự thảo Luật Đặc xá sửa đổi.
Trong Bộ Luật Hình sự của Việt Nam, tội ‘lật đổ chính quyền nhân dân’ - thể hiện ở điều 79 trước đây và chuyển thành điều 109 ở Bộ luật Hình sự sửa đổi - là một thứ tội danh cực kỳ mơ hồ, rất dễ bị các cơ quan công an và tư pháp lợi dụng, mà trong thực tế đã bị lợi dụng triệt để, để quy chụp đối với những nhà hoạt động nhân quyền. Đã từ lâu, cộng đồng quốc tế lên án điều 79 và đòi hỏi Việt Nam phải hủy bỏ điều luật mơ hồ này. Tuy nhiên chính quyền Việt Nam vẫn giữ nguyên điều luật này, thậm chí còn cụ thể hóa nó bằng một chiến dịch bắt bớ đến ba chục nhà hoạt động nhân quyền vào năm 2017, trong đó khá nhiều người bị quy kết tội ‘lật đổ chính quyền nhân dân’.
Phần lớn những người bị bắt và bị kết án tội ‘lật đổ chính quyền nhân dân’ thuộc Hội Anh Em Dân Chủ - một tổ chức xã hội dân sự độc lập đấu tranh cho nhân quyền ở Việt Nam. Vào hai năm 2016 và 2017, Hội Anh Em Dân Chủ đã đóng góp công lớn trong phong trào vận động và tổ chức cho hàng trăm ngàn ngư dân, giáo dân ở 4 tỉnh miền Trung phản đối quyết liệt thảm họa xả thải do Nhà máy Formosa gây ra nhưng được giới quan chức cao cấp của đảng cầm quyền bao che bưng bít. Chính vì thế, tổ chức này bị chính quyền Việt Nam đặc biệt căm ghét và chỉ chực chờ ra tay trả thù.
Đến đầu năm 2017, ngay sau khi Mỹ rút khỏi Hiệp định TPP và chính quyền Việt Nam nhận ra không còn ‘xơ múi’ được nhiều từ hiệp định này, lốt sói đã trở về bản chất thực của nó. Một chiến dịch bắt bớ ghê gớm đối với các thành viên Hội Anh Em Dân Chủ đã được Bộ Công an tiến hành từ tháng Tư năm 2017 và kéo dài trong suốt 6 tháng. Sang năm 2018, rất nhiều nhà hoạt động đã bị kết án tội ‘lật đổ chính quyền nhân dân’ với mức án trung bình lên đến hơn 10 năm, có người còn bị kết án đến 20 năm tù giam bởi một chính quyền đã từ lâu không còn thuộc về nhân dân, một chính quyền - mà như hai trí thức vừa tuyên bố từ bỏ đảng Cộng sản vào tháng Mười Một năm 2018 là nhà văn Nguyên Ngọc và giáo sư Chu Hảo - thì đó là ‘một chế độ phản nước hại dân’ và ‘đi ngược lại quyền lợi của nhân dân và xu hướng tiến bộ trên thế giới’.
Ai trông chờ được xóa nợ?
Rốt cuộc, cái gì phải đến sẽ đến. Rệu mục chân đứng kinh tế sẽ quyết định đến thế đánh võng chính trị của đảng Cộng sản cùng số phận của chế độ hà khắc này.
Khoảng thời gian cuối năm 2018 rất có thể sẽ được lịch sử đánh dấu là năm mà chính thể độc đảng ở Việt Nam phải ‘cải cách thể chế’, mà về thực chất là những bước đầu tiên của ‘cải cách chính trị’ hoặc ‘mở cửa chính trị’. Luật Đặc xá sửa đổi là nhằm phục vụ cho ý đồ mang tính ‘chiến lược’ của nhà nước công an trị.
Và cũng rất gần gũi với kinh nghiệm ‘đặc xá’ của giới quân phiệt Miến Điện cách đây không lâu…
Không ai có thể quên được năm 2012, một tướng lĩnh quân đội trở thành tổng thống là Thein Sein đã khởi động chiến dịch mở cửa chính trị và mở rộng nhân quyền, trả tự do trước thời hạn cho ít nhất 400 - 500 tù chính trị để đổi lấy việc Câu lạc bộ Paris xóa khoản nợ đến 6 tỷ USD cho Miến Điện, chưa kể những vụ xóa nợ khác của các nước Mỹ, Đức, Canada, Pháp, Na Uy…
Còn nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay là bao nhiêu?
Chưa tính hàng trăm tỷ USD nợ của các doanh nghiệp, chỉ riêng số nợ của Chính phủ và do Chính phủ bảo lãnh đã lên đến 105 tỷ USD, gấp nhiều lần nợ nước ngoài của chính quyền Miến Điện vào thời điểm năm 2012.
Vào cuối năm 2013, Miến Điện tràn ngập hình ảnh hàng trăm tù nhân chính trị rời nhà tù, nắm tay nhau hân hoan bước vào vòng tay lớn của đám đông cùng chí hướng đang rộn rã chờ đón.
Kịch bản Miến Điện đang có bề tái hiện phần nào ở Việt Nam trong những năm tới. Dù chưa biết có ‘Thein Sein Việt Nam’ hay không, nhưng xu thế cải cách chính trị và cải thiện nhân quyền là không thể đảo ngược ở đất nước ‘lệ tuôn hình chữ S’.
Bao nhiêu bản án trả thù cực kỳ hà khắc của chế độ, quá nhiều năm tù giam dội lên đầu những nhà hoạt động nhân quyền sẽ không còn quá quan trọng. Sẽ đến lúc Việt Nam phải giống như Miến Điện - với những tù chính trị mang trên mình bản án hàng trăm năm tù giam nhưng vẫn ngạo nghễ bước qua cánh cổng nhà tù vào một ngày mặt đất bừng nở hoa tươi trong ánh nắng mặt trời tràn ngập khắp đất nước.
P.C.D.
Tác giả gửi BVN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét