Thứ Hai, 7 tháng 6, 2021

20210608. TRAO ĐỔI Ý KIẾN VỀ 'ĐỀ ÁN 89' (1)

 ĐIỂM BÁO MẠNG 

ĐỀ ÁN 89: SỰ TIẾP NỐI CHO NHỮNG 'NHÂN TÀI' CẤT CÁNH

TẤN TÀI / GDVN 7-6-2021

LTS: Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai quyết định số 89 phê duyệt đề án nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030 (Đề án 89).

Để hoàn thành mục tiêu đề án 89, trong 10 năm tới cần đào tạo được khoảng 7.300 giảng viên có trình độ tiến sĩ và trên 300 giảng viên thuộc khối văn hóa, nghệ thuật và thể dục, thể thao có trình độ thạc sĩ.

Đề án 89 lần này được xem là sự tiếp nối hai đề án trước đó là 322 và 911 khi cả hai đề án này không đáp ứng được mục tiêu đặt ra. Xung quanh việc Nhà nước tiếp tục bỏ ra hàng ngàn tỷ đồng để đào tạo “nhân tài” về phục vụ cho các trường Đại học lần này đã có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau.

Trong đó, nhiều chuyên gia cho rằng, đề án lần này phải được quản lý và kiểm soát chặt chẽ hơn nhằm bảo đảm nguồn ngân sách không bị lãng phí, nhân tài được cử đi học phải trở về để phục vụ nhà trường.

Sự tiếp nối “muộn màng”

Trao đổi với Tạp chí Điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư Trần Văn Nam – nguyên Giám đốc Đại học Đà Nẵng chia sẻ, chính sách đào tạo đội ngũ Tiến sĩ, Thạc sĩ chất lượng cho các trường Đại học là vấn đề còn nhiều trăn trở.

Đề án 89 đưa ra mục tiêu đào tạo trình độ Tiến sĩ cho khoảng 10% giảng viên đại học, trong đó 3% giảng viên được đào tạo trong nước và phối hợp giữa các trường đại học Việt Nam với các trường đại học nước ngoài đạt chuẩn chất lượng khu vực và thế giới. Ảnh: TT

Thực tế, nhờ hai đề án trước đó là đề án 322 và đề án 911 mà số lượng Tiến sĩ tại các Trường Đại học đã phát triển nhanh, đáp ứng việc nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu của cơ sở giáo dục đào tạo.

“Ở khu vực miền Trung thì việc tìm kiếm học bổng các nơi rất khó khăn. Nên các em đi theo hai nguồn này khá đông, các em đã học ngoại ngữ và đăng ký đi theo đề án.

Hồi đó, Đại học Đà Nẵng cũng đã ra quy định là các em học Đại học trong nước rồi thì phải học sau Đại học ở nước ngoài, nhằm có bước phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

Tuy nhiên, qua thời gian triển khai, hai đề án này cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm. Cùng với đó là đội ngũ giảng viên thời điểm đó không có nhiều khả năng ngoại ngữ để theo học nên phải dừng hai đề án này lại".

Trước những thông tin cho rằng, số lượng Tiến sĩ của Việt Nam đang bị “lạm phát”, nhiều cơ sở đào tạo Tiến sĩ như "gà đẻ trứng". Tuy nhiên, đây là những con số thống kê từ việc đào tạo Tiến sĩ trong nước, đang hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau.

Còn số lượng Tiến sĩ hiện có trong các Trường Đại học còn quá khiêm tốn so với các trường Đại học trên thế giới.

“Hiện nay các trường Đại học còn thiếu nhiều lắm. Theo số liệu thống kê sơ bộ của Bộ giáo dục và Đào tạo thì số lượng này chưa đến 30%. Trong khi ở các Trường Đại học trên thế giới, số lượng này có khi đạt 100% để phục vụ giảng dạy, nghiên cứu.

Do đó, việc ra đời đề án 89 để tiếp nối hai đề án trước đó là cần thiết. Dù rằng có hơi tiếc nuối là sự tiếp nối này bị đứt quãng một thời gian, chưa có sự tiếp nối liên tục”, Giáo sư Nam nói.

Giáo sư Nam đánh giá, những Tiến sĩ, Thạc sĩ được cử đi học theo đề án 322 và 911 trở về các trường công tác đã phát huy rất tốt những khả năng học được từ các trường đại học uy tín hàng đầu trên thế giới.

Đây là đội ngũ giảng viên có chất lượng cao để triển khai việc nâng tầm nhà trường trên các bảng xếp hạng chất lượng cơ sở giáo dục đào tạo đại học.

Do đó, đề án 89 cũng mang đến nhiều kỳ vọng cho các trường Đại học trên cả nước sẽ tuyển chọn được những "nhân tài" để phát triển mạnh mẽ trong thời gian đến.

Nguồn nhân lực quý giá

Phó Giáo sư Lưu Trang – Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng cho biết, những học viên của đề án 322 và 911 trở về trường công tác đã phát huy hết khả năng của mình.

Với khả năng ngoại ngữ tốt hơn, được tôi luyện ở trong môi trường giảng dạy – nghiên cứu đẳng cấp ở nước ngoài đã mang một luồng sinh khí mới về cho nhà trường. Thúc đẩy đội ngũ giáo viên cùng nổ lực, cố gắng…

Phó Giáo sư Đoàn Quang Vinh – Hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa (Đại học Đà Nẵng) chia sẻ, đề án 322 "Đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước", thực hiện từ năm 2000 đến năm 2005 (kéo dài đến năm 2010 theo đề án 356).

Còn đề án 911 “Đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010 – 2020”Với yêu cầu và mục tiêu đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật trình độ cao cho đất nước.

“Các đề án trên đã tạo điều kiện cho cán bộ, giảng viên các trường đại học, cao đẳng được cử đi đào tạo Tiến sĩ, Thạc sĩ học tập ở các nước tiên tiến. Đây là lực lượng rất quan trọng góp phần nâng cao năng lực đào tạo các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu.

Qua đó, nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, nghiên cứu, giảng dạy và quản lý Đại học tiên tiến của đội ngũ giảng viên; Nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo tiến sĩ trong nước, tranh thủ và phát huy hợp tác quốc tế, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của nước ta”.

Thầy Vinh nói thêm, đối với Trường Đại học Bách khoa nói riêng thì đề án 322 và 911 đã góp phần đào tạo nhiều Thạc sỹ, Tiến sĩ của nhà trường.

Các viên chức này sau khi về nước đã đóng góp tích cực và công tác đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ của trường, thực hiện rất nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ.

Do đó, việc đề án 89 tiếp nối hai đề án trước mang nhiều ý nghĩa quan trọng, giúp các trường đại học hoàn thiện đội ngũ nhân lực chất lượng cao.

Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là ở trong cả hai đề án trước đây, đều có những lỗ hổng, gây nhiều trăn trở, lo ngại cho các trường. Đó là việc các giảng viên được cử đi nước ngoài đào tạo nhưng không trở về.

TẤN TÀI
LÀM THẾ NÀO ĐỂ 'NHÂN TÀI 89' ĐI HỌC SẼ TRỞ VỀ ?
TẤN TÀI/ GDVN 8-5-2021
GDVN- Khi xác định 70% Tiến sĩ của đề án được đào tạo ở nước ngoài thì vấn đề làm sao để thu hút “nhân tài” trở về sau khi học xong cần phải được tính toán kỹ hơn.

Mục tiêu của đề án 89 là đào tạo trình độ tiến sĩ cho khoảng 10% giảng viên đại học, bảo đảm về chất lượng, hợp lý về cơ cấu, trong đó 7% giảng viên được đào tạo toàn thời gian ở nước ngoài;

3% giảng viên được đào tạo trong nước và phối hợp giữa các trường đại học Việt Nam với các trường đại học nước ngoài đạt chuẩn chất lượng khu vực và thế giới.

Tuy nhiên, có một thực tế từ hai đề án trước đây là 322 và 911 cũng như một số đề án cử học viên ra nước ngoài học tập của các địa phương như: Đà Nẵng, Quảng Ngãi… thì vấn đề làm sao để “thu hút” nhân tài trở về được xem là yếu tố quyết định sự thành công của đề án.

Ngoài ra sự ràng buộc chặt chẽ về mặt pháp lý, đó là hợp đồng, cam kết giữa học viên và cơ sở đào tạo thì những chính sách đãi ngộ, môi trường làm việc của các Trường cũng là động lực để các học viên chọn con đường trở về.

Môi trường làm việc, chính sách đãi ngộ phải tốt

Phó Giáo sư Đoàn Quang Vinh – Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng nhìn nhận, có một thực tế là nhiều giảng viên được cử đi học nước ngoài xong không muốn trở về hoặc trở về thì công tác được một thời gian ngắn rồi ra ngoài đi làm cho các doanh nghiệp khác với mức lương cao hơn.

Các trường Đại học đặt ra những chế độ đãi ngộ tốt để cuốn hút "nhân tài" về giảng dạy, nghiên cứu. (Trong ảnh: Trao bằng Tiến sĩ, Thạc sĩ tại Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng). Ảnh: TT

“Bất cập của các đề án trước là tỷ lệ Tiến sĩ sau khi hoàn thành nghiên cứu tại nước ngoài, trở về làm việc trong thực tế còn chưa cao.

Tình trạng này tồn tại có nhiều nguyên nhân nhưng tồn đọng lại do 2 nguyên nhân chính, một là do chính sách lương bổng, đãi ngộ và thứ hai là do điều kiện làm việc.

Để giải quyết bất cập trên thì các cơ sở đào tạo phải đề ra mức thu nhập cạnh tranh, đồng thời tạo môi trường làm việc tốt, đảm bảo điều kiện để giảng viên có thể chuyên tâm giảng dạy và nghiên cứu khoa học”.

Thầy Vinh nói thêm, đối với Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng thì nhà trường đang dự thảo triển khai đề án phát triển nguồn nhân lực, tập trung vào những việc chính như: Nâng cao thu nhập của giảng viên hàng năm.

Hỗ trợ tiến sĩ về nước các chính sách ưu đãi về tài chính và ưu tiên trong việc thực hiện các đề tài, công trình nghiên cứu khoa học.

Tạo các đội nhóm làm việc chuyên sâu trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Tạo cơ chế ưu tiên trong việc tuyển dụng các cá nhân đi đào tạo theo đề án 89….

Ngoài ra, còn có các ưu đãi khác về hỗ trợ nhà ở, đời sống tinh thần của giảng viên…. Tất cả nhằm tạo ra một cơ chế đãi ngộ tốt nhất có thể đối với các “nhân tài”.

“Thu hút” người tài bằng mối gắn kết giữa trường và người học

Cũng chung niềm trăn trở làm sao “hút” nhân tài đề án 89 về trường làm việc, Phó Giáo sư Lưu Trang – Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng cho rằng, ngoài các chế độ, chính sách đãi ngộ tốt thì cái quan trọng nhất là giữ được sợi dây liên kết giữa nhà trường và học viên đi học.

“Dù học viên đi học ở nước ngoài nhưng vẫn thường xuyên liên lạc, sinh hoạt trực tuyến với các khoa, nhà trường. Họ có thể được phân công vào các nhóm nghiên cứu khoa học, để vừa học vừa tham gia nghiên cứu các công trình ở nhà.

Qua đó, nhà trường có thể nắm bắt những tâm tư, nguyện vọng cũng như chia sẻ những khó khăn của các học viên ở nơi xứ người.

Nếu trường đại học tạo được một môi trường làm việc chuyên nghiệp, nhân văn, tình cảm thì điều đó sẽ phần nào ảnh hưởng rất lớn đến quyết định việc ở hay về của các học viên”, thầy Trang nói.

Trong đợt dịch bệnh Covid-19 vừa qua, khi nhiều giảng viên của nhà trường đi học bị mắc kẹt ở nước ngoài chưa kịp trở về đã nhận được thư hỏi thăm, động viên của thầy Hiệu trưởng.

Trong đó, thầy Trang nhắn nhủ các học viên yên tâm ở lại học tập, nghiên cứu và thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh tại nước sở tại.

“Ở Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, ngoài các chế độ báo cáo định kỳ theo quy định thì các học viên luôn nhận được sự quan tâm từ phía công đoàn, Hiệu trưởng nhà trường.

Bên cạnh các chế độ lương thưởng được nhận như các thầy cô đang công tác ở nhà thì mỗi dịp Tết, lễ đều nhận được những lá thư động viên của Ban giám hiệu nhà trường.

Đó là một sự chia sẻ, động viên to lớn trong những ngày tháng học tập xa quê”, một giảng viên đề án 911 cho hay.

Thầy Trang cũng chia sẻ thêm về chế độ đãi ngộ cho học viên đề án 89 thì trước mắt chỉ mới có thể lo học phí và sinh hoạt phí cho học viên.

“Chế độ lương hiện nay thì cũng là một vấn đề bởi nó bị kiểm soát các quy định chung, không thể tùy tiện tăng giảm.

Nhưng cũng tùy theo từng trường Đại học để có cơ chế, đãi ngộ riêng như: ưu tiên bố trí các đề tài nghiên cứu khoa học…

Trường Đại học thì nó cũng khác các cơ sở giáo dục phổ thông, khác với viên chức bình thường nên sẽ có nhiều phương án đãi ngộ, đảm bảo đời sống cho các giảng viên khi đi học trở về”, thầy Trang cho biết.

TẤN TÀI
GS NGUYỄN ĐÌNH ĐỨC: ĐỀ ÁN 89 GIÚP NGUYỆN ƯỚC CỦA CHÚNG TÔI 

THÀNH HIỆN THỰC

THÙY LINH/ GDVN 27-5-2021
GDVN- Giáo sư Nguyễn Đình Đức cho rằng, tiến sĩ ở trong nước hay ở nước ngoài đều có thể đóng góp và phụng sự cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Dư luận đang băn khoăn về việc nhà nước tiếp tục đầu tư ngân sách để gửi giảng viên đại học ra nước ngoài đào tạo tiến sĩ trong khi không có chế tài đủ mạnh buộc họ quay về nước.

Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức - Trưởng ban đào tạo (Đại học Quốc gia Hà Nội) để lắng nghe ý kiến của ông về vấn đề này.

Phóng viên: Nghiên cứu dự thảo thông tư hướng dẫn triển khai đào tạo trình độ tiến sĩ, thạc sĩ bằng nguồn ngân sách nhà nước năm 2021 và 2022 theo Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 18/1/2019 của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt Đề án 89), Giáo sư có đánh giá như thế nào về những cải tiến trong dự thảo so với Đề án 322 và Đề án 911?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Đề án 911 trước đây chủ trương gửi công dân Việt Nam đi đào tạo ở nước ngoài. Đề án 322 đào tạo nguồn giảng viên cho các trường đại học được làm luận án thạc sĩ và tiến sĩ ở nước ngoài, đáp ứng cho nhu cầu đào tạo nguồn 20.000 tiến sĩ làm giảng viên cho các trường đại học. Tóm lại là tất cả các đề án trên đều hỗ trợ cho người học ra nước ngoài học tập.

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức - Trưởng ban đào tạo (Đại học Quốc gia Hà Nội) (ảnh: NVCC)

Khác với tất cả các đề án trước, đề án này rất linh hoạt, cho phép được hỗ trợ nghiên cứu sinh hoặc đào tạo toàn thời gian ở nước ngoài, hoặc liên kết với nước ngoài theo mô hình có thời gian trong nước, thời gian ở nước ngoài; hoặc cũng có thể đào tạo toàn thời gian trong nước và đối tượng là các giảng viên hoặc tạo nguồn giảng viên đại học. Một điểm khác biệt rất lớn nữa của Đề án này là trao toàn quyền tự chủ rất cao cho cơ sở giáo dục đại học, từ khâu tuyển chọn nguồn cũng như chịu trách nhiệm cho đến khi người học hoàn thành chương trình đào tạo.

Đây là một đề án rất tích cực và phù hợp với thực tiễn và đáp ứng rất cao nhu cầu của các trường đại học ở Việt Nam, vì hiện nay, mặc dù trong thời gian qua đã có nhiều nỗ lực và thành tựu, nhưng đến nay tỷ lệ trung bình tiến sĩ trong đội ngũ giảng viên các trường đại học Việt Nam mới đạt khoảng 28%.

Ngay từ năm 2013, với tư cách là Trưởng Ban Đào tạo của Đại học Quốc gia Hà Nội, tôi đã chủ trì xây dựng Đề án đào tạo tiến sĩ đạt chuẩn quốc tế ở Đại học Quốc gia Hà Nội, mục tiêu lựa chọn một số ngành xuất sắc như toán học, vật lý, hóa học, cơ học, công nghệ sinh học,… đào tạo các nghiên cứu sinh từ các nguồn khác nhau trong cả nước về Đại học Quốc gia Hà Nội làm luận án tién sĩ với 3 hình thức như trên, với chuẩn đầu ra có công bố quốc tế như nghiên cứu sinh được đào tạo hoàn toàn ở nước ngoài, nhưng rất tiếc Đề án này không có nguồn kinh phí hỗ trợ để triển khai thực hiện. Đề án 89 này đã giúp cho nguyện ước bấy lâu nay của chúng tôi, nay có thể trở thành hiện thực

Phóng viên: Những ngày qua câu chuyện tiến sĩ được cử đi đào tạo nhưng lại không về nước đang gây chú ý ở dư luận. Theo Giáo sư, nếu họ không trở về thì có coi là “chảy máu chất xám” không? Nhà nước cần có cơ chế như thế nào để thu hút họ trở về?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Theo tôi, Nhà nước đã có quyết định cử đi học, đi học bằng kinh phí của Nhà nước thì người học phải thực hiện theo quyết định, hết hạn phải về nước, là hợp lẽ.

Tuy nhiên, nếu hết hạn mà người học mà không về nước, hoặc chưa về nước ngay sau khi nhận bằng, cũng chưa hẳn là chảy máu chất xám và nên xem xét từng trường hợp cụ thể để có phương án giải quyết thỏa đáng.

Thực tế cho thấy chính thời gian nghiên cứu sau tiến sĩ (postdoc) của các tiến sĩ trẻ mới là thời gian có gia tốc lớn cho năng suất và hiệu quả nghiên cứu. Vì vậy, nếu tiến sĩ trẻ sau khi bảo vệ luận án lại xin được thực tập sau tiến sĩ một vài năm ở các phòng thí nghiệm tiên tiến của nước ngoài hoặc một nước thứ ba khác trước khi trở về nước, theo tôi đó là điều rất tốt, nên khuyến khích tạo điều kiện và thậm chí là rất cần thiết với sự trưởng thành của một nhà khoa học trẻ.

Theo tôi, ở trong nước hay ở nước ngoài đều có thể đóng góp và phụng sự cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bài học của một số quốc gia cho thấy họ đã mạnh dạn cử một loạt thanh niên trẻ đi học tập ở nước ngoài và cho phép có thể ở lại làm việc dài hạn, thậm chí nhập quốc tịch. Sau 10-20 năm, những trí thức kiều bào thành danh này sẽ có thể có những đóng góp rất lớn cho Tổ quốc.

Phóng viên: Rõ ràng, việc cử người đi đào tạo để tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia là cần thiết. Nhưng theo Giáo sư, liệu có cần phải áp dụng chính sách đào thải tức là nếu 3-5 năm mà không có nghiên cứu khoa học hoặc kết quả không đạt thì bị đào thảo chứ không phải nhà khoa học là vào biên chế và hưởng lương đó suốt đời?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Chúng ta đã có quy định của Nhà nước về chế độ làm việc của giảng viên. Trên cơ sở đó từng trường đại học cũng có những chính sách và quy định riêng về định mức giảng dạy và nghiên cứu khoa học với từng ngạch bậc giảng viên, phù hợp với thực tế và yêu cầu của nhà trường.

Các trường đại học ở nhiều nước trên thế giới cũng vậy, khi ký hợp đồng với giảng viên kèm theo mức lương là định mức giảng dạy và nghiên cứu, công bố. Nếu không đạt yêu cầu, giảng viên được cảnh báo và đến kỳ kế tiếp nữa nếu không đạt yêu cầu nhà trường sẽ chấm dứt hợp đồng.

Vì vậy, việc khuyến khích và khen thưởng kịp thời những giảng viên có thành tích giảng dạy và nghiên cứu khoa học xuất sắc, cũng như đào thải những cá nhân không đáp ứng yêu cầu là lẽ đương nhiên phải làm. Có như vậy mới tạo được động lực phấn đấu cho giảng viên và tạo được động lực cho sự phát triển của trường đại học.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Giáo sư!

Thùy Linh
ĐÒI HỎI CÁC ĐỀ ÁN VỀ ĐÀO TẠO TIẾN SĨ CÓ SAI SỐ BẰNG 0 

LÀ ĐIỀU KHÔNG THỂ

PHẠM MINH/ GDVN 22-5-2021

GDVN- Phải có hình thức kiểm soát nhưng đừng nghĩ bồi hoàn là điều duy nhất đảm bảo đề án 89 thực hiện thành công, xã hội cần phải có cái nhìn cởi mở hơn về vấn đề này.

Vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức Tọa đàm về một số nội dung triển khai Quyết định số 89/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019- 2030 (Đề án 89).

Theo đó, dự kiến trong 10 năm tới cần đào tạo khoảng 7.300 giảng viên có trình độ tiến sĩ và trên 300 giảng viên thuộc khối văn hóa, nghệ thuật và thể dục, thể thao có trình độ thạc sĩ.

Có 3 hình thức cử giảng viên đi đào tạo tiến sĩ là đào tạo chính quy toàn thời gian ở Việt Nam; đào tạo toàn thời gian ở nước ngoài; đào tạo phối hợp một phần thời gian ở Việt Nam và một phần thời gian ở nước ngoài.

Các trường đại học cần có trách nhiệm quản lý và cấp phát học bổng của Đề án 89 tới người được cử đi đào tạo, đồng thời, có trách nhiệm thu hồi học bổng của Đề án khi người được cử đi đào tạo vi phạm quy định.

Không thể đòi hỏi các Đề án có sai số bằng 0

Xoay quanh câu chuyện cử giảng viên học tiến sĩ ở nước ngoài, chia sẻ với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Phạm Hiệp - Giám đốc nghiên cứu, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển giáo dục Edlab Asia nhận định:

“Đầu tư vào đội ngũ giảng viên, đầu tư vào giáo dục đại học nghĩa là chúng ta đang đầu tư vào hệ thống giáo dục nói chung, điều này rất quan trọng. Xã hội cần có cái nhìn cởi mở hơn, đánh giá khách quan, sòng phẳng về hiệu quả của những đề án này”.

Tiến sĩ Phạm Hiệp cho rằng, đầu tư đào tạo đội ngũ giảng viên, đầu tư cho giáo dục đại học là vô cùng quan trọng (Ảnh: Tiến sĩ Phạm Hiệp cung cấp)

Từ những đề án đào tạo tiến sĩ trước đây như Đề án 322 và Đề án 911, nhiều ý kiến lo ngại rằng, sẽ ra sao khi những người được cử đi học tiến sĩ ở nước ngoài không trở về hoặc không còn công tác tại đơn vị cũ?

Cụ thể như Đề án 322, theo tổng kết của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong thời gian thực hiện Đề án này, cả nước gửi đi đào tạo 4.590 người, trong đó, có 2.268 người đi học trình độ tiến sĩ. Số lưu học sinh tốt nghiệp trở về nước là 3.017 người gồm 1.074 tiến sĩ, 984 thạc sĩ, 233 thực tập sinh và 726 sinh viên đại học với tổng kinh phí hơn 2.500 tỷ đồng.

Bàn về vấn đề này, Tiến sĩ Phạm Hiệp cho rằng, bất kỳ đề án nào cũng có những sai số, chúng ta không thể đòi hỏi đề án có sai số bằng 0. Sẽ có những trường hợp không như dự kiến ban đầu. Tuy nhiên, cần xem xét con số chênh lệch đó là bao nhiêu, có nằm trong khoảng sai số cho phép hay không.

Bên cạnh đó, trong số lượng phản ánh những người được cử đi học nhưng không trở về, phải xem xét những trường hợp cụ thể.

“Ví dụ có người chưa trở về khi kết thúc đề án, họ ở lại 5 năm rồi mới trở về thì không thể nói là không đạt mục tiêu của dự án được. Học xong tiến sĩ chưa phải là điểm dừng trong hành trình nghiên cứu, họ có thể có một nhu cầu chính đáng là có cơ hội học tập, nghiên cứu mới ở trình độ cao hơn tiến sĩ, chính vì vậy, phải làm rõ con số không về nước là như thế nào, như vậy mới biết được con số đó đáng báo động hay không?

Ngược lại, nếu đánh giá công bằng thì thực tế đã có rất nhiều sản phẩm của Đề án 911 và Đề án 322 hiện nay đang là lực lượng chủ chốt của nhiều trường đại học, gắn với những vị trí quan trọng như trưởng phòng, trưởng khoa, và là những giảng viên có trình độ cao ở các trường.

Và nếu cách đây 10, 20 năm, không cử giảng viên học tiến sĩ, thạc sĩ ở nước ngoài thì liệu rằng, giáo dục đại học của chúng ta có thể phát triển như hiện nay? Tại sao khi đánh giá, chúng ta không nhìn nhận đến những khía cạnh này”? Tiến sĩ Hiệp nêu quan điểm.

Theo Tiến sĩ Phạm Hiệp, trong đào tạo sư phạm những năm qua, ngân sách nhà nước cung cấp cho các trường sư phạm, nhờ đó, sinh viên sư phạm được miễn học phí. Tuy nhiên, sau khi tốt nghiệp, số lượng cử nhân sư phạm không làm giáo viên, không công tác trong ngành giáo dục cũng rất nhiều.

Điều tương tự cũng có thể xảy ra với những ngành nghề khác mà tại đó, Nhà nước đầu tư nhưng sinh viên ra trường không làm đúng ngành đã học. Nhưng không thấy ai nêu ý kiến cả.

Những câu chuyện đó để thấy rằng chúng ta cần nhìn nhận lại và đánh giá công bằng hơn. Việc đầu tư cho giáo dục đại học là rất cấp thiết, đào tạo đội ngũ giảng viên là rất quan trọng vì đây là đối tượng cần được ưu tiên để nâng cao chất lượng của cả hệ thống giáo dục.

Và tất nhiên, sẽ phải có những quy định để kiểm soát và thực hiện thành công những chương trình này. Bản thân Đề án 89 cũng đã có cách tiếp cận mới hướng đến những mục tiêu trên.

Trách nhiệm của nhà trường như thế nào?

Theo quan điểm của Tiến sĩ Phạm Hiệp, việc để trường đại học chịu trách nhiệm triển khai là một hướng hướng tiếp cận mới, một phương án đúng và trúng của Đề án 89.

Cách làm này ngoài nhằm nâng cao tính tự chủ của trường đại học còn giúp quá trình thực hiện, điều hành, quản lý hiệu quả hơn.

Theo đó, thực hiện Đề án 89, người học phải chịu trách nhiệm với nhà trường, nhà trường phải chịu trách nhiệm với Bộ Giáo dục và Đào tạo. Với những trường hợp được cử đi học nhưng không trở về, không thực hiện đúng quy định thì trường đại học phải có trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm bồi hoàn kinh phí.

Tiến sĩ Phạm Hiệp cho rằng: "Khi người học vi phạm quy định, hoàn thành chương trình học tập nhưng không trở về, không công tác và làm việc tại đơn vị cũ thì đây là một vấn đề dân sự.

Vì vậy, nhà trường và người học phải làm việc theo đúng nguyên tắc dân sự, chúng ta đã có khung pháp lý cho việc này, thậm chí nhà trường có thể kiện người được cử đi học nhưng không trở về ra tòa khi vi phạm.

Ngoài ra, nhà trường có thể có những phương án, cách làm sáng tạo để đảm bảo người học trở về làm việc và thực hiện đề án đúng mục tiêu ban đầu.

Ví dụ, trường có thể cử 1 nhóm gồm 5 người đi học Tiến sĩ ở nước ngoài. 5 người này phải chịu trách nhiệm lẫn nhau, ví dụ 1 người không trở về thì 4 người còn lại phải chịu trách nhiệm với nhà trường. Mỗi trường sẽ có những sáng kiến, cách thức triển khai để người học thực hiện đúng trách nhiệm của mình, để mục tiêu đề ra thực hiện thành công.

Chính trường đại học cũng phải giải trình phương án của mình với Bộ Giáo dục và Đào tạo. Phương án nào hợp lý sẽ được Bộ cấp tiền hỗ trợ, phương án nào không khả thi, không hiệu quả thì sẽ không được thông qua".

Tiến sĩ Phạm Hiệp cũng cho rằng, ngoài học phần nước ngoài, Đề án 89 còn có học phần trong nước. Học phần trong nước cũng cần được coi trọng và có trọng số tương đương như học phần nước ngoài, cần phải có những suất học bổng lớn cho người học.

Bàn thêm về trách nhiệm của nhà trường trong việc thực hiện Đề án 89, Tiến sĩ Hiệp cho rằng không nên quá chú trọng vào việc bồi hoàn học bổng. Đây chỉ là một phương án, tuy nhiên, bồi hoàn bao nhiêu và bồi hoàn như thế nào lại là một vấn đề cần phải xem xét trong những trường hợp cụ thể.

Phải đảm bảo kiểm soát và giúp đề án đi đúng hướng nhưng không nên có những quy định cứng nhắc, quá khắt khe.

"Ví dụ, sau khi hoàn thành chương trình học tập, chúng ta cho phép người học có một khoảng thời gian nhất định ở lại nước ngoài, trong trường hợp họ xin được một học bổng tốt và tiếp tục ở lại học tập, nghiên cứu đúng hướng ban đầu.

Khi người học trở về, họ chuyển sang tư nhân hay cơ sở khác làm việc là không đúng với cam kết ban đầu. Tuy nhiên, nếu là sự dịch chuyển giữa các trường đại học với nhau, kể cả từ trường công sang trường tư thì câu chuyện này rất bình thường, vì họ vẫn đóng góp cho hệ thống giáo dục đại học của đất nước, không nên xem điều đó là không đúng mục tiêu.

Nếu một người chuyển công tác thì trường đại học tiếp nhận nên trả cho trường có đối tượng chuyển đi một khoản phí quản lý, điều này là hoàn toàn có thể, tương tự như thị trường cầu thủ bóng đá vậy.

Phải kiểm soát và không thể buông lỏng hoàn toàn nhưng đừng nghĩ bồi hoàn là cách duy nhất để đảm bảo đề án thành công, xã hội cần cởi mở hơn trong cách nhìn nhận đánh giá, cách thức triển khai đề án phải linh hoạt, sáng tạo để đảm bảo những mục tiêu quan trọng ban đầu", Tiến sĩ Phạm Hiệp chia sẻ.

Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là quan trọng và cần thiết. Nếu không đầu tư về nhân lực, đội ngũ giảng viên thì chúng ta sẽ không thể giữ chân người tài ở lại trong ngành, nền giáo dục không thể phát triển. Và những kỳ vọng về đổi mới, phát triển kinh tế, hiện đại hóa đất nước cũng không thể thực hiện.

Phạm Minh
ĐỪNG ĐỂ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TIẾN SĨ THÀNH 'BÒN NƠI KHỐ RÁCH, ĐÃI NƠI QUẦN HỒNG'
THÙY LINH/ GDVN 21-5-2021
GDVN- Theo Giáo sư Trần Đức Viên, tránh việc cử đi đào tạo tiến sĩ như làm phong trào nào đó, hạn chế tối đa việc đổ tiền thuế của dân xuống sông xuống biển.

Rút kinh nghiệm từ Đề án 322 và Đề án 911 trước đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang làm dự thảo thông tư hướng dẫn triển khai đào tạo trình độ tiến sĩ, thạc sĩ bằng nguồn ngân sách nhà nước năm 2021 và 2022 theo Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 18/1/2019 của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt Đề án 89), với nhiều điểm thay đổi đáng kể, trên tinh thần phát huy tính tự chủ của các cơ sở đào tạo đại học.

Dự thảo cho phép các trường căn cứ vào các tiêu chí về chuyên môn và hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ liên quan sẽ tự chủ trong tuyển sinh và tổ chức đào tạo (với 3% đào tạo trong nước) trên nguyên tắc chia sẻ kinh phí giữa Nhà nước và cơ sở đào tạo cử giảng viên tham gia Đề án 89, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các ứng viên thụ hưởng đề án.

Các trường sẽ tuyển chọn giảng viên để đưa đi đào tạo, quản lý kinh phí, theo dõi quá trình đào tạo cho tới việc sử dụng sau đào tạo và bồi hoàn kinh phí đào tạo (nếu có). Bộ Giáo dục và Đào tạo giữ vai trò hướng dẫn, kiểm tra, giám sát các trường trong quá trình thực hiện.

Đề án 911 trước đây chủ trương gửi công dân Việt Nam đi đào tạo ở nước ngoài. Đề án 322 đào tạo nguồn giảng viên cho các trường đại học được làm luận án thạc sĩ và tiến sĩ ở nước ngoài, đáp ứng cho nhu cầu đào tạo nguồn 20.000 tiến sĩ làm giảng viên cho các trường đại học.

Khác với tất cả các đề án trước, Đề án 89 cho phép được hỗ trợ nghiên cứu sinh hoặc đào tạo toàn thời gian ở nước ngoài, hoặc liên kết với nước ngoài theo mô hình có thời gian trong nước, thời gian ở nước ngoài; hoặc cũng có thể đào tạo toàn thời gian trong nước và đối tượng là các giảng viên hoặc tạo nguồn giảng viên đại học.

Mục tiêu của Đề án 89, trong 10 năm tới cần đào tạo được khoảng 7.300 giảng viên có trình độ tiến sĩ và trên 300 giảng viên thuộc khối văn hóa, nghệ thuật và thể dục, thể thao có trình độ thạc sĩ.

Nghiên cứu dự thảo này, chia sẻ với phóng viên Tạp chí Giáo dục Việt Nam, Giáo sư Trần Đức Viên- Học viện Nông nghiệp Việt Nam khẳng định, việc cử người đi đào tạo để tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia là cần thiết. Tuy nhiên, câu chuyện đặt ra là đào tạo thế nào thì có 2 vấn đề cần được làm rõ.

Trước tiên, cần tổng kết lại Đề án 322 và Đề án 911 xem bài học kinh nghiệm rút ra là gì sau 2 đề án đó, cái gì được, cái gì chưa được, nhất là các điểm hạn chế về thể chế (chính sách nhà nước và tổ chức thực hiện). Từ đó đối chiếu với mục đích tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia đến năm 2030, năm 2045 đến đâu trên “bản đồ” khoa học thế giới, kiểm kê các nguồn lực khoa học công nghệ trong nước, từ đó xác định đào tạo cái gì, ở đâu, với ai, như thế nào?

Cụ thể là cần xác định rõ cần đào tạo bao nhiêu người, những ngành gì, đào tạo ở đâu, đối với đối tượng nào; tránh việc cứ cử đi đào tạo tiến sĩ như làm phong trào nào đó, hạn chế tối đa việc đổ tiền thuế của dân xuống sông xuống biển, nhất là trong một xã hội còn sính bằng cấp như chúng ta.

Cũng đừng để chương trình đào tạo tiến sĩ trở thành “bòn nơi khố rách đãi nơi quần hồng”; Tức là lấy ngân sách nhà nước, trong đó có tiền thuế của người nghèo, đào tạo xong thì họ “nhảy” sang Tây, làm cho nước ngoài, không “trả nợ” những người đã góp công góp của góp xương máu nuôi họ ăn học. “Tại sao người nông dân Việt Nam nghèo khó lại phải đóng góp tiền để đào tạo nhân tài cho nước ngoài”, thầy Viên nhấn mạnh.

Giáo sư Trần Đức Viên – Học viện Nông nghiệp Việt Nam (ảnh: Thùy Linh)

Hơn nữa, theo Giáo sư Trần Đức Viên, chính thực tế sử dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học công nghệ của Việt Nam hiện tại sẽ là cơ sở thực tiễn để người đi du học, được cử đi đào tạo có quyết định trở về nước hay không. Điều kiện làm việc, chế độ lương bổng, cơ hội thăng tiến, thái độ trọng thị của xã hội đối với đội ngũ các nhà khoa học, đội ngũ trí thức của chúng ta hiện nay là tấm gương để người đi du học soi vào và tự rút ra bài học cho chính họ và gia đình họ.

Muốn như vậy thì cần thay đổi càng sớm càng tốt việc sử dụng và trọng dụng nhà khoa học Việt Nam đang làm việc tại các viện nghiên cứu, các trường đại học tương xứng với đóng góp và cống hiến của họ để mọi người muốn về, thích về chứ không phải mang hình thức xử phạt, đền bù để ép buộc, đe nẹt - đó chỉ là biện pháp hành chính mang tính “ngọn”, khiên cưỡng và hiệu quả thấp.

Nhìn từ Trung Quốc cho thấy, những năm 70, 80 của thế kỷ trước, đa số các du học sinh, nghiên cứu sinh của họ đi học nước ngoài đều ở lại, nhưng đến những năm 2000 đặc biệt là từ 2003, hàng ngàn trí thức Hoa kiều lại ào ạt về nước, vì người ta xây dựng được môi trường làm việc chuyên nghiệp, ở đó những nhà khoa học được Nhà nước trọng dụng thật sự, ở đó chỉ có năng suất khoa học quyết định sự thăng tiến chứ không còn tiêu chuẩn nào khác, tất cả đều lấy năng suất khoa học làm thước đo.

Những Thường Nga, Thần Châu, Liêu Ninh, những Type-15, J-20, J-11, HQ-9, những bước nhảy từ công xưởng sản xuất hàng giá rẻ thành siêu cường kinh tế, siêu cường quân sự, siêu cường khoa học công nghệ của Trung Quốc trong hai thập niên qua có sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ các nhà khoa học Hoa kiều hồi hương này.

Hay như Phòng thí nghiệm Sinh học Phân tử Cambridge (MRC Laboratory of Molecular Biology) nơi tối giản các quản lý kiểu hành chính, ở đó chỉ có các nhóm nghiên cứu mạnh, ở đó các nhà khoa học có quyền lợi, trách nhiệm ngang nhau, không hề có viện trưởng, viện phó mà chỉ có người phát ngôn của các nhà khoa học, năng suất khoa học là thứ duy nhất để đo danh phận con người. Tính đến nay Viện này đã sở hữu 11 giải Nobel, nếu tính cả những người có “gốc” ở đây nhưng sau đó đã chuyển đi nơi khác thì phòng thí nghiệm nhỏ bé này đã cung cấp cho nhân loại 25 người đạt giải Nobel!

Nói như vậy để thấy môi trường học thuật chuyên nghiệp, thoải mái, hưởng lương theo năng suất lao động, đảm bảo các nhà khoa học có cuộc sống vật chất trung lưu khá trở lên, thì tự khắc xã hội đó thu hút được nhân tài. Chừng nào nhà khoa học còn mắt nhắm mắt mở với những cơm áo gạo tiền thì làm sao họ có thể dốc hết tâm huyết cho khoa học được.

Cuối cùng, thầy Viên cho rằng, cần phải áp dụng chính sách đào thải tức là nếu sau một khoảng thời gian nào đó, như sau 3-5 năm chẳng hạn, mà không có kết quả nghiên cứu khoa học nào được “trình làng” theo các chuẩn mực quốc tế, là bị đào thảo chứ không phải nhà khoa học nào đã “thi” được vào biên chế là yên tâm ở đó hưởng lương, dù là lương “sống mòn” đến suốt đời.

Đề án 89 là nâng cao năng lực cho đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý, hướng tới các mục tiêu: đào tạo trình độ tiến sĩ cho 10% giảng viên đại học (trong đó 7% là đào tạo ở nước ngoài, 3% đào tạo trong nước); đào tạo để trên 80% giảng viên thuộc khối văn hóa, nghệ thuật và thể dục, thể thao có trình độ thạc sĩ trở lên; bồi dưỡng kỹ năng quản trị đại học cho giảng viên là cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học và bồi dưỡng một số kỹ năng như: phát triển chương trình đào tạo, ngoại ngữ, tin học, phương pháp giảng dạy… cho 100% giảng viên; có chính sách thu hút 1.500 nhà khoa học, những người có trình độ tiến sĩ về làm việc tại các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam.

Thùy Linh
CÁN BỘ HỌC TIẾN SĨ NƯỚC NGOÀI LÀ TỐT, NHƯNG KHÔNG CHẶT CHẼ SẼ MẤT TIỀN, MẤT NGƯỜI
TRUNG DŨNG/ GDVN 6-6-2021
GDVN- Chủ trương thì không có gì là sai cả, vì muốn có cán bộ chất lượng thì phải đầu tư, nhưng đầu tư không chặt chẽ thì sẽ bị mất người và mất tiền là điều dễ hiểu.

Liên quan đến việc thực hiện “Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030”, hay còn gọi là Đề án 89 thì ngày 13/5 vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo có Công văn hướng dẫn, yêu cầu các trường muốn tham gia đào tạo đăng kí trước ngày 20/5, gửi danh sách ứng viên trước ngày 15/6 và Bộ sẽ thông báo danh sách trúng tuyển trước ngày 30/6/2021.

Đề án thu hút được nhiều sự quan tâm của dư luận. Nhiều ý kiến băn khoăn, liệu rằng sắp tới đây khi Đề án đưa vào triển khai thì các trường sẽ có những phương án triển khai như thế nào, có vướng mắc gì không khi mà trước đây cũng đã có Đề án 322 và 911 từng thực hiện chủ trương này.

Và hơn hết, nhiều người quan tâm đến chuyện các Tiến sĩ sau khi dùng tiền ngân sách để đi học xong nhưng không quay trở về nước để tiếp tục cống hiến sẽ được các trường xử lý như thế nào, có cần thiết phải cho các giảng viên ra nước ngoài để đào tạo lên trình độ Tiến sĩ hay không.

Giáo sư Phạm Tất Dong - Phó chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam. Ảnh: Thuỳ Linh

Chia sẻ với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam về vấn đề này, Giáo sư Phạm Tất Dong - Phó chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam cho biết:

“Muốn có nguồn nhân lực giảng viên có trình độ giảng viên có trình độ cao thì một chiến lược để đào tạo họ là việc hết sức cần thiết. Và trong những cách đó thì việc chúng ta tự bỏ tiền ra để đào tạo nguồn nhân lực này là chủ động nhất mà các trường đang áp dụng.

Theo cách này thì các trường hoàn toàn có thể đào tạo ra ngành nghề theo đúng chuyên môn nghề nghiệp mà những giảng viên sau này họ cần để giảng dạy. Việc này thì lâu nay chúng ta vẫn làm chứ không phải gần đây mới áp dụng.

Tuy nhiên, vì là ngân sách của nhà nước nên cần có những quy định chặt chẽ. Muốn vậy, công tác cán bộ cần phải thật linh hoạt và tinh tế. Nếu khâu tuyển chọn nhân lực diễn ra một cách hời hợt, thiếu sâu sát, không đúng đối tượng thì việc đưa đi ra nước ngoài đào tạo chưa chắc đã đạt được những chất lượng đúng mong muốn.

Vì thế, việc cử giảng viên ra nước ngoài để học tập nâng cáo trình độ theo tôi là việc làm mang tính đúng đắn. Tuy nhiên, cơ sở giáo dục nào thực hiện việc này thì nên có một bộ phận chuyên trách để làm khâu công tác cán bộ cho thật sát sao. Từ đó mới đảm bảo cho việc đem lại thực chất sau khi những cán bộ ấy trở về.

Mình chọn ai, chọn như thế nào để họ có thể trở thành những cán bộ cốt cán cho nhà trường mới là điều quan trọng. Lựa chọn cán bộ không khéo léo, kỹ lưỡng mà họ học xong rồi ở lại luôn không quay trở về nữa thì coi như chúng ta đầu tư lỗ vốn rồi".

Thực tế, một số trường có giải pháp yêu cầu các giảng viên phải ký vào cam kết "giữ chân" trước khi lên đường ra nước ngoài đi học. Vì đã có nhiều trường hợp cán bộ được cử đi, sau khi học xong họ đã phớt lờ việc này vì có những cám dỗ hấp dẫn hơn. Nhận định về việc này, Giáo sư Dong bày tỏ: "Việc hiện nay các trường buộc phải đưa ra những ràng buộc với đội ngũ cán bộ được cử đi học nước ngoài bằng ngân sách của nhà nước cũng là điều dễ hiểu, bởi trước đây cũng nhiều trường cũng lâm vào tình trạng dở khóc, dở cười như thế này rồi.

Họ tự bỏ tiền ra để đi học thì không có chuyện gì để chúng ta cần bàn đến, nhưng đã là tiền của Nhà nước, của nhân dân bỏ ra thì cần làm sao để cần chọn ra đúng người, đúng cán bộ tin cậy, không làm uổng phí ngân sách.

Biết là làm khâu tuyển chọn cán bộ trong việc này rất khó, nhưng các trường cần chắc chắn rằng cán bộ đó học xong rồi sẽ trở về cống hiến cho nhà trường. Như vậy việc cử cán bộ học mới có được thực chất và không để lại dư luận xấu.

Tuy nhiên, nếu chúng ta mang nặng tâm lý của việc các cán bộ ấy cứ đi học rồi đi luôn, không trở về trường công tác nữa, rồi e ngại trong chuyện cử người đi học ở nước ngoài thì biết đến bao giờ chúng ta mới có đủ đội ngũ cán bộ cốt cán, có năng lực phục vụ cho các trường được.

Theo tôi, phương án ràng buộc thích hợp trong thời điểm hiện tại vẫn là việc Ban giám hiệu nhà trường nên ngồi lại với những cán bộ trước khi xác nhận họ trong danh sách cử đi. Ngoài việc nắm tâm tư thì cũng phải thẳng thắn với những giảng viên đó rằng, nếu không trở về sau khi hoàn thành khoá học thì coi như họ nằm ngoài sự đầu tư của nhà trường thì sẽ thu hồi lại cả vốn lẫn lời. Thậm chí là phạt nếu không thực hiện đúng cam kết".

Nêu nhận định tổng quan về tính khả quan của Đề án 89 lần này so với những đề án trước đây, Giáo sư Dong thẳng thắn: "Theo tôi, chủ trương thì không có gì là sai cả, vì muốn có cán bộ chất lượng thì phải đầu tư, nhưng đầu tư không chặt chẽ thì sẽ bị mất người và mất tiền là điều dễ hiểu.

Tuy nhiên, các trường cũng nên tính đến chiến lược lâu dài, đó là tương lai của môn học mà giảng viên ấy giảng dạy chứ không nên cử đi học theo dạng đại trà hoặc ở trường đã có rồi. Ví dụ: Có những môn trong nước mình chưa có, nhưng tầm nhìn trong tương lai những môn học đó sẽ là những môn học thiết yếu, cấp bách thì nên lựa chọn học nâng cao trình độ ở những môn học đó.

Trong chuyện cử đi học ở nước ngoài thì cũng đã từng có những quy định về việc ưu tiên cho những ngành, những lĩnh vực khoa học mà trong nước chưa có. Những lĩnh vực mà trong nước đã có rồi, mình có đủ điều kiện đào tạo Tiến sĩ của ngành đó rồi được thì đâu nhất thiết phải cử đi nước ngoài để học.

Chính bản thân tôi ngày trước cũng được cử đi học nước ngoài vào thời điểm đất nước còn nhiều khó khăn. Tất nhiên vào thời điểm ấy, khi đi học thì có một phần là nước ngoài họ hỗ trợ. Chúng tôi đi học với tâm lý là người nghèo đi học, nên hầu như đội ngũ được cử đi ngày ấy cũng rất chắt bóp trong chi tiêu. Với khoản chi tiêu cố định trong một tháng được cấp thì chúng tôi phải làm sao để hạn chế chi tiêu thấp hơn số đó để có thể dư ra một ít còn gửi về nước phụ giúp thêm cho gia đình.

Và tất cả chúng tôi khi được đi học nước ngoài cũng đều chung một suy nghĩ, khi đi học không chỉ được biết đây biết đó mà còn nâng cao được bằng cấp để khi về nước cũng có nhiều thuận lợi trong sự nghiệp. Ai cũng có suy nghĩ là biết ơn Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện. Vì thế, những người sau khi hoàn thành khoá học quay về nước, họ rất tận tuỵ và một lòng cống hiến chứ không hề có ý định làm việc ở một nơi nào đó có mức lương hấp dẫn hơn.

Được đi học nước ngoài thời điểm đó là cái gì đó vinh dự rất lớn, chúng tôi sẽ trả ơn cho việc mình được chọn đi học bằng cách trở về nước làm việc trong tâm thế hào hứng và cống hiến hết mình.

Như vậy để nói lên một điều là, ngoài đặt ra những khâu lựa chọn người kỹ lưỡng thì cũng nên có những định hướng tư tưởng cho những cán bộ đó để họ hiểu rằng họ đang được bằng chính những đồng tiền mồ hôi, xương máu của nhân dân nên khi học cần bằng cả trái tim để đưa những kiến thức đó trở về phụng sự cho đất nước".

Trung Dũng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét