Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2020

20201129. BÀN VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ ĐẠI HỌC

ĐIỂM BÁO MẠNG 

VÀI VẤN ĐỀ CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM (1)

ĐẶNG VĂN ĐỊNH, DƯƠNG XUÂN THÀNH/GDVN 27-11-2020

GDVN- Một thống kê gần đây cho biết, Việt Nam có khoảng 1.600 giáo sư, hơn 10.000 phó giáo sư nhưng chỉ có khoảng 25% là còn nghiên cứu.

Chính sách giáo dục thể hiện qua việc đầu tư cho toàn ngành Giáo dục đã được đề cập trong bài “Quốc sách hàng đầu”, chủ trương, chính sách và thực hiện” đăng trên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam ngày 28-29/09/2020. [1], [2]

Với giáo dục đại học, bài viết này chỉ giới hạn ở hai vấn đề: (i) Nguồn nhân lực và cơ chế tài chính đầu tư cho giáo dục đại học; (ii) Vấn đề tự chủ đại học và cơ chế “chủ quản” với các cơ sở giáo dục đại học.

Ảnh minh họa: Ảnh trên giaoduc.net.vn

NGUỒN NHÂN LỰC VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH ĐẦU TƯ CHO GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM

Về nguồn nhân lực:

Lực lượng lao động trong giáo dục đại học bao gồm nhà giáo, cán bộ quản lý và nhân viên phục vụ.

Một thống kê gần đây cho biết, Việt Nam có khoảng 1.600 giáo sư, hơn 10.000 phó giáo sư nhưng chỉ có khoảng 25% là còn nghiên cứu. Đặc biệt chỉ có khoảng 200-300 giáo sư đang làm việc hoặc nghiên cứu. [3]

Đại học Quốc gia Hà Nội hiện có 73 Giáo sư, 366 Phó Giáo sư 1.355 Tiến sĩ và Tiến sĩ khoa học.

Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh có hơn 400 Giáo sư và Phó Giáo sư, 1300 Tiến sĩ, trong đó Đại học Khoa học xã hội và nhân văn có 4 Giáo sư (riêng khối ngành “Giáo dục học” không có giáo sư nào). [4] Đại học Bách Khoa có 9 Giáo sư [5]. Đại học Khoa học Tự nhiên không công bố số liệu đội ngũ giảng viên…

Đại học Bách khoa Hà Nội có 24 Giáo sư, 235 Phó Giáo sư, 765 Tiến sĩ

Đại học Đà Nẵng có 11 Giáo sư, 107 Phó Giáo sư, 463 Tiến sĩ.

Đại học Kinh tế quốc dân có 15 Giáo sư, 115 Phó Giáo sư.

Không ít cơ sở giáo dục đại học không có một giáo sư cơ hữu nào không chỉ tìm thấy trong khối trường tư thục mà cả đại học công lập và vì thế trong mục “Ba công khai” không ít trường cố đưa vào danh sách nhà giáo vài “Giáo sư thỉnh giảng” hoặc cố tình không công bố đội ngũ giảng viên cơ hữu.

Nhiều ý kiến cho rằng giáo sư, phó giáo sư là nhà giáo có trình độ cao nhất thuộc một lĩnh vực chuyên môn cụ thể. Nếu không còn đào tạo hay giảng dạy, họ nên dành chức danh cho người khác và nếu không đủ sức tham gia đào tạo, nghiên cứu họ nên trả lại chức danh đã được phong. Giáo sư chỉ làm công tác quản lý, không làm đúng nghề giảng dạy, đào tạo, sẽ rất lãng phí và vô nghĩa. [6]

Những gì nêu trên khẳng định đội ngũ Giáo sư, Phó Giáo sư hiện tham gia giảng dạy tại các cơ sở giáo dục đại học là rất khiêm tốn.

Về nguồn lực tài chính:

a. Nhận thức về xây dựng pháp luật

Ngân sách dành cho giáo dục được gọi là “đầu tư phát triển” và phải được ưu tiên theo Nghị quyết 29-NQ/TW (Nghị quyết 29) và Luật Giáo dục 2019. Tuy nhiên có một sự không đồng bộ giữa Nghị quyết của Đảng và Luật Giáo dục. Điều 96: “Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục”:

“1. Nhà nước ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, bảo đảm ngân sách nhà nước chi cho giáo dục, đào tạo tối thiểu là 20% tổng chi ngân sách nhà nước.

2. Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục được phân bổ theo nguyên tắc công khai, dân chủ; căn cứ vào quy mô giáo dục, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng; bảo đảm ngân sách để thực hiện phổ cập giáo dục, phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Nhà nước có trách nhiệm bố trí kinh phí đầy đủ, kịp thời để thực hiện phổ cập giáo dục và phù hợp với tiến độ của năm học.

3. Cơ quan quản lý giáo dục, cơ sở giáo dục có trách nhiệm quản lý, sử dụng có hiệu quả phần ngân sách giáo dục được giao và nguồn thu khác theo quy định của pháp luật”.

Đọc toàn bộ khoản 2 Điều 96 dễ nhận thấy là luật không đề cập đến đầu tư cho giáo dục đại học mà tập trung chú ý đến giáo dục tại các địa phương, các vùng miền có khó khăn thuộc khối giáo dục phổ thông. Bộ luật quan trọng nhất về giáo dục không đề cập vấn đề tài chính cho giáo dục đại học liệu có phải là thiếu sót do soạn thảo luật hay do nhận thức chưa đầy đủ về giáo dục đại học nên coi việc đầu tư cho giáo dục đại học chỉ thuộc “xã hội hóa”?.

b. Thể chế hóa đường lối của Đảng.

Nghị quyết 29-NQ/TW ghi cụ thể:

“Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.

Đây là một chủ trương mới, rất khoa học mà Trung ương đưa ra, như vậy cần phải hiểu tiền ngân sách dành cho giáo dục là “đầu tư” chứ không phải là các khoản “kinh phí” hay “trợ cấp”.

Lâu nay, không ít người/cơ quan vẫn cho rằng nguồn ngân sách dành cho giáo dục là “kinh phí” nghĩa là nhà nước chi ra và không thu hồi được gì. Hiểu đúng tinh thần chỉ đạo trong Nghị quyết 29 thì phải là “Đầu tư cho giáo dục” và do đó biết đầu tư sẽ thu được lãi, sai lầm trong đầu tư có thể mất cả gốc lẫn lãi.

Có cảm giác không chỉ những người thực hiện từ trung ương xuống địa phương mà một số người hoạch định chính sách vẫn cho rằng “kinh phí” dành cho giáo dục đang là gánh nặng ngân sách và do đó, giảm được chừng nào hay chừng ấy! Phải chăng nhận thức này dẫn tới tình trạng việc thể chế hóa đường lối của Đảng mới chỉ ở tầm “kinh phí” chứ chưa đạt đến tầm “Đầu tư cho giáo dục”?

Theo quy định tại Nghị quyết 29 và Luật Giáo dục, ngân sách nhà nước chi cho giáo dục phải đạt “tối thiểu 20% tổng chi ngân sách quốc gia”. Trong giới nghiên cứu và hoạch định chính sách không nhiều người hồi cứu về thực trạng đầu tư tài chính cho giáo dục Việt Nam hiện nay, chẳng hạn:

“Tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục hàng năm của Việt Nam ở mức xấp xỉ 20%, tương đương 5% GDP” [7]. Dựa vào các số liệu trong [1], [2], bình quân tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục trong vòng 10 năm qua là 15,05%, tính trên GDP thì tỷ lệ này khoảng 3,7%.

Tài liệu “Education at a Glance 2017” (Tổng quan về giáo dục năm 2017) của OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế) đã đưa ra nhiều vấn đề mà Việt Nam có thể tham khảo [8].

Trong các chỉ số nhóm B “Financial and Human Resources Invested In Education” (Nguồn tài chính và nhân lực đầu tư cho giáo dục), chỉ số B2 “ What proportion of national wealth is spent on educational institutions?” (Nguồn lực quốc gia chi cho các cơ sở giáo dục là bao nhiêu?) cho thấy tỷ lệ dành cho giáo dục tính trên GDP của Anh Quốc là 6,6%; Đan Mạch là 6,5%; New Zealand là 6,4%, Hàn quốc là 6,3%; Mỹ, Na Uy, Canada đều là là 6,2%; đứng cuối bảng là Luxembourg 3,6% và Indonexia với 3,4%. (xem hình 1).

Hình 1: Chi tiêu cho giáo dục của một số quốc gia theo OECD

(Public expenditure on education isntitutions: Chi tiêu công cho các cơ sở giáo dục

Private expenditure on education isntitutions: Chi tiêu tư cho các cơ sở giáo dục

Total expenditure on education isntitutions: Tổng chi tiêu cho giáo dục)

Nếu chi cho giáo dục của Việt Nam đạt 5% GDP như một số tài liệu khẳng định thì không có gì phải bàn luận, tuy nhiên với con số đầu tư 3,7% GDP thì đúng là Việt Nam nằm trong nhóm đầu tư thấp nhất cho giáo dục. Con số còn thấp hơn nếu xét riêng giáo dục sau phổ thông (Giáo dục nghề nghiệp, Cao đẳng, Đại học, sau đại học), đặc biệt là giáo dục đại học.

“Kể từ khi Chính phủ ban hành nghị quyết 14/2005/NQ-CP năm 2005 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học, một loạt chương trình, chính sách cụ thể đã được triển khai. Nhưng nhìn lại quá trình này, các cải cách giáo dục đại học gắn liền với cải cách tài chính dường như ít được quan tâm nhất”. [9]. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ tại Hội nghị toàn quốc về Phát triển bền vững năm 2019 cho biết nhà nước chỉ dành cho giáo dục đại học 0,33% GDP nghĩa là chưa bằng 1/10 tổng ngân sách chi cho toàn ngành Giáo dục.

Để tìm hiểu chính sách mà các nước dành cho giáo dục sau phổ thông (đào tạo nghề, cao đẳng, đại học, sau đại học) có thể tham khảo chỉ số B2.2 trong tài liệu [8]:

B2.2 “Public and private expenditure on educational institutions as a percentage of GDP by level of education” (Tỷ lệ phần trăm GDP chi tiêu công và tư cho các cơ sở giáo dục theo theo cấp học).

Hình 2: Nguồn lực quốc gia đầu tư cho giáo dục tính trên GDP theo OECD

(Biểu đồ phía trên là phần đầu tư cho giáo dục phổ thông; Biểu đồ phía dưới là phần đầu tư cho giáo dục sau phổ thông. Trong mỗi cột biểu đồ, phần màu xanh là đầu tư công, phần màu trắng là đầu tư của tư nhân).

Theo thống kê của OECD, với giáo sau phổ thông (Tertiary Education) có năm nước đầu tư công cho giáo dục đại học đạt khoảng 1,5% GDP là Phần Lan, Úc, Đan Mạch, Thụy Điển và Na Uy, phần lớn các nước còn lại đầu tư xấp xỉ 1% GDP. (hình 2).

Ngân sách đầu tư cho giáo dục sau phổ thông của Việt Nam chỉ bằng khoảng 1/3 thế giới, vậy đó có phải là “đầu tư phát triển”?

Việt Nam có quy mô kinh tế nhỏ so với các nước phát triển, dân số lại gần 100 triệu người nên bình quân chi cho người học thấp hơn rất nhiều so với thế giới.

Suất đầu tư cho sinh viên học tập tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam:

Một nghiên cứu cho thấy năm 2009 suất đầu tư cho một sinh viên tại Việt Nam khoảng 9,24 triệu đồng/năm, đến năm 2017, con số này là 16,2 triệu đồng trong khi nhu cầu thực tế cho thấy con số phải là 37-79 triệu đồng. [10]. Tạm chấp nhận số liệu của năm 2017 thì suất đầu tư cho một sinh viên Việt Nam trong một năm xấp xỉ 700 USD.

Một thống kê trên Baoquocte.vn cho thấy chi phí bình quân cho một sinh viên tại Hoa Kỳ là 19.000 USD; Australia 17.000 USD; Anh 15.000 USD; Hà Lan 12.000 USD; Singapore 9.000 USD; Nhật 5.000 USD; Malaysia 4.000 USD; Trung Quốc 3.500 USD; Thái Lan 2.500 USD. [11]

Theo thứ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc, chi cho giáo dục đại học (GDĐH) vào khoảng 10% tổng chi ngân sách cho toàn ngành Giáo dục. Từ số liệu tính toán trong [1], [2] chúng ta có bảng kê suất đầu tư cho sinh viên như sau:


Suất đầu tư công cho mỗi sinh viên từ năm 2010 đến năm 2019

(Số lượng sinh viên được tra cứu trong các tài liệu liệt kê trong cột Nguồn dữ liệu)

Mặc dù suất đầu tư cho mỗi sinh viên sau 10 năm đã tăng gấp gần 5 lần song con số này thực sự quá nhỏ nhoi so với thế giới.

Báo Nhandan.com.vn trong bài: “Người dân đã đóng góp quá nhiều cho giáo dục” cho biết: “Đóng góp (đầu tư) của dân cho giáo dục là rất lớn, khoảng 2 tỷ USD. Chi tiêu cho giáo dục của nhà nước khoảng 30.000 tỷ đồng, ước tính 2 tỷ USD”. [12].

Số liệu nêu trên là thống kê vào năm 2005, theo đề xuất của Bộ Giáo dục và Đào tạo từ năm 2020 đến năm 2025 mức học phí sẽ tăng 12,5% hàng năm và do đó gánh nặng học phí sẽ ngày càng nặng nề hơn với người lao động có con em học bậc đại học.

Để giải quyết khó khăn về nguồn lực đầu tư cho giáo dục, tăng học phí bậc đại học chỉ là cách giải quyết theo kiểu ăn sổi. Một chính sách đồng bộ từ mầm non đến đại học cần được hoạch định ngay từ bây giờ, theo đó Nhà nước cần bảo đảm đầu tư toàn diện cho mầm non, tiểu học và trung học cơ sở, xác định ba bậc học này là giáo dục bắt buộc.

Bên cạnh đó cớ cơ chính sách đầu tư phù hợp cho bậc trung học phổ thông và đại học; đầu tư trọng điểm cho một số cơ sở giáo dục đại học với mục đích đào tạo nhân tài và một số ngành nghề liên quan đến an ninh, quốc phòng, còn lại dành cho xã hội hóa. (còn nữa)

Tài liệu tham khảo:

[1] https://giaoduc.net.vn/goc-nhin/quoc-sach-hang-dau-chu-truong-chinh-sach-va-thuc-hien-ky-1-post212615.gd

[2] https://giaoduc.net.vn/goc-nhin/quoc-sach-hang-dau-chu-truong-chinh-sach-va-thuc-hien-ky-2-post212616.gd

[3] https://laodong.vn/giao-duc/ca-nuoc-co-1600-giao-su-nhung-chi-co-hon-200-nguoi-con-dang-nghien-cuu-606745.ldo

[4] http://hcmussh.edu.vn/img/3congkhai/bieumau20.pdf

[5] https://drive.google.com/file/d/0B4wsSbPxME50SUQyRHVrSUJpQXc/view

[6] http://tapchimattran.vn/thuc-tien/gstskh-pham-tat-dong-se-tra-lai-chuc-danh-gs-khi-khong-con-dao-tao-nghien-cuu-khoa-hoc-11473.html

[7] http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/dau-tu-cua-nha-nuoc-cho-giao-duc-dao-tao-thuc-trang-va-mot-so-de-xuat-130918.html

[8] https://cuoituan.tuoitre.vn/tin/20200717/bai-toan-tai-chinh-giao-duc-dai-hoc-viet-nam-trong-ca-vao-hoc-phi/1561728.html

[9] https://www.oecd-ilibrary.org/education/education-at-a-glance-2017_eag-2017-en

[10] https://thanhnien.vn/giao-duc/dau-tu-cho-dai-hoc-qua-thap-994335.html

[11] https://baoquocte.vn/ngan-sach-cho-giao-duc-con-nhieu-bat-cap-81691.html

[12] https://nhandan.com.vn/khoa-hoc/nguoi-dan-da-dong-gop-qua-nhieu-cho-giao-duc-423097/

TS. Đặng Văn Định, TS. Dương Xuân Thành - Ban Nghiên cứu và Phân tích chính sách, Hiệp hội các trường Đại học Cao đẳng Việt Nam.
VẤN ĐỀ TỰ CHỦ ĐẠI HỌC VÀ CƠ CHẾ 'CHỦ QUẢN' VỚI CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC (2)
ĐẶNG VĂN ĐỊNH, DƯƠNG XUÂN THÀNH/ GDVN 28-11-2020

Trong bài 1- Vài vấn đề về của giáo dục đại học Việt Nam, tác giả đã đề cập đến vấn đề về Nguồn nhân lực và cơ chế tài chính đầu tư cho giáo dục đại học Việt Nam.

Ở bài này, tác giả tiếp tục đề cập đến Vấn đề tự chủ đại học và cơ chế "chủ quản" với các cơ sở giáo dục đại học.

Ảnh minh họa: Trường Đại học Tôn Đức Thắng

Trong 9 chỉ số nhóm A mà OECD đưa ra, chỉ số A6 đặt vấn đề “Lợi ích thu được từ giáo dục là gì”, chỉ số A7 nói về “Các khuyến khích đầu tư vào giáo dục”.

Các chỉ tiêu trong mục A6 bao gồm:

1. Thu nhập tương đối của người lớn, theo trình độ học vấn ;

2. Thu nhập tương đối của lao động có trình độ đại học và tỷ trọng của họ trong dân số;

3. Tỷ lệ thu nhập giữa các sinh viên, theo độ tuổi ;

4. Thu nhập của sinh viên tính theo phần trăm thu nhập của những người không phải sinh viên, theo độ tuổi.

Rất tiếc ngay cả OECD khi nghiên cứu về lợi ích thu được từ giáo dục cũng chỉ nói đến lợi ích của người học chứ không phải lợi ích quốc gia hay cộng đồng.

Một khi đã xác định “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển” thì phải tính đến “lãi” thu được sau mỗi chu kỳ đầu tư. Phải cụ thể hóa chiến lược đầu tư thành các tiêu chí, chẳng hạn:

1. Chu kỳ đầu tư (có thể trong vòng 10 - 20 năm);

2. Nguồn vốn đầu tư (bao gồm cả nhân lực và vật lực);

3. Đối tượng đầu tư (bao gồm cơ sở giáo dục và con người);

4. Định lượng lợi nhuận sau mỗi chu kỳ đầu tư;

5. Đánh giá chiến lược đầu tư sau mỗi chu kỳ ngắn (3-5 năm);

6. Luật hóa quy định “Đầu tư cho giáo dục”…

Sẽ là không thừa nếu đặt câu hỏi chủ trương “Tự chủ đại học” hiện nay có mâu thuẫn với định hướng chiến lược “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển”? Đây có thể là điểm nghẽn không phải về chủ trương, chính sách mà là tư duy quản trị trong hệ thống hành pháp.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Nhã - Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội - cho rằng, nếu muốn tính hiệu quả ngân sách đầu tư cho giáo dục thì quan trọng nhất là xem phân bổ ngân sách đã hợp lý chưa. Quốc hội phân bổ ngân sách cho giáo dục theo đầu dân còn các địa phương lại phân bổ ngân sách theo đầu học sinh. Điều này là bất cập, cần phải nghiên cứu”. [17]

Bám lấy “đầu tư” hoặc một số “biến hình” của đầu tư để đảm bảo quyền “chủ quản” đang là một thực tế. Đầu tư ít tốn kém nhất, nhưng lại bảo vệ quyền chủ quản tốt nhất là đầu tư “nhân sự” thông qua quyền bổ nhiệm hoặc công nhận lãnh đạo cơ sở giáo dục đại học.

Câu chuyện Trường Đại học Tôn Đức Thắng là một ví dụ, trong nhiều năm, đại học này hoạt động theo cơ chế tự chủ, không tiếp nhận ngân sách nhà nước, tuy nhiên Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam dựa vào một văn bản của Bộ Nội vụ vẫn quyết định cách chức Hiệu trưởng trưởng này với những lý do được dư luận cho là thiếu thuyết phục.

Phải chăng “tự chủ đại học” ở Việt Nam đang là câu chuyện nửa vời do pháp luật chưa hoàn chính hoặc do không ít “chủ quản” sợ mất quyền lợi?

Nội dung chính của “Tự chủ đại học” của Việt Nam là gì?

Sau khi ban hành Nghị quyết 29 (năm 2013) đến năm 2017 Trung ương ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW về “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập” (Nghị quyết 19). Định hướng quan trọng nhất trong Nghị quyết này là “Đẩy mạnh việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập sang mô hình tự chủ hoàn toàn cả về chi đầu tư, chi thường xuyên, thực hiện quản lý, kế toán theo mô hình doanh nghiệp”.

Nghị quyết 19 được cụ thể hóa trong Luật Giáo dục Đại học sửa đổi (Luật số 34/2018/QH14) ban hành năm 2018, có hiệu lực từ 01/07/2019 và thật đáng tiếc đọc từ đầu đến cuối luật này chỉ tìm thấy đoạn “Cơ sở giáo dục đại học thực hiện chế độ tài chính, kế toán, kiểm toán, thuế, định giá tài sản và công khai tài chính theo quy định của pháp luật” mà không hề tìm thấy cụm từ “Mô hình doanh nghiệp”.

Khoản 7 điều 32 Luật số 34/2018/QH14 ghi: “Chính phủ quy định chi tiết về quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học”. Tìm tiếp trong Nghị định số 99/2019/NĐ-CP “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học” ban hành tháng 12/2019 cũng không thấy cụm từ “Mô hình doanh nghiệp”.

Bảy năm trước trong Nghị quyết 29-NQ/TW, Trung ương đã chỉ rõ: “Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là quan điểm "giáo dục là quốc sách hàng đầu" còn chậm và lúng túng. Việc xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch và chương trình phát triển giáo dục - đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội”.

Vậy tình trạng “chậm và lúng túng” của các cơ quan có trách nhiệm (lập pháp và hành pháp) sẽ kéo dài đến bao giờ?

Trở lại vấn đề “mô hình doanh nghiệp” đề cập trong Nghị quyết 19 là doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân?

Cho đến nay chuyện làm ăn thất bát của hàng loạt doanh nghiệp nhà nước cho thấy mô hình mà chúng ta đã áp dụng (theo kiểu Hàn Quốc) có hàng loạt vấn đề, đặc biệt là nhân sự lãnh đạo các doanh nghiệp này.

Riêng với giáo dục đại học Nghị quyết 19 nêu rõ: “Nhà nước tập trung đầu tư chiều sâu, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực chất lượng cao đối với các trường đại học công lập ở một số lĩnh vực mang tầm cỡ khu vực và quốc tế. Các trường trong Quân đội, Công an chỉ thực hiện nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho lực lượng vũ trang”. Nghị quyết này được cụ thể hóa trong Luật Giáo dục Đại học (sửa đổi) ban hành năm 2018, (Luật số: 34/2018/QH14) có hiệu lực từ 01/07/2019, theo đó có 3 quyền tự chủ được đề cập tại điều 32:

- Quyền tự chủ trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn;

- Quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự;

- Quyền tự chủ trong tài chính và tài sản.

Tuy nhiên theo ông Phạm Tất Thắng - Phó chủ nhiệm Ủy ban, Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội - thì “Ở nước ta hiện nay, tự chủ đại học về cơ bản vẫn là tự chủ học thuật, chuyên môn. Với vấn đề về tài chính tài sản, tổ chức nhân sự.,... vẫn còn nhiều vướng mắc”.

Không khó nhận thấy biểu hiện cụ thể của những “vướng mắc” mà ông Phạm Tất Thắng đề cập.

Một đội bóng địa phương trả lương cho huấn luyện viên cỡ 600, 700 triệu đồng một tháng là bình thường nhưng lương Hiệu trưởng một đại học tự chủ hoàn toàn kinh phí khoảng 400 triệu đồng/tháng lập tức nổi lên những tiếng ì xèo không chỉ trên truyền thông mà ngay trong một số cơ quan quản lý nhà nước.

Để các cơ sở giáo dục đại học “tự chủ” đúng nghĩa thì phải xây dựng cơ sở pháp lý hoàn chỉnh. Vậy Việt Nam đã có “cơ sở pháp lý hoàn chỉnh” cho giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng?

Thứ nhất, cả ba đạo luật liên quan đến giáo dục đại học (Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Giáo dục đại học), những văn bản dưới luật (Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng hay Thông tư của bộ) hầu như không đề cập đến hoạt động của cơ sở giáo dục đại học theo “Mô hình doanh nghiệp” theo tinh thần Nghị quyết 19 cho dù nghị quyết này ra đời đã được ba năm.

Thứ hai, hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học phải tham chiếu quá nhiều đạo luật. Ngoài ba luật chính về giáo dục nêu trên, còn phải tham chiếu Luật Lao động, Luật Viên chức, Luật Cán bộ, công chức; Luật Ngân sách, Luật Đấu thầu, Luật Xử lý vi phạm hành chính,...

Chỉ một câu hỏi “Lãnh đạo đại học công lập là công chức hay viên chức?” cũng đã gây nhiều tranh luận cho đến nay vẫn chưa ngã ngũ. [18]

Thứ ba, hoạt động trong lĩnh vực Giáo dục nếu theo “Mô hình doanh nghiệp” thì có phải là “kinh doanh giáo dục”?

Đã là doanh nghiệp thì kinh doanh phải thu được lợi nhuận, trừ trường hợp nhà đầu tư (nhà nước hoặc tư nhân) tự nguyện chấp nhận mô hình “phi lợi nhuận”.

Ngoài giáo dục, các doanh nghiệp hiện đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam có đơn vị nào hoạt động “phi lợi nhuận”?

Thứ tư, nếu chấp nhận tồn tại hoạt động “kinh doanh giáo dục” thì có thể áp dụng cơ chế “Trọng tài” như “trọng tài thương mại” trong các vụ tranh chấp như vụ xảy ra tại Đại học Tôn Đức Thắng?

Thứ năm, việc minh bạch các hoạt động chỉ đạo, điều hành trong lĩnh vực Giáo dục và Đào tạo.

Báo Thanhnien.vn trích dẫn lời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam:

“Phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; không mị dân... Không phải không có tình trạng mị dân đâu. Nói một chiều cũng không được”. [19]

Xin được góp phần thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước.

Tài liệu tham khảo:

[13] dantri.com.vn/giao-duc-huong-nghiep/giao-duc-dai-hoc-viet-nam-10-nam-toi-chi-nen-de-toi-da-150-dai-hoc

[14] http://thcskkn2.edu.vn/tin-tuc/thong-ke-/thong-ke-toan-nganh-giao-duc-tu-nam-hoc-1999-2000-den-nam-hoc-2010-2011-302.html

[15] http://thcskkn2.edu.vn/tin-tuc/thong-ke-/so-lieu-thong-ke-gd&dt-nam-2012-305.html

[16] https://moet.gov.vn/ttbt/Pages/lich-su-truyen-thong-bo-giao-duc.aspx?ItemID=3932

[17] https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/20-ngan-sach-chi-cho-nganh-giao-duc-da-di-dau-394945.html

[18] https://thanhnien.vn/giao-duc/can-cu-ky-luat-ong-le-vinh-danh-la-luat-can-bo-cong-chuc-hay-vien-chuc-1303072.html

[19] https://thanhnien.vn/thoi-su/tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-doan-ket-lam-nen-suc-manh-vo-dich-cua-dan-toc-1306252.html

[20] http://quochoi.vn/hoatdongdbqh/pages/tin-hoat-dong-dai-bieu.aspx?ItemID=47293

[21]https://vov.vn/xa-hoi/giao-duc/ngan-sach-danh-cho-giao-duc-duoc-su-dung-ra-sao-831947.vov

TS. Đặng Văn Định, TS. Dương Xuân Thành - Ban Nghiên cứu và Phân tích chính sách Hiệp hội các trường Đại học Cao đẳng Việt Nam.
TIN VÀ BÀI LIÊN QUAN:

TIN LIÊN QUAN

Ngày 27/11, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và một số cơ sở giáo dục đại học tổ chức hội thảo giáo dục Việt Nam 2020 “Tự chủ trong giáo dục đại học – từ chính sách đến thực tiễn”.

Đến dự hội thảo có Phó chủ tịch thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban Tuyên giáo trung ương cùng đại diện nhiều trường đại học.

Vấn đề tự chủ đại học đã được đặt ra từ năm 1998 tuy nhiên khi triển khai thì còn nhiều vấn đề vướng mắc, khó khăn chính vì vậy Ủy ban tổ chức hội thảo này để chuyên gia, đại biểu cùng nhau thảo luận về cơ chế tự chủ và tài chính đại học trong giai đoạn hiện nay.

Phó chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng rất hoan nghênh và trân trọng sự hiện diện của đồng chí Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam và các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các vị Đại biểu Quốc hội, các vị đại diện các Đoàn Ngoại giao, các tổ chức quốc tế, các vị chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà giáo, lãnh đạo các cơ sở giáo dục đại học, các nhà quản lý giáo dục đã tham dự Hội thảo quan trọng này.

Phó chủ tịch thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng phát biểu 


chỉ đạo hội thảo (ảnh: Phạm Minh)

Phó chủ tịch Quốc hội Cũng hoan nghênh Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh niên Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội đã chủ động, năng động, sáng tạo trong các cuộc Hội thảo như: Hội thảo về chủ trương giáo dục phổ thông; về giáo dục Đại học - Chuẩn hóa và hội nhập quốc tế; về đổi mới giáo dục nghề nghiệp đã thu hút sự tham gia của đông đảo các nhà khoa học, nhà quản lý, chuyên gia trong nước, ngoài nước cùng bàn về những vấn đề cốt lõi trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và đã trở thành diễn đàn thường niên.

Cho nên theo Phó chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng, các cuộc hội thảo như thế này do Ủy ban tổ chức là hoạt động quan trọng gắn Quốc hội với cử tri, gắn việc hoạch định chính sách của Nhà nước với tiếng nói của các chủ thể liên quan một cách trực tiếp. Đây cũng là cách làm mới, hiệu quả, rất cần phát huy.

Phát biểu tại hội thảo, Phó chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng cho rằng, giáo dục và đào tạo là lĩnh vực có vai trò quan trọng đối với quốc gia, dân tộc ở mọi thời đại, đều được xem là giải pháp quan trọng hàng đầu để phát triển đất nước.

Với Việt Nam, Đảng, Nhà nước đã khẳng định chủ trương giáo dục là quốc sách hàng đầu nên việc đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay đang là mối quan tâm của các cấp, các ngành, các nhà khoa học và toàn xã hội, được mọi người dân, mọi gia đình cùng quan tâm.

Mỗi cấp học và trình độ đào tạo đều có vị trí, vai trò, ý nghĩa quan trọng, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu giáo dục, tính chất và nguyên lý giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Giáo dục đại học với chức năng là đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí bồi dưỡng nhân tài, nghiên cứu khoa học công nghệ, đào tạo ra tri thức, sản phẩm mới để phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm Quốc phòng - An ninh và hội nhập quốc tế.

Đồng thời đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp để có năng lực nghiên cứu và phát triển ứng dụng khoa học và công nghệ tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khỏe tốt, có khả năng sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp, thích nghi với môi trường làm việc và có ý thức phục vụ nhân dân.

Các đại biểu tham dự hội thảo (ảnh: Phạm Minh)

"Trên 30 năm đổi mới, giáo dục đại học Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mạng lưới các trường phát triển nhanh và đa dạng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục đại học từng bước hoàn thiện là hành lang pháp lý cho giáo dục đại học phát triển phù hợp với chủ trương, định hướng đổi mới của Đảng.

Đặc biệt có nhiều chính sách mới đã được hoạch định và thực thi như việc đẩy mạnh tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên trong thực thi còn những khó khăn, còn rào cản, còn khoảng cách, là một nội dung trong những thách thức, đòi hỏi phải đổi mới của giáo dục đại học Việt Nam", Phó chủ tịch Quốc hội cho biết.

Chính vì vậy, theo Phó chủ tịch Quốc hội: “Hội thảo là diễn đàn để các chuyên gia, các nhà khoa học, cán bộ quản lý giáo dục và các nhà hoạch định chính sách cùng trao đổi, thảo luận về thực trạng triển khai; trên cơ sở đó, đề xuất những ý tưởng, những giải pháp nhằm nâng cao nhận thức, hướng thực hiện và kinh nghiệm tháo gỡ vướng mắc về cơ chế chính sách nhằm nâng cao hiệu quả tự chủ giáo dục đại học, phát huy sáng tạo của các cơ sở đại học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho công cuộc phát triển đất nước”.

Đại biểu tham dự hội thảo (ảnh: Thùy Linh)

Theo đó, Phó chủ tịch Quốc hội cho rằng, phải chăng hội thảo cần dân chủ thảo luận, tập trung vào một số nội dung:

Một là, các cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ phải có trách nhiệm giải trình theo quy định, các cơ quan có trách nhiệm đã tôn trọng quyền đó của các cơ sở đại học hay chưa?

Điều kiện thực hiện quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học, trách nhiệm của hội đồng trường; hội đồng đại học đã phát huy vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng thế nào?

Quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế tài chính, quy chế về quản lý nội bộ, các chính sách bảo đảm chất lượng đáp ứng tiêu chuẩn Nhà nước quy định ra sao?

Hai là, về quyền tự chủ học thuật, trong hoạt động chuyên môn - đây là vấn đề lớn. Các quy định về thực hiện tiêu chuẩn, chất lượng, việc mở ngành, việc tuyển sinh, việc đào tạo gắn hoạt động khoa học công nghệ, việc hợp tác trong nước và quốc tế sao cho phù hợp với quy định của nhà nước và hệ thống pháp luật chuyên ngành quy định những nội dung quan trọng này.

Ba là, về quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự liên quan đến cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, về tiêu chuẩn, danh mục việc làm liên quan đến tuyển dụng, sử dụng hoặc cho thôi việc với giảng viên, các viên chức và người lao động trong các cơ sở giáo dục đại học.

Đây là một trong những vấn đề liên quan đến chế độ chính sách, có bước đi, cách làm phù hợp, vừa trân trọng và có tính kế thừa đội ngũ cán bộ, chuyên gia, đáp ứng yêu cầu đổi mới, giữa kế thừa và phát triển.

Bốn là, đặc biệt rất cần hoàn thiện quy chuẩn về quyền tự chủ trong tài chính và tài sản (kể cả các nguồn thu) quản lý sử dụng tài chính, tài sản, chính sách thu hút các nhà đầu tư phát triển, chính sách học phí, học bổng đối với người học?

Khi chúng ta bàn về tự chủ đại học rất cần quan tâm đến trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học.

Nếu không thực hiện đúng cam kết thì phải xử lý thế nào khi liên quan đến tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, đến mức lương, thưởng, đến các báo cáo tài chính hằng năm và phải nghiêm túc thực hiện kiểm toán đầu tư mua sắm, trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học trước chủ sở hữu, trước cơ quan quản lý có thẩm quyền, đặc biệt, tôi muốn nhấn mạnh vai trò của Bộ Giáo dục và Đào tạo khi phải vừa chịu trách nhiệm quản lý theo quy định của pháp luật, và phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ về những nội dung trong quản lý nhà nước của mình ra sao?

Được biết, kết quả hội thảo sẽ góp phần cung cấp cơ sở, lý luận thực tiễn cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong việc thực hiện chức năng giám sát, và quyết định các chính sách phát triển giáo dục đại học, hoàn thiện hành lang pháp lý cho phát triển giáo dục đại học hiệu quả hơn trong thời gian tới. Một lần nữa tôi trân trọng cảm ơn các đồng chí đã chuẩn bị các nội dung tham gia, với tâm huyết, đóng góp cho sự phát triển nền giáo dục nước nhà.

Thùy Linh

DÙ ĐÃ CÓ LUẬT NHƯNG VẪN CÓ NGƯỜI HỎI: HIỆU TRƯỞNG TO HAY HỘI ĐỒNG TRƯỜNG TO?

THÙY LINH/ GDVN 28-11-2020

Tại Hội thảo Giáo dục 2020 “Tự chủ trong giáo dục đại học - từ chính sách đến thực tiễn” ngày 27/11, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh yêu cầu nhận thức đúng về vai trò, vị trí, quyền hạn của hội đồng trường.

Nhìn lại hành trình tự chủ đại học, Phó Thủ tướng cho rằng: "Trong thời gian vừa qua, đổi mới giáo dục đại học theo hướng tự chủ có thể nói là bước chuyển mà tôi đã cùng với giáo sư Trần Hồng Quân và các chuyên gia ở Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam vẫn nói rằng mang tính lịch sử".

Phó Thủ tướng cảm ơn Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam

Theo Phó Thủ tướng, quá trình tự chủ đại học được bắt đầu từ khi Thủ tướng Chính phủ có chủ trương thành lập hai Đại học quốc gia ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, “hồn cốt” không phải là có trường to mà với tinh thần tự chủ đại học.

Vì vậy, hai trường này thành lập theo nghị định của Chính phủ và có dấu mang hình quốc huy. Sau đó, khái niệm quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của giáo dục đại học thế giới được đưa vào lần đầu ở Luật Giáo dục năm 1998. Năm 2004, Chính phủ đã có chỉ đạo thí điểm tự chủ đại học nhưng còn gặp nhiều vướng mắc, trong đó có vấn đề tài chính.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhắc đến dấu mốc năm 2004, Chính phủ đã quyết định thí điểm tự chủ đại học 4 trường. Lúc đó, nói đến tự chủ đại học chúng ta nghĩ ngay đến tự chủ tiền - Nhà nước không đầu tư. Cho nên vật lộn 10 năm vẫn không ra được kết quả.

Đến năm 2014, lúc đó chúng ta mới bàn nhau có nhận thức rằng, "hồn cốt" của tự chủ đại học không phải là tự chủ tài chính mà là "tự chủ chuyên môn".

Và muốn tự chủ chuyên môn được phải có tự chủ nhất định về tài chính và bộ máy nhân lực. Từ đó, cơ quan chủ trì việc thí điểm tự chủ này chuyển từ Bộ Tài chính và trong Thường trực Chính phủ chuyển từ Phó Thủ tướng phụ trách tài chính sang Bộ Giáo dục và Đào tạo và Phó Thủ tướng phụ trách về giáo dục. Đó là quá trình nhận thức mất 10 năm.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại hội thảo (ảnh: Phạm Minh)

Trước khi có đề án thí điểm, các dự án của Ngân hàng thế giới tài trợ, thời đồng chí Nguyễn Thiện Nhân rất tâm huyết xây dựng các trường đại học xuất sắc, trong đó đầu tiên là trường Đại học Việt Đức, Đại học Việt Pháp, sau này là Đại học Việt Nhật. Trường Việt Đức là do World Bank tài trợ, mục đích không chỉ là lấy 200 triệu USD vay của Ngân hàng thế giới hay Ngân hàng châu Á để xây hai khu đại học mà mục đích là xây dựng mô hình quản trị đại học theo hướng tự chủ.

Chính những mô hình đó cộng với mô hình trong nước, ví dụ trường Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học FPT, Đại học Duy Tân… và sự nỗ lực của một số trường công lập như Đại học Bách khoa, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh thì chúng ta mới hình thành nên Nghị quyết 77/NQ-CP của Chính phủ, ban hành năm 2014 (ngày 24/210/2014) về thực hiện thí điểm tự chủ đại học.

Mặc dù nghị quyết đấy mới được thực hiện nhưng ngay từ đầu chúng ta đã nói, con đường đi này là con đường một chiều - không có quay lại và rất nhanh, chúng ta đã lan tỏa ra trong cộng đồng các trường đại học, toàn xã hội, các cơ quan của Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội và chúng ta đã có một Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2018. Thực ra sửa đổi lớn nhất là để luật hóa tinh thần tự chủ đại học.

"Đến ngày hôm nay, đã là một bước tiến rất rất dài. Từ những ngày đầu tiên, chúng ta không nghĩ được rằng chỉ 5-6 năm chúng ta sẽ có một Luật như thế này.

Lúc bắt đầu thực hiện đổi mới giáo dục theo nghị quyết Trung ương năm 2014 chúng ta có nhiều chỉ tiêu, trong đó có chỉ tiêu về đại học và chỉ mong có 1 trường xếp trong top 1000 của thế giới. Bây giờ, cả luật pháp, nhận thức, thực tiễn và chất lượng giáo dục đại học có một bước tiến rất lớn.

Ngày hôm nay, chúng ta không chỉ có 1 trường mà có nhiều trường được xếp hạng. Theo QS, năm vừa rồi chúng ta có thêm 3 trường được xếp hạng, ngoài các trường truyền thống từ trước đến nay. Đây là một bước tiến rất dài", Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh.

Tại hội thảo Phó Thủ tướng nói: "Trước hết, tôi phải gửi lời cảm ơn đầu tiên với các cơ sở giáo dục đại học, Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam và toàn xã hội, các cơ quan nhà nước chúng ta cùng nhau để giáo dục đại học có một bước tiến rất dài và đúng hướng. Đây là điều vô cùng quan trọng. Dù vậy, chúng ta không thể hài lòng.

Nếu tạm thời phân chia hệ thống giáo dục thành giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp thì giáo dục phổ thông là giỏi nhất vì như Ngân hàng thế giới xếp hạng là đứng đầu khu vực và tiếp cận với các nước OECD.

Giáo dục đại học của chúng ta, từ trước đổi mới là đứng ngoài bảng xếp hạng (ngoài top 100) thì nay đứng khoảng 70. Giáo dục nghề nghiệp trước đây cũng không được xếp hạng thì nay đứng khoảng 90, tùy cách thức xếp hạng. Nghĩa là dù có bước dịch chuyển nhưng chúng ta không thể hài lòng được".

5 điểm cốt lõi của tự chủ đại học

Theo Phó Thủ tướng Đam, đổi mới là một quá trình, bàn rồi đặt ra nhưng khi đúng hướng rồi thì chúng ta tiếp tục. Những phát biểu của các đại biểu đều chung một nhận thức rằng, chúng ta mới thực hiện đổi mới giáo dục đại học được một bước và trước mắt còn cả quá trình dài.

Theo đó, chúng ta thống nhất 5 điểm sau:

Thứ nhất, tự chủ đại học phải đi từ chuyên môn, phương Tây còn gọi là học thuật. Ở đó, phải có một mô hình quản trị tiên tiến để lan ra toàn xã hội, nâng cao tính dân chủ, tính khoa học.

Thứ hai, tự chủ phải gắn với giải trình. Giải trình ở đây là giải trình với toàn xã hội bao gồm học sinh sinh viên, đến cán bộ nhà trường, đến phụ huynh rồi đến toàn xã hội… chứ không phải chỉ giải trình với cơ quan Nhà nước.

Thứ ba, tự chủ không có nghĩa là Nhà nước không đầu tư nữa. Chúng ta không nên nghĩ đơn giản một chiều. Thực tế, các trường thực hiện tự chủ thì Nhà nước vẫn rót thêm tiền để đầu tư vào các trường.

Chính phủ đã, đang chỉ đạo rất mạnh, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tài chính, quyết liệt hơn trong xây dựng cơ chế giao nhiệm vụ, đặt hàng đào tạo bằng ngân sách.

Thứ tư, Chính phủ xác định rất rõ, cái này cũng là xu thế thế giới, tự chủ không có nghĩa là buông lỏng quản lý Nhà nước. Trường đại học muốn xây một cái nhà cũng vẫn phải tuân thủ các quy định của ngành Xây dựng, quy định của ngành Công An về phòng cháy chữa cháy. Vẫn quản lý Nhà nước và bằng pháp luật.

Thứ năm, tự chủ nhưng không được làm giảm cơ hội tiếp cận của người nghèo và đối trượng trong diện chính sách. Chúng ta phải làm tốt hơn nữa. Hiện tại, cơ chế giao nhiệm vụ đặt hàng còn chậm.

Ví dụ, Nhà nước khuyến khích và cấp tiền cho con em đồng bào dân tộc thiểu số đi học đại học, trước thì rót khoản tiền này về cho trường, nay có thể cấp qua học bổng. Hoặc Nhà nước muốn phát triển một ngành nghề cụ thể nào đó thì đặt hàng cho các trường đào tạo.

Phó Thủ tướng chỉ rõ, cái vướng về quản lý nhà nước về chuyên ngành giáo dục thì không còn nhiều nhưng chúng ta có hai cái vướng cơ bản. Cái vướng thứ nhất về mặt quản lý nhà nước, chủ yếu liên quan đến viên chức, ngạch, tiền lương bên Bộ Nội vụ và cái vướng về ngân sách đầu tư, đặt hàng từ bên ngành Tài chính và đầu tư.

Còn cái thứ hai cần chuyển đổi rất mạnh là chủ sở hữu. Trước đây, cơ quan cấp trên là cơ quan chủ quản can thiệp trực tiếp vào quá nhiều thì bây giờ quyền lực đấy phải chuyển dần, bản chất có sự sắp xếp và dịch chuyển quyền lực từ cơ quan chủ quản là chính sang hội đồng trường và cơ quan đại diện cho chủ sở hữu.

Dịch chuyển quyền lực một phần từ cơ quan quản lý Nhà nước, từ Bộ Giáo dục và Đào tạo sang Hội đồng trường và dịch chuyển một phần quyền từ Hiệu trưởng và Ban giám hiệu sang hội đồng trường. Hội đồng trường là cơ chế hoạt động tập thể, bao giờ cũng phải tạo được sự đồng thuận thì mới ngăn chặn được những thứ cực đoan sai phạm do thói quen, nếu không có cơ quan tập thể thì dễ bị sai phạm.

Việt Nam và một số nước có điều kiện tương đương, ngoài 5 điểm chung thì điểm chủ sở hữu này rất đáng lưu tâm. Từ đầu, chúng ta có đại học dân lập rồi bán công rồi sang tư thục rồi trường công lập thì chủ sở hữu này phải lưu ý.

Đã xuất hiện tình trạng một số trường, một công ty, một ông chủ đầu tư vào như một nhóm người đầu tư thì coi trường đó là sở hữu của họ và họ quyết hết. Đó là điều không đúng. Về lâu dài, đó phải là sở hữu của toàn xã hội chứ không phải vì tôi bỏ tiền vào mà tôi quyết nay đóng cái này, mai mở cái kia.

Cũng theo Phó Thủ tướng, để triển khai thiết thực tự chủ đại học thì có hai việc rất quan trọng. Thứ nhất, phải có hội đồng trường theo đúng quy định của pháp luật. Muốn vậy, phải có dịch chuyển quyền lực và đây là hội đồng hoạt động tập thể.

Về mối quan hệ giữa hội đồng trường và đảng ủy, chúng ta cũng đã quy định rất rõ ràng, không thể tách rời điều kiện của đất nước hiện nay. Chủ tịch hội đồng trường sẽ kiêm bí thư đảng ủy để gắn kết hai cơ quan trong việc cho ý kiến về các vấn đề, định hướng lớn trong phát triển của trường đại học; thực hiện việc giám sát.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đặc biệt lưu ý, để triển khai, các trường phải có hội đồng trường theo đúng quy định của pháp luật. Việc dịch chuyển quyền lực này hiện có nhiều nơi chưa làm được do chưa thông trong chính các trường, chủ yếu do nhận thức của đội ngũ lãnh đạo.

"Bản thân một số hiệu trưởng không muốn mất quyền của mình, không muốn chuyển giao bớt quyền của mình sang bên hội đồng trường, vẫn muốn tôi làm hiệu trưởng thì tôi là to nhất trong trường. Luật ra đến bây giờ vẫn có đồng chí hỏi: Hiệu trưởng to hay Hội đồng trường to?", Phó thủ tướng Vũ Đức Đam nêu.

Từ ví dụ về câu chuyện phân quyền quyết định dự án đầu tư, tuyển dụng nhân lực, đề bạt cán bộ giữa hội đồng trường với hiệu trưởng, ban giám hiệu, Phó Thủ tướng cho rằng “luật không cấm, các đồng chí hoàn toàn tự quyết trên cơ sở bàn bạc, thống nhất, quyết định tập thể”.

“Các trường cần phải xem xét kỹ quy định về hội đồng trường với đầy đủ thành phần của giáo viên, sinh viên, công đoàn, chủ sở hữu… Mô hình hội đồng trường hiện nay thể hiện tư duy chúng ta không học tập, sao chép bất kỳ mô hình của nước nào nhưng phù hợp với xu thế thế giới và điều kiện trong nước”, Phó Thủ tướng nói.

Trước sự lúng túng, chậm trễ của nhiều trường trong xây dựng bộ quy chế hoạt động với lý do chờ ban hành quy chế mẫu, Phó Thủ tướng khẳng định “luật không quy định như vậy”. Hiện tại, đã có những trường như Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Bách khoa, Đại học Kinh tế quốc dân… xây dựng bộ quy chế hoạt động và công khai, các trường khác có thể tham khảo. Đây là vấn đề nhận thức của các trường.

Việc xây dựng bộ quy chế hoạt động trong trường đại học một cách đầy đủ, hết sức chi tiết từ nhân sự, tài chính, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật… giống như “một bộ luật của trường” là vô cùng quan trọng.

Quá trình xây dựng, soạn thảo các quy chế phải lấy ý kiến trong toàn bộ sinh viên, giáo viên, cán bộ, người lao động trong nhà trường, thậm chí công khai cho xã hội góp ý. Sau đó, hội đồng trường thông qua để thành một “bộ luật” của nhà trường.

“Bộ luật” này phải rất chi tiết, phù hợp với pháp luật, được công khai để sinh viên, giáo viên, người lao động trong trường, và người dân quan tâm có thể giám sát.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh, Chính phủ luôn trân trọng tất cả các ý kiến góp ý và xác định công cuộc đổi mới giáo dục nói chung, trong đó có giáo dục đại học là một việc rất dài hơi, liên tục. Trong quá trình đó, luôn luôn có sự cọ xát và khi có những ý kiến khác nhau thì chúng ta cùng bày tỏ trên một tinh thần cầu thị.

Chính phủ sẽ chắt lọc và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền để tiếp tục điều chỉnh về hành lang pháp lý, cơ chế chính sách, tổ chức kiểm tra giám sát trong quá trình thực hiện tự chủ đại học.

Những vấn đề liên quan đến sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục đại học cần có sự chuẩn bị rất kỹ cả về nội dung, thời gian và các bước thực hiện, đánh giá tác động, còn đối với những vấn đề dưới luật, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo theo tinh thần khuyến khích, thúc đẩy tự chủ đại học, đẩy nhanh việc điều chỉnh, sửa đổi những bất cập, hạn chế trong các văn bản dưới luật.

Thùy Linh
TỰ CHỦ ĐẠI HỌC: NHIỀU HIỆU TRƯỞNG VẪN MUỐN MÌNH TO NHẤT
THÚY NGA, NGÂN ANH /VNN 28-11-2020

Theo Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, nhiều hiệu trưởng không muốn mất quyền, không muốn chuyển giao bớt quyền sang Hội đồng trường, vẫn muốn hiệu trưởng là to nhất. 

Hội thảo “Tự chủ đại học - Từ chính sách đến thực tiễn” do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội phối hợp với Bộ GD-ĐT và một số cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) tổ chức mới đây (27/11) tại Hà Nội. 

Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng đề nghị các đại biểu cần thảo luận làm rõ các vấn đề về: quyền tự chủ học thuật, trong hoạt động chuyên môn; tự chủ trong tổ chức và nhân sự; tự chủ trong tài chính và tài sản... Bên cạnh đó là trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDĐH, nếu không thực hiện đúng cam kết thì phải xử lý thế nào khi liên quan đến tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, đến mức lương, thưởng, đến các báo cáo tài chính hằng năm... 

Tự chủ đại học: Nhiều hiệu trưởng vẫn muốn mình là to nhất
Bà Tòng Thị Phóng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội

Hiệu trưởng chưa sẵn sàng, nhà trường khó bứt phá

Với bài tham luận có tiêu đề "Mối quan hệ giữa cơ quan chủ quản và trường đại học", GS Trần Đức Viên - Học viện Nông nghiệp Việt Nam - thu hút sự chú ý khi đưa ra nhận định về nguyên nhân khiến một số hiệu trưởng cơ sở giáo dục đại học dù được tự chủ nhưng chưa có sự bứt phá. Mà trước hết, là do các hiệu trưởng chưa thực sự sẵn sàng.

Theo GS Viên, mấu chốt của tự chủ đại học là mô hình quản lý mới với sự xuất hiện của hội đồng trường. Đây là một tổ chức quản trị, đại diện quyền sở hữu của nhà trường, của các đối tác ngoài xã hội, thực tế sẽ tạo sự “dịch chuyển quyền lực” nhưng chỉ khi có quyết tâm chính trị mạnh mẽ của lãnh đạo cấp cao mới mong thực hiện được. Nếu không, đa phần các trường vẫn chạy theo lối mòn quản lý cũ và khai thác những lợi thế đã tích lũy được từ trước, chứ không phải từ tự chủ đại học.

“Hầu hết hiệu trưởng các trường chưa thực sự sẵn sàng đón nhận thiết chế hội đồng trường, nên hội đồng trường không thể mạnh, và khi hội đồng trường chưa đủ mạnh thì nhà trường không thể thoát ra khỏi cơ chế chủ quản” – GS Viên nhận xét.

Bên cạnh đó, GS Viên cho rằng về mặt tâm lý, hiệu trưởng không muốn chia sẻ quyền lực với hội đồng trường, không muốn tự dưng lại có một tổ chức đứng trên đầu mình.

“Về mặt quyền lực, nếu hiệu trưởng kiêm luôn bí thư cấp ủy thì “chẳng còn gì để bàn”, còn nếu hiệu trưởng không kiêm bí thư thì cũng chẳng sao, mọi việc vẫn như thế cả. Bản thân đa số các hiệu trưởng đều là những người tốt, học cao biết rộng, nhưng từ trong tiềm thức, và như một thói quen, khi ngồi vào vị trí hiệu trưởng là tự khắc họ điều hành và quản lý trường đại học như những cách mà các vị tiền nhiệm đã làm, như hiệu trưởng các trường đại học khác đang làm, có cải tiến, thêm bớt chút ít, nên về mặt bản chất, gần như không có khác biệt giữa trường tự chủ và chưa tự chủ, giữa có Hội đồng trường hay chưa có Hội đồng trường” – GS Viên phân tích.

“Không nên và không thể trách cứ họ, vì không có bất cứ một văn bản nào hướng dẫn, đã là hiệu trưởng một trường tự chủ thì giống và khác gì và khác như thế nào”.

Còn về mặt pháp lý, trong quản lý và điều hành nhà trường, hiệu trưởng không thấy có bất cứ sự ràng buộc thực tế nào với hội đồng trường, có hội đồng trường hay không thì bản chất công việc vẫn thế, chỉ có “phát sinh” thêm một tổ chức mà họ phải báo cáo theo luật định, dù muốn dù không.

“Theo các qui định hiện hành, quyền lực của hiệu trưởng các trường đại học Việt Nam vẫn là ‘to nhất’ so với các nước trên thế giới. Thiết chế Hội đồng trường bị vô hiệu hóa ngay từ khi sinh ra!”.

Một lý do tế nhị khác được GS Viên nhắc tới, khiến các hiệu trưởng chưa muốn tiếp nhận thể chế hội đồng trường, đó là hiện trạng không ít trường đại học tỏ ra miễn cưỡng, đối phó trong việc minh bạch hoá các thông tin, hoạt động giám sát của Thanh tra Nhân dân chỉ là hình thức.

“Khi quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục được nâng cao, nghĩa là phải tăng tính công khai, minh bạch, hiệu trưởng phải thực hiện trách nhiệm giải trình về các hoạt động của nhà trường với hội đồng trường, đó là điều rất ít hiệu trưởng muốn.

Thêm nữa, tâm lý cầu an thụ động cũng là một trở ngại lớn trong quá trình đổi mới giáo dục đại học nói chung, tiến trình tự chủ đại học nói riêng. Giữa một rừng các văn bản qui phạm pháp luật vừa chưa đồng bộ, vừa chưa rõ ràng, sai đúng chỉ trong gang tấc, “qua đúng nay sai ngày mai lại đúng”, nên nhiều hiệu trưởng ngại bứt phá chọn phương án an toàn nhất cho họ: giữ cơ chế bộ chủ quản”.

Quản lý Nhà nước về giáo dục không còn vướng mắc nào lớn

Trước những ý kiến cho rằng tự chủ giáo dục còn vướng về quản lý Nhà nước, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam khẳng định, vấn đề vướng chủ yếu hiện nay là về ngạch viên chức và tiền lương theo Bộ nội vụ và vướng về ngân sách đầu tư và đặt hàng bên tài chính và đầu tư. Còn quản lý Nhà nước chuyên ngành giáo dục dù chưa hết vướng nhưng không còn vướng lớn.

Tự chủ đại học: Nhiều hiệu trưởng vẫn muốn mình là to nhất
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam khẳng định đối với vấn đề tự chủ đại học, quản lý Nhà nước chuyên ngành giáo dục không còn vướng mắc lớn

Để triển khai tự chủ có hai việc quan trọng: Phải có Hội đồng trường theo đúng quy định của pháp luật và tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình.

Cái vướng ở đây, ông Đam cho rằng thứ nhất là Hiệu trưởng không muốn mất quyền, không muốn chuyển giao bớt quyền sang Hội đồng trường, vẫn muốn hiệu trưởng là to nhất.

“Luật ra rồi mà vẫn có người hỏi hiệu trưởng to hay Hội đồng trường to? Một số hiệu trưởng vẫn muốn kiêm Bí thư Đảng ủy...

Nhiều người còn hỏi tôi “Nếu thế, hiệu trưởng không còn quyền gì à?”.

Tôi bảo không phải, ví dụ thế này, trước đây hội đồng trường chưa có hoặc là hình thức thì anh quyết toàn bộ về đầu tư, anh vẫn phải xin ý kiến theo ngạch của Đảng nhưng cơ bản là hiệu trưởng quyết. Bây giờ anh phân ra 10 tỷ trở lên phải có Hội đồng trường thông qua, 10 tỷ trở xuống thì giao cho Hiệu trưởng, giao cho Ban Giám hiệu. Thế nhưng có trường khác thì bảo 10 tỷ to quá, trường tôi 1 tỷ trở lên thì phải hội đồng trường, cái đó là toàn quyền của các đồng chí, bàn tập thể và thống nhất, ra quy chế. 

Về nhân sự, có trường bàn tập thể, nếu thấy rằng nhận thêm người rất quan trọng, phải đưa ra bàn hội đồng thì đưa ra bàn, nhưng có trường nói không, tuyển dụng 50 người trở lên mới phải thông qua hội đồng trường, còn lại dưới thì giao cho Ban Giám hiệu… thì hoàn toàn do cơ chế, quy chế của các đồng chí. Luật và Nghị định hoàn toàn không cấm cái này.

Ngày xưa, Luật chưa cho tự chủ thì mới phải có điều lệ mẫu. Còn giờ Luật quy định rồi, giao quyền cho anh rồi. Cái chỗ này tôi cho rằng nhận thức của chính các trường".

Một vấn đề rất quan trọng nữa là phải có một bộ quy tắc ứng xử một cách đầy đủ, cực kỳ chi tiết về nhân sự, tiền lương... Bộ quy tắc này phải công khai để giáo viên, sinh viên, xã hội giám sát.

Theo Phó Thủ tướng, Chính phủ rất trân trọng tất cả các ý kiến góp ý. Công cuộc đổi mới rất dài hơi, phải liên tục và khi có ý kiến khác nhau, hãy cùng bày tỏ trên tinh thần cầu thị. Chính phủ sẽ chắt lọc và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền để tiếp tục điều chỉnh, trước hết về hành lang pháp lý, sau đó là về cơ chế chính sách và cuối cùng là khâu tổ chức kiểm tra thực hiện về pháp luật. 

Thúy Nga - Ngân Anh

Tự chủ đại học: Đặt hết gánh nặng tài chính lên 'vai' người học?

Có ý kiến cho rằng, nhà nước chỉ nên quy định mức học phí tối thiểu, chưa nên quy định mức tối đa, cho phép các trường tự tính chi phí theo chuẩn đầu ra ngang bằng các đại học tiên tiến thế giới, nhằm thu hút ‘du học nội địa’.

Tại diễn đàn “Tự chủ đại học - Từ chính sách đến thực tiễn”, nhiều ý kiến đã bày tỏ lo ngại về những tác động của việc thực hiện tự chủ đến một số vấn đề, trong đó có học phí.

Việc vừa phải đảm bảo nâng cao chất lượng đào tạo, vừa cân nhắc mức học phí để đảm bảo khả năng tiếp cận đại học của người học là vấn đề khiến nhiều đại biểu băn khoăn.

Tăng học phí kịch trần chỉ đủ bù khoản chỉ tiêu tuyển sinh không đạt

Tại Trường ĐH Tài chính – Marketing, ông Hoàng Đức Long cho biết, việc đa dạng hóa các nguồn thu của trường hiện nay còn rất hạn chế vì chủ yếu nguồn thu đến từ học phí và lệ phí.

Đây là khoản thu chủ yếu nhưng thường phụ thuộc vào kết quả tuyển sinh hàng năm (có năm tuyển đạt chỉ tiêu, có năm không đạt). Do đó, học phí có tăng đạt mức trần quy định là 18,5 triệu đồng đối với chương trình đại trà, nhưng cũng chỉ đủ bù đắp khoản chỉ tiêu tuyển sinh không đạt hoặc giảm so với năm trước.

“Riêng khoản thu từ hoạt động dịch vụ rất hạn chế. Nguồn thu dịch vụ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu, lại phải chia sẻ cho người học như lập các quỹ hỗ trợ sinh viên, vì vậy tổng thu được sử dụng cho hoạt động chuyên môn của trường bị thu hẹp. Khi phải tự chủ cả chi đầu tư, kinh phí hoạt động còn lại sẽ càng khó khăn hơn nữa”, ông Long bày tỏ.

Là một trong những trường đầu tiên thực hiện cơ chế tự chủ, từ một phần cho đến toàn phần, tại Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, việc học phí phải bù đắp chi phí thường xuyên và chi phí khác cũng là điều tất yếu.

PGS.TS Hoàng Văn Cường, Phó Hiệu trưởng nhà trường cho biết, luật hiện nay quy định học phí phải tính đúng, tính đủ (gồm chi phí vận hành, chi phí phục vụ, xây dựng chương trình, học bổng, phương tiện giảng dạy, hao mòn,…).

Nhưng nếu so sánh giữa trường được đầu tư cơ sở vất chất hiện đại với trường được đầu tư đơn giản thì chi phí vận hành cũng sẽ rất khác nhau. Cùng với một trần học phí, trường càng hiện đại, trang bị càng nhiều phương tiện thì vật tư tiêu hao càng lớn, và ngược lại.

“Ngay như trường chúng tôi hiện nay, nhiều giáo viên kêu ca rằng: “Tại sao trường mình được đầu tư như thế, học phí cao như vậy nhưng lương cán bộ giáo viên lại thấp hơn nhiều trường khác?”. Lý do là bởi, trường phải dành một phần chi phí lớn cho việc vận hành”.

Bà Vũ Thị Lan Anh, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Luật Hà Nội, cho rằng, những điều này có thể dẫn tới tác động tiêu cực rõ nét sau khi tự chủ là các trường chỉ chú trọng và quan tâm đến việc phải tăng nguồn thu từ học phí bằng mọi giá.

Sẽ khó đột phá nếu chỉ dựa vào học phí

Ông Huỳnh Quyết Thắng, Hiệu trưởng Trường ĐH Bách khoa Hà Nội cho biết, tự chủ đại học sẽ giúp nâng cao chất lượng đào tạo, nhưng điều đó đồng nghĩa với việc đầu tư cho đào tạo cũng phải tăng lên.

“Chúng ta phải chấp nhận điều đó. Song để cân đối việc nâng học phí thì cũng cần có những chính sách học bổng để hỗ trợ lại cho sinh viên nghèo, học giỏi, tạo ra sự công bằng trong giáo dục”.

Ông Thắng cho rằng, sẽ rất khó đột phá nếu các trường chỉ dựa vào việc tăng học phí và “sống chủ yếu nhờ học phí”. Để nâng cao chất lượng đào tạo, đưa trường đạt đẳng cấp quốc tế, các trường cần phải tìm kiếm các nguồn tài chính khác nhau như hợp tác doanh nghiệp, chuyển giao công nghệ, xin đầu tư từ Chính phủ,…

Tự chủ đại học: Đặt hết gánh nặng tài chính lên 'vai' người học?

Hội thảo thu hút sự quan tâm của nhiều đại diện trường đại học

Ông Mai Thanh Phong, Hiệu trưởng Trường ĐH Bách Khoa (ĐH Quốc gia TP.HCM) cũng cho rằng, hiện nay nguồn thu từ học phí và lệ phí chiếm khoảng 70% tổng nguồn thu của các trường. Tuy nhiên, để nguồn tài chính của trường không “đặt hết lên vai người học”, cần phải có sự đa dạng hoá trong nguồn thu.

Ông Phong đề xuất, cơ quan quản lý có thể giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu cho các trường; các trường được quyền khai thác và được miễn giảm các loại thuế liên quan hoạt động này. Bên cạnh đó, trường đại học cũng được sở hữu và khai thác cơ sở vật chất (đất đai, nhà cửa, trang thiết bị,…) cho liên doanh, liên kết, hợp tác, cho thuê nhằm gia tăng nguồn thu.

Cần tính học phí thế nào?

Ông Trần Diệp Tuấn, Chủ tịch Hội đồng Trường ĐH Y Dược TP HCM cho rằng, việc xây dựng học phí cần phụ thuộc vào 4 yếu tố là chi phí, nhu cầu của người học và xã hội, lạm phát, sự thay đổi theo chính sách của Chính phủ.

Dựa trên câu chuyện của chính trường mình, ông Tuấn lấy dẫn chứng, chi phí đào tạo cao nhất tại Trường ĐH Y Dược TP HCM là ngành Y khoa với một sinh viên mỗi năm là 71,8 triệu đồng, chưa tính phần bao cấp. Trường thu học phí 68 triệu/ năm, tức khoảng 6,8 triệu/ tháng. Như vậy, trường cũng phải bù lỗ rất nhiều và nhà trường phải chịu gánh nặng rất lớn.

“Con số này nếu so với một trường mẫu giáo thông thường ở TP.HCM thì đây không phải là mức cao. Đối với ngành Y, chất lượng vẫn là ưu tiên hàng đầu. Trường cam kết chất lượng đào tạo của trường là tốt nhất trong khối ngành sức khỏe do có sự đầu tư mạnh mẽ về cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên hùng hậu.

Chẳng hạn như về đầu tư trang thiết bị, trường đã xây dựng phòng học thông minh phù hợp cho việc dạy và học theo nhóm nhỏ. Mỗi sinh viên Răng – Hàm - Mặt được thực hành riêng trên các mô hình và trên một ghế nha khoa”.

Tự chủ đại học: Đặt hết gánh nặng tài chính lên 'vai' người học?

Ông Trần Diệp Tuấn, Chủ tịch Hội đồng Trường ĐH Y Dược TP HCM

Ban đầu, khi thông báo mức tăng học phí, trường gặp sự phản ứng mạnh mẽ từ phía người học và dư luận. Nhưng sau đó, Trường ĐH Y Dược TP.HCM vẫn tuyển được hơn 104% so với chỉ tiêu ban đầu. Chỉ 202 sinh viên khó khăn nộp đơn xin học bổng hỗ trợ, trong khi trường có tới 800 suất.

Ông Tuấn cho rằng, đây là minh chứng cho thấy dư luận xã hội chấp nhận được mức học phí này.

“So với các trường tư thục trong nước, mức học phí của trường vẫn thấp hơn. Còn so với các trường đại học thế giới, mức thu học phí của trường lại càng không cao. Chẳng hạn ở Đông Nam Á, học phí đào tạo Y khoa các trường công lập từ 8.800 đến 35.000 USD, tư thục là 50.000-60.000 USD”, ông Tuấn nói.

GS Trần Đức Viên, nguyên Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam cũng cho rằng, muốn xác định được học phí của các trường cần phải dựa trên chi phí đào tạo bình quân của từng nhóm ngành trong một khoảng thời gian nhất định (chẳng hạn như 5 năm).

“Do bị khống chế về mức trần học phí, thường là thấp, thu không đủ chi, nên một số trường đã ‘xé rào’, ban hành nhiều khoản thu ‘tự nguyện’ ngoài quy định, dẫn đến thiếu công khai, minh bạch trong việc sử dụng nguồn thu”.

Do đó, ông cho rằng, nhà nước chỉ nên quy định mức học phí tối thiểu để đảm bảo chất lượng đào tạo đạt chuẩn tối thiểu, chưa nên quy định mức tối đa; cho phép các trường tự tính mức chi phí theo các chuẩn đầu ra cao hơn đến mức ngang bằng với các trường đại học tiên tiến trên thế giới nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, khuyến khích thu hút ‘du học nội địa’.

Thúy Nga


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét