Chủ Nhật, 12 tháng 12, 2021

20211213. BÀN VỀ VĂN HÓA CỦA NGUYỄN THÔNG

 ĐIỂM BÁO MẠNG

VĂN HÓA (PHẦN 1, 2)

NGUYỄN THÔNG/ TD 5-12-2021


Phần 1

Hôm nay 24.11, nhà cai trị xứ này tổ chức hội nghị văn hóa toàn quốc. Sau 73 năm kể từ hội nghị lần thứ 2 (năm 1948) giờ mới chú ý tới văn hóa, kể ra khí lâu, hèn gì văn hóa xuống cấp thảm hại.

Văn hóa là khái niệm rất rộng, chứ không phải chỉ là hát hò, thơ phú, phim ảnh, kịch cọt, nhảy nhót… Nhưng nó rất hẹp bởi chỉ gắn với con người. Chưa ai nói văn hóa của lợn, của cừu bao giờ cả. Người chỉ khác con lợn ở chỗ có văn hóa. Còn người mà không có văn hóa thì chưa bằng con lợn.

Bàn về văn hóa, có ngồi với nhau cả tháng cũng chả nói được một góc, nên để khi khác, tranh cãi sau.

Tôi chỉ nhắc, muốn dân tộc, đất nước, nhân dân, cộng đồng có văn hóa thì mấy ông bà lãnh đạo cầm quyền phải gương mẫu thực hiện trước nhất. Đâu có cái thói miệng nói một đằng, thân làm một nẻo. Đó chỉ là phản văn hóa, thì còn làm gương văn hóa được cho ai.

Khuyên con người đừng tham quyền cố vị nhưng mình bám giữ chức tước bổng lộc quyền hành cho bằng được. Khuyên mọi người tiết kiệm giản dị nhưng mình tinh chơi nhà cao cửa rộng xe sang ăn ngon mặc đẹp. Đứa đệ tử chơi ngông ăn thịt bò dát vàng làm xấu thể diện quốc gia trước thiên hạ mà cũng không dám mắng nó một lời. Khuyên thiên hạ tôn trọng luật pháp nhưng bản thân mình xé luật pháp hơn xé giấy vụn. Khuyên mọi người đừng phá rừng nhưng mình trồng biểu diễn tinh cây cổ thụ, mọi người góp ý mãi vẫn không sửa, cứ bỏ ngoài tai. Khuyên cán bộ đảng viên chú trọng thực chất nhưng mình thì quấn đầy người lời xưng tụng, băng rôn, khẩu hiệu, cờ quạt…

Nói túm lại, đừng nghe các ông bà ấy nói, cứ hé mắt (hé thôi, đừng mở to, có thể sốc, nguy hiểm tới tính mạng) coi các ông bà ấy làm, có văn hóa hay không là biết ngay.

***

Phần 2

Đang lúc “toàn đảng toàn dân phấn khởi thực hiện đường lối văn hóa mới” do tổng bí thư cầm giấy đọc/trình bày tại hội nghị văn hóa toàn quốc thì xảy ra chuyện. Như dội gáo nước lạnh. Ông Trần Ngọc Thêm giáo sư tiến sĩ, thành viên hội đồng lý luận trung ương công khai lập ngôn, bảo rằng đã đến lúc cần bỏ ngay câu khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn”, khiến xã hội nhao nhác, cãi nhau như mổ bò. Lễ hay văn là một chuyện, điều quan trọng ở chỗ nó đụng đến văn hóa.

Nếu một đứa thường dân, loại trẻ trâu, du côn du kề, kẻ lê la đầu đường xó chợ, người đầu tắt mặt tối chỉ chúi đầu vào việc kiếm miếng ăn, v.v.. mà đòi bỏ lễ, bỏ cái dòng chữ khẩu hiệu trứ danh kia, thì dễ thông cảm. Đằng này từ mồm ông có học, ông hội đồng lý luận, nên thiên hạ không thể coi là lời nói gió bay.

Trong cuộc tranh cãi, sư nói sư phải vãi nói vãi hay, ông Thêm có phân trần rằng mọi người chưa hiểu hết ý tôi, chưa nghe hết điều tôi nói đã lao vào ném đá. Vâng, có thể xảy ra trường hợp như vậy. Nhưng thưa giáo sư, cũng chính ông đã nhấn mạnh chữ lễ đã kìm hãm sự phát triển, sáng tạo của con người, của người đi học, “nó xuất phát từ Nho giáo, bảo vệ chế độ phong kiến, mà chế độ này chỉ cần người dân biết lễ nghĩa, biết trên dưới là đủ chứ không cần một xã hội phát triển, dân chủ và sáng tạo” (trả lời phỏng vấn của báo VTCNews ngày 27.11). Ông nhầm to. Trình độ giáo sư mà chỉ hiểu đến thế thì bị ném đá là phải.

Thưa giáo sư Bớt, ông chỉ hiểu lễ trong phạm vi cạn hẹp nên đã nông cạn coi nó là nguyên nhân tạo ra thứ con người chỉ biết phục tùng, cung kính, cúi đầu, ngoan ngoãn, chấp nhận trật tự trên dưới cao thấp định sẵn. Lễ, theo cách hiểu của ông, chả khác gì sợi dây vô hình trói buộc, thít chặt con người vào tín điều cổ hủ. Lễ ấy đặc sệt lề thói phong kiến, không phù hợp nữa, cần phải tháo cởi, dứt bỏ, phá đi, ý ông là vậy.

Cách hiểu của ông Bớt không có gì mới. Đó là cách hiểu chung, phổ biến của người cộng sản. Họ nhân danh cách mạng, gánh vác nhiệm vụ vĩ đại đổi thay, khi họ cướp được quyền lãnh đạo, đã nhắm mắt nhắm mũi phá bỏ, triệt tiêu biết bao nhiêu thứ tốt đẹp giá trị mà họ quy là phong kiến thực dân cổ hủ, lạc hậu, đồi bại. Họ đã tàn phá một nền văn hóa tinh hoa tới tận gốc rễ, để xây dựng một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa như chúng ta đang chứng kiến.

Khi Nho giáo xâm nhập vào nước ta, nội dung ban đầu của lễ có thể như ông Thêm Bớt nói. Nhưng ông và các đồng chí của ông cần hiểu rằng bộ lọc của dân tộc đã gạn đục khơi trong, giữ những phần tốt đẹp, bồi bổ tạo dựng nên những giá trị mới từ món “hàng” nhập.

Lễ cũng như nhiều thứ khác đều qua cuộc thanh lọc ấy, nói theo cách của mấy ông bây giờ là “áp dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam”, đã đổi mới về chất. Trải qua hàng trăm năm, cả nghìn năm, lễ không bị gói gọn vào lễ nữa mà đã thành đạo đức, văn hóa, giá trị không thể thiếu để làm người, phần không thể thiếu của xã hội tốt đẹp. Đó là chân giá trị, sâu rễ bền gốc, nền tảng. Không có nó, nhiều thứ sẽ sụp đổ, kể cả chế độ. Vậy mà đòi bỏ. Chỉ có khùng điên mới làm vậy, đề xuất vậy.

(Còn tiếp)

Nguyễn Thông

VĂN HÓA (PHẦN 3)

NGUYỄN THÔNG/ TD 8-12-2021


Ảnh trên mạng

Không ít người bênh giáo sư Thêm đã về hùa với ông ta, nói rằng bỏ lễ là đúng. Họ cũng như ông Thêm, đánh đồng lễ với nho giáo, với phong kiến, với sự kìm hãm bằng tôn ti trật tự để trói buộc con người. Họ không cần biết người Việt cả nghìn đời nay đã biến lễ vốn từ sự tuân phục, cung kính giáo điều, chấp nhận sự ngoan ngoãn tẻ nhạt, thành đạo đức, văn hóa, lối sống, thái độ sống, hành vi sống tốt đẹp. Có thể nói không ngoa rằng, người Việt hiện nay còn được người nước khác yêu mến, nể trọng, thì phần rất quan trọng là nhờ thứ “lễ-đạo đức-văn hóa” ấy, chứ không phải do giỏi đánh nhau.

Lại kể chuyện hồi tôi qua Thái Lan, mọi người trong đoàn khách Việt sau cuộc chiêm quan đã có những nhận xét khác biệt về đất Thái, nhưng đều nhất trí với nhau rằng người Thái Lan rất đáng yêu dễ mến. Họ luôn đối xử với nhau và với khách nước ngoài bằng sự nhẹ nhàng, mềm mỏng, ân cần, dịu dàng, gần như chẳng thấy cau có, mặt nặng mày nhẹ, lớn tiếng, cục súc, chửi bới bao giờ. Không có bún quát cháo chửi, không hề thấy vênh mặt lườm nguýt du khách… Thái Lan không bị ảnh hưởng nho giáo nặng đậm như Việt Nam nhưng họ có thứ lễ riêng trong mọi mối quan hệ xã hội rất đáng tự hào. Đó chính là thứ tạo nên bản sắc đẹp đẽ cao quý của người Thái, chứ không phải như ai đó là vênh váo về chuyện giỏi đánh nhau, “tự hào đánh thắng ba đế quốc to” này nọ.

Điều rất dễ thấy, ở xứ ta, những tộc họ, gia đình chú trọng đến lễ, nền nếp, lễ giáo để giáo dục con cái luôn được cộng đồng, xã hội kính trọng, bản thân tộc họ, gia đình ấy cũng rất thành đạt, hạnh phúc. Những gia đình vô lễ, có thể vẫn có con cháu giỏi giang thành đạt, giàu có, nhưng nhận được sự kính trọng của xã hội thì dứt khoát không xảy ra. Ở đâu cũng vậy, chứ không phải riêng xứ này. Lễ là thứ mang đặc trưng người nhất trong ngũ thường “nhân nghĩa lễ trí tín”.

Chắc nhiều người đã đọc và ưa thích cuốn truyện nổi tiếng của nhà văn Ý Edmondo De Amicis. Cụ Hoàng Thiếu Sơn dịch là “Những tấm lòng cao cả”, cụ Hà Mai Anh chuyển ngữ thành “Tâm hồn cao thượng”. Để dạy con có tư cách, lớn lên thành người tử tế, trộm nghĩ tủ sách trong mỗi gia đình chỉ cần cuốn này cũng đủ. Sách kể về những tấm lòng, tâm hồn, tình cảm, thái độ, cách đối nhân xử thế của con người, dù là ai chăng nữa, vị bá tước, thầy hiệu trưởng, thầy cô giáo, các phụ huynh, người bán than, những đứa trẻ nghèo… đều toát lên vẻ đẹp của cái mà chúng ta gọi là lễ. Nước Ý từ cổ xưa tới giờ không bị nho giáo thâm nhập, không chịu ảnh hưởng của tư tưởng học thuyết phong kiến phương đông nhưng rõ ràng “lễ” đã thấm sâu vào con người, tạo nên thứ đạo đức, giá trị con người tuyệt vời.

Năm 1977 tôi vào miền Nam nhận việc, bắt đầu cuộc mưu sinh của mình. Điều may mắn là được ném vào đời trong một hoàn cảnh, môi trường, đối tượng tiếp xúc hoàn toàn mới, khác rất nhiều so với cuộc sống, xã hội mà chính mình đã trải qua, chứng kiến. Không mất nhiều thời gian, đám “bên thắng cuộc” chúng tôi nhận ra một sự thật kinh hoàng (tôi dùng chữ kinh hoàng, bởi khi ấy chúng tôi vẫn ngấm ngầm coi mình thuộc phe thắng): người trong này (miền Nam) lễ hơn nhiều so với ngoài mình, dù ở gia đình, nhà trường, nơi làm việc, cộng đồng xã hội. Không thể bảo có được vậy nhờ nho giáo, bởi nho trong Nam nhạt hơn nhiều, trong khi nho xứ Bắc cực đậm. Ngẫm, thứ giá trị tốt đẹp của con người mà chúng tôi giác ngộ được rõ ràng do chế độ, do nền giáo dục nhân bản. Rất tiếc, nền giáo dục ấy đã bị xóa gần sạch và thay thế bằng thứ mà chúng ta đang chứng kiến hôm nay.

Cuộc “Bắc hóa” mà người cộng sản áp đặt ở miền Nam về tư tưởng, lối sống, cách giáo hóa con người đã làm biến mất rất nhiều giá trị tốt đẹp của miền Nam. Đó là sự thực.

(Còn tiếp)

Nguyễn Thông

VĂN HÓA (PHẦN 4)

NGUYỄN THÔNG/ TD 12-12-2021


Chốt lại những ý ở các phần bài trước, rằng không phải cứ cái gì của phong kiến cũng là xấu, là phải bỏ và thay bằng cái mới. Có những giá trị đã được thử thách, chịu cuộc dâu bể và tồn tại mãi tới ngày nay. Lễ chính là thứ giá trị ấy, thành thứ chuẩn mực đạo đức, lối sống, văn hóa, đã là con người thì phải có nó, không thể bỏ được.

Tuy nhiên, gìn giữ ngàn đời nhưng có thể phá trong phút chốc. Thể chế nhân danh cách mạng đã hủy hoại biết bao nhiêu điều tốt đẹp mà cha ông từng gìn giữ bảo vệ, cả về vật chất lẫn tinh thần. Trong đó có lễ. Không ai phá lễ, hủy lễ “giỏi” bằng bộ máy cai trị. Trên ngồi chẳng chính ngôi, nên bề tôi, kẻ dưới mới lăng loàn. Trên thì hống hách, cao ngạo, khinh rẻ người như rơm rác, dưới thì hèn hạ, rạp mình, mất tư cách, không ra thể thống gì. Chả bao giờ như thời nay, nên chính những kẻ vô lễ ấy đã đúc rút ra thứ lễ “tiến lên ta quyết tiến lên/tiến lên ta gọi cấp trên bằng thằng”. Quan lớn quan nhỏ đều mất lễ, bảo sao dân chúng không coi khinh xem thường. Vụ cái vòng hoa viếng nạn nhân tử vong do Covid-19 là biểu hiện “vô lễ” thiếu văn hóa rõ nhất.

Việc giáo sư thành viên Hội đồng lý luận trung ương Trần Ngọc Thêm đòi bớt khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn”, xét về cơ bản là đòi bỏ lễ, nhưng nếu gạn đục khơi trong thì cũng có phần chấp nhận được. Cái “được” nằm ở vấn đề ông Thêm đòi bỏ khẩu hiệu. Ít nhiều ông Thêm đã dám thách thức thứ trật tự an bài, đã bày tỏ thái độ phản kháng đối với sự áp đặt vốn được coi là không thể thay đổi của nhà cai trị.

Mở rộng hơn, không chỉ bỏ bệnh thích khẩu hiệu trong giáo dục-nhà trường, mà cần bỏ ngay, bỏ triệt để bệnh sính khẩu hiệu đã thành mạn tính trong cuộc sống này đã hơn 2/3 thế kỷ. Một căn bệnh hình thức, màu mè, rởm đời, ngứa mắt, không thực chất. Nó chả khác gì thứ u nhọt trên cơ thể đời sống xã hội. Bệnh nặng tới mức có lúc nó còn được tôn vinh thành sách lược, đường lối. Tôi nhớ thời những năm 60 – 70 ở miền Bắc, đám học trò chúng tôi khi học môn lịch sử, trong những bài về thắng lợi này nọ, ở phần nguyên nhân, ngoài những sự lãnh đạo sáng suốt của đảng, đường lối đúng đắn, lòng yêu nước của quân và dân, sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, v.v.., còn có gạch đầu dòng nhấn mạnh việc có khẩu hiệu chính xác, kịp thời. Trên thế gian này, không ai mê cuồng khẩu hiệu bằng người cộng sản.

Tôi có người bạn, bậc đàn anh, anh Nguyễn Thế Khải, người từng đi khắp 5 châu 4 biển, không nơi nào không đặt chân tới. Anh là chủ Công ty Du lịch Hoàn Mỹ nên đi nhiều. Sinh thời, anh (mới mất năm ngoái) có kể với tôi, phàn nàn rằng không có xứ nào mê muội khẩu hiệu rởm đời như xứ ta. Ở đất người ta, căng mắt ra tìm, bói cũng không ra khẩu hiệu. Mỹ, Canada, Úc, hoặc châu Âu đã đành, ngay cả châu Phi cũng cực hiếm khẩu hiệu. Khẩu hiệu đỏ chói lại càng hiếm. Nhưng họ vẫn phát triển, vẫn yên bình. Về tới mình, vừa xuống máy bay là nhức mắt, chịu không nổi. Vừa rởm, màu mè làm xấu cảnh quan, vừa tốn kém không biết bao nhiêu mà kể. Nhiều con đường, khẩu hiệu và cờ quạt đỏ lòe trông như những cục tiết.

Hồi nhỏ tôi đi học, tuy chưa nhiều khẩu hiệu như bây giờ, nhưng trường lớp bị khẩu hiệu chiếm dụng cũng đã ghê. Người ta cứ thay hết câu này tới câu khác, thậm chí cùng lúc bày ra đủ thứ. Hình như họ nghĩ không có khẩu hiệu thì không giáo dục được, không dạy được học trò nên người. Nào là “Học, học nữa, học mãi” (lời dạy này của ông Sáu Lin phòng học nào cũng có, ngự ngay phía trên bảng đen), rồi “Thi đua dạy tốt học tốt”, rồi “Vì lợi ích 10 năm trồng cây…”, rồi “5 điều Bác Hồ dạy”… Chẳng nhẽ người ta nghĩ rằng chỉ cần khẩu hiệu là có thể đảm bảo được chất lượng của nền giáo dục. Bao nhiêu năm cứ thế trôi đi, tới khi giật mình nhận ra sự thực trường không ra trường, lớp chẳng ra lớp, thầy không ra thầy, trò chả ra trò, nát bét cả, mới vội vàng thay đổi, treo “Tiên học lễ, hậu học văn”. Và giờ lại đòi bỏ. Cứ quẩn quanh đèn cù không ra thể thống gì.

Phải triệt để thay đổi nền giáo dục hiện tại, đã từng tồn tại hơn nửa thế kỷ. Nói thẳng, nhà cai trị và những người cầm trịch giáo dục xã hội chủ nghĩa xứ này phải biết ngượng với những gì người Pháp, và cả chính quyền Sài Gòn trước 1975, đã làm được cho nền giáo dục nước nhà.

Cứ lúng túng mãi tự bện dây trói mình, rồi cũng chả đi đến đâu. Lễ hay văn đều cần dạy và học, bởi có thế mới tạo được con người đủ đức đủ tài. Chỉ không cần khẩu hiệu, không cần thứ vỏ rỗng tuếch. Mà không chỉ với khẩu hiệu giáo sư Thêm đề nghị bỏ, cứ bỏ tất, cuộc sống và xã hội không vì thế mà lụn bại.

Giờ đây, với con người, thứ thiếu nhất không phải là lễ hay văn, mà là dũng.

Nguyễn Thông

CHỮ 'LỄ' CỦA ĐẠO NHO: HỌC HAY BỎ ?

HƯƠNG THỦY/ BVN 8-12-2021

Nhìn lại sự thăng trầm của “Tiên học Lễ, hậu học Văn”

- Đạo Nho và câu “Tiên học Lễ”... Khi hình thành đầy đủ, đạo Nho gồm 9 tác phẩm: Bốn sách, năm kinh (trong 5 kinh có kinh Lễ). Cái câu 6 chữ “Tiên học Lễ, hậu học Văn” dễ hiểu, dễ nhớ, đọc lên êm tai - vì viết dưới dạng câu đối - chắc chắn có mặt rất sớm trong đạo Nho, để nhắc nhở lớp-lớp nho sinh thấy sự quan trọng của kinh Lễ - so với những kinh và sách còn lại, được gọi gộp là Văn. Khi đạo Nho được du nhập vào nước ta để chiếm vị trí độc tôn trong giáo dục, câu này cũng có vị trí trang trọng tương ứng.

     

TIÊN HỌC LỄ HẬU HỌC VĂN

Sau hàng ngàn năm. khi đạo Nho hết vai trò lịch sử (năm 1905 ở Trung Quốc và năm 1919 ở Việt Nam) cái câu 6 chữ này cũng đi theo đạo Nho để thành di sản. Nghĩa là, nó phải được đối xử như mọi di sản. Nó phải tồn tại ở dạng giữ nguyên lời văn và nội dung vốn có. Xin nói thêm: Đó là Luật.

Chưa chịu lặn hẳn vào quá khứ. Ở nước ta, bản án dành cho đạo Nho được công bố năm 1943, là thời điểm cụ Trường Chinh viết ra Đề cương Văn hóa theo đường lối cách mạng vô sản. Tuy nhiên, dường như bản án vẫn chưa thể thi hành, vì đạo Nho đã thấm quá sâu vào tâm thức Việt. Bằng chứng là sang thế kỷ 21 mà nhiều người còn tiếc rẻ nó. Còn cái khẩu hiệu sáu chữ gắn với đạo Nho cũng ba chìm bảy nổi: Có lúc nó biến đi mất tăm, ví dụ sau cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc; có lúc nó sống lại, nhảy lên chỗ cao sang nhất trong các trường phổ thông. Rồi nó chỉ còn xuất hiện lác đác vì bị thay thế bằng những khảu hiệu thời thượng khác.

Và rất gần đây (cuối tháng 11 năm 2021 vừa qua), đã có cuộc cãi vã: Bỏ dạy Lễ hay vẫn giữ lại nó. Gọi thế, vì nó hỗn độn, mạnh ai nấy mói, không ra một cuộc thảo luận, không thấy diễn đàn.

Té ra, ý kiến đòi giữ lại “dạy Lễ” vẫn thắng áp đảo nhờ dư luận.

Người đề xuất bỏ dạy Lễ là GS. Trần Ngọc Thêm. Nếu chịu khó đọc lại lập luận của ông (ví dụ, ở đoạn trích này) sẽ thấy ông có thái độ rất đúng đối với di sản. Do vậy, ông nhận định sẽ gây tác hại nếu vẫn “học Lễ” - nếu tôn trọng nội hàm gốc của khải niệm này. Do vậy, muốn thắng ông, người ta chỉ cần thay đổi nội hàm của Lễ. Sẽ nói tiếp ở dưới.

Thực trạng hiện nay. Cái khẩu hiệu “Tiên học Lễ, hậu học Văn” dẫu có treo lên hay hạ xuống, vẫn chẳng ảnh hưởng gì đáng kể tới chất lượng và mục tiêu của giáo dục ở nước ta. Đó là điều đang diễn ra trên thực tế. Có thời, khẩu hiệu này xuất hiện nhan nhản, có thời chỉ còn lác đác, nhưng những lời than phiền về chất lượng và mục tiêu giáo dục vẫn kéo dài, tính bằng những thập niên, vẫn không chấm dứt.

Nguyên nhân? Hoặc là do khẩu hiệu cứ treo cao, nhưng chẳng ai biến nó thành hiện thực. Nếu vậy, lỗi không do nó mà do người sử dụng nó lúng túng (hoặc bế tắc) khi thực hiện khẩu hiệu (học Lễ là học gì?). Hoặc là, chính bản thân khẩu hiệu này chẳng còn ý nghĩa, chẳng phù hợp, chẳng ai có thể lấy lại được vai trò của nó như cái thuở ban đầu, khi nó mới ra đời. Muốn biết do nguyên nhân gì, phải có một cuộc thảo luận khoa học, nhưng chưa hề có. Nếu vậy, nó sẽ còn phải “chết đi, sống lại” nhiều lần nữa.

Xin mời bạn đọc quan sát hình dưới. Cái khẩu hiệu to quá cỡ so với diện tích lớp học và so với tầm mắt các cháu (các cháu đọc gần, rất hại mắt). Còn nội dung khẩu hiệu? Nó chứa tới 2 chữ “học” chính là để buộc các cháu phải tự thấy bản thân phải làm gì. Khốn nỗi, tuổi này, các cháu hiểu sao nổi “học Lễ” là làm gì và kiếm đâu ra thầy dạy Lễ để mà học… Tất cả, chỉ nói lên sự tuyên truyền và sự áp đặt thứ vô tích sự lên đầu lũ trẻ.

Với tình trạng này, việc “thảo luận” học Lễ hay bỏ học Lễ (như vừa qua) là vô ích, vô bổ. Bởi chính người lớn còn cãi nhau bất tận “lễ là gì”.

Thái độ nghiêm túc và lương thiện đối với di sản

- Hậu thế không được phép sửa câu chữ và ý của HỊCH TƯỚNG SĨ do đức Hưng Đạo Vương viết ra. Đây là di sản Lịch Sử và Văn Hóa. Nếu dịch văn bản này sang quốc ngữ cũng phải bám sát lời văn và ý tưởng của tiền bối.

Mọi di sản khác, như Bình Ngô đại cáo, Ngư-Tiều vấn đáp, Tuyên Ngôn Độc Lập… Rồi, những sách và kinh của đạo Nho mà tổ tiên ta đã chọn lựa và sử dụng, kèm theo đó là “tiên học Lễ”… khi đã hết sứ mệnh lịch sử cũng phải được đối xử như vậy.

Nếu tuân thủ như trên, sẽ không cần cãi cọ “Lễ là gì” (như vừa qua). Đơn giản, Lễ là những gì ghi trong kinh Lễ mà nho sinh thuở xưa phải học, phải thi… để biết cách ứng xử với mọi hạng người trong xã hội tùy theo vị thế của mỗi bên.


- Thời xưa, tổ tiên ta “học Lễ” chính là học nội dung kinh Lễ, vì đây là tài liệu độc nhất để học - nay đã thành di sản.

- Thời nay: Cấm bất cứ ai sửa hoặc gán nghĩa mới cho chữ Lễ trong di sản

- Thời nay, kinh Lễ đã được dịch ra tiếng Việt, dành cho nghiên cứu. Nếu bộ Giáo Dục muốn học sinh “học Lễ” chỉ cần coi nó là sách giáo khoa, rồi đào tạo thầy, xếp thời khóa biểu và cho thi hết môn. Di sản hồi sinh, có cuộc sống mới.

Không quên cảm ơn. May mắn, kinh Lễ đã từ rất lâu được biên dịch sang tiếng Việt. Người dịch có quyền chọn dịch phần nào, chương nào phù hợp, nhưng phải bám sát văn và ý. Người dịch cũng có quyền chú giải để làm rõ những chỗ cần thiết, nhưng không được phép đưa lới chú giải của mình vào nội dung của văn bản. Vậy, xin được tỏ lòng khâm phục và biết ơn cụ Nguyễn Tôn Nhân (1948-2011) khi biên dịch và chú giải kinh Lễ sang tiếng Việt, cụ đã làm đúng như vậy.

Duy trì dạy Lễ bằng thay nội hàm và định nghĩa của từ ngữ

Việc này liên quan tới thái độ (nghiêm túc và lương thiện) với di sản. Do vậy, xin bàn dưới dạng những chuyện vui cho bớt căng thẳng.

- Chuyện vui. Trong một cuộc thăm dò ý kiến về có nên giữ thói quen ăn thịt chó (mà nhiều nước đã bỏ). Hai bên đối lập tha hồ nêu lý do dể tự bảo vệ quan điểm riêng. Nhưng có một nhóm rất… sáng tạo – bằng cách đưa ra định nghĩa mới. Vi dụ: Con vật sủa gâu gâu là con gà; hoặc con vật kêu ẳng ẳng là con bò. Họ cứ ăn thịt chó, nhưng bắt mọi người phải hiểu rằng họ đang ăn thịt gà, thịt bò. Liệu mọi người có vui nổi?

- Chuyện vui khác. Có người mượn cái mẫu của câu “tiên học Lễ, hậu học Văn”, để viết ra một câu khác, có cấu trúc na ná. Ví dụ: Nàng tiên học lễ phép, hoa hậu học văn chương. Đáng khen cho sự thông minh và hài hước. Chữ Lễ trong câu này không phải Lễ trong “tiên học Lễ”… Nó cũng không đụng chạm gì tới nội hàm của chữ Lễ trong đạo Nho. Vậy: OK!

- Chuyện vui mới. Có người sáng kiến: Thay định nghĩa chữ Lễ (ví dụ: Lễ chính là Đạo đức). Nếu vậy, tất nhiên phải duy trì dạy Lễ rồi. Chỉ có điều… từ nay, Lễ chỉ là cái vỏ (cái nhãn hiệu), còn cái lõi của nó chính là đạo đức. Nhưng… liệu có ai dám “vui” với sự đánh tráo? Dạy Đạo đức cứ nói thẳng ra là “dạy đạo đức”, cần gì núp bóng một danh ngôn? Thành thật, tôi không dám nói chuyện “đầu dê, thịt chó” ở đây, vì mất vui.

- Chuyện vui mới hơn. Có vị tỏ ra hết sức âu lo cho 100 triệu đồng bào trong xã hội ta vì đạo đức sẽ xuống cấp - nếu bỏ dạy Lễ. Cái bài Đạo đức xã hội sẽ ra sao khi bỏ "Tiên học lễ…" được đăng ở rất nhiều nơi, nói lên mối lo to lớn cỡ nào và dai dẳng xiết bao. Khốn nỗi, đây vẫn chỉ là chuyện coi Lễ là đạo đức (như chuyện trên).

Dẫu vậy, vẫn xin nêu cách giải quyết khiến tác giả đẹp lòng. Chỉ cần ngân sách có đủ tiền để mời tác giả đi thăm vài chục nước Âu Mỹ để thấy nền giáo dục ở đó rất tiên tiến, trẻ em xử sự rất văn hóa mà chẳng bao giờ phải “dạy Lễ”. Té ra, họ dạy cái khác, nhưng chúng ta không thèm biết. Nếu chuyện này thành hiện thực, sẽ lập tức có ngàn vạn người khác cũng đòi đi kỳ được - vì họ đều tự nhận nỗi lo của họ còn lớn gấp bội mức lo của tác giả. Chúng ta chưa có máy đo nỗi lo.

- Còn nhiều chuyện vui khác, chỉ cần hỏi google bằng từ khóa “học lễ” và 2021, ta sẽ có hàng trăm bài và ý kiến, đọc rất vui cho tới khi chán ngấy thì thôi. Ví dụ, một vị mới tý tuổi đầu, nhưng kết luận đanh thép rằng: Dạy Lễ vẫn giá trị trong mọi thời đại (!). Theo vị này, “thời đại” dài mấy năm?

Suốt ngàn năm, Lễ và Văn được tổ tiên hiểu đúng, làm đúng

- Ở trên đã nói, nội dung đạo Nho thể hiện trong 9 tác phẩm cổ điển, gồm bốn Sách, năm Kinh (trong đó có kinh Lễ). “Tứ thư, ngũ kinh” là thành ngữ Hán-Việt rất thông dụng trước đây, mỗi khi nói, viết.

Để có thể vượt qua các kỳ thi nghiêm khắc, mọi nho sinh tất nhiên phải thuộc làu làu và phải hiểu thấu đáo mọi nội dung trong các kinh, sách. Nhưng điều quan trọng nhất, là phải vận dụng nhuần nhuyễn những kiến thức đã học và thể hiện thật tốt điều này trong bài thi.

Như vậy, trong mọi cuộc thi nho học… thí sinh đều phải làm Văn, trong đó lời văn phải thích hợp với đầu bài. Ngôn từ trong bài văn về Lời mẹ dặn con gái khi về nhà chồng (của Lê Quý Đôn?) rất được đời sau khen ngợi. Tất nhiên, nó phải khác với ngôn từ ngoại giao, nếu đề thi là hãy soạn thảo một văn bản thuyết phục tướng giặc đầu hàng. Nếu thi đỗ và đỗ cao, sẽ được làm quan, dân ta gọi rất đúng: Đó là quan… văn. Ví dụ, quan án sát (đứng dầu tư pháp của một tỉnh), hay quan dinh điền sứ phụ trách khai hoang (cụ Nguyễn Công Trứ) đều là quan văn. Tóm lại, tổ tiên ta đã nghĩ, nói và làm… đều trung thành với nội hàm của khái niệm.

Ngày nay, thiếu gì từ ngữ mà phải xuyên tạc nội hàm xa xưa của chữ Văn trong câu “Tiên học Lễ, hậu học Văn”? Có vị cứ sưng sưng coi “Văn” là chuyên môn, nghĩa là “Văn” gồm cả Toán, Hóa, Sinh… và các nghề nghiệp của thời nay.

Còn thay nội hàm của Lễ lại càng không thể chấp nhận. Dưới đây sẽ đưa ví dụ cụ thể dể thấy sự nực cười.

Mục tiêu cao nhất của học “Lễ”

Học Lễ, chính là học tất cả những gì mà các bậc thánh hiền của đạo Nho đã đúc kết trong kinh Lễ, truyền tới hôm nay. Kinh Lễ trong Nho giáo là cuốn sách dày ghi chép mọi phép tắc về giao tiếp, nhằm để nho sinh (và độc giả nói chung) biết cách ứng xử phù hợp với mọi hoàn cảnh, với mọi hạng người trong cộng đồng mà mình có dịp gặp gỡ, sao cho phù hợp với vị thể xã hội của mình và của đối tượng.

Quan hệ giữa người trần với thần linh, vua-tôi với nhau; thầy – trò; cha – con; anh – em, chồng – vợ, hay bạn bè với nhau… đều nhất nhất phải tuân theo những quy định của Lễ.

Mục tiêu cao nhất của Lễ là mọi người phải ứng xử, sao cho “trên ra trên, dưới ra dưới”, để xã hội khỏi loạn – nghe thì hợp lý, nhưng xin nhớ kỹ: Kinh Lễ đòi hỏi người dưới phải tuyệt đối phục tùng bề trên. Cấm ngặt chuyện “bất đồng ý kiến” với bậc trên. Cấm tiệt chuyện cãi lại bậc trên. Khải niệm “phản biện” không tồn tại trong Lễ. Ngay giữa hai anh em ruột, dẫu cách nhau một tuổi, cũng phải có trên, có dưới. Bởi vì, nếu người cha từ trần thì người em phải nhất nhất tuân theo người anh (chứ không phải tuân lời mẹ). Có câu: “quyền huynh thế phụ” (quyền anh thay cha).

Không thiếu những vụ án “nạn nhân chưa hề cãi lại, vẫn chết”. Một vị quan nhất phẩm trong triều nếu can vua (hoàn toàn vì quyền lợi của vua) mà thiếu khéo léo vẫn có thể bị giết. Cụ Nguyễn Văn Thành, công thần khai quốc thời vua Gia Long vẫn bị vị vua đời sau bức tử vì con trai cụ bị nghi “chống đối” (!).

Tóm lại, học Lễ để tạo ra thứ trật tự mà chế độ quân chủ rất cần, để đức vua mãi mãi thay trời trị dân. Chính nhờ Lễ mà chế độ quân chủ kéo dài lê thê ở châu Á, chỉ chấm dứt khi có sự xâm lược từ phương Tây. Cũng chính nhờ chế độ này tồn tại quá dài mà các quốc gia châu Á mất độc lập khi bị phương Tây xâm lược.

Nhắc lại lần nữa vẫn không thừa, vì đó là lý do bài này được viết ra: Học Lễ, chính là học (và hành) tất cả những điều đã ghi trong kinh Lễ.

Đứa trẻ 6 tuổi vừa mới cắp sách tới lớp, tuy chưa nhập tâm được chữ nào của thánh hiền, đã phải biết cách ứng xử với thầy và bạn. Học Lễ trước học Văn là do vậy. Tuy nhiên, “tiên học Lễ, hậu học văn” không có nghĩa là học Lễ xong suôi rồi mới học tới Văn.

Một trang trong Kinh Lễ (bản chữ Hán trước năm 907). Nho sinh học mệt nghỉ.

Một ví dụ cụ thể: Lễ đã quy định thế nào khi cha mẹ từ trần

- Đây là những quy định giúp con cái thể hiện đạo hiếu trước sự quan sát của đám người dự lế tang.

Do vậy, cần nói qua về chữ Hiếu. Cứ tưởng, nếu con cái phụng dưỡng chu đáo các bậc sinh thành, là đủ để được gọi là Hiếu. Nhưng… chưa đâu.

Các bậc thánh hiền của đạo Khổng lý luận rằng: Thân thể ta là tinh huyết của cha mẹ tạo nên. Ta phải có nghĩa vụ truyền nó cho thế hệ sau, để dòng giống nhà ta mãi mãi tồn tại trên cõi đời này. Do vậy, chăm sóc cha mẹ mới chỉ là bề nổi của Hiếu. Còn chuyện không sinh được con (phải là con trai) để tiếp nối mới thật là “đại bất hiếu”. Quan niệm này khiến bà vợ có bổn phận cưới vợ lẽ cho chồng, nếu bản thân bà không sinh được con trai..

- Việc chăm sóc cha mẹ già được thực hiện ở nhà, trong buồng, nên người ngoài khó thấy, Dịp cha (hay mẹ) mất, mới là cơ hội để thiên hạ thấy được chữ Hiếu trong tâm can con cái. Trong đám tang phụ mẫu, những người con phải “diễn” y như kinh Lễ quy định, để khán giả thừa nhận mình quả là có hiếu. Trai, gái, dâu, rể phải diễn đúng vai của mình, không lẫn lộn. Con trai đau buồn tới mức đứng không vững, phải có cái gậy. Cái gậy cũng không được phép “đẹp” vì nó phải thể hiện sự vội vã tạo ra nó. Con gái phải vật vã, lăn lộn, khóc nấc từng hồi sao cho váng tai thiên hạ…

Dưới đây chỉ xin đưa một đoạn ngắn trong Kinh Lễ được dịch ra tiếng Việt, để quý vị nào chủ trương học Lễ có thể tự áp dụng khi gặp dịp hoặc để dặn dò các con khi chính mình lâm sự.

KINH LỄ

Tác giả: Khổng Tử

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI NĂM

VẤN TANG
http://phapmontinhdo.vn/kinh-le-chuong-thu-ba-muoi-nam-van-tang-613574--2

PHIÊN ÂM CHỮ HÁN

1. Thân thủy tử, kê tư đồ dực, cực thượng nhẫm, giao thủ khốc. Trắc đát nhi tâm, thống tật chi ý, thương kiên, càn can, tiêu phế, thủy tương bất nhập khẩu.

Tam nhập bất cửu hỏa, cố lân lý vi chi mi chúc dĩ ẩm thực chi. Phù bi ai tại trung, cố hình biến ư ngoại dã. Thống tật tại tâm, cố khẩu bất cam vị, thân bất an mỹ dã.

Tam nhật nhi liễm, tại sàng viết thi, tại quan viết cữu. Động thi cử cữu, khốc dũng vô số. Trắc đát nhi tâm, thống tật chi ý, bi ai chí muộn chí thịnh, cố đản nhi dũng chi, sở dĩ động thể an tâm hạ khí dã. Phụ nhân bất nghi đản, cố phát hung, kích tâm, tước dũng, ân ân điền điền, như hoại tường nhiên, bi ai thống tận,chi chí dã!

Cố viết: Tị dũng khốc khấp, ai dĩ tống chi, tống hình nhi vạng, nghênh tinh nhi phản dã.

DỊCH NGHĨA

1. Khi người thân mới chết, người con hiếu phải bỏ mũ gỡ trâm, chân đi đất, vạt áo vén lên, hai ay đan chéo khóc lóc thảm thiết.

Lòng phải đau đớn, ý phải khổ sở như bị tổn thương trong gan dạ, không uống nước. Ba ngày không đốt lửa nấu ăn chỉ ăn chút cháo do hàng xóm đem qua.

Ôi! Trong lòng bi ai nên hiện ra ở ngoài. Đau khổ trong lòng nên miệng không biết ngon ngọt, thân thể không yên ổn vậy.

Ngày thứ ba nhập liệm, lúc xác còn nằm trên giường gọi là Thi lúc cho vào áo quan rồi gọi là Cữu. Lúc động tới Thi hoặc tới Cữu phải khóc lóc thật nhiều. Tấm lòng thương sót, ý đau khổ dãy dụa khóc lóc, cho nên có vùng vẫy khóc mới giảm bớt đau đớn trong lòng vậy.

Đàn bà không thể cởi bỏ áo trong lúc khóc lóc dãy dụa, nên chi để lộ áo ngoài, đấm vào ngực dãy dụa thiết tha đau đớn, như bức tường đổ, như vậy mới là bi ai đau khổ cực điểm!

Cho nên nói: Hãy vùng vẫy khóc lóc lấy bi ai mà đưa tiễn người chết. Đưa tiễn là đưa tiễn cái hình thể, còn tinh thần vẫn có thể về như lúc nào cũng ở bên cạnh vậy.

PHIÊN ÂM CHỮ HÁN

2. Kỳ vãng tống dã, vọng vọng nhiên, cấp cấp nhiên, như hữu truy nhi phất cập dã. Kỳ phản khốc dã, hoàng hoàng nhiên, nhược hữu cầu nhi phất đắc dã, Cố kỳ vãng tống dã như mộ, kỳ phản dã như nghi.

Cầu nhi vô sở đắc chi dã, nhập môn nhi phất kiến dã, thượng đường nhi phất kiến dã, nhập thất nhi phất kiến dã, vong hĩ, tang hĩ, bất khả phục kiến dĩ hĩ. Cố khốc khấp tịch dũng, tận ai nhi chỉ hĩ.

Tâm trướng yên thương yên, hốt yên khí yên, tâm huyệt chí bi nhi dĩ hĩ. Tế chi tông miếu, dĩ quỷ hưởng chỉ, nhiễu hạnh phục phản dã.

Thành khuếch nhi quy, bất cảm nhập xử thất, cư ư ỷ lư, ai thân chi tại ngoại dã. Cố khấp khốc vô thời, phục cần tam niên, tư mộ chi tâm, Hiếu Tử chi chí dã, nhân tình chi thực dã.

DỊCH NGHĨA

2. Khi đưa tang nhìn theo quan cữu đi trước, buồn rầu đau đớn như muốn đuổi theo mà không kịp. Khi quay trở về, khóc lóc bang hoàng như tìm cái gì mà không được.

Cho nên khi đưa tang thì như thương tiếc mà khi trở về thì như còn ngờ vực chưa biết người thân đã thực chết hay chưa.

Tìm cầu mà không được, vào cửa mà không thấy người thân, bước lên thềm cũng không trông thấy, vào nhà cũng không trông thấy, mới biết thực đã mất, đã chết rồi vậy, không thể trông thấy được nữa vậy. Cho nên khóc lóc dậm chân hết sức đau đớn,

Lòng hoảng hốt đau thương, bàng hoàng giận dỗi, lòng đã đến chỗ buồn thảm cùng cực vậy. Tế ở miếu họ cho Quỷ Thần hưởng mong cầu may mắn hồn Cha Mẹ quay trở về, tuy ngủ trên gối đệm lại buồn rầu vì người thân đang ở dưới đất.

Nên lúc nào cũng than khóc, phục tang đủ ba năm để hết lòng nhớ thương, đó là lòng chí của người con hiếu và là tình người vậy.

* * *

Tìm hiểu Nho giáo (Khổng giáo)

Nho giáo là cái toàn thể, còn kinh Lễ (và tiên học Lễ) chỉ là bộ phận và chi tiết. Nếu hiểu cái toàn thể, chúng ta càng hiểu rõ cái chi tiết.

Người lớn chỉ cần đọc tài liệu dưới (theo link) là đủ hiểu căn cốt của Nho giáo.

https://hahoangkiem.com/van-hoa-xa-hoi/tim-hieu-ve-nho-giao-khong-giao-1440.html

Tuy vậy, chưa cần đợi lớn, các cháu lớp 10 đã chính thức được dạy về vai trò của Nho giáo trong môn Lịch Sử. Chỉ cần dẫn ra hai câu hỏi trắc nghiệm và đáp án là đủ thấy chế độ ta coi Nho Giáo là phản động cỡ “đại”. Điều mâu thuẫn là những nhà lãnh đạo (cũng cỡ “đại”) của bộ Giáo Dục lại quyết duy trì học “Lễ”.

Lịch Sử lớp 10. Câu hỏi trắc nghiệm môn học

Vì sao Nho giáo sớm được chế độ phong kiến lấy làm hệ tư tưởng của giai cấp thống trị?

https://lazi.vn/edu/exercise/vi-sao-nho-giao-som-duoc-che-do-phong-kien-lay-lam-he-tu-tuong-cua-giai-cap-thong-tri

Vì Nho giáo đã:

A. Góp phần củng cố quyền lực của giai cấp thống trị
B. Được phổ biến rộng rãi trong nhân dân
C. Nội dung dễ tiếp thu
D. Chung sống hoà bình với các tín ngưỡng dân gian

Tại sao Nho giáo trở thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội phong kiến Trung Quốc và một số nước phương Đông khác, trong đó có Việt Nam?

https://luyentap247.com/hoi-dap/tai-sao-nho-giao-lai-tro-thanh-he-tu-tuong-thong-tri-tr/

Vì Nho giáo:

A. Có tác dụng giáo dục con người phải thực hiện bổn phận.

B. Phù hợp với tư tưởng đạo đức truyền thống của người phương Đông.

C. Nội dung tư tưởng có tính tiến bộ, nhân văn.

D. Là công cụ sắc bén phục vụ cho nhà nước phong kiến tập quyền.

Số phận “Tiên học Lễ” ở miền Bắc và miền Nam

Một bậc trưởng thượng sống ở miền Bắc (từng học dưới thời nước ta thuộc Pháp) cho biết: Ở bậc tiểu học, phía trước lớp Trung đẳng (I) có các khẩu hiệu được đưa từ bên Tây sang ta:

- Tự do – Bình đẳng – Bác ái (tiếng Pháp)

- Cần lao – Gia đình – Tổ quốc (tiếng Pháp)

Ở hai bên và phía sau lớp học có các khẩu hiệu của Nho giáo:

- Tiên học Lễ, hậu học Văn

- Ngọc bất trác, bất thành khí (ngọc không mài giũa, không dùng được)

Nhân bất học, bất tri lý (người không học, không biết lý)

- Ấu bất học, lão hà vi (bé không học, già làm gì)

Đó là dưới thời nước ta thuộc Pháp. Như vậy, có một thời khẩu hiệu Nho giáo cùng tồn tại với các khẩu hiệu của cách mạng tư sản Pháp.

Nho giáo lúc này đã như bóng hoàng hôn, nhưng còn lâu mới rút hẳn vào quá khứ. Nguyên nhân? Đó là do thời gian thấm sâu của nó vào tâm hồn Việt (tiểu nông, phong kiến) đã trải ngàn năm, với hàng trăm thế hệ theo học. Cụ Trần Trọng Kim – chủ biên các sách giáo khoa tiểu học thời đó – rất am hiểu đạo Nho.

Còn nền tân học do người Pháp mang sang ta, mới chỉ là ánh bình minh, chưa kịp lan tỏa. Nếu chế độ thực dân kéo dài thêm nữa, chắc chắn Nho học sẽ bị thanh toán.

Sau năm 1945, các khẩu hiệu Nho học vẫn còn lác đác, sẽ mất hẳn ở miền Bắc sau khi ĐCS tiến hành cải cách ruộng đất (diệt phong kiến).

Nhưng ở miền Nam vẫn còn “tiên học Lễ” cho tới 1975. Các vị thụ hưởng nền giáo dục này (nay 60-70 tuổi) vẫn giữ những kỷ niệm đẹp về nó.

Tuy nhiên, khi hai chữ “Khai Phóng” – rất hiện đại và tiến bộ - trở thành nguyên lý giáo dục và ngày càng phát huy ảnh hưởng, nhất định sẽ xuất hiện mâu thuẫn với Tiên học Lễ. Đây là mâu thuẫn không thể dung hòa. Tiên học Lễ vẫn phải lùi vào dĩ vãng, giống như chế độ quân chủ phải nhường vị trí cho chế độ tư bản.

Xin nêu quan điểm của vị trưởng thượng từng học trước 1945 để rộng đường thảo luận.

Dư luận ồn ào

- Có vẻ xảy ra một cách tự phát, khi GS Trần Ngọc Thêm đề nghị “bỏ học Lễ” – một chi tiết rất nhỏ nằm trong một báo cáo khoa học thuộc chủ đề rộng lớn hơn nhiều. Dường như điều này đã chạm vào chỗ nhạy cảm của nền giáo dục nước ta. Phản ứng xảy ra tức thời và đống loạt. Ồn ào, hỗn độn.

- Cũng có lẽ không hẳn như trên. Mở đầu, kích thích dư luận bùng phát khi báo chí rất nhanh nhẹn phỏng vấn hai “cây đa” trong ngành giáo dục: Cụ Trần Xuân Nhĩ, nguyên thứ trưởng và cụ Nguyễn Minh Thuyết, tổng chủ biên Chương Trình bậc phổ thông và Sách Giáo Khoa. Cả hai cụ đều khẳng định: Dạy Lễ chính là dạy đạo đức, sao có thể bỏ? Đáng chú ý là bài phỏng vấn được rất nhiều trang web đăng lại, kể cả các trang ở cấp tỉnh.

- Vị thứ ba, coi như “cây đề” của ngành GD, nói hơi khác khi trả lời phỏng vấn, nhưng vẫn cùng chiều với hai cụ trên. Vị này thuộc ngành Sử, khẳng định rằng Văn và Lễ thời nay có nội dung mới, không còn như thời phong kiến nữa.

Câu hỏi: Vậy ai đã vứt nội dung cũ của chữ Lễ, để thay bằng nội dung mới?

Sau khi được một vị trưởng thượng đọc bài, góp ý và cấp thêm tư liệu, tác giả tự quyết định cố viết bài dưới dạng nghiên cứu và chờ dư luận xẹp xuống mới xin đăng bài ở trang thích hợp. Kính trình. ĐTH

T.H.

Tác giả gửi BVN

LIỆU TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG CÓ DÁM

 'CỞI TRÓI' ?

LÊ QUANG NGỌ&LÊ QUÝ TRỌNG/ TD 8-11-2021


Để có được “những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn, tầm cỡ“ như mong muốn, Liệu TBT Nguyễn Phú Trọng có dám “cởi trói“?

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ở Hà Nội ngày 24/11/2021, TBT Nguyễn Phú Trọng có bài phát biểu chỉ đạo Hội nghị với tiêu đề: Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.

Nghe bài phát biểu của ông, nhiều người lớn tuổi liên tưởng đến bài phát biểu của cố TBT Nguyễn Văn Linh với đại diện văn nghệ sĩ hồi tháng 10/1987. Hai người TBT họ Nguyễn có chung một đề tài phát biểu trước cùng một đối tượng nhưng họ có giọng văn khác nhau, một bài thì chân thành, cởi mở, thân mật, gây ấn tượng mạnh cho người nghe, một bài thì kém phần thân mật và mang nặng tính chỉ thị. Qua bài phát biểu của ông TBT nhiều người đều cùng có chung cảm giác ông Trọng đang có vẻ sốt ruột, bởi thời gian hình như không ủng hộ ông.

Những “mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra“ (1) theo dòng chảy thời gian cứ vô tư đang xích lại gần, và có thể hiện tượng cái bánh vẽ “Việt Nam trở thành nước công nghiệp năm 2020“ (2) sẽ được lặp lại nên ông phải lo xa.

Khoảng cách giữa hai kỳ Hội nghị tròn 75 năm, mà bản thân ông làm TBT đã ba nhiệm kỳ, tổng cộng hơn 10 năm, hẳn ông cũng muốn trong thời gian tới để lại một dấu ấn nào đó trong vai trò người đứng đầu đảng, thế mà những yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa“ trong thời gian qua không còn mấy mặn mà với ông nữa.

Tuy trong bài phát biểu ông tái khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay“, nhưng ông cũng phải thú nhận: “Văn hoá chưa được quan tâm một cách đầy đủ tương xứng với kinh tế và chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước…”

Ông bày tỏ sự không hài lòng bởi văn hóa văn nghệ hiện nay có phần sa sút trên nhiều mặt, những người “Ăn cơm chúa, múa tối ngày“ lại để “Thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn, tầm cỡ, phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có tác dụng tích cực đối với việc xây dựng đất nước, xây dựng con người“.

Cũng trong bài phát biểu, TBT liệt kê đầy đủ những chủ trương đường lối của đảng từ năm 1930 đến nay để chứng minh cho người ta thấy đảng (Ban chấp hành Trung ương) luôn luôn sáng suốt “đã đề cập đến vấn đề phải phát triển văn hóa của dân tộc“ thường xuyên như thế nào, và những gì chưa đạt được là do “văn hóa chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm một cách đầy đủ, tương xứng với kinh tế và chính trị“.

Có một điều lạ là, mặc dù thống kê đầy đủ như vậy nhưng ông đã quên hoặc cố tình quên việc đảng đã cởi trói cho giới văn nghệ sĩ trong giai đoạn Đổi Mới khiến cho nền văn học nước nhà có một thời gian ngắn khởi sắc, điều mà lịch sử văn học đã ghi nhận. Phải chăng đó là một sai lầm của người tiền nhiệm, mà ông không muốn nhắc đến? Hay là ông TBT, một người xuất thân là cử nhân Ngữ văn, một giáo sư chuyên ngành xây dựng đảng không thông hiểu “văn nghệ và chính trị là hai hình thái ý thức nằm chung trong một thượng tầng kiến trúc…”, có mối “quan hệ biện chứng” với nhau, “rất phức tạp” là “mối quan hệ thống nhất nhưng không đồng nhất” (3).

Thử hỏi trong thời gian ông học khoa Văn tại Đại học Tổng hợp Hà Nội ông có được thu nhận những kiến thức (dù là sơ lược) về vụ Nhân Văn Giai Phẩm (1955-1958) trên giảng đường? Và với tư duy phản biện, có khi nào ông đã tự mình tìm hiểu, vì sao những văn nghệ sĩ có tên tuổi, những người đã từng đi theo tiếng gọi của đảng từ khi đảng còn chưa cướp được chính quyền, lại chuyển hóa về quan điểm chính trị như vậy?

Và trong khi ông giữ cương vị Trưởng ban Xây dựng đảng của Tạp chí Cộng sản, chắc hẳn ông biết vì sao TBT Nguyễn Văn Linh của ông khi biết “thành tựu của văn học nghệ thuật của chúng ta còn nghèo“ đã phải gặp gỡ nghe những lời tâm sự thống thiết từ tâm can của giới văn nghệ sĩ và sau đó “cởi trói“ cho họ, và chắc chắn với trách nhiệm của mình ông đã nghiên cứu bài nói chuyện này của ông Nguyễn Văn Linh. Là người làm công tác tư tưởng – văn hóa và khoa giáo của đảng chắc hẳn ông đã biết vì sao cố TBT Nguyễn Văn Linh sau đó lại tự mình trở thành “bóng ma“ của giới văn nghệ sĩ, điều mà trước đó ông ta đã từng phê phán.

Như vậy vấn đề ông Trọng nêu lên trong Hội nghị này không có gì mới, nó đã từng được đề cập và mổ xẻ để “truy cho ra vì nguyên nhân gì làm cho văn học nghệ thuật của chúng ta nghèo đi“ cách đây đúng 34 năm. Nhưng một điều thật trớ trêu, vì lợi ích cầm quyền tuyệt đối của đảng, người cởi trói cho giới văn nghệ sĩ thời đó cũng chính là người trói họ lại chặt hơn, khiến cho họ đâu có thể “đứng vững trong trường phái tả chân xã hội chủ nghĩa mà càng ngày càng không thoát khỏi nỗi“lo sợ nhất là cái thường lơ lửng đâu đó trong không trung…sợ nó hơn sợ sự kiểm duyệt“. Để đến ngày nay, khi ông Trọng tiếp tục“bén duyên“ lên lớp những văn nghệ sĩ thế hệ tiếp nối của họ, thì những người này chỉ còn biết cảm nhận “thấy ‘lệnh bề trên sáng suốt‘, phận bề tôi lại ‘bất tài‘ (4)… và chỉ còn biết thỏ thẻ:“Cần môi trường cởi mở để phản biện“ (5).

Như vậy vấn đề mà người dân và các văn nghệ sĩ muốn biết là, để có được “nhiều tài năng lớn ở các loại hình văn hóa, nghệ thuật, có những tác phẩm tầm cỡ“ (1) như mong muốn, liệu TBT Nguyễn Phú Trọng có đủ dũng cảm “cởi trói“ thật sự cho giới văn nghệ sĩ?

_______

Chú thích:

(1) http://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Van-hoa/1018243/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-hoi-nghi-van-hoa-toan-quoc

(2) https://tuoitre.vn/viet-nam-tro-thanh-nuoc-cong-nghiep-nam-2020-135290.htm

(3) https://sites.google.com/site/vanhocviet2013/tu-lieu-van-hoc-1/hai-ngy-ng-ghi-nh-cuc-gp-g-lch-s-gia-tng-b-th-nguyn-vn-linh-vi-i-din-vn-ngh-s—101987

(4) https://vietnamthoibao.org/vntb-van-hoa-the-nay-thi-nhan-quyen-ra-sao/

(5) https://tuoitre.vn/hoi-nghi-van-hoa-2021-ky-vong-van-hoa-ghi-dau-moc-moi-20211125084840621.htm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét