Thứ Bảy, 4 tháng 12, 2021

20211205. THẢO LUẬN KINH TẾ CUỐI NĂM 2021

 ĐIỂM BÁO MẠNG

KÉO DÀI GIẤC MƠ HIỆN ĐẠI HÓA

LAN ANH /TVN 1-12-2021

LTS: Tháng 11 vừa qua, Ban Kinh tế Trung ương tổ chức chuỗi sự kiện liên quan đến chương trình công nghiệp hóa đất nước. Nhân sự kiện này, Tuần Việt Nam giới thiệu các góc nhìn về những thuận lợi và thách thức trong các mục tiêu công nghiệp hóa đã đặt ra đến 2045.

Những con số biết nói

Theo Ngân hàng Thế giới, trong các DN thuộc ngành công nghiệp chế biến chế tạo ở Việt Nam, 70% sử dụng máy móc do con người điều khiển, 20% được làm thủ công, chỉ 9% sử dụng máy móc được điều khiển bằng máy vi tính và dưới 1% sử dụng công nghệ tiên tiến hơn như robot... Hơn 75% DN vừa và nhỏ, 2/3 DN lớn được khảo sát hoài nghi về lợi ích kinh tế của việc đầu tư vào công nghệ mới.

Theo báo cáo của tổ chức Tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghiệp liên bang (CSIRO), Australia và Bộ Khoa học Công nghệ công bố tháng 11, tỷ lệ DN ở Việt Nam có nghiên cứu và phát triển trong các ngành sản xuất còn rất thấp như: ngành sản xuất thiết bị điện 17%, sản xuất hóa chất 15%, sản xuất chế biến thực phẩm 9%, sản xuất sản phẩm từ cao su và nhựa 7%, sản xuất da và sản phẩm có liên quan 6%, dệt may 5%.

TS Nguyễn Đức Hiển, Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương, trích dẫn những báo cáo trên tại Diễn đàn cấp cao về công nghiệp 4.0 lần thứ ba và nhận xét: “Thực tế trên cho thấy phát triển sản xuất thông minh trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 sẽ phải đối diện với nhiều khó khăn và thách thức”.

Mục tiêu CNH, HĐH đất nước đến 2020 đã được đặt ra từ Đại hội Đảng 8 năm 1996 xuyên suốt đến Đại hội 13 năm 2021.

Mục tiêu xuyên suốt hơn 3 thập kỷ

Qua hơn 25 năm kiên trì thực hiện mục tiêu này, ngành công nghiệp đã đạt được một số thành tựu nhất định. Số liệu của Bộ Công Thương cho biết, công nghiệp chế biến chế tạo ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế, với mức đóng góp trong GDP tăng từ 13% năm 2010 lên 16,7% năm 2020.

Cơ cấu ngành công nghiệp đã chuyển biến tích cực theo hướng CNH, HĐH, giảm dần tỉ trọng các ngành thâm dụng tài nguyên, các ngành công nghệ thấp, tăng dần tỷ trọng các ngành công nghệ trung bình và công nghệ cao. Năng lực cạnh tranh công nghiệp đã được cải thiện đáng kể, Báo cáo cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO) đã đưa Việt Nam từ nhóm “các nền kinh tế đang phát triển” lên nhóm “các nền kinh tế công nghiệp mới nổi”.

Kéo dài giấc mơ hiện đại hóa
Cơ cấu ngành công nghiệp đã chuyển biến tích cực 

Tuy vậy, quá trình CNH, HĐH đất nước còn chậm, năng lực và trình độ công nghệ của nền kinh tế còn thấp, việc tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại “chưa đạt mục tiêu đề ra”.

“Hơn nữa, chúng ta chưa thu hẹp được khoảng cách phát triển và bắt kịp các nước trong khu vực”, ông Hiển nói.

Nhận thức về quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chưa đầy đủ. Phát triển công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH, chủ yếu phát triển theo mục tiêu ngắn hạn, thiếu tính bền vững.

Mô hình tăng trưởng chưa dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; tính tự chủ của nền kinh tế còn thấp; vẫn còn phụ thuộc lớn vào bên ngoài; chưa quan tâm đúng mức đến chuỗi giá trị và cung ứng trong nước... nhằm nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Các đột phá chiến lược chưa có bứt phá. Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực phát triển.

Những nhận xét đó của ông Hiển không mới nhưng toàn là các vấn đề gai góc, mang tính nền tảng cố hữu của nền kinh tế.

Những rào cản cần vượt qua

Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải nhận xét, quá trình CNH, HĐH giai đoạn vừa qua vẫn còn gặp những khó khăn, trở ngại cần tháo gỡ.

Theo ông, nội lực của nền công nghiệp còn yếu, năng lực cạnh tranh của DN công nghiệp trong nước chưa cao, giá trị gia tăng tạo ra trong nước còn thấp, nền công nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào các nguồn lực bên ngoài như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, phụ tùng linh kiện, nguyên liệu nhập khẩu…

Bên cạnh đó, nguồn nhân lực công nghiệp còn yếu kém, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo thấp, thiếu tính liên kết giữa khu vực sản xuất với các cơ sở đào tạo, đội ngũ lãnh đạo các DN công nghiệp còn thiếu kinh nghiệm cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, thiếu nền tảng lý thuyết khoa học về quản trị sản xuất, không có cơ hội tiếp cận với các phương pháp quản lý sản xuất hiệu quả.

Kéo dài giấc mơ hiện đại hóa
Bối cảnh mới đặt ra yêu cầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa với một tư duy mới và cách tiếp cận mới. Ảnh: Lê Anh Dũng

Khảo sát của Bộ Công Thương về mức độ sẵn sàng của các ngành công nghiệp trước Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cho thấy, đa số DN Việt Nam vẫn đang đứng ngoài cuộc cách mạng này, DN công nghiệp tiếp cận ở mức thấp đối với tất cả các trụ cột của một nền sản xuất thông minh.

Ông cho biết, sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn về tiếp cận vốn, bản chất của khu vực sản xuất đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn dài hạn, trong khi nguồn lực xã hội đầu tư vào sản xuất rất hạn chế do thời gian thu hồi vốn chậm, lợi nhuận biên kém hấp dẫn so với đầu tư vào lĩnh vực khác như bất động sản, tài chính.

Bô Công Thương cho rằng, nguyên nhân của những điểm nghẽn trên trước hết là do thiếu khung pháp lý, cơ chế chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ và hấp dẫn để có thể hỗ trợ các DN công nghiệp trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh, đổi mới công nghệ, lớn mạnh để trở thành động lực quan trong cho phát triển đất nước.

Hơn nữa, khu vực DN trong nước thiếu liên kết với khu vực FDI và thị trường thế giới để có thể tận dụng cơ hội tiếp cận chuyển giao công nghệ, tiếp cận với các phương pháp quản trị sản xuất hiện đại, hiệu quả; thiếu tính định hướng về phân bổ nguồn lực xã hội từ Trung ương đến địa phương và khu vực tư nhân khiến các dòng vốn đầu tư không đi vào khu vực sản xuất, không tạo ra được của cải vật chất, mang lại sự thịnh vượng cho đất nước. 

Mục tiêu kéo dài

Nghị quyết Đại hội 13 đã xác định mục tiêu đến năm 2025, tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo trong GDP đạt 25%, và đặt ra nhiệm vụ “Tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, và “Cơ cấu lại công nghiệp, nâng cao trình độ công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi sang công nghệ số, nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế, có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu”.

Thứ trưởng Hải nói, mục tiêu đặt ra cho 2025 khá thách thức, đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc và sự vào cuộc của tất cả các bên liên quan, cũng như những đột phá về hệ thống chính sách hỗ trợ để có thể thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp chế biến chế tạo một cách mạnh mẽ, để trong 5 năm, tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo trong GDP tăng từ 16,7% năm 2020 lên 25% năm 2025.

Trong giai đoạn chiến lược tới, CNH, HĐH được đặt trong bối cảnh mới: Trên thế giới, đó là sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ, xu hướng dịch chuyển các dòng đầu tư và tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã làm thay đổi sâu sắc, toàn diện phương thức sản xuất trên toàn thế giới.

Ở trong nước, xu hướng thay đổi về cơ cấu dân số với quy mô thị trường năng động 100 triệu dân, tầng lớp trung lưu đang ngày càng mở rộng và cơ cấu dân số vàng vẫn duy trì trong vòng 20 năm tới. Trong khi đó, chi phí lao động và đất đai ngày càng kém cạnh tranh so với các nước mới nổi, cạnh tranh ngay tại sân nhà ngày càng gia tăng do nền kinh tế đã hội nhập sâu với toàn cầu, độ mở nền kinh tế lớn.

“Bối cảnh mới này đặt ra yêu cầu Việt Nam phải thực hiện CNH, HĐH với một tư duy mới và cách tiếp cận mới”, ông nói.

Lan Anh


KHI MỌI THỨ ĐỀU PHẢI NHẬP KHẨU


LAN ANH/ TVN 2-11-2021

Nếu không tận dụng được cơ hội, VN cần ít nhất 20 năm nữa mới có thể đạt bình quân đầu người về giá trị gia tăng công nghiệp chế biến, chế tạo theo ngưỡng của các nước công nghiệp hóa mới.

Không tự chủ nguyên vật liệu

Tháng 10 vừa qua lại ghi nhận tình trạng nhập siêu, phản ánh tình trạng mất cân bằng lâu nay trong việc tự chủ nguyên vật liệu sản xuất cho nền kinh tế.

Theo Tổng cục Thống kê, tính chung 10 tháng đầu năm nay, cán cân thương mại hàng hóa nhập siêu 1,45 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 22,73 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, kể cả dầu thô, xuất siêu 21,28 tỷ USD. 

Cũng trong 10 tháng, nhập siêu từ Trung Quốc lên tới 45,2 tỷ USD, tăng hơn 63%; nhập siêu từ Hàn Quốc gần 28 tỷ USD, hơn tăng 29%; nhập siêu từ ASEAN 10 tỷ USD, tăng gần 81%.

Tình trạng nhập siêu là đáng cảnh báo trong bối cảnh cùng kỳ năm trước, các DN xuất siêu gần 20 tỷ USD.

Cơ quan thống kê cho biết, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt hơn 252 tỷ USD, tăng gần 29% so với cùng kỳ năm trước và chiếm gần 94% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa. Nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu đạt hơn 128 tỷ USD, tăng hơn 35 và chiếm gần 48%. Nhóm hàng tiêu dùng ước tính đạt hơn 17 tỷ USD, tăng gần 23% và chiếm 6,4%.

Các số liệu trên một lần nữa phản ánh tình trạng nền sản xuất trong nước không tự chủ được nguyên vật liệu mà phải nhập khẩu để gia công, lắp ráp mà chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan từng cảnh báo: “Chúng ta phải nhập khẩu đến tận cái tăm”. Vì lẽ đó, DN sản xuất của Việt Nam rất khó vươn lên trong chuỗi giá trị.


Khi mọi thứ đều phải nhập khẩu
Mối liên kết giữa doanh nghiệp nội địa và FDI còn lỏng lẻo

Theo Bộ Công thương, nội lực và năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp còn yếu, thể hiện qua số lượng DN công nghiệp: Cả nước chỉ có gần 80.000 DN trong các ngành công nghiệp chế biến chế tạo, khả năng tài chính và công nghệ hạn chế.

DN công nghiệp chưa làm chủ được các công nghệ cốt lõi, chủ yếu tham gia vào các công đoạn có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng thấp, chưa phát triển được thương hiệu. Mối liên kết giữa DN nội địa và FDI lỏng lẻo do trình độ DN trong nước còn hạn chế.

Điều này phản ánh ngành công nghiệp hỗ trợ kém phát triển.

Khó cạnh tranh quốc tế

TS Trần Đình Thiên nhận xét, lãi suất của Việt Nam cao gấp 2-3, thậm chí 4 lần các nước trong khu vực. Cụ thể, lãi suất cho vay bình quân khoảng 8-10%, trong khi các nước khác bình quân khủng hoảng xuống 1% và cao nhất chỉ 4-5%.

Trên nền tảng lãi suất như vậy, DN và sản phẩm của Việt Nam rất khó cạnh tranh.

Một tính toán của Bộ Công thương cho biết thêm, các DN FDI hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ thường vay vốn từ công ty mẹ hoặc từ ngân hàng nước ngoài với lãi suất chỉ từ 1-3%, trong khi các DN trong nước phải vay với lãi suất 8-10%.

Sự chênh lệch lớn này đã làm triệt tiêu sự cạnh tranh của các DN trong nước. Hơn nữa, dù chịu mức lãi suất cao hơn các DN FDI, các DN công nghiệp hỗ trợ cũng không dễ dàng để tiếp cận với các khoản vay dài hạn để mở rộng sản xuất, đầu tư tiếp nhận công nghệ mới.

Trong khi đó, một giám đốc DN công nghiệp cho biết, các DN đòi hỏi vốn lớn để đầu tư máy móc, thiết bị, nhà xưởng, công nghệ, vật liệu và nhân lực kỹ thuật trình độ cao.

“Sản xuất công nghiệp hỗ trợ là tạo ra các bán thành phẩm, phụ thuộc hầu hết vào khách hàng là nhà sản xuất các sản phẩm cuối cùng. Do đó, DN khó có được các chiến lược thị trường rõ ràng như đối với sản xuất hàng hóa thông thường”, ông nói.

Vị giám đốc than phiền, do DN không có đủ tài sản để thế chấp vay vốn; báo cáo tài chính không khả thi do đầu tư ban đầu quá lớn, hồ sơ vay vốn khó thuyết phục cơ quan tín dụng…, các DN trong ngành công nghiệp hỗ trợ rất khó khăn trong tiếp cận các nguồn vốn tín dụng.

Có thể nói, đây là một trong những nguyên nhân, rào cản chính khiến các DN công nghiệp hỗ trợ khó khăn trong việc đầu tư sản xuất, dẫn đến việc cản sản phẩm của DN trong nước khó tham gia được vào chuỗi sản xuất toàn cầu.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, do thiếu máy móc, công nghệ, nhiều nhà máy vẫn sử dụng lao động chân tay là chính. Vấn đề là chất lượng nguồn nhân lực công nghiệp còn thiếu và yếu.

Năng suất lao động trong các ngành công nghiệp chưa được cải thiện đáng kể, đặc biệt là trong nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo. Tốc độ tăng năng suất lao động trung bình của cả nước giai đoạn 2011-2020 ước tăng 5,1% (trong đó giai đoạn 2011-2015 tăng 4,35%; giai đoạn 2016-2020 ước tăng 5,85%).

Tốc độ tăng năng suất lao động trong công nghiệp giai đoạn này chỉ đạt 2,71%, trong đó, giai đoạn 2016-2020 ước chỉ tăng 1,5%, tăng thấp nhất so với các ngành kinh tế và so với cả giai đoạn 2011-2015 (tăng 3,92%). Điều đáng quan ngại là năng suất lao động của các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thấp hơn rất nhiều so với các phân ngành công nghiệp khác cũng như thấp hơn mức năng suất lao động chung của nền kinh tế.

Tháng 8/2020, Chính phủ đã công nhận tình trạng yếu kém của công nghiệp hỗ trợ. Trong nghị quyết 115 về các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ, Chính phủ cho rằng, sản phẩm trong nước còn đơn giản, hàm lượng công nghệ trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị sản phẩm. Khả năng tự cung ứng các sản phẩm còn nhiều bất cập.

Khi mọi thứ đều phải nhập khẩu
Năng suất lao động trong các ngành công nghiệp chưa được cải thiện đáng kể, đặc biệt là trong nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo

Tình trạng nhập siêu nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng rất lớn, tỷ lệ nội địa hóa các ngành công nghiệp còn thấp. Các DN còn nhiều hạn chế về năng lực tổ chức quản lý sản xuất và công nghệ kỹ thuật; thiếu nguồn lực để đổi mới; lĩnh vực sản xuất khá giống nhau, cả về trình độ, quy mô, công nghệ và sản phẩm; chưa đủ năng lực cung cấp linh kiện và phụ tùng đáp ứng các yêu cầu để tham gia sâu vào chuỗi sản xuất toàn cầu.

Đây là điều rất đáng lo ngại theo nghĩa đảm bảo một nền kinh tế tự chủ trong bối cảnh Covid-19 đã tác động sâu sắc đến các chuỗi giá trị và sản xuất trên thế giới.

Tầm nhìn xa, hành động gần

Theo Bộ Công thương, nước ta đang ở cuối giai đoạn đầu của công nghiệp hóa và bước đầu chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa. 

Nếu không có những đổi mới mạnh mẽ về cơ cấu nội bộ ngành theo hướng nâng cao năng suất, tăng tỷ trọng ngành công nghệ cao đi kèm với giá trị gia tăng cao, cùng với yêu cầu đẩy mạnh chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, tận dụng tốt cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nước ta cần ít nhất 20 năm nữa mới có thể đạt mức bình quân đầu người về giá trị gia tăng công nghiệp chế biến, chế tạo theo ngưỡng của các nước công nghiệp hóa mới theo phân loại của UNIDO.

Yêu cầu đổi mới chính sách phát triển công nghiệp quốc gia, mà trọng tâm là công nghiệp chế biến, chế tạo, theo hướng tập trung vào các nguồn lực để thúc đẩy công nghiệp chế biến, chế tạo trong nước phát triển, đủ trình độ tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu, tạo tiền đề CNH, HĐH - do đó là cần thiết hơn bao giờ hết.

Nghị quyết Đại hội 13 của Đảng đã nêu rõ về đường lối CNH, HĐH, xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, trong đó xác định đến năm 2025 “tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%”.

Định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định “phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo là trung tâm; phát triển công nghiệp chế tạo thông minh là bước đột phá”.

Đó là những chủ trương, đường lối phát triển rất tham vọng và có tầm nhìn. Vấn đề là làm sao đưa được vào cuộc sống.

Lan Anh


NGƯỜI VIỆT CẦN VƯƠN LÊN LÀM CHỦ NHÌN


 TỪ BẤT LỢI THÂM HỤT LAO ĐỘNG


LAN ANH / TVN 3-12-2021

Hai ngành thâm dụng lao động nhất ở nước ta là dệt may và da giày, nơi tạo việc làm cho gần 4 triệu lao động, đã trở nên khá tổn thương trước tác động của Covid-19. Đến lúc cần sự thay đổi.

Tác động của Covid-19

Đại dịch gây đứt gãy nhiều chuỗi cung ứng và sản xuất, thể hiện rõ trong 2 ngành thâm dụng lao động là dệt may và da giày.

Theo Tổng cục Hải quan, trong 10 tháng đầu năm nay, trị giá xuất khẩu hàng dệt may đạt 26,1 tỷ USD, tăng 5,5% - tương ứng tăng 1,35 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước. Trong số đó, đáng kể nhất là xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt 12,8 tỷ USD, tăng hơn 10%; sang EU đạt 2,6 tỷ USD, tăng chỉ hơn 1%; sang Nhật Bản đạt 2,6 tỷ USD, giảm 11%.

Với mặt hàng giày dép, xuất khẩu đã đạt trị giá 14,24 tỷ USD, tăng 5,2%, tương đương tăng gần 710 triệu USD so với cùng kỳ năm ngoái. Các thị trường lớn là Hoa Kỳ đạt 5,98 tỷ USD, tăng hơn 18%; EU đạt 3,24 tỷ USD, tăng hơn 7%; Trung Quốc đạt 1,26 tỷ USD, giảm gần 26%... so với cùng kỳ năm trước.


Người Việt cần vươn lên làm chủ nhìn từ bất lợi thâm dụng lao động

Các doanh nghiệp dệt may và da giày hiện mới chỉ tham gia ở công đoạn gia công, chưa tự chủ được nguyên vật liệu. Ảnh: Lê Anh Dũng

Song, trước tác động của Covid-19 và phong tỏa tới 23 tỉnh, kim ngạch xuất khẩu giày dép quý 3 đạt 2,925 tỷ USD, giảm gần 48% so với quý 2; giảm gần 27% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong số các ngành hàng xuất khẩu, giày dép là mặt hàng có kim ngạch sụt giảm mạnh nhất so với quý 2, khi giảm 2,67 tỷ USD.

Những số liệu trên phản ánh, hai ngành thâm dụng lao động nhất đã trở nên khá tổn thương trước tác động của Covid-19 cả ở trong nước, lẫn trên bình diện quốc tế.

Trong những năm qua, dệt may và da giày luôn là những ngành xuất khẩu và tạo việc làm chủ lực, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, hai ngành này vẫn phụ thuộc rất lớn vào nguyên liệu nhập khẩu. Một báo cáo nghiên cứu của Nhóm hợp tác công - tư vì sự phát triển bền vững ngành dệt may và da giày, khoảng 65% các nhà máy may mặc và giày dép của Việt Nam vẫn nhận đơn hàng xuất khẩu theo phương thức Cut-Make-Trim (CMT). Theo đó, nhà máy chỉ gia công sản phẩm chứ không tham gia vào các khâu hạ nguồn có giá trị gia tăng cao hơn như mua nguyên vật liệu, xây dựng mẫu, hay thiết kế.

CMT không đòi hỏi phát triển nhóm kĩ năng phức tạp như tìm kiếm nguyên vật liệu, thiết kế, quản lý chuỗi cung ứng, cũng như không đòi hỏi nguồn lực tài chính quá lớn nhưng biên lợi nhuận của các đơn hàng CMT thấp. Đó là chưa kể các nhà máy thường phải ký hợp đồng thông qua các công ty trung gian. Trong cuộc khủng hoảng Covid-19, họ chịu rất nhiều rủi ro vì các công ty trung gian hủy, hoãn đơn hàng mà không báo trước, khiến nhiều nhà máy lâm vào khó khăn, thậm chí phá sản.

Bộ Công thương nhận xét, các doanh nghiệp (DN) dệt may và da giày hiện mới chỉ tham gia ở công đoạn gia công, chưa tự chủ được nguyên vật liệu cho ngành, đồng thời công đoạn thiết kế thời trang cũng như xây dựng, quản trị thương hiệu rất yếu kém. Điều này khiến giá trị gia tăng trong 2 ngành rất thấp.

Ngành dệt nhuộm kém phát triển khiến dệt may phát triển mất cân đối giữa 3 công đoạn chính trong chuỗi cung ứng là sợi - vải - may mặc. Trong khi sợi và may mặc tăng trưởng mạnh thì dệt nhuộm kém phát triển, không tương xứng với nhu cầu của ngành may mặc. Sợi sản xuất ra không tiêu thụ được ở trong nước mà phải xuất khẩu, trong khi hàng may mặc phụ thuộc phần lớn vào vải nhập khẩu. Điều này gây khó khăn cho các DN trong việc đáp ứng các tiêu chí về quy tắc xuất xứ khi các cam kết tự do hóa thương mại (CPTPP, EVFTA) có hiệu lực.

Mảnh đất hứa từ các FTAs

Trong CPTPP, các DN chỉ được lợi khi sản phẩm bảo đảm “từ sợi trở đi” được sản xuất tại Việt Nam, còn trong EVFTA và FTA Việt Nam - Nhật Bản, các DN được hưởng lợi khi “từ vải trở đi”.


Người Việt cần vươn lên làm chủ nhìn từ bất lợi thâm dụng lao động
Sản xuất hàng may mặc có xu hướng chuyển dịch sang các nước đang phát triển. Ảnh: Lê Anh Dũng

Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, cho biết, muốn hưởng các ưu đãi thuế quan từ FTA đòi hỏi hàng dệt may phải đáp ứng các yêu cầu rất khắt khe về quy tắc xuất xứ theo từng hiệp định.

Gần đây, các cơ quan hữu quan đang xây dựng dự thảo Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may và da giày từ năm 2021-2030, định hướng 2035 với mong muốn thúc đẩy các DN đầu tư vào khâu dệt, nhuộm, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm.

Góp ý cho dự thảo, chuyên gia Trần Hữu Huỳnh, nguyên Giám đốc Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) nhận xét, cách đây khoảng 30 năm, Việt Nam đã có chiến lược cho ngành dệt may. “Tôi thấy nhiều ý tưởng trong dự thảo Chiến lược lần này gần giống trước đây. Trong đó, trọng tâm của ngành là làm thế nào để nội địa hoá và nâng cao hàm lượng Việt Nam. Tôi băn khoăn ở chỗ 30 năm trước đã đặt ra mục tiêu nâng tỷ lệ này lên 50-70%, vậy mà bây giờ trong dự thảo lại chỉ đặt ra đạt khoảng 40-50%”, ông nói.

Trong khi đó, các DN trong ngành dệt nhuộm rất quan tâm tới dự thảo này. Giám đốc một nhà máy dệt nhuộm có vốn FDI nhận định: “Covid-19 khiến chúng tôi quan tâm hơn tới các nguồn sợi ngay tại Việt Nam thay vì nhập khẩu. Điều này giúp chúng tôi giảm chi phí và thời gian vận chuyển. Chúng tôi đã kết nối với một số DN và mong muốn mở rộng sự kết nối này để tận dụng các FTAs thế hệ  mới của Việt Nam”.

Bộ Công thương nhận xét, dệt may và da giày nằm trong các ngành có dư địa thị trường nội địa lớn nhất trong các ngành công nghiệp do lợi thế dân số tương đối lớn, đồng thời mức sống và thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng sẽ khiến nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm trong nước tăng lên.

Bên cạnh đó, hai ngành này có cơ hội rất lớn khi thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng với nhiều hiệp định thương mại tự do với nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới.

Mặt khác, sản xuất hàng may mặc cũng đang có xu hướng chuyển dịch sang các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, qua đó tạo thêm cơ hội và nguồn lực mới cho các DN về cả tiếp cận vốn, thiết bị, công nghệ sản xuất, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, lao động có kỹ năng từ các nước phát triển.

Nhưng nếu chỉ nhập khẩu nguyên vật liệu về sản xuất, hay chỉ thực hiện phương thức CMT, hai ngành này rất khó vươn lên trên chuỗi giá trị toàn cầu.


Lan Anh


CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ TẦM NHÌN VƯỢT 


LÊN NHIỆM KỲ


NGÔ VĂN TUYỂN/ TVN 5-12-2021

Câu hỏi là thế nào là nước công nghiệp (hay nói cách khác đã hoàn thành công nghiệp hoá) và để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá thì ai làm. Nhà nước làm việc gì, doanh nghiệp làm việc gì?

Trong quá khứ, chúng ta đã nghe về các mốc mục tiêu công nghiệp hóa (CNH). Mặc dù có lúc mục tiêu tận 20 năm sau, rồi cái mốc ấy cũng đến, nhưng không đạt được. Cuối cùng, mục tiêu mơ hồ hơn và thời gian kéo dài hơn. Mục tiêu không còn là “nước công nghiệp” mà là “cơ bản là nước công nghiệp”. Mốc thời gian 2020 qua đi thì lại hướng đến 2030 và 2045.

Câu hỏi là thế nào là nước công nghiệp (hay nói cách khác đã hoàn thành CNH) và để thực hiện mục tiêu CNH thì ai làm. Nhà nước làm việc gì, doanh nghiệp làm việc gì? Đặc trưng của một nước công nghiệp hoặc cơ bản là nước công nghiệp là gì? Nếu không xác định được đáp án cho các câu hỏi này thì chỉ là mơ hồ giống như xây một ngôi nhà mà không có thiết kế.

Nói như vậy không có nghĩa là các nước phát triển có mục tiêu và bản thiết kế về nền kinh tế CNH từ trước. Thực tế quá trình phát triển công nghiệp của các nước phương Tây diễn ra tuần tự, trong một thời gian dài. Họ không có ai đi trước nên không có việc đi tắt, đón đầu. Chỉ có nước này đi trước, nước kia đi sau, lĩnh vực này nước này tiên phong, lĩnh vực kia nước khác thế mạnh.

Nước Nhật cuối thế kỉ 19 mới đi học phương Tây về kĩ nghệ công nghiệp. Tiếng Nhật khi đấy vừa phải đặt ra các thuật ngữ đủ loại về kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học, kĩ thuật vừa cũng sử dụng luôn cách phiên âm để đáp ứng việc học và tiếp thu văn minh phương Tây. Chỉ trong vòng nửa đầu của thế kỉ 20, đến năm 1940 họ đã là một thế lực thống trị châu Á khi làm được cả máy bay, xe tăng, tàu thuỷ, vũ khí uy lực.

Giai đoạn 1954-1975, ta cũng phát triển công nghiệp y như Trung Quốc. Chỉ có khác là Trung Quốc được Liên Xô giúp sâu rộng hơn, từ bom nguyên tử đến ô tô. Ta thì làm được các máy công cụ, động cơ và một số máy móc khác. Không chỉ chế tạo máy mà các ngành như luyện kim, hoá chất, dệt may và nhiều ngành khác ta cũng đặt nền móng tự làm lấy. 

Giai đoạn 1975-1986, ta tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ việc tự làm các sản phẩm công nghiệp bằng đường lối ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.

Năm 1978, Trung Quốc thực hiện đổi mới. Bản chất của đổi mới là giải phóng sức sản xuất. Mèo trắng mèo đen cứ bắt chuột là được. Mặc dù có lúc họ sai lầm như kế hoạch đại nhảy vọt 1958-1962 với việc toàn dân sản xuất thép hòng đạt gấp đôi sản lượng thép của Anh Quốc (quốc gia quản lý Hồng Kông) thì vẫn là phản ảnh mong muốn tự lực. Sau năm 1978, họ xây dựng các đặc khu mở ra bên ngoài, còn bên trong họ vẫn tự phát triển.


Công nghiệp hoá và tầm nhìn vượt lên nhiệm kỳ

Cần xác định các mục tiêu đặc trưng để được coi là nước công nghiệp hoá

Trở lại với nước ta, cơ cấu khu vực công nghiệp trong GDP cũng chẳng khác các nước bao nhiêu. Một hàng hoá mà người tiêu dùng mua thì giá trị tăng thêm tính cho GDP công nghiệp hay nông nghiệp lại chiếm tỉ trọng nhỏ trong giá bán cuối cùng. Các chi phí như logistics, bán lẻ, bảo hiểm, chi phí tài chính đi vào giá bán lại được tính cho khu vực dịch vụ.

Như vậy, phải xác định các mục tiêu đặc trưng của Việt Nam để được coi là nước CNH. Có thể kể đến như sau:

Thứ nhất là quy mô GDP. Khi GDP tăng thì công nghiệp cũng tăng theo. Giá trị sản xuất công nghiệp càng lớn thì khả năng đáp ứng các hàng hoá công nghiệp càng sâu rộng. Nếu coi Trung Quốc là nước CNH thì hiện tại giá trị công nghiệp tính theo đầu người của họ là 4.000 USD, còn Việt Nam là 1.000 USD. Nếu tăng trưởng công nghiệp của ta đạt 10% năm, thì đến năm 2035 ta đạt xấp xỉ mức của họ bây giờ. Còn nếu tốc độ 6% thì phải đến 2045 mới đạt.

Thứ hai là tỉ trọng DN trong nước đóng góp lĩnh vực công nghiệp. Hiện tại, các DN FDI đóng góp khoảng 20% trong giá trị GDP. Không có số liệu cụ thể về lĩnh vực hoạt động của FDI đóng góp trong GDP. Giả sử 70% GDP của FDI là công nghiệp thì họ đã đóng góp 14% trong 33,7% GDP công nghiệp 2020. 

Mục tiêu cần đặt ra là các DN trong nước phải chiếm ít nhất 65% (2/3) giá trị công nghiệp. Nếu chỉ chú trọng thu hút FDI thì không biết đến khi nào mới đạt mục tiêu này. Ví dụ, có thể đặt mục tiêu tăng trưởng công nghiệp FDI là 4%, trong nước 8% chẳng hạn.

Thứ ba là khả năng tự sản xuất các ngành công nghiệp cơ bản. Đây là khó khăn lớn nhất trong mục tiêu CNH. Nếu so với Trung Quốc thì xu thế của ta đã gần như đi ngược cách làm của họ. Họ phát triển công nghiệp cơ bản, nền tảng còn ta chạy theo xu hướng gia công.

Một số sản phẩm của ta đi từ ngọn cũng không vấn đề gì, nhưng không thể không có năng lực cơ bản. Ví dụ, các ngành công nghiệp nhẹ như sợi, dệt, da, giày, may mặc, ta giờ cũng chỉ còn gia công là chính. Chưa nói đến các ngành như luyện kim, vật liệu, chế tạo máy móc, điện tử.

Tóm lại, chỉ cần 3 đặc trưng trên của một nước CNH ta cũng sẽ rất khó đạt được nếu không có hoạch định chiến lược cụ thể. Ngay như mục tiêu quy mô công nghiệp đủ lớn thì cũng dường như phải mất 25 năm nữa với một tốc độ có tính hiện thực là 6%/năm. 

Việc tăng năng lực trong nước và giảm tỉ trọng FDI lại ảnh hưởng mục tiêu tăng trưởng công nghiệp để nhanh chóng đạt quy mô. Việc cân đối để ưu tiên phát triển năng lực sản xuất nền tảng lại đòi hỏi nhiều vấn đề về chính sách rất dài hạn mà tư duy nhiệm kỳ không thể xuyên suốt.

Ngô Văn Tuyển


ĐÃ ĐẾN THỜI PPP ĐƯỜNG SẮT ?


LAN NHI/ TBKTSG 24-11-2021


(KTSG Online) – Trong hoạt động phát triển hạ tầng theo hình thức đối tác công – tư (PPP) thì đường bộ là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm từ nhà đầu tư tư nhân nhất, sau đó đến cảng biển. Trong khi đó, ngành đường sắt hiện vẫn chịu cảnh èo uột và chưa có dự án nào thu hút được các nhà đầu tư ngoài nhà nước. Đền thời điểm hiện tại, đã có một số tín hiệu cho thấy đầu tư vào ngành đường sắt đang được mở ra.

Sáng 24-11, ông Higashihara Toshiaki, Chủ tịch Tập đoàn Hitachi, đã đề xuất Thủ tướng Phạm Minh Chính trong cuộc gặp gỡ với Thủ tướng tại Nhật Bản, đề nghị phía Việt Nam xem xét để doanh nghiệp mở rộng đầu tư vào một số lĩnh vực, trong đó có ngành đường sắt.

Trông chờ thêm nhiều cơ hội đầu tư vào hạ tầng đường sắt. Trong ảnh là đoàn tàu container chở hàng Việt Nam đến Bỉ trên tuyến đường sắt Á- Âu. Ảnh: TCTĐSVN

Hạ tầng giao thông, nhất là lĩnh vực đường sắt cũng chính là vấn đề phía Việt Nam cần phát triển, hợp tác nên Thủ tướng đồng ý ngay về mặt chủ trương. Ông đề nghị Hitachi làm việc với các bộ, ngành liên quan của Việt Nam để tìm hiểu, đầu tư và đồng thời yêu cầu yêu cầu Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu, xây dựng quy hoạch chi tiết đường sắt, sau đó sẽ thông báo tìm đối tác, trong đó có Hitachi xem xét, đầu tư.

Phía Hitachi đề nghị trước mắt sẽ nghiên cứu xây dựng tuyến đường sắt đoạn TPHCM – Cần Thơ, sau đó rút kinh nghiệm mở rộng ra các tuyến khác. Thủ tướng mong muốn việc này sẽ được thực hiện ngay, theo hình thức PPP.

Như vậy, ngành đường sắt lạc hậu hàng chục năm nay của Việt Nam lóe lên một tia hy vọng từ đối tác Nhật Bản. Hơn 10 năm nay, không có nhà đầu tư trong và ngoài nước nào “ngó ngàng” đến việc đầu tư vào hạ tầng đường sắt (hiện nhà nước vẫn độc quyền quản lý, khai thác). Khoảng 10 năm trước, Công ty cổ phần tập đoàn An Viên từng dự kiến đầu tư xây dựng hệ thống đường sắt phục vụ các dự án vận chuyển boxit từ Đak Nong đến cảng biển nhưng chưa triển khai.

Ở trong nước, cùng thời điểm này, Bộ Giao thông Vận tải đang nghiên cứu kêu gọi đầu tư nước ngoài vào hai dự án: dự án đường sắt kết nối đến cảng cửa ngõ Lạch Huyện (Hải Phòng) và tuyến đường sắt kết nối cảng Cái Mép – Thị Vải vì đây là hai tuyến đường vận tải logistics quan trọng tại cảng Hải Phòng và cụm cảng số 5 Nam Bộ nhưng đang tắc nghẽn, làm tăng chi phí vì sự xuống cấp của đường bộ. Dự kiến hai tuyến đường sắt này cần 90.000 tỉ đồng vốn đầu tư để “giải phóng” hàng xuất nhập khẩu ở hai đầu đất nước.

Hàng hóa thônng qua cảng Lạch Huyện tăng trưởng vài chục phần trăm/năm nhưng do đường bộ độc đạo đến cảng là Tân Vũ – Lạch Huyện nên cần thiết phải lập dự án đầu tư đường sắt vào cảng để thay thế tuyến đường sắt đến cảng Hải Phòng hiện nay bị hạn chế khai thác bởi giao thông đô thị chật chội.

Tại cụm cảng Cái Mép – Thị Vải, cũng gặp nhiều khó khăn về hạ tầng kết nối khi đường bộ đến cảng chỉ có đường độc đạo là Quốc lộ 51 thường xuyên tắc nghẽn nên 85% hàng hóa đến Cái Mép – Thị Vải phải vận chuyển bằng đường thủy. Nhưng việc đưa/rút hàng bằng đường thủy khiến các bến cảng container tại Cái Mép không khai thác được tối đa công suất do phải mất diện tích phục vụ cho giao nhận sà lan. Việc đầu tư tuyến đường sắt là cần thiết để giải phóng hàng, nếu không các hãng tàu lớn sẽ không còn thấy hấp dẫn với cụm cảng này.

Dự án đầu tư vào đường sắt đến Lạch Huyện sẽ có tổng mức đầu tư khoảng 32,6 ngàn tỉ đồng, thời gian thu hồi vốn dự kiến 25 năm và thời gian hoàn trả vốn vay là 30 năm.

Để có thể đầu tư đường sắt đến Cái Mép – Thị Vải, trước tiên cần đầu tư xây dựng công trình đường sắt Biên Hòa – Vũng Tàu kết nối cụm cảng này.

Với dự án đầu tư xây dựng công trình đường sắt Biên Hòa – Vũng Tàu, hiện đã được lập dự án đầu tư và được Bộ Giao thông Vận tải chấp thuận kết quả nghiên cứu và được cập nhật nghiên cứu khả thi hoàn thành năm 2019 do Koica (Nhật Bản) tài trợ.

Tuyến đường sắt này có chiều dài 84km, khổ 1.435mm, đi song song QL51, đi qua khu vực cảng Cái Mép – Thị Vải và cảng Bến Đình – Sao Mai. Riêng dự án Biên Hòa – Vũng Tàu dự kiến đầu tư khoảng 56,8 ngàn tỉ đồng và cần 20 năm thu hồi vốn, 30 năm hoàn trả vốn vay.

Đường sắt Việt Nam phục hồi một phần vận tải hàng hóa nhờ vận tải đường biển bị tăng giá quá cao từ đầu năm 2021 đến nay. Các tuyến đường sắt liên vận Á-Âu cũng đã tăng thêm doanh thu cho ngành đường sắt và giải phóng hàng xuất khẩu.

NGHỊCH  LÝ: GDP THẤP, THU NGÂN SÁCH 

VỌT CAO

PHẠM THẾ ANH /TTO 4-12-2021

TTO - Bộ Tài chính cho biết thu ngân sách 11 tháng năm nay ước đạt gần 1.400 ngàn tỉ đồng, vượt dự toán năm, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2020.

 Con số thu ngân sách vượt dự toán cả năm trong 11 tháng hoàn toàn trái ngược với tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế.

Tăng trưởng GDP quý 3 âm 6,17%, mức thấp nhất trong lịch sử ngành thống kê. Và nếu tính chung 9 tháng năm nay thì tăng trưởng GDP cũng chỉ đạt 1,47%, thấp nhất trong cùng kỳ nhiều năm qua.

Nghịch lý tăng trưởng thấp nhưng thu ngân sách lại về đích trước một tháng đến từ biến động giá cả hàng hóa tăng cao thời gian qua. Bối cảnh giá cả tăng kéo theo thu ngân sách tăng cao của hầu hết nền kinh tế làm Chính phủ "vui", nhưng những người giữ tiền sẽ rất buồn khi giá cả tăng nhanh.

Khi giá cả tăng, không chỉ giá trị thực (real value) của các khoản nợ công sẽ giảm, mà các khoản thu ngân sách danh nghĩa (nominal value) như thuế, phí cũng sẽ tăng. Nếu không có gì xảy ra bất thường với thu từ bán tài sản, việc thu ngân sách về đích sớm một tháng là nhờ việc giá cả tăng cao.

Giá cả nhiều lĩnh vực tăng mạnh giúp các doanh nghiệp có doanh thu/lợi nhuận tăng vọt ngay cả khi sản lượng làm ra tăng thấp, số thu thuế VAT, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp... cũng theo đó mà tăng. Đặc biệt giá và giao dịch tài sản như bất động sản, chứng khoán tăng mạnh cũng giúp các loại thuế/phí đánh vào chuyển nhượng tài sản tăng mạnh.

Vấn đề của nền kinh tế hiện nay là làm sao kiềm được giá cả nhưng vẫn thúc đẩy được tăng trưởng kinh tế.

Giá cả phụ thuộc nhiều vào thị trường thế giới nên có những thứ khó kiểm soát, chẳng hạn như giá xăng dầu và nhiều nguyên vật liệu đầu vào phải theo thị trường thế giới. Các biện pháp kiểm soát chủ động từ Chính phủ chỉ bớt được phần nào.

Chẳng hạn Chính phủ có thể giảm bớt các loại thuế, phí đối với mặt hàng xăng dầu. Khi ngân sách đang thặng dư thì Chính phủ có thể bù một phần thuế bảo vệ môi trường, thuế nhập khẩu. Bởi trong tất cả các mặt hàng nguyên vật liệu đầu vào thì xăng dầu ảnh hưởng lớn nhất tới chi phí sản xuất đầu vào của doanh nghiệp. Hơn nữa giá xăng dầu trong nước hiện nay rất cao nên cần giảm bớt thuế, phí để giảm giá bán.

Để giảm chi phí đầu vào cũng cần cân nhắc giảm giá điện, có thể triển khai và kéo dài chính sách hỗ trợ giá điện cho doanh nghiệp, người dân. Với các mặt hàng nguyên vật liệu đầu vào cũng có thể giảm thuế nhập khẩu để hỗ trợ sản xuất. Tất nhiên biện pháp này sẽ khiến hàng ngoại cạnh tranh hơn hàng nội nên cần cân đối ở mức hợp lý.

Ngoài ra, Chính phủ cần kiểm soát cung tiền chặt chẽ, không thể tiếp tục tăng cung tiền mười mấy phần trăm một năm như thời gian qua nữa.

Lạm phát phần lớn đến từ chi phí, đẩy giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng mạnh khiến chi phí sản xuất tăng cao. Nếu lúc này bơm quá nhiều tiền vào nền kinh tế, cộng thêm cầu kéo nữa thì lạm phát sẽ tăng rất nhanh.

Việc kiểm soát cung tiền sẽ không mâu thuẫn với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng của Chính phủ. Tiền chỉ là phương tiện thanh toán trong khi tăng trưởng của nền kinh tế còn đến từ nhiều thứ khác. Chẳng hạn Chính phủ có thể đưa ra giải pháp để kích thích đầu tư của tư nhân, tăng đầu tư công hoặc huy động vốn trong dân để thúc tăng trưởng kinh tế bền vững.

*PGS.TS PHẠM THẾ ANH (Đại học Kinh tế quốc dân) - BẢO NGỌC ghi

ĐÂU LÀ LÝ DO KINH TẾ VIỆT NAM PHÁT TRIỂN CHẬM ?

AN CHI/ BVN 2-12-2021

Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, các chính sách phục hồi nền kinh tế đặc biệt là chính sách tài chính, tài khóa còn khá lúng túng.

Việt Nam là một trong những nước phục hồi chậm nhất trên thế giới

Kinh tế Việt Nam đang phục hồi rất chậm theo hình chữ U

Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, trong đại dịch, Việt Nam là một trong những nước phục hồi chậm nhất.

Nếu như các nước trên thế giới coi dịch bệnh này là tai nạn chứ không phải là một cuộc khủng hoảng cấu trúc. Do đó, nền kinh tế xuống rất nhanh và phục hồi cũng rất nhanh theo hình chữ V. Trong khi đó, quá trình phục hồi của Việt Nam có vẻ như đang là chữ U chứ không phải chữ V.

Ông Nghĩa cho rằng, khủng hoảng dịch bệnh ở Việt Nam có cả vấn đề về cấu trúc chứ không đơn thuần là khủng hoảng y tế.

TS. Lê Xuân Nghĩa

Một trong những nguyên nhân dẫn đến phục hồi kinh tế chậm theo ông Nghĩa là do Việt Nam rất chần chừ trong việc đưa ra các gói kích thích để phục hồi nhanh. Hầu hết biện pháp hỗ trợ hiện nay mới là các gói gián tiếp mang tính giãn, hoãn, chưa tới 1% GDP.

"Chính sách có vẻ lúng túng, chính sách tài khóa 2021 không có mục nào là chống Covid-19. Cả giai đoạn tới đây cũng không có mục nào là tài chính dành cho Covid, mà chỉ dùng ngân sách dự phòng để xử lý. Điều đó cho thấy chúng ta không có quy định nào rõ ràng về tình trạng khẩn cấp của thảm họa như các nước khác. Cơ quan hành pháp của Việt Nam không có đủ quyền lực để điều hành như trong tình trạng khẩn cấp", ông Nghĩa nhận định.

Đồng quan điểm, TS. Nguyễn Minh Cường, chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng cho rằng, Covid-19 là cuộc khủng hoảng chưa bao giờ xảy ra với thế giới và Việt Nam.

Đối phó với cuộc khủng hoảng này, ngay từ năm 2020 các nước đã tung ra những gói rất mạnh, trong khi, Việt Nam còn rất rụt rè. Bên cạnh đó, mức độ rủi ro của đại dịch còn rất lớn, những biện pháp đưa ra nếu không tính toán đến yếu tố dịch tễ thì rất khó.

Việt Nam sử dụng chính sách tiền tệ nhiều hơn các nước, trong khi chính sách tài khóa còn khiêm tốn. Chính sách tài khóa cần được có vai trò lớn trong thời gian tới. Việt Nam nên cân nhắc chấp nhận tăng nợ công và tăng bội chi, tất nhiên là cần thiết lập kỷ luật tài khóa trong trung và dài hạn.

Về chính sách tiền tệ, Việt Nam sử dụng tương đối nhiều dư địa của chính sách này và đến ngưỡng phải cân nhắc về sự an toàn, ông Cường dự báo đã khoảng 7%. Trong khi đó, ngân hàng là lĩnh vực nhạy cảm, nếu tiếp tục gây áp lực thì sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế.

Không nên đẩy rủi ro cho các ngân hàng thương mại

Khuyến nghị của ADB là chính sách tài khóa sẽ là trụ cột chính, bên cạnh sự hỗ trợ của chính sách tiền tệ. Theo ADB và các tổ chức khác, các chính sách tài khóa của Việt Nam mới hỗ trợ khoảng 2% GDP, là mức rất thấp so với các nước trong khu vực. Điều này cho thấy nó hoàn toàn có dư địa để tăng lên. Tuy nhiên, quan trọng hơn là hiệu quả, nếu không thực hiện nhanh thì về mặt số lượng cũng không có ý nghĩa nhiều.

Đưa ra giải pháp giúp phục hồi nền kinh tế, tại tọa đàm “Dẫn mạch phục hồi tăng trưởng kinh tế”, ông Nghĩa cho rằng, trong các cuộc khủng hoảng, không nên kéo ngân hàng vào cuộc.

Ông Nghĩa khuyến nghị nên tránh việc đưa ra gói kích thích tài trợ lãi suất như năm 2009. Nó đã làm tốc độ tăng trưởng tăng lên rất cao, kéo theo lạm phát, đây là cách làm không đạt hiệu quả như mong muốn.

Do đó, chính sách hỗ trợ phải kiên quyết đạt được các nguyên tắc.

Một là không kéo các ngân hàng thương mại vào cuộc. Các doanh nghiệp vay đúng chuẩn mực hiện nay, doanh nghiệp nào có nhu cầu tài trợ thì đến Bộ Tài chính, chứ không cấn trừ ngay vào lãi suất của hệ thống ngân hàng, làm méo mó, khoản cho vay đắt, khoản cho vay rẻ, đó là điều tối kị.

Hai là không kéo dài kế toán kiểm toán và xử lý tài chính. Ba là không ảnh hưởng gì đến méo mó lãi suất thị trường. Bốn là không đẩy ngân hàng thương mại vào rủi ro có thể có.

Đây cũng là cách làm giúp kiểm soát lạm phát. Hiện nay, các ngân hàng trung ương trên thế giới dự kiến tăng lãi suất, trong khi đó Việt Nam lại giảm, điều này phải cân nhắc, ông Nghĩa nhấn mạnh.

Thực tế trên thế giới cho thấy, các nước như Mỹ và Trung Quốc đã rơi vào 2 lạm phát. Một là lạm phát chi phí đẩy (do thiếu cung), hai là do kích thích từ rất sớm, cách đây 2 năm dẫn tới lạm phát cầu kéo, tức là số tiền bỏ ra cách đây 2 năm giờ phát huy tác dụng.

"Người ta hi vọng giảm phát này có thể giảm xuống vì khi cung tăng lên, giá cả sẽ giảm đi nhưng tôi không nghĩ như vậy. Vì số lượng tiền các Chính phủ in ra lần này cực lớn, chưa từng có trong lịch sử. Đó là rủi ro lạm phát cầu kéo trong tương lai, có thể dẫn đến chiến tranh thương mại, chiến tranh tiền tệ, ngoài ra còn là rủi ro về tỷ giá", ông Nghĩa phân tích.

Đây chính là bài học cho Việt Nam, sắp tới, Chính phủ nên có các gói giãn hoãn, giảm bớt liều lượng, kể cả thuế, lãi suất, phí, phân loại nợ… Đồng thời cho phép ngân hàng thương mại trích lập dự phòng rủi ro nhiều hơn. Hiện nhiều ngân hàng thương mại đang ghi nhận lãi cao đến mức họ phát sợ.

Đặc biệt là trong vài năm trở lại đây, tốc độ tăng lợi nhuận một số ngân hàng có thể lên hàng trăm %. Đó là điều không nên vui mừng, không bình thường và đáng lo ngại!

Nguyên nhân là do khối lượng nợ xấu rất lớn, không phải như con số thông báo. Bằng chứng là mức ROE, ROA của ngân hàng đang tăng nhanh, tức là không phải trích lập dự phòng rủi ro nên lợi nhuận tăng như vậy, nói cách khác lãi dự thu là rất lớn. Dòng tiền của ngân hàng khó khăn, tức là tồn ở nợ xấu. Vì vậy, các gói kích thích kéo ngân hàng thương mại vào là rủi ro kinh tế vĩ mô thực sự.

Sau cuộc khủng hoảng này, các ngân hàng thương mại sẽ khá vất vả. Vì thế nếu kinh tế phục hồi thì bắt đầu là vấn đề của ngân hàng và thị trường chứng khoán.

Chính vì vậy, trong thời gian tới, vị chuyên gia này khuyến cáo các chính sách phục hồi nền kinh tế nên tập trung vào các biện pháp ngắn hạn, mà trước mắt là phục hồi lao động.

Ngoài gói kích thích lãi suất, Chính phủ cần có thêm gói tài chính trực tiếp như đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay để phục hồi việc làm, tài trợ an sinh xã hội.

A.C.

Nguồn: TheLEADER

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét