Thứ Hai, 25 tháng 10, 2021

20211026. AUKUS - QUAD VÀ ỨNG XỬ VIỆT NAM

 ĐIỂM BÁO MẠNG

AUKUS VÀ AQUAD KHÔNG THỂ BẢO ĐẢM CHO AN NINH KHU VỰC

 ẤN ĐỘ-THÁI BÌNH DƯƠNG

 Hanns W. Maull/ NCQT/ TD 19-10-2021

Dịch giả: Đỗ Kim Thêm



Bốn lãnh đạo của Bộ Tứ. Từ trái qua: Nhật, Ấn, Mỹ, Úc. Nguồn: Official White House Photo

Một số chuyên gia lập luận rằng, chúng ta đang “hiện diện trong việc thành lập” một kiến trúc an ninh mới cho Ấn Độ – Thái Bình Dương, bằng cách dựa vào tên cuốn hồi ký của Dean Acheson, một trong những kiến trúc sư chiến lược của Hoa Kỳ nhằm ngăn chặn vào thập niên 1940.

Có lẽ chúng ta cũng như cả khối AUKUS và hội nghị thượng đỉnh của bộ Tứ (Quad) cũng đều không giúp chúng ta tiến rất xa trên con đường đó. Trong khi cả hai đều báo hiệu sự phản kháng ngày càng tăng đối với lập trường ngày càng quyết đoán của Bắc Kinh, nhưng vẫn còn những khoảng trống đáng kể trong nỗ lực nhằm khai thông các tham vọng của Trung Quốc.

Trong bối cảnh này, việc so sánh với lịch sử của Chiến tranh Lạnh ở châu Âu trong thời kỳ đầu là cần thiết. Cho đến nay, ở Ấn Độ – Thái Bình Dương, những gì còn thiếu là ba thành tố quan trọng: Các cam kết kiên quyết; khuôn khổ đa phương đúng đắn; và hỗ trợ quốc nội vững chắc ở các nước quan trọng cho một trật tự khu vực mới có thể thích nghi một cách xây dựng trước sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Thứ nhất là các cam kết: Trong Chiến tranh Lạnh ở châu Âu, chiến lược của Hoa Kỳ được xây dựng dựa trên một hiệp ước quy định các cam kết và nghĩa vụ đối với tất cả các quốc gia thành viên.

Trên nền tảng hiệp ước đó, cuối cùng, NATO đã xây dựng một cấu trúc quân sự kết hợp với một bộ chỉ huy duy nhất. Các cam kết được thực hiện bằng việc xúc tiến triển khai cho quân đội, do đó củng cố được lòng tin. Ngược lại, cho đến nay, khối AUKUS và bộ Tứ (Quad) chỉ là những lời tuyên bố về ý định.

Một yếu tố quan trọng của khối AUKUS là việc Úc mua 8 tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân của Anh-Mỹ vẫn chưa được đàm phán trong chi tiết, cả chi phí và khung thời gian vẫn còn nhiều bất định. Việc Washington rút quân khỏi Afghanistan cũng như cách Pháp bị khối AUKUS lừa đều không phải là ví dụ điển hình về cam kết kiên định, đáng tin cậy với các đồng minh cho Hoa Kỳ.

Thứ hai, Ấn Độ – Thái Bình Dương đang thiếu định dạng phù hợp cho việc hợp tác đa phương. Ở châu Âu trong thời kỳ đầu Chiến tranh Lạnh, khối NATO nhanh chóng trở thành khuôn khổ lựa chọn cho tất cả những ai muốn chống lại các tham vọng bành trướng của Liên Xô. Nếu so sánh với khối AUKUS, đó là một cấu trúc khá đặc biệt, nó loại trừ nhiều đối tác quan trọng. Tất nhiên, nó bao gồm cả Anh, nhưng sự hiện diện của Vương quốc Anh phản ánh những ước vọng hơn là nỗ lực nghiêm túc. Sự tham gia của Luân Đôn dường như cho thấy Anh có thể đóng góp các nguồn lực đáng kể cho tình hình an ninh và ổn định của khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương , một gợi ý được nhấn mạnh bởi chuyến thăm gần đây của Queen Elizabeth, tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh, khi tới vùng biển Ấn Độ – Thái Bình Dương và tham gia các cuộc thao diễn đa phương.

Tuy nhiên, thực tế là Vương quốc Anh không đủ khả năng để xuất khẩu an ninh sang các khu vực khác trên thế giới: Ngân sách quốc phòng eo hẹp, nguồn lực quân sự được mở rộng quá mức, và an ninh châu Âu ngày càng suy yếu so với việc Nga kiên quyết thực hiện xây dựng quân đội. Brexit không có đóng góp gì để tách Anh ra khỏi an ninh châu Âu, chính phủ hiện tại của Anh dường như không muốn quan tâm ràng buộc đó. Vương quốc Anh không có khả năng xuất khẩu an ninh sang Ấn Độ – Thái Bình Dương  dưới bất kỳ hình thức nào ngoài các điều khoản mang tính biểu tượng. Do đó, sự tham gia của Anh vào khối AUKUS phản ánh tinh thần thoát ly của Thủ tướng Boris Johnson hơn là thực tế về chính sách an ninh ở châu Âu và ở Ấn Độ – Thái Bình Dương.

Mặt khác, trong cả hai, khối AUKUS và bộ Tứ (Quad), rõ ràng đang thiếu một số nước. Ngay cả khi giả sử rằng có hai khuôn khổ có thể được kết hợp hoặc xây dựng dựa theo cách nào đó, cũng còn thiếu hai thành viên khác của Five Eyes, Canada và New Zealand; các nước Đông Nam Á như Việt Nam; và Pháp, một cường quốc Ấn Độ – Thái Bình Dương quan trọng nhờ tài sản ở nước ngoài và sự hiện diện quân sự của nước này ở Ấn Độ – Thái Bình Dương. Tất cả những quốc gia đó đã là đồng minh hoặc là đối tác của Hoa Kỳ, hầu hết đều thông qua các hiệp ước chính thức. Chính sách ngoại giao khôn ngoan của Mỹ (đáng buồn là gần đây đã bị thiếu hụt) nên xoay sở để huy động cho họ tham gia ký kết.

Mặt khác, Ấn Độ là nước không liên kết trong bộ Tứ (Quad), nước đang xích lại gần hơn với Hoa Kỳ, dường như khó có thể sớm tham gia vào các liên minh chính thức.

Cả bộ Tứ (Quad) và khối AUKUS đều dự kiến các hình thức hợp tác ngoài các chính sách an ninh quân sự, chẳng hạn như về an ninh mạng và trí thông minh nhân tạo (AI). Tuy nhiên, cả hai, bộ Tứ (Quad) và khối AUKUS đều không phải là hình thức phù hợp: Đáng chú ý là các chương trình nghị sự của họ phần lớn trùng lặp nhau, cũng như với chương trình nghị sự được dự kiến cho Hội đồng Công nghệ và Thương mại Âu – Mỹ. Do đó, có nguy cơ một số nguồn lực quý giá nhất của các chính phủ, thời gian và sự chú ý của cấp cao, sẽ bị tiêu hao và do đó bị lãng phí trong các khuôn khổ đa phương chồng chéo và thậm chí có thể cạnh tranh nhau. Do đó, cả khối AUKUS và bộ Tứ (Quad), thậm chí khi cả hai kết hợp nhau, đều không phải là khuôn khổ phù hợp để xây dựng một kiến trúc an ninh Ấn Độ – Thái Bình Dương  vững chắc có thể hạn chế Trung Quốc. Cơ sở hạ tầng trong thể chế của an ninh Ấn Độ – Thái Bình Dương cần cả chiều sâu và mở rộng.

Khoảng cách thứ ba và là một khác biệt to lớn nữa đối với châu Âu trong thời Chiến tranh Lạnh, nó có liên quan đến chính sách trong nước về đối ngoại và an ninh. Trong cộng đồng Đại Tây Dương, ở Mỹ, cam kết với khối NATO dựa trên sự đồng thuận lưỡng đảng vững chắc và dễ dàng được chấp nhận, cũng như dựa trên nền tảng vững mạnh về chính trị quốc nội ở hầu hết, nếu không nói là tất cả, các nước thành viên. Hiện nay, các chính sách đối ngoại và an ninh ở nhiều quốc gia đang bị coi là con tin cho những mối bận tâm trong nước, sự phân hoá chính trị và phản xạ thuộc về tinh thần dân tộc.

Quan trọng nhất, ở Hoa Kỳ, sự đồng thuận của lưỡng đảng về Trung Quốc bị cáo buộc là lừa dối. Đảng Cộng hòa dường như hoàn toàn có khả năng hạ bệ chính quyền Biden về bất kỳ động thái cụ thể nào đối với Trung Quốc, miễn là đảng này coi đây là một cách làm tổn hại đến triển vọng của ông Biden và Đảng Dân chủ. Tình hình phân hoá chính trị ở Washington có nguy cơ làm suy yếu loại hình chính sách cân bằng và nhạy cảm về Trung Quốc mà Hoa Kỳ và thế giới đang cần.

***

Tác giả: Hanns W. Maull là khách mời cộng tác, Cộng sự viên cấp cao tại MERICS và Giáo sư về Quan hệ Quốc tế tại Đại học John Hopkins, Trung tâm Bologna Nghiên cứu Quốc tế. Ông cũng là thành viên cao cấp tại Học Viện về các Vấn đề Quốc tế và An ninh của Đức (SWP) ở Berlin.

_____

Tựa đề bài viết do người dịch đặt.

Bài liên quan: Tại sao tàu ngầm hạt nhân của Úc là một hành động quân sự thông minh và có thể răn đe Trung Quốc — Bộ Tứ là mối đe dọa nghiêm trọng đối với Bắc Kinh* — Bình luận về Hiệp định Đối tác Tăng cường An ninh của Mỹ, Anh và Úc (AUKUS), III

The Diplomat

AKUS VÀ QUAD TRONG CHIẾN LƯỢC INDO-PACIFIC

NGUYỄN QUANG DY/ BVN 20-10-2021

QUAD (“Bộ Tứ” gồm Mỹ, Nhật, Ấn, Úc) ra đời từ năm 2007 và hồi sinh vào cuối năm 2017 (thời Donald Trump). Còn AUKUS (“Bộ Tam” gồm Úc, Anh, Mỹ) vừa mới đầy tháng. Ngày 15/9/2021, nguyên thủ ba nước đã họp trực tuyến và tuyên bố thành lập liên minh AUKUS. Sự kiện này diễn ra chỉ mấy ngày sau khi Tổng thống Joe Biden điện đàm với Chủ tịch Tập Cận Bình (10/9) và không lâu sau chuyến thăm Singapore và Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin (28/7) và Phó tổng thống Kamala Harris (24/8).  

Ngay sau khi AUKUS vừa ra đời, Tổng thống Mỹ Joe Biden, Thủ tướng Úc Scott Morrison, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, và Thủ tướng Nhật Yoshihide Suga đã họp trực tiếp tại Nhà Trắng (24/9/2021) để “nâng cấp Bộ Tứ”, với những sáng kiến đầy tham vọng. Có thể nói AUKUS và QUAD là “cặp bài trùng” trong tầm nhìn chiến lược Indo-Pacific. Trong bài phân tích này, tôi sẽ lý giải để làm rõ thêm các vấn đề vừa nói trên.

Phản ứng với AUKUS 

Quyết định thành lập AUKUS khá đột ngột như một đợt sóng bất ngờ ập đến làm cho dự luận phản ứng khác nhau. Tuy Pháp là một đồng minh phương Tây, nhưng phản ứng rất mạnh như con gà trống Gô-Loa bị tổn thương nặng, đã triệu hồi đại sứ tại Mỹ và Úc. Trong khi đó, Trung Quốc là đối tượng chính tuy có lý do để phản ứng mạnh hơn, nhưng đã phản ứng khá ôn hòa, có thể vì Trung Quốc cần thỏa hiệp với Mỹ về vụ thả Mạnh Vãn Chu (AUKUS: Why Beijing didn’t go ballistic, Jia Deng, Lowy Interpreter, October 14, 2021).

Tuy trước mắt, Pháp phản ứng mạnh là dễ hiểu, không chỉ vì thiệt hại về kinh tế do mất một hợp đồng lớn mấy chục tỷ USD, mà còn vì thể diện chính trị trước tranh cử sắp tới. Nhưng về lâu dài, Pháp không thể quay lưng với các nước đồng minh phương Tây chủ chốt (như Mỹ, Anh, Úc), vì hợp tác ở Nam Thái Bình Dương. Tuy Pháp gọi AUKUS là “nhát dao đâm sau lưng”, nhưng họ cũng cần tự trách mình đã chủ quan làm mất hợp đồng.

Trong khi đó, Trung Quốc đã không phản ứng mạnh vì những lý do nhất thời, nhưng về lâu dài, AUKUS là một cục xương khó nuốt, làm Bắc Kinh đau đầu. Có lẽ vì vậy mà Trung Quốc đã thông báo xin gia nhập CPTPP (ngày 16/9) như một nước cờ để làm Mỹ khó xử và “tiến thoái lưỡng nan”. Như phản ứng dây chuyền, Đài Loan cũng đã quyết định xin gia nhập CPTPP (ngày 22/9), làm cho Bắc Kinh tức giận, phải lên tiếng phản đối.

AUKUS sẽ là một cơn ác mộng đối với Trung Quốc, vì đây có thể là tiền thân của một “NATO châu Á” mà Bắc Kinh vốn lo ngại lâu nay. Trong khi Mỹ muốn mở rộng nhóm “Ngũ Nhãn” (Five Eyes), gồm Mỹ, Anh, Úc, Canada, Tân Tây Lan, để kết nạp thêm Nhật và Hàn Quốc, thì NATO tăng cường quan hệ với bốn đối tác trong khu vực Indo-Pacific là Nhật, Hàn Quốc, Úc và Tân Tây Lan. Trong khi AUKUS cụ thể hóa chuyển trục chiến lược của Mỹ tới Indo-Pacific, thì nó giúp Anh khẳng định tầm nhìn “Global Britain”.

AUKUS nằm trong chiến lược đối phó với Trung Quốc tại Indo-Pacific, không chỉ gồm ba nước Úc, Anh, Mỹ, mà còn gồm nhiều nước khác. Vì vậy, Trung Quốc chính là đối tượng mà QUAD và AUKUS nhắm tới. QUAD và AUKUS không chỉ đơn thuần là một liên minh về an ninh mà còn gồm các lĩnh vực khác như công nghệ kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo và tin học lượng tử. Năm 2015, Bang Bắc Úc đã cho tập đoàn Landbridge của Trung Quốc thuê cảng Darwin 99 năm, nhưng đã đến lúc Canberra cần chấm dứt hợp đồng này.

Phản ứng của ASEAN đối với AUKUS cũng khác nhau. Trong khi một số nước ủng hộ (như Singapore, Philippines) và một số nước phản đối (như Malaysia, Indonesia) vì lo ngại chạy đua vũ trang trong khu vực sẽ tăng lên, thì Việt Nam bên ngoài tỏ ra rất thận trọng, nhưng bên trong ngầm ủng hộ. Đợt sóng ngầm do AUKUS gây ra làm dư luận ồn ào với các cung bậc cảm xúc khác nhau, đang lắng xuống như “phần nổi của tảng băng chìm”. 

Theo báo chí Nhật, việc AUKUS ra đời đã làm thay đổi cuộc chơi, và là một tín hiệu mạnh về răn đe đối với Trung Quốc. Với AUKUS, vị thế chiến lược của Úc sẽ tăng lên, tạo điều kiện cho Canberra đóng một vai trò tích cực hơn để duy trì cân bằng quyền lực có lợi tại Indo-Pacific. (AUKUS shows beginnings of U.S. Indo-Pacific strategy, Susannah Patton, Ashley Townshend and Tom Corben, Nikkei Asia Review, October 1, 2021).

Phản ứng của dư luận Úc tuy đa dạng, nhưng ngày càng tích cực hơn. AUKUS là một bước ngoặt lớn để định vị chiến lược lâu dài, nhưng điều đó không có nghĩa là Úc theo đuổi ngoại giao nước lớn mà coi nhẹ ngoại giao với các nước trong khu vực như ASEAN. Ngược lại, vai trò của Úc như một quốc gia bậc trung thực dụng, độc lập và tích cực ở khu vực Indo-Pacific sẽ tiếp tục và tăng cường trong thập kỷ tới. (The future of Australia's middle-power diplomacy after AUKUS, Thomas Parks, Asia Link Insight, October 7, 2021).

AUKUS sẽ đi vào lịch sử, biến Úc thành quốc gia thứ 7 trên thế giới tham gia “câu lạc bộ tàu ngầm hạt nhân” (gồm Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ). Nó đe dọa làm thay đổi bàn cờ chiến lược tại khu vực Indo-Pacific, gia tăng nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân, thúc đẩy Nhật Bản và Hàn Quốc theo đuổi trò chơi tốn kém này. Nói cách khác, AUKUS đã biến điều không thể thành có thể, “làm thay đổi cuộc chơi” (game changer).  

Lợi ích quốc gia Úc

Theo giáo sư Alexander Vuving (APCSS), trước mắt tuy AUKUS gây tranh cãi, nhưng về lâu dài nó đặt Úc “vào đúng vị trí lịch sử” (on the right side of history). Tranh chấp nước lớn Mỹ-Trung về cơ bản là cuộc đấu tranh giữa trật tự quốc tế dựa trên luật pháp (ruled-based) và trật tự quốc tế dựa trên thứ bậc (hierarchy-based). Là thành viên của QUAD & AUKUS, Úc có quyền lựa chọn chỗ đứng cho mình trong cuộc đấu tranh của thế kỷ này.

AUKUS trước mắt có thể làm tổn thương quan hệ của Úc với một số đối tác ở Châu Âu (làm Pháp bất bình) và ở Đông Nam Á (làm Indonesia và Malaysia lo ngại), nhưng về lâu dài, có nhiều lý do để tin rằng AUKUS là sự lựa chọn đúng của Úc, vì lợi ích quốc gia của mình, để bảo vệ trật tự quốc tế dựa trên pháp luật. (AUKUS Is a Short-Term Mess but a Long-Term Win for Australia, Alexander Vuving, Foreign Policy, October 11, 2021).

Pháp có lý do bức xúc vì mất một hợp đồng lớn trị giá mấy chục tỷ USD, nhưng lên án AUKUS là “nhát dao đâm sau lưng” không thỏa đáng. AUKUS chủ yếu liên quan đến Trung Quốc chứ không phải Pháp, tuy đáng tiếc là nó đụng đến sự nhạy cảm của Pháp. Úc đã phí mười năm theo đuổi hợp đồng tàu ngầm với Pháp, vì ngay từ đầu có lẽ Úc đã chọn nhầm phương án. Hợp đồng đã bị chậm, mắc nhiều lỗi, phải thiết kế lại nhiều lần tốn kém. (AUKUS Is Good for Australia, Simon CowanAmerican Conservative, September 24, 2021).

Trị giá hợp đồng tàu ngầm với Pháp là 40 tỷ AUD (năm 2012), sẽ bị đội vốn lên 100 tỷ AUD khi chiếc tàu đầu tiên sẽ được hoàn thành năm 2040 (chậm10 năm). Vì vậy, AUKUS là quyết định đúng của Úc cho chiến lược “phòng thủ từ xa” (forward defense). Tàu ngầm của Úc phải vượt hơn 4,000 dặm để đến Biển Đông, ngoài tầm hoạt động của tàu ngầm chạy bằng diesel, vì sau đó tàu ngầm chạy bằng diesel phải mất hàng tuần để trở về Úc.

Vì vậy, Úc cần hạm đội tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân với công suất lớn hơn, vì lợi ích quốc gia, phù hợp với lợi ích của đồng minh. Theo AUKUS, Mỹ và Anh sẽ giúp Úc có một hạm đội tàu ngầm (dự kiến 8 chiếc) chạy bằng năng lượng hạt nhân, để thay thế kế hoạch hợp tác với Pháp lập một đội tàu ngầm (gồm 12 chiếc) chạy bằng diesel và điện. Lâu nay, Úc không thấy cần phải chọn phe trong tranh chấp Mỹ-Trung, nhưng gần đây Úc bị Trung Quốc bắt nạt, buộc Canberra phải có lập trường cứng rắn hơn với Trung Quốc.

Từ năm 2020, Trung Quốc đã trả đũa Úc vì kêu gọi điều tra nguồn gốc virus Corona bằng cách cấm nhập hàng hóa Úc, trị giá 20 tỷ USD. Trung Quốc sử dụng các biện pháp kinh tế, thương mại, và ngoại giao để trừng phạt Úc, nhưng chỉ làm cho Úc cứng rắn hơn và “thoát Trung”. Sau gần một năm tranh chấp, không chỉ Úc bị thiệt hại về kinh tế, mà Trung Quốc cũng bị “gậy ông đập lưng ông”. Nay Trung Quốc đang liên minh với Nga, Iran, và Pakistan để hình thành “Bộ Tứ” của Trung Quốc, nhằm đối phó với “Bộ Tứ” của Mỹ.

Trong 18 tháng qua, hợp đồng tàu ngầm với Naval Group của Pháp đã gặp nhiều trở ngại, vì đội vốn và kéo dài tiến độ. Tháng 6/2021, Úc đã dự kiến “Kế hoạch B” nếu “Kế hoạch A” thất bại. Theo các nguồn tin thì Mỹ và Anh phải hành động gấp vì lý do “an ninh quốc gia”. Đây là lần đầu tiên sau 70 năm, Mỹ chuyển giao công nghệ tàu ngầm hạt nhân cho Úc, tạo tiền lệ cho Nhật Bản và Hàn Quốc. AUKUS là một thông điệp mà Mỹ, Anh, Úc muốn gửi đến Trung Quốc rằng liên minh AUKUS đã hình thành, và cuộc chơi mới bắt đầu.

AUKUS rất quan trọng đối với Úc, không chỉ về địa chiến lược, mà còn vì đặc thù về văn hóa và lịch sử. Thứ nhất, ý thức hệ của ba nước này giống nhau. Thứ hai, Anh đã từng là “mẫu quốc” bảo hộ Úc cho đến khi Mỹ thay thế, nay sẵn sàng “trở lại tương lai” để cùng với Mỹ bảo đảm an ninh cho Úc. Thứ ba, cả ba nước này đều coi Trung Quốc là mối đe dọa đối với khu vực và thế giới. Sự hợp tác giữa ba nước này về tàu ngầm hạt nhân, chuyển giao công nghệ cao và các nhu cầu an ninh quốc phòng khác, sẽ làm thay đổi cuộc chơi.

Các đồng minh khả tín thường có chung văn hóa chính trị như một ưu thế so với các đối thủ. Sức mạnh của liên minh QUAD và AUKUS sẽ tạo ra thế cờ vây áp đảo đối phương (Trung Quốc, Nga, Iran, Pakistan). Nó có thể làm thay đổi sâu sắc chính sách ngoại giao và quốc phòng của Úc, không chỉ đối với Trung Quốc mà còn với khu vực và thế giới. Tham gia AUKUS, Úc chỉ có con đường tiến, mà không còn đường lùi. (How China Exports Authoritarianism, Charles Edel & David Shullman, Foreign Affairs, September 16, 2021).

Đằng sau QUAD và AUKUS

Tiếp theo cuộc họp cấp cao (trực tuyến) đầu tiên của QUAD (12/3/2021) ra thông cáo chung về hai chủ đề chính là đối phó với đại dịch và biến đổi khí hậu, là cuộc họp cấp cao (trực tiếp) của QUAD (24/9/2021). Cuộc họp này đề xuất các sáng kiến quan trọng về y tế (tài trợ sản xuất và phân phối vaccine qua “Nhóm Chuyên gia Vaccine” và “Nỗ lực An toàn Y tế”); về hạ tầng (khởi động “Nhóm Phối hợp Hạ tầng” để xây dựng “Hạ tầng Chất lượng cao”); về biến đổi khí hậu (lập “Mạng lưới Tàu biển xanh” và “Đối tác Năng lượng sạch”).  

AUKUS mang dấu ấn của Kurt Campbell (kiến trúc sư “Pivot”, và “Indo-Pacific Coordinator” tại NSC); Ely Ratner (nguyên cố vấn cho Biden, là trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng, trưởng nhóm đặc nhiệm về chiến lược mới); Rush Doshi (tác giả “The Long Game”, là Giám đốc Trung Quốc tại NSC); Mira Rapp-Hooper, nguyên cố vấn về Trung Quốc tại Vụ Hoạch định Chính sách Bộ Ngoại giao, làm việc tại NSC. (China whisperers: The US advisers shaping the world’s great rivalry, Emily Tamkin, New Statesman, September 17, 2021).

Đây là một nhóm cựu quan chức và học giả về Châu Á tham gia “Team Biden”, chủ trương đối phó với Trung Quốc như “thách thức lớn nhất” đối với Mỹ. Họ đều là học giả tại các trường đại học danh tiếng (Ivy League), cùng tham gia think tank (như CNAS), từng phục vụ trong các chính quyền trước (Clinton và Obama). Họ đều nhận thấy Trung Quốc không giống như người ta mong đợi là “trỗi dậy hòa bình”, thông qua tham dự có thể hòa nhập vào trật tự thế giới do Mỹ dẫn đầu, mà Trung Quốc ngày càng quyết đoán và độc tài. 

Nếu AUKUS chứng tỏ chủ trương “xoay trục” của Mỹ cuối cùng đang diễn ra, thì vẫn còn thiếu “yếu tố kinh tế” (an economic component) như Kurt Campbell đã từng nhấn mạnh. Tuy QUAD và AUKUS có thể đóng góp rất nhiều, nhưng không thay thế được sự can dự thực tế của Mỹ ở khu vực. Tuy Anthony Blinken đã hứa với lãnh đạo ASEAN (cuối tháng 9/2021) là Mỹ sẽ có chiến lược toàn diện cho Đông Nam Á, nhưng vẫn chưa thấy. (Americas doughnut-shaped Indo-Pacific strategy, Henry Storey, Diplomat, October 18, 2021).

Có nhiều lý do để Mỹ tham gia CPTPP, và Trung Quốc là nguyên nhân chính. Nay Trung Quốc đã xin vào CPTPP, nên Mỹ tham gia CPTPP không chỉ vì lợi ích kinh tế mà còn vì vai trò của Mỹ trước sự trỗi dậy của Trung Quốc. Joe Biden tuyên bố đối phó với Trung Quốc là một trong các ưu tiên trong chính sách đối ngoại, nên Mỹ cần một chính sách thương mại mạnh với khu vực, nhưng vào CPTPP vẫn còn nhiều lực cản. (America Must Return to the Trans Pacific Partnership, Wendy Cutler, New York Times, September 10, 2021).

Theo các chuyên gia chiến lược, hiện nay QUAD và AUKUS vẫn còn thiếu các “điều kiện thiết yếu” (critical ingredients) so với thời chiến tranh lạnh, nên chưa đủ mạnh để ngăn chặn các tham vọng của Trung Quốc. AUKUS mới chỉ là những tuyên bố về ý định trong khi nội hàm chính của AUKUS là Úc sẽ mua 8 tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân, nhưng đàm phán cụ thể về giá cả và tiến độ vẫn chưa rõ (The Gaps in the New Regional Security Architecture for the Indo-Pacific, Hanns Maull, Diplomat, October 16, 2021).

Thành viên của AUKUS còn bất cập, do thiếu các đối tác quan trọng khác như Canada, New Zealand (nhóm “Five Eyes”) hay Việt Nam và Indonesia (ASEAN). Anh tham gia AUKUS chủ yếu do ý chí chủ quan (wishful thinking) và tượng trưng (symbolism), chứ chưa phải là cố gắng nghiêm túc (serious effort). Khẩu hiệu “Nước Anh toàn cầu” (Global Britain) về cơ bản phản ánh ý định của Thủ tướng Boris Johnson muốn đánh lạc hướng dư luận (escapism) vì động cơ chính trị, chứ chưa chắc là chính sách an ninh khu vực của Anh.

AUKUS và QUAD dù có được “nhất thể hóa” (integrated) thì cả hai thực thể này còn thiếu khuôn khổ cần thiết để xây dựng cơ chế an ninh khu vực Indo-Pacific đủ mạnh nhằm ngăn chặn Trung Quốc trỗi dậy. Trong khi Pháp (một cường quốc Indo-Pacific) bị gạt ra ngoài, thì Ấn Độ (không liên kết) vẫn chưa sẵn sàng tham gia một liên minh quân sự với Mỹ. Nói cách khác, cấu trúc an ninh khu vực Indo-Pacific cần được làm sâu sắc hơn. Vì vậy, câu chuyện QUAD và AUKUS chỉ là bước đầu, và là “phần nổi của tảng băng chìm”.

Lời cuối

Theo giáo sư Andrew Erickson (CMSI, Naval War College), trong 5 năm tới, Trung Quốc phải quyết định có tấn công Đài Loan hay không, vì quyền lực của Trung Quốc và Tập Cận Bình đã lên tới đỉnh cao, trong khi Đài Loan như “quả táo chín dễ hái”, nếu bỏ qua sẽ mất cơ hội vàng. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ và phương Tây đang đau đầu nghĩ cách đối phó với “thách thức lớn nhất của thế kỷ 21 về đối ngoại”.  (A Dangerous Decade of Chinese Power Is Here, Andrew Erickson, Foreign Policy, October 18, 2021).

Trong cuốn “Hindsight, Insight, Foresight: Thinking about Security in the Indo-Pacific” (APCSS, September 2020), giáo sư Alexander Vuving cho rằng tuy tình hình Biển Đông rất nguy hiểm, nhưng khó rơi vào “bẫy Thucydides” như giáo sư Graham Allison dự đoán, vì nó theo quy luật “chicken game” (chọi gà) chứ không phải “Prisoner’s dilemma” (nan đề tù nhân). Nhưng tình hình eo biển Đài Loan hiện nay lại là một câu chuyện khác, và là một yếu tố hệ trọng trong bàn cờ Indo-Pacific, mà AUKUS là một nước cờ thế.

Tham khảo

1. America Must Return to the Trans Pacific Partnership, Wendy Cutler, New York Times, September 10, 2021

2. China whisperers: The US advisers shaping the world’s great rivalry, Emily Tamkin, New Statesman, September 17, 2021

3. Fact Sheet: Quad Leaders Summit, The White House, September 24, 2021

4. AUKUS Is Good for Australia, Simon CowanAmerican Conservative, September 24, 2021

5. SSN vs SSK, Hugh White, Lowy Interpreter, September 29, 2021

6. AUKUS shows beginnings of U.S. Indo-Pacific strategy, Susannah Patton, Ashley Townshend and Tom Corben, Nikkei Asia Review, October 1, 2021

7. The future of Australia's middle-power diplomacy after AUKUS, Thomas Parks, AsiaLink Insight, October 7, 2021

8. AUKUS Is a Short-Term Mess but a Long-Term Win for Australia, Alexander Vuving, Foreign Policy, October 11, 2021

9. AUKUS: Why Beijing didn’t go ballistic, Jia Deng, Lowy Interpreter, October 14, 2021

10. The Gaps in the New Regional Security Architecture for the Indo-Pacific, Hanns Maull, Diplomat, October 16, 2021

11. America’s doughnut-shaped Indo-Pacific strategy, Henry Storey, Diplomat, October 18, 2021

12. A Dangerous Decade of Chinese Power Is Here, Andrew Erickson, Foreign Policy, October 18, 2021

N.Q.D.

Tác giả gửi BVN


CÁC KHIẾM KHUYẾT CỦA MỸ 

TRONG CHIẾN LƯỢC ẤN ĐÔ-THÁI BÌNH DƯƠNG

Henry Storey/ TD 24-10-2021

Đỗ Kim Thêm, dịch


Từ khi nhậm chức hồi tháng 1/2021, Tồng thống Mỹ Joe Biden chưa thăm viếng bất cứ nhà lãnh đạo Đông Nam Á nào (White House/ Adam Schutz/ Flickr)

Khi Washington bắt đầu hình thành chủ trương xoay trục sang châu Á, việc phô diễn cá nhân xuất hiện và bắt đầu đàm phán sẽ là những yếu tố quyết định cho các thỏa thuận.

Tính cho đến nay, ngoại trừ Ấn Độ, mối dây liên kết chung của Hoa Kỳ về Ấn Độ-Thái Bình Dương và chiến lược rộng lớn  đối với Trung Quốc đã tập hợp được các đồng minh lâu đời của Hoa Kỳ.

Các cuộc họp thượng đỉnh đầu tiên của Tổng thống Moon Jae-in với cựu Thủ tướng Yoshihide Suga đang bắt đầu có kết quả. Hàn Quốc đang bắt đầu tăng cường việc can dự vào khu vực. Nhật Bản ngày càng nghiêm túc hơn trong việc bảo vệ Đài Loan.

Dự đoán của Trung Quốc rằng thỏa thuận trong Bộ tứ (Quad) giữa Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hoa Kỳ sẽ “tan biến như bọt biển” chỉ là ước vọng. Ngay cả hiện nay, khi khía cạnh quân sự của Bộ tứ (Quad) bị hạn chế, nó sẽ làm phức tạp đáng kể cho kế hoạch phòng thủ của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Lời tái cam kết quyên tặng một tỷ liều vắc xin Covid-19 cho Đông Nam Á của Bộ tứ (Quad) là một ví dụ đáng hoan nghênh Hoa Kỳ trong việc đẩy mạnh cung cấp các mặt hàng có tiện ích công cộng. Nhìn xa hơn, các Hội nghị Thượng đỉnh G7 và NATO trong năm nay là chưa từng xảy ra trước đây, khi hai tổ chức này tập trung cho chuyên đề khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương.

Cuối cùng, khối AUKUS, mối quan hệ đối tác quốc phòng chiến lược giữa Úc, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, đã được báo trước là sự thực hiện muộn màng  trong việc xoay trục sang châu Á của Obama. Giả sử như có một giải pháp ngăn chặn khẩn cấp hiệu quả để có thêm tàu ngầm cho Úc trước cuối thập niên 2030, phải thừa nhận là một khả năng khá lớn nếu vào thời điểm hiện tại, khối AUKUS sẽ dẫn đến sự cân bằng quyền lực thuận lợi đáng kể hơn trong khu vực.

Tuy nhiên, cho đến nay, có một lỗ hổng ngay trong trung tâm chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Tổng thống Mỹ Joe Biden, đó là thiếu điều gì đó ngoài các nỗ lực hời hợt để can dự với Đông Nam Á.

Theo đánh giá qua các Bảng Tuyên bố và Thông cáo Báo chí của Nhà Trắng, gần chín tháng trong nhiệm kỳ của mình, Biden vẫn chưa nói chuyện với một nhà lãnh đạo Đông Nam Á nào. Cho đến tháng 7, Ngoại trưởng Antony Blinken mới chính thức tham gia Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) sau khi có trục trặc kỹ thuật làm hỏng hội nghị thượng đỉnh được dự kiến vào tháng 5. Các nhiệm sở đại sứ Hoa Kỳ tại ASEAN, Brunei (chủ tịch hiện tại của ASEAN), Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam vẫn bị bỏ trống. Tuy nhiên, không có người được đề nhiệm nào cho các nhiệm sở ở ASEAN, Philippines hoặc Singapore.

Ít nhất, gần đây, Hoa Kỳ đã cải thiện vị thế của mình, khi Blinken tổ chức các cuộc đàm phán qua mạng với các đối tác ASEAN trong 5 ngày liên tiếp vào tháng 8. Cho dù các cuộc đàm phán diễn ra trên mạng, nhưng có ảnh hưởng quan trọng trong khu vực, cũng như khi đối diện trực tiếp.

Trong khi các chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin và Phó Tổng thống Kamala Harris tới Singapore và Việt Nam (và chuyến thăm của Austin tới Philippines) hiển nhiên là được hoan nghênh, họ đã gửi những thông điệp trái chiều.

Tại Bangkok và Jakarta, cả hai có lý do chính đáng khi cảm thấy bị đối xử lạnh nhạt. Ít nhất, không giống như Kuala Lumpur, cả hai thủ đô đều được Thứ trưởng Ngoại giao Wendy Sherman bảo đảm rằng, sẽ trở lại thăm vào cuối tháng 5  đầu tháng 6.

Việt Nam đã rất kiên cường trong việc chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc ở Biển Đông, trong khi Singapore và Philippines, (ở mức độ thấp hơn, thậm chí trong thời Tổng thống Rodrigo Duterte), đã làm nhiều việc để tạo điều kiện thuận lợi cho sự hiện diện quân sự của Mỹ trong khu vực. Với ưu tiên rõ ràng của mình đối với các nước này, Hoa Kỳ mạo hiểm gửi đi thông điệp rằng họ nhìn Đông Nam Á chủ yếu qua lăng kính cạnh tranh an ninh với Trung Quốc.

Mặc dù ngay cả trong lĩnh vực an ninh, cho đến nay, phương cách của Biden vẫn tỏ ra thiếu sót. Các tài liệu ngân sách tháng 5 chỉ đánh dấu là có 179 triệu đô la Mỹ dành tài trợ quân sự cho toàn bộ khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương. Trung Đông đạt 5,46 tỷ triệu đô la. Mặc dù có đề cập đến Singapore và Việt Nam, Tài liệu Hướng dẫn Chiến lược An ninh Quốc gia Tạm thời của chính quyền đã bỏ qua các đồng minh trong hiệp ước Philippines và Thái Lan, một cách đáng ngạc nhiên.

Tất nhiên, bức tranh này không giúp được gì ngoài việc bất lực của Washington khi đào sâu hơn các mối liên kết thương mại với khu vực. Những bất đồng giữa các quan chức trong chính quyền được báo cáo là đã làm chậm lại các đề xuất về một hiệp định thương mại kỹ thuật số do Hoa Kỳ dẫn đầu.

So với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), một con đường thứ ba rõ ràng, thì một thỏa thuận thương mại kỹ thuật số sẽ dễ đạt được. Nếu khối AUKUS thực sự là sự xuất hiện được báo trước từ lâu của trục xoay, thì nó đang thiếu một thành tố kinh tế.

Thực tế đáng thất vọng ở đây là về các số liệu chính, Hoa Kỳ không thua xa Trung Quốc ở Đông Nam Á như nhiều người giả định. Năm 2019, so với Hoa Kỳ, Trung Quốc chỉ là thị trường xuất khẩu lớn hơn một chút trong các nước ASEAN. Trong hầu hết các năm kể từ năm 2015, đầu tư của Hoa Kỳ vào ASEAN đã bỏ xa đầu tư của Trung Quốc.

Điểm mà Hoa Kỳ thiều sót là không có chính sách rõ rệt về ngoại giao kinh tế  Ở đây, có thể bắt chước trong sách vở Trung Quốc. Mặc dù các tiến bộ đã chậm lại kể từ khi G7 công bố, nhưng chương trình Xây dựng lại thế giới tốt đẹp hơn (Build Back Better Worl, B3W) có thể là một nỗ lực để thực hiện việc này.

Bắc Kinh không ngủ quên trên chiến thắng của mình. Vương Nghị, Bộ trưởng Ngoại giao không biết mệt mỏi của Trung Quốc, đã tiếp đón các đồng nghiệp từ các nước ASEAN hai lần trong năm nay và vào tháng 9 đã có chuyến công du trong khu vực. Sau khi tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), Trung Quốc hiện đã nộp đơn xin gia nhập CPTPP trong một nỗ lực có vẻ nghiêm túc hơn dự đoán của nhiều nhà quan sát.

Sự cạnh tranh của Hoa Kỳ với Trung Quốc có tính chất toàn cầu. Tuy nhiên, vì các lý do cơ bản về kinh tế, địa lý và lịch sử, Đông Nam Á luôn là tâm điểm của cuộc thử thách này. Nhóm Quad, NATO, G7 và AUKUS  phải có nhiều đóng góp đáng kể. Nhưng họ không thể thay thế cho sự tham gia thực tế trong khu vực. Nếu xử lý vụng về, các sáng kiến của họ có thể giống như những áp đặt ngoại lai. Lời hứa vào cuối tháng 9 của Blinken với các nhà lãnh đạo ASEAN về việc đưa ra một chiến lược toàn diện cho khu vực tập trung vào Đông Nam Á đã quá hạn từ lâu.

* Tựa đề bản dịch là của người dịch


LỖI Ở ĐƯỜNG LỐI CHỨ KHÔNG PHẢI 'MÕ LÀNG'

TRẦN HIẾU CHÂN/ TD 25-10-2021


Những phản ứng chính thức của Việt Nam đối với các vấn đề thời sự gắn liền với lợi ích quốc gia – dân tộc chưa bao giờ lại tù mù như thời điểm hiện nay. Sự thay đổi trong khu vực cũng như trên thế giới đang/sẽ diễn ra với nhịp độ tăng tốc. Ngoại giao Việt Nam (NGVN) một lần nữa có thể lại lỡ trớn?

“Ngậm miệng…” đâu phải là sự lựa chọn

Các mối liên hệ quốc tế phức tạp và tế nhị nhưng thiết yếu đối với Việt Nam lại xuất hiện cùng một lúc trong buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao (BNG) hôm 21/10/2021. Các câu hỏi của báo chí trong và ngoài nước liên quan đến Biển Đông và Trung Quốc đặt ra cho người phát ngôn BNG Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đều được trả lời một cách chung chung và không hề hàm chưa bất kỳ một “bít” thông tin nào cả.

Bà Thu Hằng tỏ ra rất “thuộc bài” nhưng lại né tránh một cách hết sức vụng về các câu hỏi về Biển Đông và Trung Quốc. Theo đó, hãng Thông tấn xã Đức DPA đề cập đến việc, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ ngày 19/10 vừa qua thông qua dự luật S.1657 trừng phạt các cá nhân, tổ chức Trung Quốc nào có liên quan đến những hoạt động tranh chấp lãnh thổ do Trung Quốc gây ra ở Biển Đông và biển Hoa Đông.

Thế mà người phát ngôn Bộ Ngoại giao cứ làm như chuyện ấy xẩy ra đâu tận châu Phi xa xôi! [1]

Đây không phải là lần đầu, cách “ngậm miệng ăn tiền” ấy khiến các nhà báo quốc nội lẫn quốc tế bức xúc, bởi kiểu trả lời rất đúng mốt, “à la mode Ngoại giao Việt Nam (NGVN)”. Đấy là kiểu “ông hỏi gà bà trả lời vịt”, cách phát ngôn không những không tôn trọng người hỏi đã đành, mà còn coi thường đông đảo khối độc giả của quốc gia mà người hỏi đại diện. Trả lời như thế trong họp báo là hoàn toàn thiếu tính tự tôn dân tộc.

Dân tộc Việt Nam đâu hèn đến mức cái gì cũng phải chờ Bắc Kinh bật đèn xanh từ Trung Nam Hải thì Hà Nội mới dám ngo ngoe. Tuần qua có bao nhiêu chuyện thiết yếu liên quan đến bang giao Trung – Việt và quan hệ Mỹ – Việt mà tại sao NGVN lại trở nên yếm thế một cách kỳ cục như thế?

Thế giới luôn muốn biết bản lĩnh của nền chính trị đối ngoại từ một đất nước suýt soát cả trăm triệu dân. Tuy nhiên, cũng phải khách quan, không nên vội trách người phát ngôn BNG. Bà Hằng cũng chỉ thực thi chức năng “mõ làng”, chứ đâu ở cấp chịu trách hiệm hoạch định đường lối.

Mạng báo Thanh Niên và VnExpress đề nghị bà Lê Thị Thu Hằng cho biết phản ứng của Việt Nam trước việc đài truyền hình Trung Quốc (CGTN) thông báo, lực lượng không quân và hải quân nước này vừa tổ chức các đội máy bay tiêm kích ném bom tập trận bắn đạn thật ở Biển Đông cùng với thông tin tàu ngầm hạt nhân Hoa Kỳ va chạm ở vùng biển này.

Hỏi vậy mà bà Lê Thị Thu Hằng chỉ “được” khẳng định: “Việt Nam nhất quán chủ trương mong muốn Biển Đông là khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trên cơ sở luật pháp quốc tế”. Rồi như “tua” vội lại đoạn băng ghi sẵn, bà trình bày tiếp: “Việc các hoạt động trên biển phải tuân thủ UNCLOS 1982 và duy trì hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn ở Biển Đông”. Khi cướp không chỉ trong sân nhà, mà đã mang dao búa nhảy vào tận buồng ngủ rồi mà vẫn “ngậm miệng” thì hiệu ứng “bóng đè” của Trung Quốc quả là quá lớn.

Trong khi đó, lần đầu tiên trong lịch sử, ASEAN đã dũng cảm thắng được sức ỳ do nguyên tắc “đồng thuận” tạo nên. Tại Hội nghị Cấp cao cuối tháng, cả khối quyết định không mời đại diện tập đoàn quân sự tiến hành cuộc đảo chính hôm 1/2 đã bóp chết nền dân chủ non trẻ Myanmar, đến dự Thượng đỉnh. Ngày 24/10, những kẻ ngoan cố, kiêu ngạo và phản dân chủ Myanmar lại hứa hão sẽ “cam kết hợp tác với kế hoạch hòa bình của ASEAN” (VOA 24/10).

Mong sao Việt Nam hành động đúng theo hướng dẫn chung cho tất cả các thành viên ASEAN, đừng “cầm đèn Trung Quốc” chạy trước ô tô, “sẩy miệng” tuyên bố ủng hộ cánh quân phiệt!

Bắc Kinh đang bắn ầm ầm trước nhà mà vẫn im thin thít, thì hãy lo chuyện của mình trước đã. Đối với bọn bành trướng Đại Hán, được đằng chân chúng sẽ lân đằng đầu. Càng xuống nước, Trung Quốc càng lấn tới. Nhưng đất liền và biển đảo tổ tiên đâu phải là của hồi môn của ĐCSVN mà đem biếu tặng Trung quốc! Hà cớ gì khi bị kẻ cướp nhảy vào nhà trấn lột, dù khiếp đảm đến mấy, cũng phải la làng lên một tiếng chứ! [2]

“Theo voi hít bã mía” càng nguy hiểm

Chính phủ Việt Nam lâu nay vẫn tuyên bố, chính trị đối ngoại Việt Nam trong kỷ nguyên tới sẽ là một nền ngoại giao hiện đại, dẫn dắt trong khu vực. Trời ơi, định “dẫn dắt ai” khi mà bản thân mình lại thực thi chính sách “khấu đầu” (kowtow) trước một Trung Quốc tham lam và tàn độc. Hãy nhìn quanh để xem các quốc gia trong khu vực đã kết nối với nhau như thế nào.

Nhật Bản sau khi có được “mái nhà chung” FOIP, tuyên bố của tân Bộ trưởng Quốc phòng Motegi về Đài Loan đánh dấu quan điểm khác biệt hoàn toàn của nội các mới so với nội các cũ, bằng cách nói rõ về khả năng can dự của Nhật Bản. Không học được con cháu của đất nước “Mặt Trời Mọc” thì hãy nhìn dân “Miệt vườn” Úc châu mà hành động. Sau khi bị Bắc Kinh ra tối hậu thư 14 điểm, Úc đã vứt hẳn yêu sách ấy vào sọt rác, làm một cú “pivot” (xoay trục) ngoạn mục, cùng Vương quốc Anh và Hoa Kỳ dựng lên một “lá chắn hạt nhân” AUKUS ngay trước “cổng nhà”.

Vừa ra đời, tiếng vọng AUKUS đã lan toả khắp thế giới.

Cung cách đối xử của Trung Quốc đối với Úc châu là trường hợp điển hình mà Bộ Ngoại giao Việt Nam có thể nhìn vào đấy để rút ra bài học. Trung Quốc đã trừng phạt Úc về mặt thương mại trong hai năm qua, vì Úc đã dám đụng đến các vấn đề nhạy cảm (như chủ quyền/thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tại Hồng Kông hay Đài Loan, Biển Đông, nhân quyền, Tây Tạng, Tân Cương, Thiên An Môn, nguồn gốc Covid-19…) đối với Bắc Kinh.

Thật ra cung cách của Trung Quốc ở mọi nơi mọi lúc đều thế, kể cả đối với Việt Nam. Nhưng trong khi chính quyền Hà Nội chủ trương bưng bít không cho người dân biết, mà có khi còn cấm cản xã hội thảo luận công khai về các vấn đề tế nhị ấy. Việc cấm đoán ấy tại Úc châu hay các nền dân chủ khác là điều bất khả. [3]

Trở lại hoạt động của phái đoàn Việt Nam tại Liên hợp quốc, người có tinh thần dân chủ không khỏi bất bình khi hay tin Việt Nam phản đối những câu chữ mạnh mẽ trong nghị quyết của LHQ lên án đảo chính ở Myanmar. Hùa theo Trung Quốc, Việt Nam phản đối dùng chữ “đảo chính” và không đồng ý có những biện pháp tiếp theo đối với chính quyền quân sự Napydow trong dự thảo tuyên bố chung do Anh soạn thảo.

Năm ngoái, Việt Nam cũng cùng với Trung Quốc cản một tuyên bố chung của HĐBA/LHQ về ngăn chặn nạn diệt chủng người Hồi giáo Rohingya ở Myanmar. Rõ ràng, Việt Nam có gánh nặng trách nhiệm của mình ở LHQ, đã 2 lần đảm đương cương vị Chủ tịch HĐBA, ấy vậy mà lẩn tránh những sự thật hiển nhiên ai cũng biết.

Sau quyết định lịch sử của ASEAN tẩy chay kẻ cầm đầu đảo chỉnh đến dự Thượng đỉnh 38 và 39, Việt Nam không thể “ngậm miệng ăn tiền”, “theo voi hít bã mía”, hay “đi hàng đôi” với Trung Quốc mãi được, nhất là khi “quyền lực mềm” của Trung Quốc đang đi xuống [4]

Trong khi đó, có một số chuyển động đáng chú ý trong quan hệ Mỹ – Việt. Hoa Kỳ và Việt Nam gặp nhau trong khuôn khổ kỳ họp ĐHĐ/LHQ. Thứ trưởng Ngoại giao Wendy Sherman hôm 22/9 và Ngoại trưởng Bùi Thanh Sơn đã tiếp xúc và thảo luận về nhiều vấn đề. Bà Sherman viết trên Twitter: “Tại Kỳ họp ĐHĐ/LHQ khóa 76, tôi và Ngoại trưởng Bùi Thanh Sơn đã thảo luận tầm nhìn chiến lược chung về an ninh khu vực, vai trò trung tâm của ASEAN và việc duy trì trật tự quốc tế dựa trên luật pháp ở Biển Đông và khu vực Mekong”.

Cùng ngày, Tổng Giám đốc Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) Samantha Power có cuộc gặp với Thứ trưởng Quốc phòng Hoàng Xuân Chiến tại trụ sở USAID ở thủ đô Washington. Hai bên đã thảo luận về mối quan hệ đối tác USAID – Việt Nam, bao gồm cả giải quyết các vấn đề di sản chiến tranh.

Như thường lệ, truyền thông Việt Nam đã không đưa nội dung này lên mặt báo. Phải chăng đấy là chiêu mới của ngoại giao “áo gấm đi đêm”? (VOA, 23/10)

______

[1] https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/vn-mofa-s-spokesperson-evaded-the-questions-relating-to-scs-developments-and-china-10222021090432.html

[2] https://www.rfa.org/vietnamese/news/blog/vietnam-is-not-a-downy-to-china-10192021134452.html

[3] https://baotiengdan.com/2021/10/20/khong-gian-sinh-ton-cua-viet-nam-khong-the-la-van-de-noi-bo-cua-trung-quoc/

[4] https://www.voatiengviet.com/a/quyen-luc-mem-cua-trung-quoc/6279788.html

TỪ AKUS NÓI VỀ LIÊN MINH QUÂN SỰ: 

LIỆU VIỆT NAM ĐÃ BỎ DIỄN NGÔN 'KHÔNG LIÊN KẾT'?

CÁI LƯ HƯƠNG/ BVN 25-10-2021

Các liên minh quân sự không những chưa hết thời mà còn có dấu hiệu nở rộ.

Minh họa: Trend Research.

“Thứ duy nhất tồi tệ hơn việc xung đột vũ trang với đồng minh là tham gia vào một cuộc xung đột vũ trang mà không có họ.”

(Winston Churchill) [1]

Đồng minh quân sự và vấn đề đối tác chiến lược giữa các quốc gia – dân tộc có chủ quyền luôn là một chủ đề khó kiểm soát. Từ các thảo luận và tranh chấp chính trị nội địa, vấn đề chia sẻ trách nhiệm và gánh nặng giữa các đồng minh, cho đến các mong muốn và tham vọng chiến lược khác nhau, có vô vàn những yếu tố có thể làm ảnh hưởng và cản trở hệ thống đồng minh đến mức khiến chúng đổ vỡ.

Hoa Kỳ là quốc gia tiên phong của North Atlantic Treaty Organization (NATO – hay Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương), khối liên minh quân sự to lớn và có tiềm lực nhất thế giới. Thời gian qua, nước này tiếp tục dẫn đầu thành lập nên khối quân sự mới AUKUS (gồm Mỹ, Anh, Úc) tại Ấn Độ – Thái Bình Dương. Sự ra đời của AUKUS cho thấy các nỗ lực và chính sách quốc phòng của Hoa Kỳ luôn đi kèm với sự đồng thuận và ủng hộ tuyệt đối từ các quốc gia đồng minh trong một khu vực địa lý cụ thể.

Trong bối cảnh đó, có lẽ đã đến lúc Việt Nam cần xem xét và đánh giá lại chính sách “không liên kết”, vốn là tôn chỉ ngoại giao lâu nay của Việt Nam. Bài viết bàn về các mặt lợi – hại của chủ trương này trên lý thuyết.

Lợi ích quốc gia trên hết? Học thuyết Washington về những “liên minh bất ổn”

Một trong những diễn ngôn thường được xướng lên tại Việt Nam khi nói về vấn đề đồng minh trong ngoại giao là “không có kẻ thù hay bạn bè mãi mãi, chỉ có lợi ích dân tộc là mãi mãi”. Ở một mặt nào đó, đây có thể được xem là nền tảng cho tư duy không liên kết, không gắn chặt lợi ích của Việt Nam với bất kỳ phe phái quốc tế nào.

Công bằng mà nói, không chỉ giới lãnh đạo Việt Nam mới có cách nghĩ như vậy.

Ảnh minh họa: Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton và Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh trong một cuộc họp báo nhân chuyến thăm Việt Nam của bà Clinton năm 2012. Ảnh: EPA/KHAM/POOL.

Các nhà lập quốc Hoa Kỳ, cách đây gần ba thế kỷ, đã cảnh báo rằng những mối quan hệ đồng minh dây mơ rễ má (entangling alliances) sẽ cuốn Hoa Kỳ vào những tranh chấp không hồi kết dù chúng không phục vụ tối đa cho lợi ích quốc dân. [2] Đây là một trong những lý do mà cựu Tổng thống Donald Trump liên tục đe dọa xét lại các mối quan hệ đồng minh với toàn bộ Châu Âu (qua NATO), với Nhật, với Hàn Quốc cũng như với Philippines. [3] Ông này cho rằng Hoa Kỳ đang nhận quá nhiều phần thiệt chỉ để bảo đảm “an toàn” cho các quốc gia đồng minh.

Chưa phán xét đến tính đúng đắn của cách tiếp cận này, Donald Trump là một ví dụ điển hình cho thấy xung đột và tranh cãi chính trị nội địa có thể đe dọa đến tính ổn định của hệ thống đồng minh trong ngoại giao và quân sự quốc tế.

Quan điểm này cũng được thể hiện trong chính sách được gọi là “The Washington Doctrine of Unstable Alliance” do Tổng thống George Washington đề xuất. [4] Đúng như tên gọi, “học thuyết về liên minh bất ổn”, ông cho rằng Hoa Kỳ không nên đầu tư quá sâu vào bất kỳ mối quan hệ ngoại giao hay liên minh chính trị – quân sự nào, mà chỉ nên xem chúng là các công cụ tạm thời và tự do rời bỏ chúng khi cần đặt lợi ích quốc gia lên trên.

Trong thư cáo biệt chính quyền liên bang, [5] Washington để lại những gợi ý rõ ràng và đáng tham khảo về chính sách ngoại giao và góc nhìn về các liên minh dù là quân sự, kinh tế hay chính trị:

1. Tránh việc xây dựng các liên minh bền vững (permanent alliance) với bất kỳ phần nào của thế giới;

2. Luôn cẩn trọng “giữ mình” phòng thủ trong các liên minh tạm thời dù chúng có thể có lợi cho quốc dân trong các tình thế khẩn cấp đặc biệt;

3. Sự đại đồng, hòa hợp và các liên hệ trên tinh thần cấp tiến với mọi quốc gia – dân tộc nên được đề cao không chỉ về mặt lợi ích chính sách, mà còn vì nhân loại nói chung.

Trong một thời gian dài, các nguyên tắc này được các đời chính phủ Hoa Kỳ thực hiện qua chính sách không can thiệp (non-interventionism) tương đối nhất quán, đặc biệt trong các vấn đề có liên quan đến chính trị Châu Âu trong suốt thế kỷ 19 đến tận đầu thế kỷ 20, bao gồm cả thời gian đầu của hai cuộc đại chiến thế giới.

Hành vi này có thể mang lại lợi ích cho Hoa Kỳ, tuy nhiên, nó cũng cho thấy mặt trái của các liên minh tạm bợ vì lợi ích riêng – không giá trị chung nào của nhân loại được bảo vệ. Điều này hoàn toàn ngược lại với những gì mà Washington kỳ vọng.

Từ học thuyết liên minh bất ổn, chính trị thế giới sản sinh thêm nhiều các hành vi khác như “hoán đổi liên minh” (reversal of alliances) mà theo đó, các cựu đồng minh hoàn toàn có thể rời bỏ các giá trị, tôn chỉ và lợi ích chung để theo đuổi các lợi ích riêng biệt vốn có thể có hại lớn cho viễn cảnh bảo vệ quyền và lợi ích chung của các cộng đồng và toàn thể nhân loại. Molotov–Ribbentrop Pact (1939), hay Hitler-Stalin Pact, nhắm đến việc hòa hoãn giữa Liên Xô và Đức Quốc xã và chia chác ảnh hưởng lãnh thổ tại Bắc Âu là một trong những ví dụ điển hình thường được nhắc đến của “hoán đổi liên minh”. [6]

“Đường lối” của Washington ở một mức độ nào đó dường như không còn hợp lý.

Đặt trong bối cảnh pháp luật quốc tế ngày một phát triển, các giá trị phổ quát ngày càng được hiểu và được tiếp nhận trên toàn thế giới, những liên minh quân sự nay không đơn thuần là vì lợi ích, mà còn là nền tảng để bảo vệ các giá trị chung.

Và đối với các quốc gia nhỏ, bảo vệ được các giá trị cấp tiến chung mới là bảo vệ chính mình.

Thời đại của liên minh: hết thời hay cờ tới?

Trước tiên, người viết thừa nhận rằng hệ thống liên minh quân sự chính trị đang áp đảo ngày nay vẫn có lợi cho một trật tự thế giới thân phương Tây.

Sự bao phủ của NATO ở Châu Âu và vùng Trung Đông – Tây Á, và đến nay là AUKUS với kỳ vọng kết nối an ninh Đại Tây Dương – Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, là một lời nhắc nhở cho cả thế lực chính trị cựu thù (như Nga) hay mới nổi (như Trung Quốc), rằng họ đừng làm điều gì dại dột bằng vũ lực với kỳ vọng hoán chuyển trật tự và thay đổi mô hình “dĩ Âu vi trung”. [7]

Đây là một trật tự có lợi rõ ràng cho Hoa Kỳ và các đồng minh thân thiết của họ.

Nhưng nó cũng không hẳn bất lợi cho Việt Nam.

Tổng thống Mỹ Joe Biden, Thủ tướng Úc Scott Morrison và Thủ tướng Anh Boris Johnson cùng công bố thành lập liên minh AUKUS vào ngày 15/9/2021. Ảnh: Getty Images.

Hệ thống các chuỗi cung ứng và lợi ích kinh tế mà đồng minh Hoa Kỳ lẫn Hoa Kỳ đổ vào Việt Nam là động lực lớn nhất tiếp sức cho sự phát triển của đời sống kinh tế lẫn xã hội Việt Nam.

Các can thiệp nhân quyền vừa phải và thông qua con đường ngoại giao của Hoa Kỳ và các thiết chế nhân quyền phương Tây cũng từng bước giúp nhiều nhóm quyền tại Việt Nam được thảo luận, được mở rộng và xem trọng hơn, dù đó là quyền phụ nữ, quyền người đồng tính, quyền trẻ em hay các quyền dân sự – chính trị nói chung.

Cũng cần nhớ, chính hệ thống “dĩ Âu vi trung” này đã mang lại tiền bạc, kiến thức và các lợi ích thiết thực tạo nên sự trỗi dậy của Trung Quốc từ thập niên 1980.

Công bằng mà nói, trật tự chính trị do phương Tây dẫn đầu rõ ràng không loại trừ sự phát triển của các quốc gia Đông Á, Đông Nam Á nói riêng và Châu Á nói chung.

Mặt khác, các dự đoán về sự chấm dứt của thời đại liên minh từ nhiều chuyên gia chính trị – quân sự thế giới dường như không hề chính xác.

Ví dụ, trong nghiên cứu của nhà khoa học chính trị người Pháp Bruno Tertrais có tên gọi “The Changing Nature of Military Alliances”, ông khẳng định chắc nịch rằng các liên minh quân sự – chính trị đã lỗi thời, không còn chỗ đứng. [8]

Theo ông, các quốc gia trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế đã không cần Hoa Kỳ như họ từng cần đến nước này trong quá khứ.

Tertrais cũng tranh biện rằng xung đột tại Afghanistan, Iraq và Cuộc chiến chống khủng bố (War on Terror) là một trong các nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm duy trì vị trí dẫn đầu của mình trên mặt trận quân sự.

Và ông cũng bổ sung rằng bản thân chính quyền Hoa Kỳ đang bắt đầu ưa thích các “liên minh mùa vụ” hơn  (ad hoc alliance – ý chỉ các liên minh quân sự được kêu gọi và hình thành trong từng mục tiêu cụ thể).

Nhưng có vẻ các dự đoán của Tertrais đều không như kỳ vọng.

Sự trỗi dậy kinh tế của Nga và Trung Quốc chỉ đẩy mạnh thêm khát vọng chính trị toàn cầu của họ.

Nga tiếp tục quân sự hóa và đã tiến hành nhiều chiến dịch quân sự tước đoạt lãnh thổ của các quốc gia liền kề, thổi hơi vào gáy một Châu Âu tưởng rằng họ rất bình an.

Trung Quốc thì chưa bao giờ thôi mộng tưởng về một thế giới Đại Hán mới.

Từ sáng kiến Vành đai – Con đường, rồi đến hàng loạt tham vọng lãnh thổ – chính trị (đã dẫn đến xung đột đổ máu) tại biển Đông, tại Ấn Độ, v.v. hầu hết quốc gia láng giềng của người bạn lớn này có đầy đủ lý do để phải lo lắng. Đây không phải lần đầu tiên trong lịch sử họ sống chung với một anh Trung Quốc nhà giàu, và họ biết “anh ta” sẽ lại mơ mộng về một thiên triều Đại Hán ra sao.

Trong bối cảnh đó, các liên minh quân sự và chính trị ổn định, có hệ thống và theo đuổi những tôn chỉ chung do Hoa Kỳ dẫn đầu lại trở thành thời thượng, thậm chí được cho là cần thiết.

NATO ngày càng mở rộng với nhiều dự án và thành viên mới. [9] Trong khi đó, liên minh AUKUS vừa thành lập cũng đã được nhiều quốc gia trong khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương, mà đặc biệt là Đông Á và Đông Nam Á, chào đón nồng hậu.

***

Thật khó để nói chính quyền Việt Nam đương đại có còn giữ nguyên tắc “không liên kết” của mình hay không.

Một mặt, họ liên tục trấn an Trung Quốc (và cả thế giới rằng) Việt Nam sẽ không dùng lãnh thổ của mình làm bàn đạp để tấn công nước khác, sẽ không tham gia các liên minh quân sự để đạt được mục tiêu quốc phòng. [10]

Tuy nhiên, mặt khác, Việt Nam cũng tích cực tham gia vào hàng loạt các hoạt động an ninh khu vực do Hoa Kỳ khởi xướng, gần đây nhất là ký các thỏa thuận hợp tác quốc phòng song phương với đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực, như thỏa thuận vừa ký với Nhật Bản vào tháng 9/2021 vừa qua. [11]

C.L.H.

Nguồn: Luật Khoa tạp chí

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét