Thứ Hai, 26 tháng 10, 2020

20201027. GÓP Ý KIẾN ĐẠI HỘI XIII ĐCSVN (1)

 ĐIỂM BÁO MẠNG

GÓP Ý ĐẠI HỘI XIII ĐCSVN
LÊ THÂN/ TD/ BVN 25-10-2020

Phiên tòa xử vụ án Đồng Tâm mở ra ngày 7.9.2020 và kết thúc ngày 14.9.2020 nhưng chỉ làm việc vỏn vẹn trong 3 ngày đầu, thay vì theo dự kiến thì phải kéo dài lâu hơn. Chiều ngày 14.9, Hội đồng Xét xử TAND Hà Nội đã tuyên án tử hình Lê Đình Công và Lê Đình Chức (hai con trai cụ Lê Đình Kình) về tội giết người với cáo buộc họ “chủ mưu, cầm đầu vụ giết người”. Cùng tội danh trên, tòa tuyên Lê Đình Doanh (cháu nội cụ Lê Đình Kình) án chung thân. Bị cáo Bùi Viết Hiểu lãnh 16 năm tù, Nguyễn Quốc Tiến 13 năm tù, Nguyễn Văn Tuyển 12 năm tù. 23 bị cáo còn lại lãnh các mức án từ 15 tháng tù treo đến 6 năm tù giam đều về tội chống người thi hành công vụ.

Theo công luận khách quan của toàn xã hội, đây là một bản án không có sức thuyết phục, trong vụ án có nhiều vấn đề khuất tất đáng ngờ mà sự oan sai thiệt thòi đã được biết trước là chắc chắn sẽ thuộc về phía người dân Đồng Tâm thấp cổ bé miệng hơn rất nhiều so với hệ thống điều tra xét xử của ngành công an và ngành tòa án vốn đã được chỉ đạo chặt chẽ từ bên trên.

Trước khi phiên tòa mở ra, nhằm mục đích ngăn ngừa sự lạm dụng luật pháp của chính quyền và sự bất công cho phía người dân, ngày 3.9.2020, nhóm câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng đã ra tuyên bố “Quan điểm của CLB Lê Hiếu Đằng về vụ Đồng Tâm: Chính quyền từ sai lầm đến tội ác”, với nội dung các luận điểm, phân tích về mọi mặt liên quan nêu ra trong bản tuyên bố dài gần chục trang đã được dư luận rộng rãi cả trong lẫn ngoài nước đồng tình ủng hộ, mà tại đây chúng tôi xét thấy không cần phải lặp lại.

Theo dõi kỹ cách tổ chức thực hiện phiên tòa xét xử từ đầu cho tới lúc tuyên án, với rất nhiều chi tiết diễn ra có vẻ mờ ám thiếu công minh và thậm chí xâm phạm trắng trợn các thủ tục tố tụng hình sự, công luận cả trong lẫn ngoài nước thêm một lần nữa càng tỏ ra bất bình, phẫn nộ, phản đối mạnh mẽ kết quả bản án sơ thẩm bất công vô nhân đạo đã tuyên ngày 14.9.2020, như đã nêu trên, bằng cách chỉ ra các chi tiết của vụ án oan sai còn đầy đủ hơn cả những điều mà CLB chúng tôi đã nêu ra trong bản tuyên bố ngày 3.9.2020 kể trên, trước khi phiên xét xử diễn ra.

Người ta cho rằng, Đồng Tâm là một phiên tòa ô nhục, cho thấy sự lúng túng bị động trong thế yếu cả về lý luận lẫn thực tiễn của nhà cầm quyền trước nguy cơ đổ vỡ chế độ do chính họ gây ra bằng đường lối cơ bản xuyên suốt trong nhiều năm gần đây là chống lại nhân dân, biến mâu thuẫn giữa nhân dân với nhà cầm quyền từ không đối kháng (về mặt lý luận) trở thành đối kháng quyết liệt (trên thực tế), mà biểu hiện tập trung là việc huy động trái pháp luật vào ban đêm cả mấy ngàn quân công an để đàn áp một nhóm nhỏ dân chúng vài mươi người và giết chết ông Lê Đình Kình 84 tuổi đời 58 tuổi Đảng, gieo thêm mầm thù hận và hình thành cục diện đối đầu giữa nhân dân với các nhà đương cuộc. Không chỉ thế, còn có thể nói, mâu thuẫn đã thật sự diễn ra giữa đảng viên nhiều đặc quyền ở cấp lãnh đạo với đảng viên quần chúng, đến mức không cần thương lượng mà phải dùng tới biện pháp tiêu diệt y như tiêu diệt ngoại bang là kẻ thù của dân tộc.

So sánh với vụ án ở đồng Nọc Nạng (làng Phong Thạnh, quận Giá Rai tỉnh Bạc Liêu) năm 1928 gây ra cái chết 5 người cho cả hai phía, trong thời thực dân Pháp, vốn được chính quyền hiện nay ca tụng về tinh thần tranh đấu giữ đất của nông dân chống thực dân và cường hào ác bá, người ta thấy bản án tuyên cho dân Đồng Tâm ở cánh đồng Sênh 59 hecta là một bước lùi về phương diện nhân bản cũng như luật pháp. Tòa Đại hình Cần Thơ tuyên Biện Toại, Nguyễn Thị Liễu (em út Toại) và Tia (con trai Toại) được tha bổng, dù họ có gây ra cái chết của viên cảnh sát người Pháp thi hành công vụ. Lời bào chữa của luật sư Tricon trước phiên tòa đáng được coi là hình mẫu của tinh thần pháp luật, vì theo ông nhận định, nguồn gốc của vụ án là vấn đề điền địa [chúng tôi nhấn mạnh]. Ông cho rằng chính sách ruộng đất thời Nguyễn công bằng và hợp thực tế, còn luật lệ do người Pháp đặt ra chưa được áp dụng đúng, thiếu thực tế. Ông ca ngợi tinh thần lao động khẩn hoang của gia đình Biện Toại trong việc họ phải đấu tranh với thiên nhiên, với bọn cường hào, với cả các thủ tục pháp lý: “Chúng ta, những người Pháp, nên xây dựng ở xứ này một chế độ độc tài. Không phải độc tài bằng sức mạnh của súng đạn, nhưng là sự độc tài của trái tim (Non pas de la dictature de la force du mousqueton, mais de la dictature du coeur). Rồi ông xin tòa tha thứ cho các bị can: “Lần này sẽ có một bà lão khóc về cái chết của bốn đứa con. Bốn người này đã chết, vì họ tưởng rằng có thể tự lực gìn giữ phần đất ruộng mà họ đã từng rưới mồ hôi và máu của họ lên đó”.

Thật là cảm động! Nhiều người đề nghị cần phải hủy bản án sơ thẩm vụ Đồng Tâm, và trước khi xử phúc thẩm, tiến hành điều tra lại vụ án từ đầu, một cách độc lập, thậm chí còn phải điều tra cả sự phạm pháp của ngành công an lẫn ngành tòa án.

Sau kết quả phiên xử có phần “bất ngờ” đối với dư luận quốc tế, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) đã bày tỏ sự quan ngại về hành động vi phạm thủ tục tố tụng trong phiên xử, đặc biệt biểu hiện dưới hình thức mớm cung bức cung và tra tấn những người bị cho là “can phạm” trong vụ án dành cho 29 người dân Đồng Tâm.

Dư luận trong nước và thế giới đã “trăm miệng một lời” lên án gay gắt trước, trong và sau phiên tòa. Nhà cầm quyền trái lại có vẻ đắc thắng trong việc tra tấn rúng ép buộc người dân chưa thông qua xét xử khách quan phải nhận cái tội mà họ không có để cho tròn vở diễn, trong một vụ án gọi là “bỏ túi” vì đã có sự chỉ đạo sẵn từ bên trên, mà ai cũng biết chắc, với bằng cớ rõ ràng là trước đó khi vụ việc giết người vừa xảy ra hồi tháng 1.2020, các người lãnh đạo cấp cao nhất đã vội vã tặng thưởng huân chương chiến công cho ba chiến sĩ công an bị hi sinh trong vụ đàn áp giết dân, hệt như thưởng công cho những liệt sĩ chiến đấu chống kẻ thù xâm lược!

Chúng tôi cho rằng chiến dịch động đại binh tấn công vào khu vực xã Đồng Tâm (huyện Mỹ Đức, Hà Nội) tiêu diệt, mổ thây Cụ Lê Đình Kình rồi sau đó xử tội chết cả hai người con trai của ông chắc chắn phải được lấy quyết định ở cấp quyền lực cao nhất, bằng một kế hoạch đã tính kỹ mà sau này được biết là Kế hoạch mang số hiệu 419A của công an thành phố Hà Nội được sự chuẩn thuận của Bộ Công an, với ý đồ rõ rệt không chỉ để trấn áp riêng nhân dân Đồng Tâm, mà còn để de dọa kiểu “giết gà dọa khỉ” đối với nhân dân toàn quốc, rằng từ nay trở đi mọi người hãy nhìn rõ vào tấm gương Đồng Tâm mà liệu hồn!

Trên một quan điểm thông thoáng và toàn diện, chúng tôi đề nghị không quy trách nhiệm tất cả cho ngành công an hoặc ngành tòa án, vì xét  cho cùng họ cũng chỉ là công cụ thực hiện của một chế độ độc tài toàn trị mà nền tư pháp hoàn toàn không được độc lập. Trái lại, chúng tôi cho rằng hành động trấn áp như trên của nhà đương cuộc là có tính hệ thống, rõ nhất là khi liên kết vụ án Đồng Tâm đang xét với vụ án oan Hồ Duy Hải (ở Long An) mà dư luận vẫn còn râm ran chưa thuyết phục, cùng với sự kiện mới đây nhất, đó là việc Cơ quan An ninh điều tra Công an thành phố Hà Nội và tổ công tác thuộc Bộ Công an đã vào TP HCM bắt nhà báo Phạm Đoan Trang trong sáng ngày 6.10 vừa qua, về tội “Tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” …, nhưng thực chất không phải tội, mà đương sự bị bắt chỉ vì đã can đảm hoạt động đấu tranh cho dân chủ dân quyền vốn hoàn toàn phù hợp với những điều mà Hiến pháp Việt Nam 2013 đã cho phép (như ở các điều 14, 24…). Hay nói một cách khác, trong vụ này, nếu đứng trên phương diện Đảng cầm quyền độc tài, thì nhà báo nữ Đoan Trang có tội; còn nếu theo quan điểm lợi ích chung của nhân dân, thì người phụ nữ này không chỉ có công lớn mà còn biểu thị chút chí khí đáng nêu gương còn sót lại cho tất cả mọi người trong một bầu dân khí đã trở nên hèn đớn vì sự trấn áp lâu năm của Đảng cầm quyền độc tài suốt hơn nửa thế kỷ. Nhà báo Đoan Trang bị bắt, cũng như khoảng 200 người khác đang ngồi tù vì tội chính trị, có lẽ chỉ vì quá nhẹ dạ cả tin, dám đơn phương thực hiện một số quyền tự do đã ghi trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam!

Không kể lại rườm rà hàng trăm hàng ngàn vụ việc cũ trước đây đã làm, tất cả những vụ trấn áp tiêu biểu nổi bật như vừa kể trên chứng tỏ nhà cầm quyền đã ngang nhiên chà đạp dân chủ, bất chấp dư luận cả trong lẫn ngoài nước một cách cố ý, áp dụng chính sách trơ mặt, “chó sủa đoàn lữ hành cứ đi”, với quan niệm của một số kẻ độc tài tự đắc trong Đảng cầm quyền cho rằng chỉ cần chà đạp lên hiến pháp, dùng lực lượng công an trấn áp mọi cuộc khiếu kiện/ biểu tình của dân thì chẳng còn ai sẽ dám hó hé gì nữa!

Chúng tôi cho rằng việc sát hại ông Lê Đình Kình và việc bắt bớ nhà báo nữ Đoan Trang tuy hai việc khác nhau nhưng về bản chất và mức độ trầm trọng của ý đồ trấn áp dân chủ trên cả nước thì cũng chỉ là một, chứng tỏ nhà cầm quyền không còn giữ được sự bình tĩnh cần thiết để chủ động chấp nhận đối thoại với những người bất đồng chính kiến.            

Biện pháp chà đạp dư luận như trên có thể cũng là một trong những cách duy trì hiệu quả quyền lãnh đạo của Đảng, theo kiểu phát xít, trong một khoảng thời gian kéo dài thêm nào đó, nhưng lại là một sự lựa chọn mà theo kinh nghiệm lịch sử là quá thô thiển hiểm nguy, cho chính Đảng cầm quyền. Trái lại, với một đảng cầm quyền nếu chưa hẳn mụ mị mà còn giữ được chút sáng suốt, muốn cầm quyền được lâu hơn trong một đất nước ổn định, thì chính sách an dân phải được coi là một trong những mục tiêu chính trị quan trọng hàng đầu, bên cạnh những kế hoạch phát triển tất yếu phải lo về các mặt kinh tế-xã hội. Nay vụ Đồng Tâm không còn chuyện riêng của làng Đồng Tâm nữa mà đã trở thành cuộc khủng hoảng chính trị toàn quốc, cho thấy sự phá sản niềm tin của nhân dân và của giới nhân sĩ trí thức đối với chính quyền; là sự lúng túng bế tắc của nhà cầm quyền trong đối sách cần thiết đối với vận mệnh chung của dân tộc. Sự vượt qua được nỗi khó khăn này hay không sẽ vừa là thử thách vừa là thước đo trình độ nhận thức vấn đề cũng như tính linh hoạt nhạy bén cần thiết của những người cầm chịch đại cuộc trong việc giải quyết các vấn đề mâu thuẫn xã hội đang ngày càng gay gắt. Vì vậy, thay vì chà đạp dư luận như hiện nay, chúng tôi khuyến cáo Đảng CSVN nên coi những tiếng nói phản ứng dữ dội vừa qua từ vụ án Đồng Tâm, vụ án Hồ Duy Hải, vụ bắt nhà báo Đoan Trang… như là dấu hiệu phản ảnh nhắc nhở trung thực nhất của nhân dân giúp mình điều chỉnh đường lối xử sự sao cho phù hợp, biến thế bất lợi đang bị phong trào chỉ trích lên cao thành thế thuận lợi được hoan nghênh, trong tinh thần khiêm hạ, coi việc “chịu thua” nhân dân là một điều vinh dự giúp nhà nước mạnh lên chứ không phải sỉ nhục.   

Theo quan điểm của chúng tôi, xét cho cùng, vấn đề cốt lõi vẫn là phải tìm ra căn nguyên của sự việc, từ đó tìm hướng giải quyết rốt ráo và một cách có hệ thống, chứ không thể tính toán trên từng sự vụ riêng lẻ, dẫn đến hết sai lầm này đến sai lầm khác. Qua vụ án Đồng Tâm làm xôn xao dư luận mãi đến tận hôm nay, nổi bật lên hai vấn đề cần phải gấp rút cải cách, đó là về đất đai và về tư pháp.

Trong quá khứ, vào những năm 50 của thế kỷ trước, Đảng CSVN đã phạm phải tội ác tày trời trong cải cách ruộng đất (CCRĐ) và hợp tác hóa nông nghiệp theo mô hình Trung Quốc, mà sự sửa chữa đã không được thi hành triệt để, nên mới để xảy ra tình trạng động loạn xã hội liên tục trong suốt nhiều chục năm gần đây, biểu hiện cụ thể qua hàng trăm hàng ngàn cuộc tụ tập khiếu kiện đông người của nông dân về đất đai trên khắp cả nước từ Nam chí Bắc, còn hơn cả thời thực dân phong kiến. Theo tổng kết của các cơ quan chức năng, 80% các cuộc khiếu kiện của dân đều liên quan đến đất đai. Thực tế cũng cho thấy, khoảng 80% vụ việc bị xử lý kỷ luật đều dính tới quan chức các cấp từ địa phương đến trung ương, kể cả cấp thượng tướng, cấp ủy viên bộ chính trị, mà chức càng lớn, quy mô tham nhũng đất đai càng nhiều, càng phức tạp khó xử. Rõ ràng từ chính sách vô lý về đất đai, đã làm mất lòng dân, làm tha hóa hỏng bét bộ máy nhà nước với mức độ vô phương cứu chữa. Nếu bảo “đốt lò” để chống tham nhũng (chủ yếu là tham nhũng đất đai) thì không thể chống hiệu quả, vì như thế chỉ giải quyết phần ngọn, không giải quyết đi vào phần gốc, như mọi người đều trông thấy rất rõ. Hơn nữa ném chuột còn sợ vỡ đồ, ném mạnh và nhiều quá thì nhà nước chắc chắn sẽ không tránh khỏi tan hoang, và khi đó ngay cả Đảng lãnh đạo nếu không sụp đổ mới là chuyện lạ, vì trên thực tế của thể chế chính trị hiện nay, Đảng và Nhà nước cũng chỉ là một mà thôi.

Do vậy một trong những nội dung cải cách có tính đột phá khẩu để ổn định tình hình chính trị hiện nay là cần khởi đầu từ việc sửa đổi chính sách sở hữu về đất đai. Quy định “Đất đai… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” ghi trong Hiến pháp 2013 (Điều 53) và trong Luật Đất đai 2003 (Điều 5), chỉ cho dân hưởng “quyền sử dụng đất”, một khái niệm lập lờ đã được chế tác khéo, thực chất chỉ là thủ đoạn mị dân man trá để Nhà nước nắm cán chi phối, dễ dàng lạm dụng dưới hình thức “quy hoạch sử dụng đất” theo hướng có lợi cho một số nhóm đặc quyền làm giàu, như thực tế áp dụng bấy lâu nay đã hoàn toàn cho thấy rõ.

Cách làm luật rất dài dòng phức tạp cũng như sự áp dụng tùy tiện luật pháp chứa nhiều lỗ hổng như cái bẫy lừa đã gây nên biết bao nỗi phẫn uất trong dân và tình trạng động loạn xã hội, theo cách Nhà nước cứ như lo sợ đất đai lọt vào tay dân, trong khi lẽ ra đất đai phải nằm trong tay sở hữu và quyền sử dụng của dân thì nó mới trở nên có ý nghĩa và giá trị thật sự. Bởi lẽ đất nước, ngoài núi sông cây cỏ, chủ yếu bao gồm hai thành tố lãnh thổ và dân thì đất đai cũng thuộc của dân, phải chia ra cho dân sử dụng qua sự công nhận quyền sở hữu hẳn hoi với bằng khoán rõ ràng do chính phủ xét cấp. Một nhà nước nếu đúng “của dân, do dân, vì dân” như những lời tuyên bố thì lại càng phải để cho đất đai được nhân dân toàn dụng theo đúng quy định cần được cải cách hợp lý hơn của luật pháp về quyền sở hữu, chứ không thể muốn “giao” muốn “thu hồi” ra sao cũng được; nhà nước chỉ cẩn quản lý một số đất công, một vài quặng mỏ lớn và vùng trời vùng biển để phục vụ cho các nhu cầu thuộc lợi ích công cộng có tính toàn quốc. Nguyên tắc tập trung tư liệu sản xuất (kể cả đất đai) từ lâu đã tỏ ra lạc hậu, phá sản, không còn có thể áp dụng trong bất kỳ điều kiện nào mà có thể sinh ra hiệu quả tốt đẹp được nữa.

Vấn đề cốt lõi thứ hai, cũng rút ra từ sự kiện vụ án bất công Đồng Tâm cùng hàng trăm vụ án oan sai khác trước đó, đó là việc tiến hành cải cách tư pháp, bằng cách để cho tư pháp độc lập với chính quyền, giúp cho nền luật pháp quốc gia được trong sáng lành mạnh, mang lại lợi ích và sự công bằng cho tất cả mọi người dân trong xã hội. Xét trên một khía cạnh nào đó thì vụ án Đồng Tâm đầy khuất tất cũng có mang lại điều hữu ích, vì sự sôi sục tiếng nói phê phán của toàn dân lần này sẽ có tác dụng cảnh tỉnh giới hữu trách còn nhất điểm lương tâm, thúc đẩy họ chú ý nhiều hơn đến việc cải cách nền tư pháp đã tỏ ra quá sức bệ rạc.

Phải cải cách tư pháp trước hết, vì nếu bộ máy tư pháp thối nát mất hết hiệu lực như trước nay thì không chỉ hiến pháp mà bao nhiêu luật/ bộ luật khác cũng đều trở thành những mảnh giấy lộn, hoặc chỉ còn dùng làm phương tiện để lừa dối nhân dân, trang trí cho một hệ thống chính trị độc tài!   

Từ lâu, nhiều ý kiến chung cho rằng, muốn cho tư pháp độc lập với chính quyền thì phải không có sự chi phối của hành pháp, trong điều kiện hiện hữu của nước ta thì hành pháp được hiểu ngầm là Đảng + Nhà nước, lập pháp là Quốc hội, còn tư pháp là Công an + Viện kiểm sát + Tòa án. Thậm chí, có người còn cho rằng, muốn cho luật pháp được trong sáng, phải triệt tiêu quyền lãnh đạo độc tài của thể chế độc Đảng.

Chúng tôi không hoàn toàn chống lại loại ý kiến nêu trên, nhưng có một quan điểm hơi khác, ôn hòa hơn, dẫu biết rằng việc cải cách tư pháp tất yếu không thể tách rời khỏi các tiến trình cải cách chính trị rộng lớn hơn.  Chúng tôi chủ trương Đảng CSVN hiện hữu vẫn có thể tiếp tục điều hành đất nước và công cuộc cải cách tiếp theo với những đảng viên mới có đầy đủ học vấn, tầm nhìn và tư tưởng tiến bộ thay thế cho những đảng viên già nua bảo thủ đang nắm các quyền chủ chốt trong bộ máy Đảng và Nhà nước.

Như mọi người đều biết, do quan điểm “chính trị thống soái”, luật pháp lâu nay tại Việt Nam chỉ là hình thức trang trí cho chế độ, chủ yếu chỉ dùng để trừng trị áp bức tùy tiện đám dân đen thấp cổ bé miệng. Còn lại vẫn là “phủ bênh phủ huyện bênh huyện”, tuy nói xét xử không có ngoại lệ, không có vùng cấm nhưng thật ra chỉ là cách nói cho oai của một vài nhân vật lãnh đạo. Ngoài ra còn có nạn chạy án, “đa kim ngân phá luật lệ”, tình trạng tham nhũng hối lộ trong ngành tư pháp của giới công an-tòa án-viện kiểm sát cực kỳ phổ biến với sự tiếp tay của không ít luật sư chạy cò vô tương tâm. Trong điều kiện tranh chấp quyền lực như hiện nay, tư pháp cũng là nơi thực hiện ý chí của phe phái: một vụ án quan chức lớn tham nhũng đất đai bị đem ra xét xử thường bị dư luận cho rằng chẳng qua chỉ là nhằm triệt hạ một đối thủ hay nhóm đối thủ nào đó đang rơi vào thế yếu quyền lực, mà hành vi phạm pháp đã bị lộ, chứ không phải vì quyền lợi của nhân dân;  kẻ xử án lẫn người bị can đều một mặt nhơ nhuốc như nhau, vì bọn họ đều đã trở thành “bầy sâu”, “ăn không từ một thứ gì” (như lời phát biểu của ông nguyên Chủ tịch nước TTS và của bà nguyên phó Chủ tịch nước NTD)… Mà phần nhiều quan chức lớn vào tù cũng là “ở tù cha” với đủ các tiện nghi phục vụ cá nhân trong trại giam, còn có thể đem cả vợ con vào ở, chứ không như công dân Hồ Duy Hải thậm chí người mẹ muốn đi thăm đưa thức ăn vào cho con cũng không được phép!

Nói vắn tắt, ý chí chủ quan của cá nhân đương quyền đã đứng trên luật pháp, khiến cho tư pháp ngày càng kém nghiêm minh, dẫn tới nhiều vụ án oan sai; nạn tham nhũng chẳng những không bị trừng trị đích đáng theo đúng pháp luật mà còn phát triển ngày càng tăng nặng cả về số lượng lẫn quy mô vụ án.

Đó là tình trạng tệ hại của tất cả hệ thống tư pháp hiện nay của chúng ta, đòi hỏi bức thiết phải được cải cách. Việc cải cách này phải được bắt đầu từ sự chuyên môn hóa các quá trình điều tra xét xử, nâng cao trình độ nghiệp vụ và tính độc lập của cả luật sư lẫn thẩm phán tòa án, và nói cho thật gọn, chỉ là cần áp dụng triệt để những điều khoản được hiến pháp và một số bộ luật đã quy định, như cấm tra tấn, mớm cung ép cung chẳng hạn… Việc đút lót chạy án hay một cá nhân quyền lực nào đó can thiệp làm méo mó kết quả điều tra xét xử phải bị coi là một tội nặng đáng bị truy tố, và các viên thẩm phán nào chấp hành nghiêm minh luật pháp với đầy đủ lương tâm phải được nhân dân khen ngợi và luật pháp bảo vệ. Một tòa án hiến pháp như ở các nước văn minh vì thế cũng cần được thành lập để xét xử cho tất cả các trường hợp vi hiến cho dù kẻ vi phạm có quyền lực lớn mạnh đến đâu. Đồng thời, cũng cần chú ý bổ nhiệm đúng người đúng việc cho những chức vụ đứng đầu các cơ quan tư pháp; họ phải là những Bao Thanh Thiên của thời đại, coi việc thượng tôn luật pháp và bảo vệ số phận của người dân là trách nhiệm thiêng liêng.  

Trong khi chưa tiện nói đến đa nguyên đa đảng và tam quyền phân lập một cách rạch ròi, chúng tôi coi việc cải cách tư pháp theo hướng nêu trên như một động thái mở đầu tương đối nhẹ nhàng của quá trình cải cách chính trị, theo hướng đi từ cái cụ thể đến cái tổng quát, như một hình chóp nón đảo ngược, mà phần đáy mở rộng bên trên sẽ được coi là kết quả.

Để đảm bảo cải cách tư pháp hiệu quả, cần phát động một phong trào toàn Đảng toàn dân thực thi hiến pháp, vì chỉ có thông qua con đường thực thi đúng các điều khoản đã ghi trong hiến pháp, quốc gia mới được trị yên theo pháp luật và nhờ thế các quyền công dân mới được bảo vệ, các giá trị dân chủ mới được nảy nở, thúc đẩy đất nước và xã hội tiến lên.

Nói cách khác, lâu nay Đảng CSVN chưa thể hiện làm đúng hiến pháp, thì bây giờ phải điều chỉnh đúng, cho mọi công dân có quyền tự do ứng cử, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình, như Hiến pháp Việt Nam 2013 quy định thế thôi, chứ không có nghĩa đòi hỏi phải thay đổi chế độ chính trị, hoặc phải có một đảng khác đối lập thay thế cho Đảng CS đương quyền. Chúng tôi nhận thấy rằng, chỉ một số ít nhà lãnh đạo bảo thủ tham quyền cố vị mới cố tình trì hoãn việc thực thi hiến pháp, như họ đã ngăn cản việc thông qua luật biểu tình…; trái lại nếu là người thuộc phái tiến bộ thông đạt chính trị thì ai ai cũng ủng hộ việc xây dựng một nhà nước pháp quyền dân chủ, vì nếu không có pháp quyền dân chủ thì CNXH chỉ còn là một trò lừa đảo hại dân, trước sau cũng không thể tồn tại. Trong Đảng hiện nay, chỉ có hai phong cách lãnh đạo đất nước, một là trấn áp, hai là mở rộng dân chủ, thì nhân dân chắc chắn sẽ đứng về phía các nhà lãnh đạo biết tôn trọng dân chủ.

Như trên đã nói, việc cải cách tư pháp theo hướng tư pháp độc lập với hành pháp (Đảng + Nhà nước) tuy không thể tách rời với các tiến trình cải cách chính trị, nhưng điều này cũng không đồng nghĩa với việc chúng ta phải từ bỏ CNXH bấy lâu nay theo đuổi. Chúng ta trái lại vẫn kiên trì đi theo con đường CNXH nhưng là một thứ CNXH nhân bản tiến bộ được điều chỉnh nội dung thích hợp trên những phương diện thực hành của nó, chứ không phải thứ chủ nghĩa xã hội dị dạng (socialisme perverti) tàn phá con người kiểu Stalin và nhất là kiểu Mao, đã bị thế giới tiến bộ phê bình từ những năm 50 của thế kỷ trước, mà một số lãnh tụ cách mạng tiền bối của chúng ta đã mù quáng rập khuôn noi theo đẩy nhân dân miền Bắc vào vòng tăm tối giai đoạn trước 1954 và cả nhân dân hai miền Nam Bắc phải chịu điêu đứng thêm một thời gian dài giai đoạn sau 1975 khi đất nước đã được gồm thâu về một mối. Thực tế lịch sử cho thấy rằng, một số nhà chính trị CSVN, vì lý do để bảo vệ sự tồn tại của đảng cầm quyền trên hết, hoặc vì địa vị của chính bản thân họ, đã không hề nghĩ ra một sáng kiến hay đường lối thực hành thông minh nào khác với phương pháp/ đường lối vạch sẵn của Mao Trạch Đông, mà cứ bắt chước nhịp đi theo Trung Quốc từng bước một: bên kia có thổ địa cải cách thì bên đây có CCRĐ, bên kia tiến tới công xã nhân dân thì bên đây hợp tác hóa nông nghiệp ồ ạt, bên kia bách hoa tề phóng thì bên đây có trăm hoa đua nở (Nhân Văn Giai Phẩm), bên kia chống chủ nghĩa xét lại thì bên đây cũng bắt chước làm theo, bên kia có chiến tranh nhân dân thì bên đây có chiến tranh du kích tiêu thổ kháng chiến, bên kia chống hòa bình diễn biến thì bên đây chống diễn biến hòa bình, bên kia xoay ra dùng phương thức của chủ nghĩa tư bản để xây dựng CNXH mang màu sắc Trung Quốc thì bên đây có kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, bên kia có bốn hiện đại hóa thì bên đây có công nghiệp hóa hiện đại hóa, bên kia xây dựng đội ngũ dư luận viên để tuyên truyền chống lại những “ý kiến khác” thì bên đây cũng bắt chước làm tương tự, bên kia đả hổ diệt ruồi (“lão hổ, thương dăng, nhất khởi đả”) thì bên đây có “đốt lò” chống tham nhũng, bên kia sáp nhập hai chức chủ tịch-tổng bí thư thì bên đây có đồng chí chủ tịch-tổng bí thư X…, nhất nhất đều làm theo như thế cả chứ không có sáng kiến gì đặc biệt để lo cho hạnh phúc của toàn dân, với kết quả của cả hai bên “bốn tốt mười sáu chữ vàng” này là gần gần giống nhau, nghĩa là tuy có làm cho kinh tế tăng trưởng thoát được một phần nạn đói nghèo nhưng tất cả những gì tệ hại nhất trong xã hội thì đều có đủ, tiêu biểu là quốc nạn tham nhũng, tình trạng bất công xã hội, khủng hoảng môi sinh và xuống cấp văn hóa…,  đã đạt tới mức lâm nguy vô phương cứu chữa.

Nếu tính về phần phía Bắc Việt Nam, từ năm 1954 và từ vĩ tuyến 17 trở đi, Việt Nam vẫn là đứa học trò ngoan ngoãn của Trung Quốc theo Khổng giáo rồi theo Maoit; từ vĩ tuyến 17 trở vào, bộ phận VNCH có thời gian dung hợp được Đông Tây trên mô hình phát triển nhưng kéo dài chỉ được 20 năm rồi chết yểu. Tuy nhiên, đó chỉ là quá khứ cần phải dẹp qua, còn trong hiện tại, tình hình thế giới và các mối tương quan chính trị quốc tế đã có nhiều biến đổi, trình độ nhận thức của đảng viên Việt Nam và của nhân dân trong nước đã khá lên hơn nhiều, giờ đây “người học trò” Việt Nam đã có thể chủ động vượt lên hơn “thầy” bằng cách đi trước một bước cải cách chế độ sở hữu ruộng đất và nền tư pháp, từ đó thay đổi dần nội dung CNXH theo hướng mở rộng dân chủ hóa như các nước văn minh, mà mô hình không phải tìm đâu xa, vì đã có sẵn một số hình mẫu tham khảo như ở một vài xứ Bắc Âu, hoặc như Singapore… ở Đông Nam Á. Điểm thuận lợi của nước ta là quy mô dân số vừa phải, gánh nặng cơm áo nhẹ nhàng, mâu thuẫn xã hội và giữa các địa phương tuy vẫn có nhưng ít gay gắt hơn so với Trung Quốc; bản tính người Việt Nam lại hiền hòa hơn, và đã có sẵn một đảng CS cầm quyền đầy kinh nghiệm nắm vững giềng mối thống nhất để điều hành cải cách.

Trong hơn chục năm gần đây, Trung Quốc ngày càng lấn lướt xâm lược biển đảo của Việt Nam thì đây chính là điều kiện và thời cơ lịch sử tốt nhất để Việt Nam “thoát Trung”, bằng con đường cải cách CNXH, củng cố nội trị hướng về lòng dân, lắng nghe tiếng nói của nhân dân. Làm được như vậy, Đảng CSVN sẽ mạnh lên mau chóng, trở thành đảng tiên phong đích thực, chắc chắn sẽ nhận được sự hoan nghênh ủng hộ của toàn thể nhân dân và các chính quyền văn minh trên thế giới, đồng thời cũng nêu gương tốt được cho một số nước XHCN lạc hậu còn lại như Bắc Triều Tiên, Cuba noi theo, thậm chí không loại trừ còn có thể tạo ảnh hưởng tích cực kích động cho nhân dân Trung Quốc đứng lên đòi hỏi chính quyền của họ phải cải cách theo đường hướng dân chủ. Đây là điều Việt Nam hoàn toàn có thể làm được, một khi số nhà lãnh đạo cấp cao trong Đảng lâu nay khư khư bám lấy giáo điều cũ kỹ Mác-Lênin kịp thời tỉnh ngộ chuyển hướng để đoàn kết hợp tác với những nhà lãnh đạo có tư tưởng cấp tiến. Đây cũng là một trong những điều kiện tiên quyết để thoát Trung một cách hòa bình và hiệu quả, mà những người thực hiện sẽ được ghi phương danh vào sử sách không chỉ của Việt Nam mà của cả thế giới nữa; bằng như ngược lại, để cho đất nước đắm chìm trong tình trạng lạc hậu, họ sẽ bị di xú nghìn năm, nhân dân nguyền rủa.

Khi đề cập đến “thoát Trung”, chúng tôi hoàn toàn không có ý tưởng kêu gọi bất hợp tác hay là tẩy chay Trung Quốc trên các mặt quan hệ về kinh tế, về văn hóa-giáo dục…. Thoát Trung không phải là chống Trung, mà theo quan niệm của chúng tôi chỉ có nghĩa là chủ động tách khỏi ảnh hưởng của đường lối chính trị lạc hậu kiểu Mao mới (Neo-Maoism), vốn đã và đang bị chính nhân dân Trung Quốc cực lực lên án và cũng đang muốn vùng vẫy thoát khỏi sớm được ngày nào hay ngày ấy. Về đường lối ngoại giao, chúng tôi cho rằng, kiên trì lập trường ôn hòa với nước láng giềng Trung Quốc như hiện nay là khôn khéo cần thiết, còn việc lấy lại một số đảo đã bị Trung Quốc cưỡng chiếm thì có lẽ cần phải chờ thêm thời gian cho đến khi đạt đủ các điều kiện tương quan quốc tế thuận lợi, mà Đảng CSVN là hoàn toàn có khả năng, kinh nghiệm và bản lĩnh để làm được.  

Công việc tiếp theo là phải tu chính hiến pháp, bầu lại Quốc hội theo thể thức thật sự dân chủ (không có nạn cơ cấu, hiệp thương… như một thể thức xếp đặt sẵn trước), sửa lại một số điều luật trong những luật sẵn có, soạn thêm một vài luật mới cho phù hợp với đường hướng cải cách CNXH, thực hiện cuộc cách mạng ôn hòa lần thứ hai cũng do Đảng CSVN lãnh đạo.

Khẩu hiệu của đại hội lần thứ 13 của DẢNG là “ xây dựng nước VN dân chủ, giàu manh, công bằng , văn minh”. Dân chủ là con đường duy nhất đúng mà mọi quốc gia nếu muốn phát triển lớn mạnh trước sau gì cũng phải tuân theo. Chỉ một số nước XHCN theo mô hình toàn trị cũ (như Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên…) do bản thân không đủ chính nghĩa nên mới cần hạn chế dân chủ và trù dập những tiếng nói phê bình của công dân, vì sợ “diễn biến hòa bình” sẽ làm mất Đảng. Trong khi đó lẽ ra cần phải hiểu ngược lại: hạn chế tiếng nói phê bình của người dân là cách tốt nhất đi tới sự sụp đổ. Dân chủ là chân lý bất di bất dịch của thời đại, là mệnh lệnh của con tim và lý trí nhân loại, và vì thế Việt Nam vẫn có thể tiếp tục theo đuổi con đường CNXH nhưng là một thứ CNXH cách tân, có thể tạm gọi CNXH dân chủ, và đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Dân chủ Việt Nam. Đó là một bước đột phá của đại hội 13 làm nền tảng cho các đại hội sau này.

Hiện nay, thực tế ai cũng biết, trong nội bộ Đảng CSVN đang có nhiều biểu hiện phân liệt mất đoàn kết. Trước thềm Đại hội Đảng XIII sẽ diễn ra vào đầu năm sau, các phe phái tung đòn choảng nhau kịch liệt để tranh giành quyền lực vào ngôi “tứ trụ” thì đây là điều hết sức nguy hiểm cho vận mệnh dân tộc khi đứng trước mối hiểm họa Trung Quốc. Trước tình trạng bất nhẫn đáng tiếc này, quan điểm của nhóm CLB Lê Hiếu Đằng là hoàn toàn không đứng về bất kỳ phe phái hoặc cá nhân tranh giành quyền lực nào, bởi chúng tôi không trực tiếp tham chính. Nhưng chúng tôi mạnh dạn kêu gọi sự đoàn kết nhất trí, với mong muốn toàn thể đảng viên Đảng CSVN và nhân dân Việt Nam hãy đứng về phía những nhân vật chính trị có đầu óc tiến bộ muốn thi hành thực chất Hiến pháp Việt Nam 2013 với một số điều khoản sẽ phải được tu chính liên quan đến quyền sở hữu đất đai, các quyền tự do dân chủ, đi cùng với bộ máy tư pháp sẽ phải được cải cách hữu hiệu. Chúng tôi tin tưởng trong giới lãnh đạo Đảng hiện nay vẫn còn không ít người có lương tâm và trách nhiệm, tha thiết muốn dẫn dắt dân tộc Việt Nam đi theo con đường sáng của văn minh nhân loại. Nếu lực lượng của phái tiến bộ này mà có xu hướng mạnh lên được với đa số áp đảo để nắm lấy quyền điều khiển đất nước trong Đại hội XIII, chúng tôi tin chắc rồi đây những vụ án như vụ Hồ Duy Hải, vụ Đồng Tâm… sẽ được đưa ra tái thẩm một cách công bằng và đúng pháp luật hơn; những người như nhà hoạt động nhân quyền Đoan Trang cùng một số tù nhân lương tâm đang bị giam hãm khác sẽ được phóng thích, trong một tương lai không xa.

Có thể nói, diễn biến rất đặc biệt của vụ án Đồng Tâm và một số vụ khác tương tự vô tình đã làm bật ra nhiều vấn đề chính trị bức xúc đòi hỏi phải tiếp tục cải cách. Đây cũng là thời cơ và sự thách thức hết sức quan trọng, đang đặt ra cho các nhà lãnh đạo Việt Nam trước thềm Đại hội XIII Đảng CSVN dự kiến sẽ diễn ra vào đầu năm sau.

Ngày 24.10.2020

TM Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng

Lê Thân

THƯ GÓP Ý VỚI CÁC VỊ LÃNH ĐẠO

HUỲNH TẤN MẪM VÀ NNN/ viet-studies/ BVN 25-10-2020


KÍNH GỬI CÁC VỊ LÃNH ĐẠO ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC

Trên mạng lưới báo chí và truyền thông đại chúng đã đăng dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII và kêu gọi đảng viên, nhân dân góp ý.

Hưởng ứng lời kêu gọi đó, chúng tôi trân trọng góp đôi điều với Đảng như sau:

1. Đại hội Đảng 13 đang được tiến hành từ cơ sở trở lên theo nguyên tắc tập trung dân chủ được ghi rõ trong Điều lệ Đảng. Dõi theo tiến trình Đại hội từ cấp cơ sở lên đến tỉnh, thành phố, chúng tôi thấy nguyên tắc đó bị vi phạm nghiêm trọng. Ví dụ nổi bật nhất là việc điều động khá nhiều đảng viên về tham gia cấp ủy và nói rõ những đảng viên này sẽ là Bí thư Thành ủy, hay Tỉnh ủy để rồi đại hội sẽ bầu như trường hợp Đảng bộ TP Hồ Chí Minh và Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp là ví dụ.

Đối chiếu mục 4, Điều 2, Chương 2 Nguyên tắc Tổ chức và Cơ cấu tổ chức ghi trong Điều lệ Đảng: “Việc chỉ định đại biểu chỉ thực hiện đối với tổ chức đảng hoạt động trong điều kiện đặc biệt không thể mở đại hội để bầu cử được, theo quy định của Bộ Chính trị và Mục 6, Điều 13: “Đối với tổ chức đảng không thể mở đại hội được, cấp ủy cấp trên trực tiếp chỉ định cấp ủy của tổ chức đảng đó”. Vậy mà, các cấp ủy Đảng nói trên đâu phải là những đơn vị “hoạt động trong điều kiện đặc biệt không thể mở đại hội để bầu cử được, theo quy định của Bộ Chính trị cũng không là “không thể mở đại hội được, để cần phải có cấp ủy cấp trên trực tiếp chỉ định cấp ủy của tổ chức đảng đó”. Vậy thì việc điều động ông Nguyễn Văn Nên về làm Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, hay điều động ông Lê Quốc Phong, về làm Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp “rồi sẽ được Đại hội bầu” là vi phạm Điều lệ Đảng.

Điều này gây xôn xao trong dư luận: liệu có phải ông Nguyễn Thiện Nhân và Thường vụ Thành ủy TP Hồ Chí Minh, ông Lê Minh Hoan và Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Tháp đã vi phạm điều gì nghiêm trọng lắm mà phải vô hiệu hóa ngay không thì không kịp. Người ta liên tưởng đến trường hợp ông Nguyễn Đức Chung, Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội, Chủ tịch UBND TP Hà Nội bị bắt cấp tập khi Hà Nội đang chuẩn bị Đại hội! Nếu không phải vì lý do nói trên thì là một sự áp đặt, mất dân chủ trầm trọng. Trường hợp điều động ông Lê Minh Hoan, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp, một Bí thư Tỉnh ủy năng động, gần dân, có uy tín cao trong đảng viên và nhân dân tỉnh Đồng Tháp về làm Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng là một ví dụ khá điển hình về sự áp đặt.

Phải nói rằng, riêng về Đảng, Tổng Bí thư và Bộ Chính trị lãnh đạo kiểu gì, mà để “chào mừng Đại hội 13” là một loạt những bắt bớ, trong đó có khá nhiều đảng viên đang giữ những chức vụ quan trọng. Trong lịch sử đảng, chưa bao giờ có tình hình bắt bớ những tướng lĩnh, quan chức cấp cao trước khi Đại hội. Điều này nói lên sự thoái hóa, biến chất của Đảng, trước hết là của những người gánh vác trọng trách cao nhất, đặc biệt là trong 10 năm gần đây với hai nhiệm kỳ ông Nguyễn Phú Trọng là Tổng Bí thư, cuộc chiến quyền lực ngày càng quyết liệt và gay cấn. Phải chăng cũng vì vậy mà có sự điều động cấp tập và chỉ định trước khi đại hội đại biểu bầu bí thư một cách bất thường, mang tính áp đặt của người đang nắm quyền lực trong tay.

Ai đó sẽ lập luận rằng: rồi vẫn là do Đại hội bầu đấy thôi. Thì đúng thế, Đại hội vẫn bầu. Từng đại biểu sẽ lần lượt bỏ lá phiếu vào hòm phiếu một cách vô cảm, trừ những người đã thấy trước vị thế của mình với cách bầu cử kiểu này! Không hề có vận động tranh cử, chỉ có điều động và chỉ định, lẩn tránh việc lựa chọn công khai và dân chủ ngay tại Đại hội Đảng. Rõ ràng là cách làm trên cho thấy việc bố trí nhân sự (mà việc điều động và chỉ định vừa nói cũng chỉ là một ví dụ nhỏ) thể hiện khá tâp trung sự lúng túng và bối rối trong việc phân chia quyền lực. Ở đây, hoàn toàn là cuộc chiến giữa các thế lực đang nắm giữ các trọng trách của đất nước, còn tuyệt đại bộ phận đảng viên đứng ngoài cuộc. Đảng viên đã vậy thì nhân dân càng xa lạ với chuyện của Đảng mà quên rằng, rồi đây họ sẽ gánh chịu hệ lụy của các quan chức trong Đảng vừa được bầu ra!

2. Đại hội Đảng các cấp từ cơ sở đến Trung ương đang lần lượt diễn ra, đặc biệt là Đảng bộ Hà Nội tiến hành với mọi nghi thức trọng thể vẫn không thể làm lu mờ cái chết oan khốc của đảng viên Lê Đình Kình, 84 tuổi, 56 tuổi Đảng, sinh hoạt tại cơ sở Đảng xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức thành phố Hà Nội từng giữ nhiều chức vụ trong Đảng tại cơ sở, chưa hề bị kỷ luật, được đảng viên và dân làng mến phục nhưng đã bị khởi tố và rồi bị bắn chết một cách dã man. Về sự kiện dã man này, một đảng viên từng là quan chức nói với đài BBC đó là cách hành xử của thời trung cổ! Liệu rồi trong Đại hội sẽ thành công tốt đep có ai dám nêu lại sự kiện Lê Đình Kình, một sự kiện vô tiền khoàng hậu, trời không dung, đất không tha không?

Cũng như vậy, vụ Hồ Duy Hải dường như không được nhắc lại trong suốt thời gian qua. Phiên “Giám đốc thẩm” do chánh án Nguyễn Hòa Bình chủ trì đã bị dư luận chỉ rõ là sai Luật, vi pham Hiến pháp. Nghiêm trọng đến nỗi Ủy ban Thường vụ Quốc hội phải lên tiếng qua bà Lê Thị Nga, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, nay là Chủ nhiệm, đã đưa ra một báo cáo với kết luận minh bạch, vạch trần bản án đã sai từ khâu điều tra cho đến xét xử, rồi đến phiên Giám đốc thẩm. Những sai trái đó nói lên rằng nền tư pháp Việt Nam không có công lý.

Trong ý kiến gửi đến các cơ quan có thẩm quyền cao nhất ngày 23.7.2020, chúng tôi đã nêu rõ những sai trái đó và đề nghị thi hành kỷ luật người đứng đầu trong phiên Giám đốc thẩm. Thế nhưng cho đến hiện nay mọi sự việc đều rơi vào sự im lặng đáng sợ. Người chịu trách nhiệm cao nhất ngồi ghế chủ tọa phiên Giám đốc thẩm vi phạm pháp luật, vi phạm Hiến pháp vẫn bằng chân như vại, và nghe đâu còn được đưa lên cao hơn nữa trong cơ cấu nhân sự của ông Tổng Bí thư. Như ai đó đã nói rất đúng: "Đây là phần nổi của tảng băng đang bào mòn lòng tin của người dân. Đồng thời là hồi chuông để thôi thúc Quốc hội quyết liệt hơn nữa trong trách nhiệm giám sát của mình để đảm bảo pháp luật được thượng tôn, niềm tin nhân dân vào nền tư pháp được củng cố, góp phần làm trong sạch cơ quan bảo vệ pháp luật".

3. Tiến trình thực hiện Đại hội Đảng các cấp cũng là tiến trình bắt bớ và đàn áp những người bất đồng chính kiến mà trường hợp cô Phạm Đoan Trang, nhà báo, người viết sách, được trao Giải thưởng Homo Homini do tổ chức People in Need vinh danh là “một trong những nhân vật hàng đầu bất đồng chính kiến”, đồng thời cũng được tổ chức Phóng viên không biên giới trao giải “Tự do báo chí” năm 2019, là một ví dụ. Phát ngôn nhân của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam đã lên tiếng về vụ bắt bớ này. Cùng với Pham Đoan Trang, nhiều người khác cũng đang chịu nhiều sức ép vô lý từ bộ máy toàn trị, phản dân chủ, vi phạm nhân quyền.

Một không khí ngột ngạt đang lan tỏa trong xã hội. Điều này càng làm cho dân xa Đảng, đối phó với Đảng, giảm sút nghiêm trọng niềm tin với Đảng, một đảng cầm quyền. Chính những lý do nói trên đã thúc giục chúng tôi gửi bức thư đề đạt ý kiến này sau bức thư ngày 23.7.2020.

Kính mong các vị lãnh đạo nghiêm túc xem xét.

TP Hồ Chí Minh ngày 25.10.2020

*Huỳnh Tấn Mẫm, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, tù chính trị trước 1975, bác sĩ Y khoa, Đại biểu Quốc hội khóa 6, hiện làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh.

*Lê Công Giàu, nguyên là cán bộ hoạt nội thành trước 1975, tù chính trị trước 1975, Phó Bí thư thường trực Thành đoàn Thanh niên sau 1975.

*Huỳnh Kim Báu, tù Côn Đảo trước 1975, nguyên Tổng Thư ký Hội Trí thức Sài Gòn sau 1975.

*Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế, Thành phố Hồ Chí Minh.

*Tương Lai, nguyên thành viên tổ Tư vấn Võ Văn Kiệt, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam.

Các tác giả gửi BVN.

VÀI Ý KIẾN VỀ BÁO CÁO CHÍNH TRỊ ĐẠI HỘI 13

NGUYỄN ĐÌNH CỐNG/ TD 25-10-2020



Hưởng ứng lời kêu gọi góp ý kiến, tôi xin nêu một vài nhận xét ban đầu khi so sánh với các tài liệu trước.

Về quy mô: Báo cáo tại ĐH 13 dài trên 3 vạn chữ, có ngắn hơn so với BC ĐH 12 (gần 4 vạn chữ). Đọc từng câu, thấy câu nào cũng đúng, cũng hay; nhưng đọc từng đoạn, phát hiện ra sự lắp ghép thô thiển. Còn đọc toàn bộ, mới thấy sự tổ hợp lộn xộn của một đống ngôn từ, những câu khẩu hiệu, những lời khoe khoang và sáo rỗng.

Đoạn mở đầu viết: “Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó lường; đất nước đang đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi và nhiều khó khăn, thách thức đan xen, nhiều vấn đề mới đặt ra phải giải quyết; cán bộ, đảng viên, nhân dân đặt kỳ vọng vào những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ của Đảng để phát triển đất nước ta nhanh và bền vững hơn. Đại hội được tổ chức vào thời điểm toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu và nhiệm vụ được xác định trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; đất nước trải qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020”.

Báo cáo tại ĐH 12 cũng có đoạn như trên, nhưng viết vào phần giữa của Lời nói đầu, như sau: “Đại hội diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, rất phức tạp, khó lường; đất nước đứng trước nhiều vấn đề mới, có cả những thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức gay gắt. Cán bộ, đảng viên và nhân dân đặt nhiều kỳ vọng vào những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ, phù hợp của Đảng để phát huy thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn, tiếp tục đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững. Vì vậy, Đại hội XII có ý nghĩa rất quan trọng, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong 5 năm tới”.

Về tầm quan trọng: Báo cáo ĐH 12 viết, Đại hội lần thứ XII của Đảng họp vào thời điểm có ý nghĩa rất quan trọng.

Trong Tóm tắt dự thảo BCCT tại ĐH 13 (bản để lấy ý kiến tại đại hội các cấp) có câu mở đầu: “Đại hội XIII có ý nghĩa đặc biệt quan trọng”.

Từ chỗ “rất quan trọng”, đến “đặc biệt quan trọng”. Nhưng rồi trong văn bản mới nhất lại không thấy các từ ấy xuất hiện (tôi đã cố tìm mà chưa thấy. Phải chăng ai đó đã nhận xét về tính chất đặc biệt quan trọng này và có người đã nhận ra).

So sánh cơ cấu BCCT của ĐH XII (ký hiệu A) và của ĐH XIII ( ký hiệu B) tôi thấy giống nhau đến trên 90%. Mỗi BC gồm các mục như sau (A gồm 16 mục, B gồm 15 mục)

Mục I

A- I- ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI (2011 – 2015) VÀ NHÌN LẠI 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 – 2016)

1. Đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI; nguyên nhân và kinh nghiệm

2. Nhìn lại 30 năm đổi mới (1986 – 2016)

B- I- KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XII VÀ CƠ ĐỒ ĐẤT NƯỚC SAU 35 NĂM ĐỔI MỚI

1. Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, nguyên nhân và kinh nghiệm

2. Đánh giá chung về 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung, phát triển năm 2011), 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới

Mục II

A- II- MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ TỔNG QUÁT PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 5 NĂM 2016 – 2020

1. Dự báo tình hình thế giới và đất nước những năm sắp tới

2. Mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước trong 5 năm tới

B- II- TẦM NHÌN VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN

1. Dự báo tình hình thế giới và đất nước những năm sắp tới

2. Quan điểm chỉ đạo

3. Mục tiêu phát triển

4. Định hướng các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2025

5. Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030

Mục III

A- III- ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG, CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ; ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

B-III- ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG, CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ; ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ, PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC NHANH, BỀN VỮNG

Mục IV

A-IV- HOÀN THIỆN THỂ CHẾ, PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

B-IV- HOÀN THIỆN TOÀN DIỆN, ĐỒNG BỘ THỂ CHẾ, PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Mục V

A-V- ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO; PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

B-V- ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC, PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Mục VI

A-VI- PHÁT TRIỂN VÀ ỨNG DỤNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ

B-VI- THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI SÁNG TẠO, CHUYỂN GIAO, ỨNG DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN MẠNH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Mục VII

A-VII- XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI

B-VII- XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA, SỨC MẠNH CON NGƯỜI VIỆT NAM

Mục VIII

A-VIII- QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI; THỰC HIỆN TIẾN BỘ, CÔNG BẰNG XÃ HỘI

B-VIII- QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI BỀN VỮNG, BẢO ĐẢM TIẾN BỘ, CÔNG BẰNG XÃ HỘI

Mục IX

A-IX- TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN; BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG; CHỦ ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG THIÊN TAI, ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

B-IX- QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ ĐẤT ĐAI, TÀI NGUYÊN, BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG, CHỦ ĐỘNG THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Mục X

A-X- TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG, AN NINH, BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TÌNH HÌNH MỚI

B-X- TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG, AN NINH, BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Mục XI

A-XI- NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ

B-XI- TRIỂN KHAI ĐỒNG BỘ, SÁNG TẠO, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ TOÀN DIỆN, SÂU RỘNG

Mục XII

A-XII- PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

B-XII- PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC,

A-XIII- PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN

B-XII- DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN

Mục XIII

A-XIV- XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

B- XIII-XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Mục XIV

A-XV- XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG

B-XIV-XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG

Mục cuối

A- XIV- SÁU NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM TRONG NHIỆM KỲ ĐẠI HỘI XII

B- XV- NHỮNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM, CÁC ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC TRONG NHIỆM KỲ ĐẠI HỘI XIII

KIẾN NGHỊ KÍNH GỬI TỔNG BÍ THƯ-CHỦ TỊCH NƯỚC NGUYỄN PHÚ TRỌNG VÀ TOÀN THỂ  BỘ CHÍNH TRỊ ĐẢNG CÔNG SẢN VIỆT NAM 


NGUYỄN TRUNG/ viet-studies 18-10-2020


Thưa các Đồng chí,

 

           Với trách nhiệm công dân, hưởng ứng kêu gọi lần này của Đảng về góp ý cho Đại hội XIII, tôi trân trọng đề nghị Tổng bí thư – Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và toàn thể Bộ Chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa Đại hội XII quan tâm 5 vấn đề dưới đây.

 

1.     Tổng bí thư – Chủ tịch nước nên quyết định tiến hành xử lại vụ án Đồng Tâm đúng với luật pháp hiện hành và mọi quy định đã ghi thành Luật về các thủ tục điều tra và xét xử, nhằm làm rõ sự việc, xử đúng việc đúng người, tránh oan sai. Qua việc xử lại vụ án này với nhận thức đúng đắn như vậy, thúc đẩy ý thức thượng tôn pháp luật trong toàn Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị - nhà nước của quốc gia. Vụ Đồng Tâm là một vết thương nghiêm trọng đối với dân tộc, đánh dấu một bước phát triển nguy hiểm cho đất nước. Dư luận chân chính trong nước và bè bạn quốc tế không tán thành cuộc trấn áp, cách xét xử vụ án, và bản án sơ thẩm đã công bố ngày 14-09-2020.

 

Nhân đây xin nhắc lại kinh nghiệm cũ: Khi nhận thức được sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất (CCRĐ), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bí thư Trường Chinh hồi ấy đã tự nhận hết trách nhiệm về riêng mình, và quyết định sửa sai triệt để, nhờ vậy cả miền Bắc một bề yên lòng, cùng nhau khắc phục được mọi thương đau và tổn thất đã xảy ra. Sau đó tất cả mới có thể cùng nhau dốc lòng chuẩn bị cho kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhờ đó có được hôm nay. Chủ lực trực tiếp đảm nhận gánh nặng lớn nhất của toàn bộ sự nghiệp này là tầng lớp nông dân của chúng ta.    

 

Mong rằng việc xử lại theo tinh thần như vậy vụ Đồng tâm sẽ nói lên ý chí của lãnh đạo ĐCSVN quyết đổi mới nền tư pháp hiện nay – một trong những đòi hỏi rất cấp bách của đất nước trước tình hình và nhiệm vụ mới. Hợp lý nhất là Tổng bí thư – Chủ tịch nước nên ban bố quyết định này trước khi họp Đại hội XIII, tạo ra trong Đảng một tinh thần dám nhìn thẳng vào sự thật và củng cố đoàn kết dân tộc, quyết vượt qua mọi sai lầm, khó khăn, thách thức, cùng nhau nắm bắt thời cơ mới, đưa đất nước vào một thời kỳ phát triển mới.

 

 

 

Kính thưa Tổng bí thư – Chủ tịch nước và toàn thể Bộ Chính trị,

 

Tại đây, tôi xin trình bầy thêm một phương án khác nữa, rất mong được cân nhắc:

Trong thâm tâm, suy nghĩ kỹ, tôi mong muốn: Đúng đắn nhất có lẽ là nên quyết định hủy vụ xử án này, để xử lý vụ Đồng Tâm bằng con đường dân sự theo tinh thần sửa sai (gọi là phương án sửa sai) như đã làm trong cải cách ruộng đất. Kinh nghiệm một năm trời (1956-1957) tôi trực tiếp đi sửa sai CCRĐ[1] ở Trực Ninh – Nam Định, khiến tôi vô cùng nhức nhối về vụ Đồng Tâm, thôi thúc tôi đưa ra phương án này.

 

Vụ Đồng Tâm xảy ra vì bất kỳ nguyên do gì – rồi sẽ phải làm rõ, nhưng đã làm cho đất nước lâm vào những khó khăn nội tại mới, rất nhạy cảm, đẩy đất nước lún sâu hơn nữa vào xu thế mang tính quy luật của chế độ toàn trị: nội trị xuống cấp, trấn áp gia tăng – ngày càng đi vào chiều hướng tới một điểm nào đó sẽ không thể đảo ngược được nữa, với triển vọng đen tối cho cả nước. Giữa lúc này những thách thức đối với nước ta và mọi nguy cơ uy hiếp mới nhiều bề từ bên ngoài ngày càng lớn. Toàn bộ thực tế quyết liệt này đòi hỏi nước ta sống hay là chết phải chuyển đoạn đi vào một thời kỳ phát triển mới, và sống hay là chết nước ta phải giành bằng được một vị thế quốc tế mới để thoát khỏi thế bị giằng xé và lệ thuộc hiện nay, để tự quyết định lấy vận mệnh của nước mình! Hòa bình và tương lai của đất nước đang quyết liệt đòi hỏi như vậy

-        Tiếp tục đi sâu nữa vào con đường đang đi với triển vọng đen tối của chế độ toàn trị hiện nay đối với Đảng và đối với quốc gia, đành chịu để cho nội tình phân tán, chia rẽ, tiềm năng phát triển của đất nước tiếp tục bị kìm hãm, uy hiếp, nguy cơ đổ vỡ và bạo loạn bên trong gia tăng, ý chí chiến đấu của quốc gia có lúc mang những biểu hiện phân tán, tê liệt trước sự can thiệp từ bên ngoài và nguy cơ xâm lược?    

-        Hay là Đảng quyết rũ bỏ chế độ toàn trị này để mở đường sống cho bản thân mình và cho đất nước, đem tất cả nghị lực giành lấy một tương lai mới, nước mình tự làm chủ vận mệnh của mình trong một thế giới đầy bất định và giành giật nhau quyết liệt, để đất nước có hòa bình, phát triển và hạnh phúc?

 

Thực ra, ngay từ khi bước sang thế kỷ 21 đất nước ta đã đứng trước hai câu hỏi định mệnh nói trên, và từ hồi ấy cho đến hôm nay trong nước liên tục có nhiều tiếng nói cảnh báo rất sớm, nhưng vô ích. Cục diện quốc tế mới hôm nay quyết liệt và căng thẳng hơn rất nhiều, thôi thúc ráo riết ĐCSVN và đội ngũ lãnh đạo của Đảng phải hành động trước khi quá muộn. Xin hãy nhìn ra toàn thế giới và nhìn kỹ những gì hiện đang xẩy ra ở Đông Nam Á, trên Biển Đông, những diễn biến khác ở nhiều quốc gia – nhất là ngay trong khu vực mình.., để hiểu được hai câu hỏi định mệnh nêu trên đang ngày càng nóng bỏng đối với quốc gia!

 

Người đời nói và nói đúng: Ngoại trừ bị đập tan hay sụp đổ – chưa thấy một đảng cộng sản nào nắm quyền ở bất kỳ đâu trên thế giới này có thể tự thay đổi được chính nó.

 

Nhưng 4 cuộc trường kỳ kháng chiến cứu nước đã đòi hỏi dân tộc ta phải chịu đựng những hy sinh tổn thất không lời nào nói hết mới có được hôm nay. Vì thế tôi thấy dứt khoát phải làm mọi việc chặn đứng cho đất nước ta nguy cơ một cuộc bể dâu mới sẽ lại cướp đi tất cả, để quyết khai phá con đường sống cho đất nước và cũng là con đường tối ưu cho sự nghiệp của Đảng. Phải nói với nhau hết lời: Tình hình đã tới mức ĐCSVN cách mạng đã từng dẫn dắt nhân dân hoàn thành sự nghiệp độc lập thống nhất, nhưng hôm nay chỉ còn cách một cái xảy chân để có thể ngã xuống biến thành trở lực đối kháng của dân tộc, nhất là giữa lúc Việt Nam hôm nay đang có trong tay cơ hội vượt qua mọi thách thức hiểm nghèo để giành lấy một tương lai xán lạn! Chưa bao giờ như hôm nay Việt Nam đang được hầu hết mọi đối tác coi là điểm đến giầu tiềm năng và rất hứa hẹn trong thế giới đầy xáo động này! Bè bạn thế giới đều muốn có một Việt Nam là một nhân tố không thể thiếu cho hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực! Vì thế, hơn bao giờ hết, lãnh đạo Đảng phải chắt chiu từng cơ may nhỏ nhất, hội tụ mọi khát vọng cháy bỏng của nhân dân cả nước thành sức mạnh đổi đời đất nước. Nắm vận mệnh đất nước trong tay, nếu Đảng không thực hiện được sứ mệnh này sẽ là mắc trọng tội đối với đất nước và tổ tiên! Đấy là những lý do tôi quyết định nói với các Đồng chí: 

 

Dựa vào trí tuệ và ý chí cả nước, với tất cả bản lĩnh lãnh đạo của mình, các Đồng chí phải có gan lựa chọn cho đất nước phương án sửa sai vụ Đồng Tâm, chặn đứng xu thế diễn biến cực kỳ nguy hiểm của độc tài toàn trị, để từ điểm nhấn dám sửa sai này, Đảng thực hiện bước đột phá: Phát huy dân chủ giải phóng sức mạnh cả nước mở ra một bước ngoặt chiến lược cứu nước cứu Đảng trong tình hình nguy hiểm mọi bề hôm nay, đưa đất nước đi vào một thời kỳ phát triển mới! Đảng chủ động làm như thế mới đúng là lãnh đạo, sẽ được lòng dân, cổ vũ được cái tốt trong toàn Đảng và cả nước, và chắc thắng; bạn bè thế giới sẽ hoan nhênh, hậu thuẫn! Đất nước sẽ chỉ mất đi sự lệ thuộc, cái yếu kém và tiêu cực! Có bản lĩnh thì phải quyết biến nguy cơ thành thời cơ như vậy! Chứ không phải là ngoan cố đối phó bằng cách tăng cường bắt bớ và độc đoán hơn nữa như đang diễn ra!

 

Xin nhấn mạnh: Bối cảnh trong ngoài khiến cho tình hình nước ta đã chín muồi để thực hiện quyết định lịch sử này! Nước ta hiện nay đã hội được mọi điều kiện đủ cho thực hiện quyết định lịch sử này, chỉ còn thiếu duy nhất điều kiện cần là ý chí của Đảng Cộng Sản Việt Nam!]

 

2.     Nhằm đổi mới nhiệm vụ xây dựng Đảng trước những đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ mới trong thế giới quyết liệt thời đại dịch covid-19, đề nghị Đại hội XIII quyết định trong khóa Đại hội này sẽ tiến hành xây dựng một bộ Luật về Đảng Cộng Sản Việt Nam[2]để cụ thể hóa Điều 4 của Hiến pháp.

 

Mục đích của Luật này nhằm (i) làm rõ nội dung vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với quốc gia, gắn việc thực hiện nhiệm vụ này với trách nhiệm ràng buộc của Đảng đối với quốc gia trong tình hình mới(ii) ngăn ngừa tình trạng mất dân chủ, hoặc sự lạm dụng quyền lực và những tha hóa khác biến tướng vai trò lãnh đạo của Đảng thành vai trò thống trị / cai trị, (iii) tạo ra sự phân công rành rẽ để không gây ra chồng lấn, không có vùng trống, nghiêm cấm những hiện tượng lộng quyền, tiếm quyền.., không để xảy ra Đảng làm thay vai trò của những thành phần khác trong hệ hống chính trị của quốc gia – bao gồm Quốc Hội, Chính phủ và hệ thống chính quyền, hệ thống Mặt trận, (iv) góp phần nâng cao vai trò và năng lực của hệ thống Nhà nước là Quốc hội, vai trò Chính phủ và hệ thống chính quyền, xây dựng và phát huy vai trò xã hội dân sự, (v) góp phần vào những công việc của quốc gia nhằm nâng cao tính nhà nước dân chủ pháp quyền của quốc gia và tinh thần thượng tôn pháp luật trong cả nước, xây dựng những chuẩn mực đạo lý và pháp lý quốc gia phải  có, vận dụng phổ cập nguyên tắc công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình như một đòi hỏi ràng buộc trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của toàn bộ đời sống đất nước – qua đó Đảng gương mẫu thực hiện tất cả đều bình đẳng trước pháp luật, tất cả đều phải sống và làm việc theo pháp luật, không có ngoại lệ.

 

Tóm lại, đây là một bộ Luật nhằm phục vụ nhiệm vụ xây dựng về mặt pháp lý một ĐCSVN giầu trí tuệ và có phẩm chất, bản lĩnh vững vàng, hoạt động trong một quốc gia có hệ thống chính trị dân chủ pháp quyền ngày càng mạnh với một xã hội dân sự ngày càng phát triển. Nghĩa là: Bộ Luật này góp phần tạo ra tình hình Đảng và đối tượng Đảng phục vụ đều cùng mạnh lên và tiếp tục phát triển lành mạnh; khắc phục hiện trạng Đảng ngày càng tập quyền, trong khi đó đối tượng Đảng phục vụ ngày càng tha hóa do nhiều quyền tự do dân chủ bị tước đoạt và bị bưng bít trong chính sách ngu dân. Bộ Luật này sẽ là bước đi đầu tiên trong quá trình đổi mới, cải cách, để tiến tới xây dựng nên một thể chế chính trị của một nước phát triển. Luật này chủ yếu nên nhằm:

 

-        Xác định về mặt pháp lý nội dung cần thực hiện vai trò lãnh đạo của ĐCSVN là những gì, gắn việc thực thi nhiệm vụ của vai trò này với trách nhiệm ràng buộc của Đảng đối với quốc gia, tất cả với tinh thần: Đảng tuyệt đối trung thành với tổ quốc và Hiến pháp, tôn trọng quyền của nhân dân làm chủ đất nước, cam kết chăm lo những quyền tự do – dân chủ và nghị lực sáng tạo của nhân dân vì đây là nguồn lực quyết định nhất của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, chịu sự phê phán – rèn luyện của nhân dân như một yếu tố tất yếu bảo vệ và phát huy phẩm chất và tính chiến đấu của Đảng.

-        Luật này phải góp phần: không để xảy ra nhầm lẫn nhân dân với kẻ thù, không quy kết bừa bãi coi những ý kiến phản biện và những người bất đồng chính kiến là thế lực thù địch, nghiêm cấm mọi hiện tượng nhà nước công an trị, tăng cường kỷ cương của quốc gia và sự nghiêm minh của luật pháp.

[Ngay trước mắt, nên sớm trả lại tự do cho những người bị bắt giam, bị án tù, chỉ vì họ bất đồng chính kiến. Phải lấy đối thoại tìm ra lẽ phải, chỉ trị nước bằng lẽ phải. Từng việc làm của Đảng phải lấy thu phục lòng người bằng lẽ phải và chính nghĩa, nhất nhất chỉ vì dân vì nước – chứ không phải bằng trấn áp của bạo lực và dối trá. Phải như thế, để xây dựng nên trong lòng mỗi người dân thành lũy tinh thần không gì lay chuyển nổi bảo vệ đất nước và chế độ! Có dân sẽ có tất cả, mất dân sẽ dẫn đến mất nước và tự sát! Không có thế lực thù địch nào ở trong nước có thể lật đổ chế độ này, nhưng  ách toàn trị là nguyên nhân ngày đêm tạo ra nguy cơ này. Vì vậy phải lấy thực hiện công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình để chủ động phòng ngừa mọi yếu kém, và giải quyết những yếu kém khi xảy ra.]

-        Cần phải trung thực với lịch sử, tôn trọng lịch sử là thầy dạy của hiện tại và tương lai, nhất là phải rút ra từ lịch sử những bài học không được quên. Nhất thiết không được vẽ lịch sử, không được lạm dụng cứ mài lịch sử ra mà sống, để tự tôn vinh, ru ngủ, để ăn bám và khỏa lấp những yếu kém. Tệ hơn nữa, làm như thế còn là tiếp tục tự giam mình và mặc nhiên giam cả đất nước trong quá khứ - như đã và đang xảy ra. Làm như thế là Đảng tự đánh lừa mình, khuyến khích nói dối, tiếp tục làm tha hóa chính mình và đất nước một cách nguy hiểm. Thành lập viện này viện nọ mà không có học, không có tự do tư duy trong học tập, sẽ chỉ có thêm bằng rởm! Nhân đây phải nói những yếu kém của hệ thống tuyên giáo và báo chí của Đảng (thường được gọi là báo chí lề phải) góp phần làm trầm trọng thêm thực trạng này. Truyền thông và báo chí của hệ thống chính trị nặng về làm vai trò bảo vệ quyền lực toàn trị và trấn áp tinh thần, tư tưởng, che giấu / cắt xén sự thật, thiếu hay không có thông tin trung thực... Trong khi đó chưa làm được gì đáng kể cho nhiệm vụ nâng cao dân trí và phát triển tư duy cho sự tiến bộ của Đảng và của đất nước. Nhất thiết Đảng cần sớm khắc phục những sai lầm trầm trọng này, giao cho Tuyên giáo và hệ thống truyền thông báo chí nhiệm vụ xây dựng hòa hợp đoàn kết dân tộc, phát huy trí tuệ phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, khuyến khích văn hóa và những giá trị cao đẹp, bảo vệ những tiếng nói chân chính và chân lý, tuyên chiến với dối trá, cái ác, tham nhũng tiêu cực, sự đồi trụy, hủ tục và lạc hậu.

-        Đặc biệt quan trọng là yêu cầu phát triển của đất nước ta và những thách thức quyết liệt của thế giới hôm nay đòi hỏi Đảng trên mặt trận truyền thông báo chí phải dành nỗ lực cao nhất cho sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam tự do của một Việt Nam độc lập tự do, vị thế mới của đất nước đòi hỏi như vậy. Nhận về mình vai trò lãnh đạo đất nước, Đảng có trách nhiệm khuyến khích tự do trong tư duy để luôn luôn tìm đường đưa đất nước đi lên phía trước – không được coi đấy là diễn biến. Mặt khác phải xem nô dịch tư tưởng là một trọng tội đối với dân tộc không được phép phạm phải – vì nó làm thui chột sức sống và khả năng đề kháng của dân tộc. Sự trung thành đạo lý cao cả nhất đòi hỏi chỉ dành cho Tổ Quốc và Sự Thật![3] Ngay trước mắt, tuyên giáo và truyền thông báo chí phải được học lại, trang bị lại trí tuệ và bản lĩnh, để phục vụ đắc lực những nhiệm vụ cả nước phải làm mở ra bước ngoặt chiến lược cho phát triển đất nước.

-        Cuộc sống có vận tốc ngày càng cao và đã vượt quá xa, nhưng Đảng đang tụt hậu rất nghiêm trọng về nhiều phương diện. Trong khi đó khoảng cách giữa năng lực và phẩm chất của Đảng so với nhiệm vụ hôm nay Đảng phải thực hiện rất lớn. Do đó với tính cách là lực lượng chính trị lớn nhất nước, Đảng hôm nay phải học lại, học cái mới, trau giồi phẩm chất và bản lĩnh mới, tri thức mới, phải làm tất cả mọi việc có thực chất thường xuyên tu dưỡng và đổi mới chính mình để bắt kịp, phải bổ khuyết sớm những thiếu hụt lớn về trí tuệ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hôm nay đòi hỏi.  Nhất là phải làm cho Đảng trở thành nhân tố phát huy dân chủ và gìn giữ đoàn kết dân tộc trong đời sống đất nước – bắt đầu từ xây dựng dân chủ và đoàn kết hướng về phía trước trong Đảng, lời nói đi đôi với việc làm.

-        Đảng cần phải tổ chức học lại và học mới như nói trên, để xây dựng mới cho toàn bộ đội cán bộ ngũ đảng viên của mình phẩm chất, trí tuệ, sự giác ngộ lợi ích của quốc gia và dân tộc, những kiến thức mới của phát triển, ý chí phấn đấu cho hạnh phúc của nhân dân và sự cường thịnh của Tổ quốc. Đảng cần rèn luyện nên mỗi đảng viên của mình là một chiến sỹ tiên phong của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, chứ không phải là một robot của Đảng! Vì những lẽ trọng đại đã trình bầy, trong khóa Đại hội XIII sớm muộn cần xây dựng lại Cương lĩnh và Điều lệ Đảng.

-        Luật này còn đòi hỏi Đảng phải nghiêm khắc chống mọi hiện tượng giáo điều, bảo thủ, nạn bè phái, nhóm lợi ích, tệ sùng bái cá nhân, tham nhũng / tiêu cực, tệ nạn quan liêu ăn bám, thói xu nịnh, lừa dối… đang đẻ ra nhiều tội ác. Đấy là những kẻ thù nguy hiểm nhất của Đảng và thường trực tạo ra nguy cơ lớn cho quốc gia còn hơn giặc ngoại xâm.

-        Đổi mới xây dựng Đảng về mặt tổ chức, để Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, và đồng thời qua đó nâng cao được phẩm chất và năng lực của những thành phần khác trong toàn bộ hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước (bao gồm Đảng, Hệ thống Nhà nước, Mặt trận…), phân nhiệm chặt chẽ giữa từng thành phần trong hệ thống, từng người phải làm đúng việc của mình trong biên chế – không thừa, không thiếu. Sự đổi mới như vậy toàn bộ hệ thống sẽ làm rõ trách nhiệm và nâng cao năng lực của từng thành phần trong hệ thống, tạo ra sự phân công mới rành rọt giữa các thành phần này, qua đó tránh được hiện tượng chồng chéo “3 trong 1” (bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận) rất quan liêu như hiện nay.  

-        Xin nhấn mạnh: Phát huy dân chủ trong Đảng, đồng thời tạo mọi điều kiện cho phát huy dân chủ trong mọi lĩnh vực của toàn bộ đời sống đất nước, đây chính là con đường thực hiện đoàn kết toàn dân tộc, giải phóng sức mạnh cả nước, nâng cao chất lượng toàn bộ hệ thống chính trị - nhà nước của quốc gia, mở ra và thúc đẩy cải cách chính trị do Đảng chủ xướng và tổ chức thực hiện, đưa đất nước vào một thời kỳ phát triển mới. Dân chủ của yêu nước là cái gốc của tự do, là nền tảng cho những giá trị của dân tộc và quốc gia, là yếu tố gắn bó keo sơn giữa nhân dân, tổ quốc và Đảng, và là chìa khóa của phát triển!

3.     Đổi mới xây dựng Quốc hội theo tinh thần: (i) Hiến pháp là bộ luật tối cao của quốc gia, (ii) Quốc hội là cơ quan quyển lực cao nhất của cả nước, (iii) nâng cao năng lực kỹ trị trong việc xây dựng luật pháp và những chủ trương chính sách quan trọng của quốc gia, tăng cường khả năng chế tài việc thực thi pháp luật của cả nước. Quốc hội đại diện cho quyền lực và tiếng nói của nhân dân, không phải là cơ quan (thực thể) chấp hành (executive body) của quyền lực, do đó cần loại bỏ mọi hoạt động hình thức phô trương và hữu danh vô thực. Dưới đây là một số vấn đề nên đặc biệt quan tâm.

 

-        Quốc hội Việt Nam từ khóa XV nên gọn nhẹ, ưu tiên hàng đầu là chất lượng đại biểu Quốc hội về trình độ chính trị và năng lực kỹ trị, rồi nếu tình hình cho phép mới tính đến cơ cấu các thành phần xã hội, nam nữ, tôn giáo, sắc tộc, tuổi tác, nghề nghiệp… Dứt khoát không cơ cấu ĐBQH cho đủ mâm bát giống như quy chế của Mặt trận. Theo tinh thần này, người ứng cử hay được đề cử phải chứng minh trước cử tri của mình lý lịch rõ ràng, là công dân không phạm pháp, có phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh, trình độ học vấn và năng lực chuyên môn của mình. Vì không xây dựng quyền lập pháp theo chế độ lưỡng viện, do đó ngoại trừ một số ít trường hợp đặc biệt, người ứng cử hay được đề cử trước hết nên là người làm ăn sinh sống tại địa phương (tỉnh / thành phố…), phải hiểu rõ tình hình và những vấn đề, những đòi hỏi của địa phương, phải trình bầy được trước cử tri của địa phương mình những mục tiêu sẽ theo đuổi, và cam kết có sự ràng buộc pháp lý việc thực hiện nếu được bầu. Vì những lý do như vậy, nên bãi bỏ việc người từ tỉnh này được ứng cử hay được đề cử tại tỉnh khác.

-        Nên xây dựng mới những quy chế, quy định, và cách hiệp thương – thảo luận – tranh luận công khai và dân chủ ở địa phương cho việc phát hiện / giới thiệu hiền tài (dù là đảng viên hay không phải đảng  viên ĐCSVN), lựa chọn được đúng người đề cử hoặc khuyến khích ứng cử, sao cho có nhiều hiền tài tham gia việc nước, cử tri lựa chọn và bầu trực tiếp hiền tài, loại bỏ cách “đảng cử - dân bầu” như lâu nay.

-        Số đại biểu QH quy định cho mỗi tỉnh nên là 3, mỗi thành phố trực thuộc TƯ là 5, riêng Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mỗi nơi sẽ là 6. Nhìn chung nên có khoảng ≤ 1/3 tổng số đại biểu QH là ĐBQH chuyên trách. Mỗi ĐBQH đều có 2 chức năng chính là (i) đại diện trực tiếp của tỉnh (địa phương) mình tại QH, và (ii) đồng thời là thành viên của QH gánh vác công việc quốc gia.

-        Đại biểu Quốc hội không chuyên trách được giữ nguyên lương của  cơ quan chủ quản và phải tiếp tục thực hiện công việc mình được trả lương, nhưng được dành một khoảng thời gian thích đáng để thực thi nhiệm vụ ĐBQH, đồng thời được hưởng thêm một khoản phụ cấp theo quy định chung của QH trong thời gian là ĐBQH. Nếu là ĐBQH chuyên trách, sẽ được hưởng lương quy định chung cho ĐBQH chuyên trách và các chế độ khác trong thời gian làm nhiệm vụ ở QH, và dừng việc nhận lương trong biên chế cũ trước khi trở thành ĐBQH chuyên trách. Mọi chế độ đãi ngộ dành cho ĐBQH không chuyên trách và chuyên trách sẽ kết thúc khi hết nhiệm kỳ hoặc nếu bị bãi miễn.

-        Tiến hành mọi cải tiến, cải cách cần thiết để QH thực hiện được đầy đủ chức năng với hiệu quả cao nhất là cơ quan quyền lực cao nhất của quốc gia và đồng thời là cơ quan lập pháp của quốc gia như ghi trong Hiến pháp 2013, thể hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thay mặt nhân dân kiểm xoát toàn bộ sự vận động của quốc gia, thể hiện và thực thi được với ý thức trách nhiệm thiêng liêng và cao cả nhất quyền của nhân dân làm chủ đất nước. Thực tế này đòi hỏi phải nâng cao nền tư pháp quốc gia, sớm hình thành trong hệ thống Nhà nước hiện tại một thực thể pháp lý (a quasi-judicial body) làm chức năng của Tòa án Hiến pháp; khi tình hình cho phép sẽ tiến hành xây dựng Hiến pháp mới. [Chấm dứt hẳn tình trạng Đảng coi QH là công cụ của mình và ngồi trên tất cả – thể hiện rõ nhất qua việc nhiều ĐBQH công khai thừa nhận Bộ Chính trị là cấp trên của QH.]

 

4.     Trong thời gian vừa qua một số người Việt Nam là học giả, các nhà kinh tế và các nhà kinh doanh, sống ở trong nước hoặc nước ngoài, có nhiều ý kiến, kiến nghị rất xác đáng về con đường phát triển của Việt Nam, về đổi mới cơ cấu kinh tế và thể chế vận hành quốc gia thời cách mạng công nghiệp 4.0, những cải cách kinh tế và chính trị phải làm để thực hiện những mục tiêu này… Xin trân trọng đề nghị Đảng, Quốc hội và Chính phủ dành sự quan tâm đặc biệt cho những ý kiến, kiến nghị này, huy động trí tuệ cả nước và hiền tài lập ra một loại hình think tank thường trực cho nhiệm vụ nghiên cứu / xây dựng chiến lược chung và những chiến lược từng lĩnh vực, những nhiệm vụ phải thực hiện cho việc mở ra một thời kỳ phát triển mới của đất nước, đáp ứng được những đòi hỏi và thách thức của tình hình và nhiệm vụ mới. Xin đặc biệt quan tâm đến một số vấn đề trọng yếu sau đây.

 

-        Cải cách thể chế chính trị để mở rộng dân chủ hóa, xây dựng nền giáo dục tiên tiến là nền tảng văn hóa và tinh thần của quốc gia, phát huy sức mạnh quan trọng nhất của đất nước là con người Việt Nam và nguồn nhân lực Việt Nam – đấy là 3 tiền đề nhất thiết phải tạo ra cho việc phát triển đất nước trong tình hình và nhiệm vụ mới.  3 yếu tố này mang tính chất dĩ bất biến ứng vạn biến, giúp cho quốc gia giành được cơ hội đang đến, đối phó được mọi thách thức dưới bất kỳ hình thức nào – kể cả chiến tranh xâm lược nếu xảy ra. Nên dành mọi nỗ lực có thể cho việc hình thành tầng lớp doanh nhân Việt Nam mạnh với thương hiệu Việt Nam cho đất nước! Xin lưu ý, vì thiếu 3 tiền đề “dĩ bất biến” kể trên nên đã không hoàn thành được chiến lược công nghiệp hóa đất nước vào năm 2020. Như vậy triển vọng thực hiện chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030 và 2045 đã đề ra sẽ như thế nào?

-        Cần nắm bắt được nội dung và xu thế vận động đang diễn ra của cách mạng công nghiệp 4.0 để tái cơ cấu kinh tế đất nước, phát triển các ngành khoa học / kỹ thuật và xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên môn và lực lượng lao động có tay nghề cao để đáp ứng, đổi mới thể chế vận hành quốc gia, và giải phóng mọi nguồn lực – bao gồm cả xây dựng và phát huy vai trò nền kinh tế số, để làm ra những sản phẩm mới Việt Nam đang có những lợi thế lớn nhất…

-        Không thu hút mọi FDI và bằng bất cứ giá nào, không để cho FDI trở thành yếu tố lôi kéo và khuynh đảo sự vận động và xu hướng phát triển kinh tế đã lựa chọn của đất nước như đã và đang xảy ra – nổi lên hiện nay là tình trạng: Càng thu hút được nhiều FDI, kinh tế quốc dân càng ngả lệch sang phát triển theo chiều rộng với nhiều hệ quả nặng nề. Phải chuyển hẳn sang thời kỳ chủ động chọn lọc và thu hút FDI nhằm phục vụ tối ưu chiến lược phát triển của đất nước – với phương châm: FDI phải thúc đẩy sự phát triển mới đất nước muốn lựa chọn, dứt khoát loại bỏ FDI tạo ra sự lệ thuộc và những tiêu cực mới. Lấy nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà và trình độ của Nhà nước trong quản lý và vận hành nền kinh tế để thực hiện phương châm này.

-        Cần đặc biệt quan tâm và coi phát triển bền vững là ưu tiên số 1 trong khi tận dụng mọi cơ hội cho tăng trưởng kinh tế, dành mọi nỗ lực có thể cho việc phát triển kết cấu hạ tầng của quốc gia, cải thiện – bảo vệ môi trường tự nhiên, nhất quyết xây dựng tiết kiệm là quốc sách hàng đầu, giữ chữ tín trong làm ăn kinh tế trong nước cũng như trong kinh tế đối ngoại.

 

5.     Về đối ngoại nên quán triệt phương châm: Cần xây dựng một nền nội trị vững mạnh và kiên cường làm nền tảng cho một nền ngoại giao dấn thân vì lợi ích quốc gia và vì trách nhiệm phải có của một nước thành viên có bản lĩnh và được tôn trọng trong cộng đồng các quốc gia trên thế giới. Đấy phải là một nền ngoại giao phát huy được truyền thống lịch sử của đất nước lấy đại nghĩa thắng hung tàn, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo ra được cho quốc gia sự tập hợp lực lượng phải có trên thế giới, chủ động vận dụng sáng tạo mọi thể chế và luật pháp quốc tế hiện hành, tất cả để phục vục triệt để nhất sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

 

Ở vị trí địa đầu tại khu vực ĐNÁ, sống hay là chết, không muốn làm đe thì phải làm búa (J. W. Goethe), Việt Nam nhất thiết phải xây dựng cho mình một nền ngoại giao của một nhân dân trưởng thành, được trang bị mọi thông tin, hiểu biết và nhận thức phải có, được trau giồi lòng yêu nước, ý chí và khả năng chiến đấu của người chiến sỹ trên mặt trận đối ngoại – không khác gì những đòi hỏi về lòng yêu nước, phẩm chất và khả năng chiến đấu phải có của toàn dân là chiến sỹ trên chiến trường khi đất nước có ngoại xâm. Bởi vì, để sống và vươn lên được trong thế giới quyết liệt hôm nay, Việt Nam – là một quốc gia có gần 100 triệu dân và một cộng đồng gần 10 triệu người Việt sống ở nước ngoài – cả nước ta, trước hết là ĐCSVN – cần vượt lên quá khứ, chiến thắng mọi hận thù, vượt qua mọi giả dối, sớm xây dựng cho quốc gia mình những giá trị, bản lĩnh và khả năng thực hiện, để quyết lấy mở rộng dân chủ xây dựng thành công một nền ngoại giao của đại đoàn kết và hòa hợp dân tộc “người Việt Nam vì tổ quốc Việt Nam!” – một thế mạnh bất khả chiến bại của nước ta! Nhưng nếu không làm được như vậy, thế mạnh quyết định này sẽ trở thành thách thức thường trực rất nguy hiểm đối với đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói nhiều lần: Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết! Làm mọi việc để người dân thực sự là chủ của đất nước, chắc chắn sẽ thực hiện được.

 

Gần một nửa thế kỷ đất nước độc lập thống nhất là thời gian quá chín muồi để cả nước và toàn Đảng nhận thức được tầm vóc nhiệm vụ chiến lược sống còn nêu trên và cần quyết tâm thực hiện. ĐCSVN dẫn dắt đất nước thực hiện thành công nhiệm vụ chiến lược sống còn này, sẽ minh chứng và khẳng định thuyết phục vai trò lãnh đạo của mình đối với quốc gia, và chỉ có làm được như thế mới đích thực là thực hiện vai trò lãnh đạo! Hơn thế nữa xin  lưu ý, bối cảnh lịch sử và những thách thức mới đất nước hôm nay phải đối mặt đặt lên vai ĐCSVN – người đã đưa đất nước đi con đường Cách Mạng Tháng Tám – trọng trách: Tiếp tục con đường đã dẫn dắt đất nước trong những thập kỷ vừa qua, hôm nay Đảng có trách nhiệm ràng buộc phải thực hiện thành công nhiệm vụ trọng đại này, để hoàn thành thắng lợi cuối cùng này[4] của Cách mạng Tháng Tám cho Tổ Quốc.

 

Thưa Tổng bí thư – Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và toàn thể Bộ Chính trị,

 

Đòi hỏi sống còn của đất nước và tiền đồ của Đảng chỉ dành cho lãnh đạo Đảng hôm nay con đường duy nhất dẫn dắt đất nước đi đến thành công, đó là:

Đảng phải nhìn thẳng vào sự thật, giác ngộ nhiệm vụ phải thực hiện trong tình hình và nhiệm vụ mới hôm nay, học hỏi để đổi đời chính mình với ý chí Tổ quốc trên hết. Đồng thời qua mở rộng dân chủ phát huy trí tuệ cả nước quyết mở ra bước ngoặt chiến lược về phát triển để cứu nước cứu Đảng như đã trình bầy sơ bộ trong kiến nghị này, lấy thực hiện dân chủ giải phóng sức mạnh của nhân dân, tổ chức toàn Đảng và toàn dân đoàn kết quyết tâm thực hiện!

Vì mọi quyền lực vẫn đang nguyên vẹn trong tay, do đó Đảng đang có cơ hội tốt nhất và hoàn toàn có thể chủ động bắt đầu sự nghiệp đổi đời đất nước từ việc Đảng tự xây dựng lại chính mình trước thành đảng của dân tộc và dân chủ, có trí tuệ và bản lĩnh. Đấy là con đường giúp Đảng gắn bó với nhân dân, chứ không phải là ngồi trên nhân dân, thực hiện đúng cam kết Đảng không có mục đích nào cao cả hơn và cũng không có lợi ích nào khác là phục vụ nhân dân và phụng sự tổ quốc. Được như vậy, rồi Đảng sẽ biết phải làm gì trong những bước tiếp theo mà kiến nghị này đã sơ bộ gợi ý những việc cần làm ngay trước mắt, và nhất định sẽ làm được. Chậm trễ sẽ không còn gì để làm ngoài gánh chịu hậu quả và kéo đất nước vào tai ương khôn lường. Song trong trường hợp này, nhân dân nhất định sẽ đứng lên tự quyết định lấy vận mệnh của mình, đất nước này và dân tộc này không bao giờ khoanh tay chịu chết! Điều này đã được chứng minh suốt từ thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc cho đến hôm nay. Còn nhiều vấn đề khác, xin được bàn vào dịp khác. Cái khó nhất trước sau vẫn là Đảng phải chiến thắng chính mình trước tiên!

Những căng thẳng mới đang diễn ra trong khu vực ĐNÁ, Biển Đông đang trên miệng hố chiến tranh, và những thay đổi tại một số quốc gia ở đây đang nhắc nhở nghiêm khắc đất nước ta về những bài học xương máu trong quá khứ của cuộc chiến tranh Trung Quốc xâm lược biên giới nước ta 17-02-1979 và mối liên kết của nó với cuộc chiến tranh của Khmer đỏ chống nước ta ở phía Tây Nam. Cuộc sống trong thế giới khắc nghiệt hôm nay chỉ giành cho một Việt Nam có phẩm chất và bản lĩnh, để có thể chủ động với hiệu quả cao nhất vận dụng chiến lược và sách lược phải có, tự quyết định lấy vận mệnh của chính mình. Chỉ như vậy mới có thể gìn giữ được hòa bình, phấn đấu thành công cho hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển trong khu vực và trên thế giới, cho phép sẵn sàng chiến đấu và quyết chiến thắng bất kỳ cuộc chiến tranh xâm lược mới nào chống nước ta nếu xảy ra.

 

Núi xương sông máu ba thế hệ liên tiếp dân tộc ta đã phải đổ ra để có độc lập thống nhất hôm nay. Một giọt máu nào của dân rơi xuống dù ở đâu hay bên nào cho cõi đất này đều là máu người Việt ta! Nhưng chưa bao giờ cơ đồ và con đường sống của nước ta đang bị bạo quyền bên ngoài lăm le chặn đứng như hôm nay! Không loại trừ một cuộc xâm lược mới! Chưa bao giờ như hôm nay những sai lầm, yếu kém, tham nhũng, sự ngu dốt và bao nhiêu cái ác khác của chính chúng ta nếu không được chặn đứng sẽ có ngày xô đẩy đất nước ta một lần nữa vào cảnh nồi da xáo thịt, cho bên ngoài đục nước béo cò! Bao chùm lên tất cả là đại dịch covid-19 đang hoành hành và đảo lộn cả thế giới, không phân biệt giầu nghèo, ý thức hệ, tôn giáo, châu lục, quốc gia. Những tác nhân gây ra đại dịch và những hệ quả của nó đang thách thức quyết liệt và ghê tởm sự sống còn của từng quốc gia! Sống chỉ dành cho trí tuệ và bản lĩnh chiến thắng được tội ác và cái chết!

 

Vì vậy, từng đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam – từ Tổng bí thư cho đến đảng viên thường – xin hãy nén lại cái tôi trong chính con người mình, để có đủ lương tri và lòng yêu nước biết đau nỗi đau của dân tộc, biết nhục nỗi nhục của dân tộc, biết lo những mối nan nguy nhiều bề chưa từng có phía trước đang đe dọa đất nước! Bốn cuộc kháng chiến cứu nước đằng đẵng và đẫm máu không phải là để tạo ra cho nhân dân ta những bất công và sự kìm kẹp như đang xảy ra, sự phát triển đất nước đạt được phải trả cái giá quá đắt và đang bị ụy hiếp, đất nước bị làm hỏng nhiều mặt, hiện nay đang bị lệ thuộc và thách thức nguy hiểm. Từng đảng viên của Đảng quyết không được phản bội một hy sinh nào của dân tộc và của những bậc tiền bối, quyết không được bỏ qua bất kỳ mất mát nào của đất nước![5] Không có gì quý hơn độc lập tự do của Tổ Quốc! (Hồ Chí Minh).

 

Hơn bao giờ hết toàn Đảng phải trung thành với lời thề cứu nước đã viết trên lá cờ Đảng kể từ ngày thành lập, bảo vệ mọi thành quả dân tộc đã giành được, hôm nay phải lột xác phấn đấu làm đội quân tiên phong của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình và nhiệm vụ mới!

 

Hơn bao giờ hết toàn Đảng phải đoàn kết hy sinh phấn đấu cho quyền sống và hạnh phúc của nhân dân!

 

Chịu ơn sâu nghĩa nặng của nhân dân, mỗi đảng viên hãy giữ trong tim mình Tổ Quốc và Sự thật! Phải dám sống vì Tổ Quốc và Sự Thật, để mỗi đảng viên sẽ tìm ra con đường sống cho mình và cho đất nước! 

 

ĐCSVN hôm nay chỉ có thể thực hiện được nghĩa vụ cam kết của mình đối với dân tộc trong giai đoạn phát triển mới của đất nước bằng cách Đảng phải xây dựng cho mình đội ngũ cán bộ đảng viên có trái tim, ý chí và trí tuệ dám sống vì Tổ quốc và Sự thật.  

 

Thưa Tổng bí thư – Chủ tịch nước và toàn thể Bộ Chính trị,

 

Trên đây tôi đã trình bầy những kiến nghị và suy nghĩ của mình về 5 vấn đề lớn của đất nước, mong các Đồng chí cân nhắc thấu đáo, đề đạt với Đại hội XIII những việc nên làm trong khóa Đại hội này. Nếu bỏ ngoài tai, kiến nghị này sẽ là lời cảnh tỉnh!

 

Xin gửi các Đồng chí lời chào trân trọng.

 

Hết

 

Nguyễn Trung, nguyên trợ lý cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt

Hà Nội, Võng Thị, ngày 12-10-2020

           (Đã gửi cùng ngày, được xem lại và bổ khuyết ngày 18-10-2020)



[1] Tham khảo thêm thư của cố lão thành cách mạng Chu Đình Xương 03-1982 về cải cách ruộng đất -   http://vanviet.info/tu-lieu/thu-cua-ng-chu-dnh-xuong-gui-cho-ban-chap-hnh-trung-uong-dang-cong-san-viet-nam/

[2] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, “Lũ”, NXB Tre Xanh, USA, 2015, tập hai, chương 26, tr. 362… http://nguyentrung-vt.blogspot.com/search/label/A1%20%22L%C5%A9%22%20-%20Final%20Draft%20April%202015

[3] Sự thật có ý nghĩa quan trọng tới mức có thể nói ĐCS Liên Xô đã ra đời với tờ báo chiến đấu của mình là SỰ THẬT (PRAVDA). Tiếc rằng sư tha hóa của Liên Xô cuối cùng đã chôn vùi tờ báo này về cả nghĩa bóng và nghĩa đen. Những người cộng sản Nga hôm nay đang tìm cách cứu lại tính chiến đấu cho PRAVDA. ĐCSVN có nhà xuất bản SỰ THẬT, nhưng thành quả thật nghèo nàn!

[4] Khẩu hiệu có ý nghĩa quyết định của Việt Minh đưa ra làm nên thành công cho Cách mạng Tháng Tám là “Nước Việt Nam của người Việt Nam!”.

[5] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, “Dòng đời”, NXB Văn Nghệ, TPHCM – 2006, quyển hai, tập IV, chương 30, tr. 857 - http://www.viet-studies.net/NguyenTrung/index.htm

 

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 18-10-2020

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét