Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2022

20221015. 'NGÀY DOANH NHÂN VIỆT NAM', CÁC CHUYÊN GIA NÓI GÌ?

ĐIỂM BÁO MẠNG

PHẢI CÓ DOANH NGHIỆP MẠNH ĐỂ QUỐC GIA VƯƠN TỚI THỊNH VƯỢNG

LAN ANH/ TVN 12-10-2022

Chúng ta phát triển các doanh nghiệp dân tộc thành lực lượng lớn mạnh với các tập đoàn lớn làm trụ cột thì chắc chắn nền kinh tế cất cánh - TS Trần Đình Thiên chia sẻ nhân ngày Doanh nhân Việt Nam.

Nền kinh tế vẫn manh mún

Nhân ngày Doanh nhân 13/10, nhìn lại sự phát triển của khu vực DN Việt Nam, ông có thể nói gì?

DN tư nhân là nguồn lực quan trọng bậc nhất ở bất kỳ quốc gia nào. Ở Việt Nam cũng vậy, khu vực này ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong nền kinh tế.

Tuy nhiên, cho đến nay, khu vực DN tư nhân chính thức mới chỉ đóng góp 10-11% GDP, kém xa so với kinh tế hộ gia đình (33%), FDI (20%) và DNNN (30%). Nền kinh tế vẫn dựa vào khu vực hộ gia đình thì rất mong manh, nhỏ bé, chưa thể vững mạnh được.

Hơn nữa, tuổi thọ của các DN đang hoạt động thật, có đóng thuế chỉ khoảng độ 4-5 năm. Ta cứ thử tính toán cơ học thôi, hàng năm số DN giải tán tương ứng 70-80% số thành lập mới; hay chỉ có 20-30% sống tiếp sang năm thứ hai theo chu kì đó. Đây là vấn đề đáng quan tâm.


TS Trần Đình Thiên: Doanh nghiệp tư nhân là nguồn lực quan trọng bậc nhất ở 

bất kỳ quốc gia nào

Lấy ví dụ Hàn Quốc, các DN của họ cần có kinh nghiệm 30-40 năm để vươn vai ra thế giới, cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Họ đã phát triển từ một nền kinh tế thấp đến nền kinh tế trưởng thành, phát triển cao. Hàn Quốc đã thật sự bước vào quỹ đạo các nước phát triển, chứng minh thực lực kinh tế bằng các tập đoàn, DN tư nhân trưởng thành, cạnh tranh và năng động.

Gần đây, tôi đọc nhiều quy hoạch công nghiệp của các tỉnh. Họ làm khá chi tiết, ví dụ, công nghiệp thường chiếm 20%; thương mại, dịch vụ 60-70%. Công nghiệp mới là xương sống của nền kinh tế, nhưng lại được xác định quá thấp bé. Với cấu trúc như vậy, thực lực kinh tế của Việt Nam không vững chắc.

Phát triển lực lượng DN Việt Nam lớn mạnh

Thưa ông, kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng trong Nghị quyết 10 năm 2017; trước và sau đó đã được thể chế hóa qua các luật. Nhưng vì sao từ luật đến cuộc sống lại có khoảng cách xa như vậy?

Xác định khu vực kinh tế này là một động lực quan trọng là đúng, nhưng tôi muốn nhấn mạnh một ý đã được ghi rõ trong văn kiện Đại hội 13 là “phát triển lực lượng DN Việt Nam lớn mạnh”. Chúng ta phát triển các DN dân tộc thành lực lượng DN lớn mạnh với các tập đoàn lớn làm trụ cột thì chắc chắn nền kinh tế cất cánh.

Lịch sử cho thấy, không có quốc gia nào đi lên hùng mạnh và thịnh vượng khi thiếu đi lực lượng DN phát triển. Đông Nam Á và Đông Bắc Á khác nhau. Trong khi các quốc gia Đông Nam Á không có cấu trúc tập đoàn, các nước Đông Bắc Á có cấu trúc tập đoàn theo đúng nghĩa trụ cột kinh tế quốc gia. Hàn Quốc dựa vào trụ cột đó để khẳng định vị thế kinh tế của một quốc gia công nghiệp, tiên phong về công nghệ. Nhật Bản thì đương nhiên rồi. Còn Trung Quốc từng đi theo đúng hướng đó nên phát triển rất nhanh.

Trong khi đó, Việt Nam từng phát triển các tập đoàn nhà nước bằng các cơ thế khuyến khích, đảm bảo cho người thắng chứ không phải dùng cơ chế khuyến khích người giỏi, người tài. Cách tiếp cận này đã được chứng minh là không hiệu quả trong cả thập kỷ qua. Đến nay, đây là thời điểm tốt để nhận diện lại thực tế: cấu trúc phát triển là cấu trúc lực lượng DN dân tộc. Cần thể chế hóa một cách cụ thể theo hướng các DN Việt Nam là lực lượng quan trọng của đất nước.

Bình đẳng về tư cách

Gần đây, chúng ta khởi động lại các mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá với các mốc 2030, 2045. Trên nền tảng hiện nay, chúng ta dựa vào lực lượng nào - DN tư nhân, DN nhà nước hay DN FDI hay ai khác - để hiện thực hóa các mục tiêu này?

Tôi nhấn mạnh khái niệm lực lượng DN là rất quan trọng. Mỗi khu vực có vai trò riêng nhưng ông giàu hay ông nghèo thế nào cũng phải bình đẳng về tư cách trong nền kinh tế thị trường.


Đất nước hùng mạnh là phải có những tập đoàn lớn, có lực lượng doanh nghiệp

 bản địa mạnh

Mỗi lực lượng có vai trò, năng lực khác nhau để thực hiện sứ mệnh đó. Có các DN công nghiệp lớn làm vai trò trụ cột, dẫn dắt; có DN trồng khoai lúa và không thể nói họ không quan trọng được. Nói đúng hơn, tư cách thành phần là bình đẳng nhưng vai trò, chức năng là khác biệt, và không phân biệt thành phần.

Lực lượng nào làm đúng việc, đúng vai trò chức năng mà nhà nước đang cần nhất thì nhà nước phải tạo điều kiện hỗ trợ hơn vì nó cần cho sự phát triển của cả đất nước. Vì thế, không thiên vị theo thành phần. Theo tôi, công thức quan trọng nhất là bình đẳng về tư cách và khác biệt về vai trò chức năng để thiết kế một hệ thống phân bổ nguồn lực, chính sách khuyến khích phù hợp.

Liên quan đến khu vực FDI, chúng ta khuyến khích, mời gọi vốn FDI vào vì lúc đó đất nước nghèo quá, cần có nguồn lực thúc đẩy, hỗ trợ là đúng nhưng ta kéo việc ưu đãi quá dài, tạo nhiều điều kiện hơn khu vực trong nước là sai lầm. Để khu vực này trở thành bất bình đẳng trong vị thế, tư cách thì không được.

DN bản địa mạnh

Ý ông là không nên thiên vị hay dựa quá vào FDI để công nghiệp hóa, nhất là khi kinh nghiệm thế giới đã chỉ ra rằng, không có đất nước nào công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công chỉ dựa vào vốn bên ngoài?

Có thực tế không cần tranh cãi để một đất nước vươn tới thịnh vượng và hùng mạnh là phải có những tập đoàn lớn, có lực lượng DN bản địa mạnh.

Các quốc gia phát triển dựa vào vốn nước ngoài trong thời kỳ khó khăn ban đầu thôi, và DN FDI cũng có vai đến đó thôi. Muốn tự lực, tự cường thì không thể dựa vào vốn nước ngoài được. Người ta thực hiện ưu đãi cho các DN FDI để tạo hệ sinh thái cho hệ thống DN nội địa kết nối, phát triển.

Nhưng Việt Nam khác ở chỗ, chúng ta mời vốn FDI không phải cho DN Việt Nam kết nối mà vì thành tích, sản lượng, ngân sách. Nhưng khu vực này đóng vào ngân sách có bao nhiêu đâu. Lẽ ra, cần hiểu vốn FDI giúp cải tạo nền kinh tế trong lúc khó khăn ban đầu thôi.

Ở nhiều địa phương, thu hút FDI đã trở thành chủ nghĩa thành tích, càng nhiều vốn FDI vào thì thành tích càng lớn. Tỉnh này thấy tỉnh bên cạnh có nhiều vốn FDI cũng phải cố mà thu hút vốn FDI dù chất lượng thấp, gây ô nhiễm và thâm dụng lao động.

Kinh nghiệm thế giới chỉ ra, không có nước nào hùng mạnh nếu không có những tập đoàn lớn làm xương sống. Những tập đoàn lớn có khả năng dẫn dắt, tạo ra chuỗi, chuỗi phải là của Việt Nam chứ không phải của nước ngoài nên chính sách phải hỗ trợ những DN đứng đầu chuỗi. Ý của tôi ở đây là chuỗi của DN dân tộc, của các tập đoàn tư nhân, của những tập đoàn nhà nước nền tảng.

Tôi muốn nói thêm, Việt Nam vẫn cần có DNNN đứng đầu chuỗi vì chỉ khi đó thì Nhà nước có công cụ giải quyết những việc quan trọng, cần thiết. DNNN có những nền tảng quan trọng không phải tư nhân nào cũng muốn làm.

Ví dụ, Nhà nước muốn giữ ổn định ngành điện không phải tất cả tư nhân nào cũng làm. Bây giờ ngành điện mới mở ra một chút thì nói to về cạnh tranh, nhưng không có EVN thì làm sao giữ an ninh năng lượng được. Khi còn gian khổ, EVN còn mang điện lên miền núi, ra hải đảo. Thử hỏi, có DN tư nhân làm được hay không? Có nghĩa là phải có những thứ Nhà nước làm để làm nền tảng cho nền kinh tế.

ĐI SAU, CHÚNG TA CÓ NHIỀU LỢI THẾ

LAN ANH/ TVN 13-10-2022

Theo TS Trần Đình Thiên, chúng ta vẫn khẳng định kiểm soát tốt lạm phát, nhưng cũng phải đảm bảo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận vốn.

Nhân ngày Doanh nhân 13/10, Tuần Việt Nam tiếp tục thảo luận với TS Trần Đình Thiên về những cơ hội để phát triển doanh nghiệp Việt Nam.

Thời nào cũng có thách thức và cơ hội

Ông nhấn mạnh rằng, Việt Nam cần xây dựng lực lượng DN dân tộc, trong đó có các tập đoàn mạnh làm trụ đỡ. Có phải ông muốn tham khảo các mô hình phát triển ở các quốc gia Đông Bắc Á?

Hàn Quốc trong giai đoạn phát triển ban đầu tập trung cho 2 tập đoàn nhà nước là Posco và công ty Phát triển nhà Hàn Quốc (Coland). Trong khi Coland chuyên phát triển các quỹ đất, khu công nghiệp, đô thị thì Posco chuyên về thép, tạo nền tảng cho ngành đóng tàu, ô tô. Rồi sau đó họ phát triển thêm Samsung hướng tới công nghệ cao. Những tập đoàn đó phát triển các xương sống cho nền kinh tế.

Còn về Nhật Bản thì không thiếu bài học. Hồi họ bắt đầu làm xe hơi, người ta cho rằng Nhật Bản không thể phát triển công nghiệp ô tô được. Thực tế là một số hãng đã 7 lần thử làm ô tô mà không thành công, nhưng rồi họ phát triển ngành ô tô hàng đầu thế giới.

Nhật Bản bắt đầu công nghiệp đóng tàu muộn hơn Hàn Quốc và nhiều người cảnh báo, làm sao phát triển được công nghiệp đóng tàu vì ngành này đã rất phát triển ở Hàn Quốc. Nhưng Nhật Bản vẫn nhập thép từ Na Uy về làm và thành công.


TS Trần Đình Thiên: Cần đảm bảo cơ hội cho doanh nghiệp tiếp cận vốn để sống sót, vượt qua giai đoạn khó khăn. Ảnh: Hoàng Hà.

Thời nào cũng có thách thức và cũng có cơ hội. Việt Nam ta cũng thế. Lâu nay tôi hay nói đến việc cần có những tập đoàn lớn như trụ cột của nền kinh tế để họ trở thành đầu chuỗi, không phải hỗ trợ bản thân mà hỗ trợ chuỗi sản xuất của Việt Nam.

Xét về bối cảnh thì Hàn Quốc phát triển những ngành công nghiệp đó những năm 1960, 1970 với sự bảo hộ rất cao khi nền kinh tế thế giới chưa thông suốt như bây giờ. Còn Việt Nam đã tham gia 15 FTAs với thuế nhập khẩu bằng 0. Bối cảnh là khác nhau chứ, thưa ông?

Thời đó, những nước đang phát triển được lợi thế về thuế quan. Nhật Bản và Hàn Quốc rất nỗ lực và khôn ngoan khi tập trung vào các ngành thúc đẩy xuất khẩu. Thị trường thế giới rộng lớn hơn bất kì quốc gia nào và họ tham gia từ rất sớm. Hàn Quốc chỉ có thị trường quốc tế, họ cũng không có tài nguyên gì nên tập trung vào phát triển con người, phát triển một xã hội kỷ luật, có sức mạnh tích hợp cộng hưởng với nhau.

Còn Việt Nam bây giờ nhiều thuận lợi hơn dù chúng ta đi sau. Luồng vốn quốc tế bây giờ dễ tiếp cận hơn ngày xưa nhiều. Ngày xưa Hàn Quốc nghèo khó như thế mà họ còn đi lên được, giờ chúng ta có GDP cũng gần 400 tỷ USD, có phải ít đâu!

Việt Nam từng học Nhật Bản, Hàn Quốc chọn phát triển các tập đoàn kinh tế. Đáng tiếc là chúng ta lại chọn theo nguyên tắc dễ làm khó bỏ nên chọn ngay tập đoàn nhà nước. Lẽ ra, trụ cột là các tập đoàn lớn, có cả tập đoàn tư nhân, trên nền tảng cạnh tranh và không gian phát triển là hướng ra quốc tế.

Xây dựng các chuỗi giá trị Việt Nam

Về phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, chúng ta nên bắt đầu từ đâu?

Việt Nam bắt đầu từ đầu chuỗi. Xin lấy ví dụ tập đoàn Thaco của ông Trần Bá Dương. Họ có tinh thần tự lực, tự cường kinh khủng. Chuỗi của họ cơ bản bây giờ chắc một nửa là nằm ở nước ngoài, một nửa tạo ra ở Việt Nam và từ số 0. Ông Dương đã kiên trì trong mấy chục năm mới có một chuỗi công nghiệp chứ không làm ra trong ngày một ngày hai. 

Nếu người Việt Nam đi sau, sốt ruột, lại làm theo tinh thần “dễ làm khó bỏ” thì không bao giờ xây dựng được ngành công nghiệp hỗ trợ. Câu chuyện của Thaco là đặc biệt quý giá, chứng tỏ DN tư nhân có thể phát triển công nghiệp ô tô được. Hãy nhìn xem, có DN xây sân bay quốc tế chỉ trong vài năm, điều mà đầu tư công không thể làm được.

Trước đây, khi Trung Quốc tập trung sản xuất robot, nhiều người nói lựa chọn này là không đúng, là nhạy cảm vì chế tạo robot để thay thế người lao động. Nhưng Trung Quốc chế tạo robot để bán cho thị trường thế giới, chứ có phải chỉ cho thị trường nội địa đâu. Tôi thử đặt vấn đề, DN Việt Nam có thể phát triển ngành công nghiệp sản xuất robot để bán ra toàn cầu không? DN chúng ta làm được quá đi chứ, nếu chúng ta có giấc mơ, có hành động, có các chính sách cần thiết đi kèm.

Nền tảng tốt cho DN tồn tại

Trong các cuộc thảo luận gần đây, ông thiên về việc cần tăng dư địa cho chính sách tiền tệ để giúp thanh khoản cho DN Việt Nam. Vì sao vậy?

Có nhiều lập luận rằng, nền kinh tế vẫn tăng trưởng tốt, kinh tế vĩ mô đang ổn định thì không nên tăng tín dụng vì rủi ro gây nguy cơ lạm phát. Tuy nhiên, tôi cho rằng, những cái tốt đó cần được tách bạch ra.

Chúng ta tăng trưởng tốt, xuất nhập khẩu tốt, thu hút vốn FDI tốt, thế giới nghiêng mình thán phục, nhưng những cái tốt đó đều liên quan trực tiếp đến khu vực ngoại, là của khu vực FDI chứ không phải DN Việt Nam. Thanh khoản đang là vấn đề đại sự đối với tuyệt đại đa số DN Việt Nam, họ cần tiền để tồn tại sau những dư chấn quá lớn của chống Covid-19.

Cho nên, tăng trưởng tín dụng phải tính toán, cân nhắc từ góc độ, lợi ích của DN Việt Nam. Trong bối cảnh khu vực FDI gần như tách biệt với nền kinh tế Việt Nam, lẽ ra cần phân tích khu vực nội để điều hành chính sách chứ không phải phân tích khu vực kinh tế nói chung.

Nếu chúng ta thỏa mãn với những lời khen ngợi thì sẽ rất khó cho khu vực nội địa. Cái khó khăn lớn nhất của DN Việt Nam là khô khát về tài chính, về dòng tiền.

Cách tiếp cận kinh tế vĩ mô không phải chỉ lạm phát. Hiện nay ta mới quan tâm đến lạm phát theo nghĩa lạm phát càng thấp thì càng ổn định mà không biết chắc lạm phát thấp có phải ổn định hay không. Tôi cho rằng, giữ ổn định vĩ mô cần có sức khoẻ của DN, thể hiện qua nợ xấu. Chỉ số lạm phát còn phụ thuộc theo tình thế, chứ không phải cứ lạm phát thấp là hay. Nền kinh tế đang yếu cần mức lạm phát khác, nền kinh tế đang tăng trưởng thì cần lạm phát khác.

Chính phủ đã ra nhiều gói hỗ trợ, đang thúc đẩy giải ngân đầu tư công để thúc đẩy tăng trưởng. Ông nhận xét thế nào?

Hôm họp với Thủ tướng, ông có nhấn mạnh một ý rất tốt là lần hỗ trợ này thiên về tài khoá là chính. Tôi cho rằng, lúc này cần thực hiện nguyên tắc chi tiêu ngân sách ngược chu kỳ. Chúng ta miễn giảm thuế, hỗ trợ lãi suất 2%. Tuy nhiên, chúng ta đối diện với áp lực phải tiếp tục tăng lãi suất vì lãi suất thế giới tiếp tục tăng và áp lực tỷ giá. Nhưng tăng tiếp thì lãi suất của Việt Nam quá cao, các DN không chịu nổi nên cần cân nhắc hỗ trợ tiếp lãi suất.

Hiện nay có 3 kênh dẫn vốn ra thị trường. Thứ nhất là kênh đầu tư công và gói phục hồi kinh tế. Đáng lẽ giải ngân phải làm tốt hơn vì có hàng trăm ngàn tỷ đồng chứ có ít đâu. Cần công phá vào kênh này để vốn ra với DN, đất nước có thêm công trình giao thông, hạ tầng cho phát triển dài hạn.

Thứ hai là kênh ngân hàng thì đang đối diện với lãi suất tăng, trần tín dụng... Thứ ba là kênh trái phiếu và cổ phiếu. Mọi việc đang phát triển theo hướng tốt lên để DN không phụ thuộc duy nhất vào nguồn vốn ngân hàng thì cách ứng xử vừa qua khá vụng về.

Chúng ta vẫn khẳng định kiểm soát tốt lạm phát, nhưng cũng phải đảm bảo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận vốn để sống sót, vượt qua giai đoạn khó khăn này đã. Chỉ nhìn vào những điểm sáng như tăng trưởng cao, lạm phát thấp có khi che lấp đi những khó khăn chồng chất của DN.


ĐẢM BẢO QUYỀN TỰ DO KINH DOANH: ĐIỀU ĐÁNG NGẠI TỪ CON NGƯỜI

 TRONG BỘ MÁY CÔNG QUYỀN

DUY THÔNG/ NĐT/ BVN 10-10-2022

LTS. Theo thống kê của cơ quan chức năng, hiện Việt Nam có khoảng 7 triệu doanh nhân (trong đó gồm 5,1 triệu chủ hộ kinh doanh, còn lại là các doanh nhân với gần 900.000 doanh nghiệp và hợp tác xã).

“Thể chế nào, doanh nhân ấy”. Ảnh: CTV

Cho dù các doanh nhân tham gia thị trường dưới hình thức pháp lý nào, thì môi trường làm ăn (các yếu tố chính trị, luật pháp, kinh tế, văn hóa, xã hội...) vẫn là điều ảnh hưởng quyết định đến thành bại của doanh nhân và cả nền kinh tế nói chung. Ngày Doanh nhân Việt Nam năm nay (13.10.2022), là tròn 10 năm thực hiện Nghị quyết 09 (năm 2011) của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam. Tháng 5.2022, lần đầu tiên, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) - tổ chức đại diện cho giới chủ - đã công bố 6 nguyên tắc đạo đức của doanh nhân Việt Nam.


Người Đô Thị tổ chức Bàn tròn “Môi trường làm ăn và đạo đức doanh nhân” với sự tham gia của: Luật sư Nguyễn Tiến Lập (thành viên cấp cao của Văn phòng Luật sư NH Quang & Cộng sự, trọng tài viên Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam); Luật sư Phùng Thanh Sơn (Công ty Luật TNHH Thế giới Luật pháp); ông Hoàng Đạo (cố vấn cao cấp Chương trình iCitizen Việt Nam - Thái Lan - Singapore nhằm mang đến sự tăng trưởng về lợi ích và tiện ích sống cho công dân trong mọi lĩnh vực: y tế, tài chính, bảo hiểm, giáo dục, thực phẩm, phát triển đô thị, phát triển nông thôn…); Bà Tạ Thị Bích Diễm (giám đốc nhân sự vùng Đại học Khoa học Mỹ tại Việt Nam - thành viên Đại học American University of Science (AUV) tại Hawaii); Bà Bùi Thị Thục Đoan (đồng sáng lập và giám đốc điều hành Công ty Cổ phần Workcharming hoạt động trong lĩnh vực cho thuê văn phòng, chia sẻ không gian làm việc).

* * *

Luật sư Nguyễn Tiến Lập có 30 năm hoạt động nghề nghiệp: tư vấn trong các lĩnh vực liên quan tới đầu tư vĩ mô, xây dựng, sở hữu trí tuệ, ngân hàng, hợp đồng, quản trị doanh nghiệp cũng như tham gia các dự án hỗ trợ kỹ thuật cho cải cách pháp luật và phát triển xã hội ở Việt Nam. Ông nhận định khái quát về môi trường làm ăn hiện nay tại Việt Nam.

Thưa ông, Hiến pháp năm 1992 ghi nhận công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật. Đến Hiến pháp năm 2013 thì quyền tự do kinh doanh được mở rộng theo nguyên tắc “mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Trong những trải nghiệm nghề nghiệp của mình, ông cảm nhận sự khác biệt này (trong thực tế) như thế nào?

Nếu nói về câu chữ hay cách diễn đạt luật pháp thì rõ ràng có sự khác biệt và đó là một bước tiến lớn về chất. Bởi “tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” thì chỉ là quyền tự do hạn chế trong khuôn khổ, tức thực chất là anh được làm những gì mà pháp luật hay nhà nước cho phép. Còn “có quyền tự do trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” thì được hiểu rằng cái không gian hành động bị cấm sẽ nhỏ thôi, liên quan đến thiểu số hay rất ít các ngành nghề có thể liệt kê ra được.

Tuy nhiên, diễn đạt hay hiểu như vậy vẫn là cách nhìn và cách nghĩ của chúng ta, tạm gọi là cách tiếp cận xin - cho vốn đã tồn tại từ rất lâu. Còn trên thế giới, ở các nước có nền kinh tế thị trường truyền thống người ta không quan niệm thế. Từ phương diện lập pháp, họ không đề cập vấn đề quyền tự do kinh doanh hay quy định các quyền tự do cụ thể của mỗi cá nhân, như cách Luật Đất đai ở chúng ta liệt kê các quyền cụ thể của người sử dụng đất chẳng hạn. Tại sao? Bởi tự do kinh doanh là quyền tự nhiên, là phạm trù tất yếu của đời sống dân sự mà không được ban phát hay ấn định bởi ai đó. Pháp luật không đề ra giới hạn mà chỉ bảo đảm một nguyên lý hay điều kiện chung, đó là mỗi cá nhân có quyền tự do hành động miễn không xâm phạm trật tự công và quyền tương tự của người khác.

Từ góc nhìn tự do kinh doanh, bởi quyền này có thể bị tác động do năng lực chủ quan như tình trạng tự nhiên “cá lớn nuốt cá bé”, ngay từ rất sớm các nước đã có luật về bảo vệ tự do cạnh tranh, chống độc quyền. Về sau, khi doanh nghiệp và kinh tế phát triển lớn mạnh đạt đến chuyên nghiệp, người ta chuyển sang nhấn mạnh các mục tiêu xã hội và bổ sung luật bảo vệ người tiêu dùng. Ví dụ luật cạnh tranh có quy định chống các doanh nghiệp liên minh để thao túng giá cả, chất lượng hay điều kiện cung ứng sản phẩm. Nói điều này, tôi muốn nhấn mạnh rằng nền tảng hay linh hồn của tự do kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đích thực chính là bảo vệ cạnh tranh và người tiêu dùng.

Trong khi đó, sau mấy chục năm chuyển đổi sang kinh tế thị trường, một khi vẫn chưa hết trăn trở về câu chuyện tự do kinh doanh thì có nghĩa chúng ta đang ở chặng đường ban đầu hay xuất phát điểm. Hơn thế, bài toán về hoàn thiện thể chế kinh tế vẫn còn là mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường nói chung và giữa các cơ quan nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp nói riêng. Thậm chí ngay trong mối quan hệ này, một vấn đề còn đang ám ảnh, đó là liệu các cơ quan nhà nước có gây khó khăn, cản trở gì cho hoạt động của doanh nghiệp hay không?

Mấy năm trước khi bàn về chủ trương phát triển kinh tế tư nhân, tôi đã từng phát biểu kinh tế tư nhân là bản chất của đời sống và bản năng tự nhiên của con người. Nó là nền kinh tế đích thực và cốt yếu, trong khi kinh tế quốc doanh chỉ là hiện tượng nhân tạo, có tính nhất thời và phụ thuộc. Để kinh tế tư nhân phát triển, chỉ cần một sự bảo đảm quan trọng nhất từ thể chế và pháp luật, đó là tự do cạnh tranh.

Trở lại điều kiện đặc thù của Việt Nam, về mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà nước như đề cập, chắc ông đã từng nghe “cuộc chiến giấy phép con” mà Chính phủ tiền nhiệm phát động, con số cao điểm thời đó, được ghi nhận có tổng số 6.191 điều kiện kinh doanh, 9.926 dòng hàng phải kiểm tra chuyên ngành. Thưa ông, làm thế nào để xây dựng các quy phạm pháp luật thực sự là hành lang pháp lý, thay vì công cụ kiểm soát, phụ thuộc quá nhiều vào ý chí của từng cá nhân lãnh đạo bộ ngành, hay cán bộ công chức?

Tôi hiểu vấn đề này nhưng có một cách nhìn khác. Đó là không chú ý đến số lượng cụ thể các điều kiện kinh doanh hay “giấy phép con” như dư luận bức xúc. Bởi so sánh với các nền kinh tế thị trường phát triển, xin thưa rằng với mỗi ngành nghề hay lĩnh vực, họ cũng ban hành nhiều điều kiện kinh doanh lắm, thậm chí nó còn có xu hướng tăng lên do các yêu cầu mới như bảo vệ môi trường và chống biến đối khí hậu hay chống khủng bố, chứ không phải ngược lại. Vậy mà hầu như các doanh nghiệp lại không kêu ca gì, tại sao?

Vấn đề nằm ở chỗ mục tiêu và căn nguyên đằng sau hay bên trong của các điều kiện hay giấy phép kinh doanh ấy là gì? Bởi nếu muốn xây dựng một nền kinh tế chuyên nghiệp, an toàn và bền vững cùng với thực thi quyền của người tiêu dùng thì tôi tin không thể loại bỏ hay giảm bớt các điều kiện và giấy phép được. Ví dụ đơn giản nhất là các vụ cháy gây chết nhiều người ở các quán karaoke vừa qua, rõ ràng dư luận sau đó muốn cơ quan nhà nước tăng cường và thắt chặt quản lý hơn bằng các biện pháp hành chính. Nhưng trên thực tế thì các quán karaoke cũng đã phải xin khá đủ các loại giấy phép và chứng chỉ rồi, vậy tại sao nó vẫn không an toàn?

Do đó, điều tôi quan tâm và e ngại chính là quan điểm, động cơ và thái độ hành vi của các cơ quan và con người cụ thể trong bộ máy công quyền. Họ có cả quyền và trách nhiệm trong mọi việc: từ ban hành quy định về các điều kiện kinh doanh, cấp các giấy phép hay chứng chỉ cho đến kiểm tra, thanh tra và xử phạt. Nếu họ thực sự hành động vì mục tiêu phát triển kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp và bảo vệ người tiêu dùng thì chắc chắn các điều kiện kinh doanh và giấy phép con ấy sẽ không còn bị coi là sự phiền hà và rào cản. Thay vào đó, nó chỉ còn là thái độ phục vụ của các công bộc, đồng thời là trách nhiệm pháp lý và đạo đức trong kinh doanh mà doanh nhân chân chính nào cũng sẵn sàng chấp nhận.

Trong bối cảnh ngược lại, các hàng rào điều kiện và giấy phép sẽ biến thành một thứ công cụ gây khó, chính danh và hiệu quả, để các bên liên quan khẳng định quyền lực và đi theo nó là sự lạm dụng để trục lợi cục bộ cho tổ chức, cá nhân.

Tôi mong muốn cải cách hành chính không bắt đầu hay chủ yếu nhằm vào các thủ tục mà quan trọng hơn là tái cơ cấu lại bộ máy và cơ cấu tổ chức, chức năng và nhiệm vụ, rồi sau đó là khâu nhân sự, tức yếu tố con người.

Tôi đánh giá như thế bởi chứng kiến hai hiện tượng xảy ra ở các thời điểm khác nhau. Một là sau các chiến dịch thanh lọc để cắt giảm thủ tục hành chính thì số lượng các giấy phép con giảm xuống nhanh nhưng sau đó lại hồi phục. Hai là cá biệt ở một số cơ quan có xu hướng báo cáo thành tích nổi bật về cắt giảm được nhiều giấy phép con chỉ ngay sau khi có lãnh đạo mới được bổ nhiệm. Cả hai khuynh hướng này, tôi e rằng đều chưa phản ánh thực chất của vấn đề.

Do đó, nếu có thể khuyến nghị, tôi mong muốn cải cách hành chính không bắt đầu hay chủ yếu nhằm vào các thủ tục mà quan trọng hơn là tái cơ cấu lại bộ máy và cơ cấu tổ chức, chức năng và nhiệm vụ, rồi sau đó là khâu nhân sự, tức yếu tố con người. Vừa qua, nhiều đại biểu Quốc hội đã nêu vấn đề xem xét lại để tăng tiền lương của công chức nhằm động viên họ gắn bó và làm tốt công vụ. Điều đó hoàn toàn đúng, nhưng khó khả thi nếu không cải cách tổ chức và bộ máy thành công. Nói tóm lại, đó chính là giải bài toán về mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường cũng như giữa các cơ quan hành chính và doanh nghiệp, nhằm tạo sự thay đổi cho phù hợp với các điều kiện của nền kinh tế thị trường.

Thời gian qua, các vụ án tham nhũng phần lớn đều bắt đầu bằng dấu hiệu sai phạm của các doanh nhân/doanh nghiệp, khi một doanh nhân sai phạm, kéo theo hàng chục quan chức vào tù. Và có một thực tế là nhiều doanh nhân lúc “lên”, lúc “xuống” thành công rồi thất bại phụ thuộc vào các cán bộ, quan chức theo nhiệm kỳ. Điều này liệu có liên quan đến vấn đề thể chế kinh tế, xét từ góc độ hình thành chủ nghĩa tư bản thân hữu, hoặc còn được gọi là “nhóm lợi ích”?

Trong khía cạnh này có câu hỏi thú vị từng được dư luận quan tâm: tham nhũng hay tiêu cực bắt đầu từ ai: các doanh nhân, doanh nghiệp hay cán bộ, quan chức nhà nước? Tôi xin trả lời bằng một câu hỏi khác: Tại sao người ta kinh doanh mà không lựa chọn đi làm cho nhà nước?

Chắc chắn có hai lý do, đó là muốn làm giàu và có cuộc sống tự do. Mong muốn này dễ hiểu và hoàn toàn chính đáng. Nhưng khi kinh doanh, hơn nữa lại muốn thành công và phát triển thì trong điều kiện của nước ta, anh có thể thoát ly khỏi các mối liên hệ với các cơ quan nhà nước được không, chưa nói tới việc xây dựng quan hệ gần gũi, thân thiết với cán bộ và quan chức của bộ máy chính quyền? Đối với nhiều người làm kinh doanh, trong bối cảnh và sự cân nhắc như vậy, các hiện tượng được cho là tiêu cực, tham nhũng bắt đầu nhen nhóm, rồi sau đó trở thành phạm tội khi bị các cơ quan chức năng phát hiện.

Tôi muốn nhấn mạnh rằng nền tảng hay linh hồn của tự do kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đích thực chính là bảo vệ cạnh tranh và người tiêu dùng. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý một chiều hướng khác, đó là vì các toan tính lợi ích lâu dài cho cá nhân và gia đình, nhiều cán bộ, quan chức đã chủ động thiết lập các quan hệ thân hữu với doanh nghiệp hay xây dựng doanh nghiệp sân sau để trục lợi. Điều này là tiền đề của cái gọi là tham nhũng thể chế và chính sách, hay theo thuật ngữ hình sự là tội phạm có tổ chức mà các cơ quan tư pháp đang vất vả xử lý.

Tôi biết rằng đối mặt với thực tế như thế, nhiều doanh nhân đã lựa chọn cách chấp nhận sống chung dù bị động hay chủ động. Rất tiếc họ không ý thức rằng đó chính là một loại rủi ro như thanh gươm treo lơ lửng trên đầu, nó có thể rơi xuống bất cứ lúc nào, kể cả thời điểm anh đang tự tin và sung mãn nhất. Bởi suy cho cùng không có quan hệ đen tối nào vững bền cả.

Nhưng nếu sự lên xuống, thành công hay thất bại của các cá nhân là cái giá mà họ phải trả thì vẫn có một sự thật khác không đáng hay buộc phải xảy ra. Đó là một khi người chủ doanh nghiệp vướng vòng lao lý thì chính cái doanh nghiệp ấy, dù là một thực thể pháp lý độc lập với bộ máy của hàng trăm, ngàn con người cũng sụp đổ theo. Hiện tượng này là sự trả giá lớn hơn, nó gây thiệt hại cho cả xã hội và nền kinh tế.

Về lý do có thể thấy: thứ nhất, đó là thực trạng nhiều doanh nghiệp tồn tại và phát triển dựa trên trục lợi chính sách và quan hệ thân hữu với các quan chức chính quyền; thứ hai, là việc áp dụng thái quá, thậm chí vô nguyên tắc các biện pháp hình sự khi xử lý các vấn đề của doanh nghiệp, hay còn được gọi là hình sự hóa các quan hệ dân sự - kinh tế. Muốn xử lý các vấn đề này, chúng ta không chỉ cần thay đổi tư duy mà còn phải tiếp tục cải cách thể chế và pháp luật.

Vào tháng 5.2022, VCCI công bố 6 quy tắc đạo đức doanh nhân Việt Nam và phát động trong cộng đồng doanh nhân toàn quốc. Ông có cảm nhận gì về quy tắc trên trong bối cảnh văn hóa và môi trường làm ăn hiện tại?

Tôi muốn nhắc lại nhận định của một chuyên gia kinh tế lão làng ở Việt Nam tại các diễn đàn doanh nghiệp rằng: “Thể chế nào, doanh nhân ấy”. Ý của ông là muốn có doanh nhân tốt thì phải bắt đầu từ cải cách, xây dựng và hoàn thiện thể chế. Tuy nhiên, ai cũng biết rằng tiếp cận như vậy vô cùng khó bởi thể chế là vấn đề lớn và phức tạp, động chạm nhiều bên và nhiều khía cạnh như tư tưởng và ý chí, tâm lý và lợi ích, không chỉ mong muốn hay quyết tâm cá nhân mà còn cả quyền lực được tập trung đủ cùng với năng lực tổ chức thực hiện.

Vượt lên tinh thần trách nhiệm và đạo đức kinh doanh, đó chính là lòng yêu nước của các doanh nhân.

Cho nên tôi ủng hộ sự kêu gọi và các nỗ lực của VCCI, như một tổ chức đại diện cho các doanh nhân, tức giới chủ, về xây dựng một nền văn hóa kinh doanh lành mạnh và chuyên nghiệp với các tiêu chí đã đề ra. Nói một cách ngắn gọn, đó là kinh doanh có trách nhiệm với cách tiếp cận chủ động từ phía những người trong cuộc.

Triết lý đơn giản ở đây là anh hãy tìm cách dựa vào công cụ luật pháp như nó có, để tập sống và làm ăn trong một môi trường còn ngổn ngang các khiếm khuyết và chưa chuyên nghiệp với thái độ của một người làm chủ ngôi nhà chung, nhằm góp phần xây đắp, hoàn thiện nó, cho dù phải vất vả và kiên nhẫn. Vượt lên tinh thần trách nhiệm và đạo đức kinh doanh, đó chính là lòng yêu nước của các doanh nhân.

Tôi tin rằng đại đa số những người chủ của hơn 7 triệu đơn vị kinh doanh ở nước ta vẫn đang ngày đêm hành xử như thế. Họ là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thậm chí siêu nhỏ. Ở họ, kinh doanh là lẽ sống, là việc tự lập và làm chủ cuộc đời mà không nhất thiết phải làm tất cả để giàu hay siêu giàu và nổi tiếng. Đối với nhóm doanh nghiệp này, họ dường như không có các cơ hội để hưởng lợi hay trục lợi từ hoàn cảnh. Tuy nhiên, trong khía cạnh bất trắc của môi trường kinh doanh mà chúng ta bàn đến, có lẽ chính sự kiểm soát được ham muốn hay lòng tham trong mình đã giúp họ vượt qua các cạm bẫy và rủi ro.

D.T.

Nguồn: Nguoidothi.net.vn


TRĂN TRỞ KHI THẾ HỆ DOANH NHÂN BAN ĐẦU ĐANG GIÀ DẦN ĐI

TƯ GIANG /TVN 14-10-2022

TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương là người có công lớn trong soạn thảo luật Doanh nghiệp. Nhân ngày doanh nhân, ông chia sẻ những đánh giá rất đáng suy nghĩ về khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam.

Những bước tiến dài

Các tầng lớp doanh nhân Việt Nam chịu nhiều thăng trầm trong quá khứ. Sau Đổi mới, khi thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, các doanh nhân mới bắt đầu xuất hiện. Đến năm 2011, DN tư nhân được xác định là một bộ phận cấu thành không thể thiếu của nền kinh tế và gần đây mới được xác định là động lực quan trọng của nền kinh tế.

Về luật pháp, quyền tự do kinh doanh là một bước tiến dài. Từ lúc kinh doanh chui, đến lúc được kinh doanh những gì mà Nhà nước cho phép, rồi được kinh doanh những gì Nhà nước không cấm, tiến tới được tự do kinh doanh những gì luật pháp không cấm. Ngày nay, quyền tự do kinh doanh đã được mở rộng, phát triển và đảm bảo cho kinh doanh an toàn hơn.

Về mặt thực tế, khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp hơn 44% GDP trong khi DNNN đóng góp 28% GDP, DN FDI 18%. Họ tạo ra tuyệt đại bộ phận công ăn việc làm cho nền kinh tế, nộp thuế thu nhập DN lớn nhất và xu hướng này tiếp tục tăng lên.

Những thương hiệu lớn, những sản phẩm phổ biến và cạnh tranh đều do DN tư nhân làm ra. Trong lĩnh vực bất động sản, xây dựng, họ chi phối, tạo ra những khu đô thị mới, những khu du lịch đáng đến. Họ đã làm sân bay, đường cao tốc, sản xuất điện, đặc biệt còn tham gia xây dựng hệ thống truyền tải điện, lĩnh vực trước đây chỉ có DNNN làm.


TS Nguyễn Đình Cung

DN tư nhân len lỏi vào vùng sâu, vùng xa để cung cấp dịch vụ, phát triển du lịch cộng đồng, tạo công ăn việc làm và giúp cải thiện cuộc sống cho người dân địa phương.

Ngay cả trong lĩnh vực chuyển đổi số, các DN tư nhân như FPT, CMC… thể hiện rõ sự năng động hơn DNNN. Trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bên cạnh 4 ngân hàng của nhà nước, cũng thấy nổi lên những ngân hàng của tư nhân, tạo nên cạnh tranh, thúc đẩy quản trị và giúp nâng cấp chất lượng phục vụ. Sắp tới đây, các DN tư nhân sẽ tham gia những dự án giao thông rất lớn của quốc gia.

Tầm vóc và năng lực của DN tư nhân là như vậy. DN tư nhân xuất hiện ở mọi lĩnh vực, ở khắp mọi nơi với vị trí, vai trò ngày càng quan trọng và không thể thiếu.

Tiềm năng lớn nhưng lớn chậm

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tồn tại. Khu vực hộ kinh doanh cá thể vẫn chiếm tuyệt đại đa số, đóng góp 33% GDP. Đa số họ chỉ tạo việc làm và thu nhập cho gia đình. Khu vực này đang rất nhiều, nhưng vẫn hoạt động trong khu vực phi chính thức, chưa quan sát được.

Trong khi đó, các DN tư nhân có đăng ký chính thức chỉ chiếm 11% GDP. Tỷ lệ DN nhỏ và vừa và doanh nghiệp cực nhỏ đang chiếm tuyệt đại đa số; tỷ lệ DN lớn rất thấp.

DN tư nhân có tiềm năng lớn nhưng bị hạn chế quá nhiều. Nếu không có những hạn chế này, họ còn phát triển nổi trội hơn nhiều.

DN tư nhân không chịu lớn và lớn lên rất chậm. Báo cáo 500 DN tư nhân của Trung tâm thông tin dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, có những DN năm nay vào danh sách, năm sau lại ra. Điều đó cho thấy, sự phát triển của DN chậm, không ổn định, không nhất quán.

Như tôi đã đề cập, đại đa số DN tư nhân là nhỏ và vừa nên còn rất yếu, chỉ lo sinh kế, kiếm tiền để sống chứ chưa thể phát triển lên tầm mới được.

Mặc dù nền kinh tế là mở và hội nhập nhưng đa số DN tư nhân, trừ trong lĩnh vực sản xuất nông sản, đặc biệt là thủy sản, không kết nối, không hội nhập được vào chuỗi giá trị toàn cầu. Họ không tận dụng được những cơ hội mà các hiệp định FTAs mang lại như các DN FDI đã tận dụng.


Các doanh nhân dự lễ kỷ niệm Ngày Doanh nhân Việt Nam năm 2022 do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức. Ảnh: TTXVN

Không dám đầu tư lớn

Về mặt luật pháp, chính sách và kể cả dư luận xã hội, vẫn có khoảng cách đối với họ. Xin lấy ví dụ, các DN FDI gần như ít bị thanh tra, kiểm tra; họ lại được chuẩn bị sẵn cho các khu công nghiệp hay tiếp cận đất đai. Vì thế, pháp luật chi phối chỉ một bộ phận nhỏ DN FDI. Trong khi đó, DN tư nhân bị thanh tra, kiểm tra, có vi phạm là bị bêu ra trước công luận. Họ bị toàn bộ hệ thống chi phối. Đó là gánh nặng. Mà họ càng kinh doanh lớn và đa ngành thì càng gặp rủi ro lớn và không kiểm soát được.

Luật pháp đang tạo ra cho DN tâm lý không đầu tư lớn. Trên thế giới, những tập đoàn lớn đều cố nắm lấy những công nghệ nguồn, hết sản phẩm này là nghiên cứu, đưa ra sản phẩm khác. Nhưng DN Việt Nam không cần áp dụng công nghệ mới, không đầu tư cho nghiên cứu phát triển, bởi có muốn cũng không làm được.

Hơn nữa, DN nhỏ và vừa gần như rất khó tiếp cận vốn. Các chính sách hỗ trợ của nhà nước về tiếp cận vốn gần như vô hiệu với họ. Họ cũng gần như không thể tiếp cận đất đai được. Bây giờ không còn cấp đất, cho thuê đất nữa, và muốn tiếp cận đất, họ phải đấu thầu, đấu giá.

Trên thực tế, DN nhỏ và vừa không đủ điều kiện để tham gia đấu thầu, đấu giá. Không có đất, họ không thể xây dựng nhà máy, kho hàng cho sản xuất; không có khả năng, cơ hội mở rộng đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh.

Nhân đây, tôi muốn nhấn mạnh đến vai trò của truyền thông.

Ví dụ, truyền thông đưa tin, hình ảnh nông sản sạch và không sạch. Không có nông sản sạch hay bẩn; chỉ có nông sản an toàn hay không an toàn. Cách truyền thông như thế tạo cho xã hội có suy nghĩ, đánh giá DN tư nhân làm ăn không đàng hoàng, tạo quan niệm xã hội không công bằng. DN tư nhân bị đánh giá là kinh doanh chụp giật, làm hàng giả, hàng lậu, vi phạm sở hữu trí tuệ. Như thế hình ảnh của DN tư nhân không đẹp.

Cần lực lượng doanh nhân lớn để kinh tế độc lập, tự chủ

Giai đoạn này, tâm trạng của nhiều DN tư nhân mà tôi có cơ hội trò chuyện, thảo luận đang chùng xuống. Thế hệ doanh nhân Việt Nam đầu tiên xuất hiện vào những năm đầu 1990, thế hệ thứ hai là vào những năm 2000. Họ đang già đi và nhiều DN không tìm được ai để chuyển giao. Con cái họ đã đủ tiền để sống cho mấy đời sau, không ít người ra nước ngoài. Thế hệ con cái thấy bố mẹ từng quá vất vả nên rất khó chấp nhận đi lại con đường đó. Đây là dấu hiệu đáng cảnh báo cho sự phát triển bền vững của DN tư nhân.

Nền kinh tế muốn độc lập, tự chủ và phát triển bền vững phải có đội ngũ DN Việt Nam vững vàng và phát huy được hết sự năng động, sáng tạo của tư duy. Tới đây, khi thâm dụng lao động không còn là lợi thế, và nếu không có sức hấp dẫn khác, các DN FDI sẽ chuyển đi. Khi họ ra đi mà DN tư nhân chưa lớn để lấp vào thì nền kinh tế sẽ có lỗ hổng lớn.

Vì vậy, DN tư nhân Việt Nam cần được phát triển mạnh mẽ và công bằng hơn, họ xứng đáng có hình ảnh đẹp hơn và được luật pháp bảo vệ tốt hơn, hiệu quả hơn.

TƯ GIANG

VÌ SAO CỔ PHẦN HÓA, THOÁI VỐN NHÀ NƯỚC TIẾP TỤC CHẬM ?

VÂN PHONG /KTSG 29-9-2022

(KTSG Online) – Việc thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tiếp tục chậm trễ so với tiến độ đề ra. Theo Bộ Tài chính, các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước mới thực hiện thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp với giá trị là 466 tỉ đồng, thu về hơn 2.289 tỉ đồng sau 9 tháng đầu năm 2022.

Chia sẻ tình hình cổ phần hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN), Bộ Tài chính cho biết, trong tháng 9 này, các đơn vị ghi nhận bổ sung Công ty TNHH MTV Phà An Giang (đã chính thức chuyển thành công ty cổ phần năm 2021) thuộc danh mục cổ phần hóa giai đoạn 2017-2020 đã được Thủ tướng phê duyệt với tổng giá trị doanh nghiệp là 309 tỉ đồng, trong đó giá trị thực tế phần vốn nhà nước là 278 tỉ đồng.

Cũng trong tháng 9, các tập đoàn, tổng công ty và DNNN đã thoái vốn tại doanh nghiệp với giá trị 48,3 tỉ đồng thu về 109,1 tỉ đồng. Đó là thương vụ SCIC thoái vốn tại Công ty cổ phần Địa ốc Vĩnh Long và Công ty cổ phần thuốc ung thư Benovas.

Lũy kế 9 tháng năm 2022, các tập đoàn, tổng công ty, DNNN thoái vốn tại doanh nghiệp với giá trị là 466 tỉ đồng, thu về 2.289,5 tỉ đồng. Cụ thể, SCIC thực hiện bán vốn tại 19 doanh nghiệp với giá trị là 211,6 tỉ đồng, thu về 796,5 tỉ đồng.

Tổng công ty Bưu điện Việt Nam thoái vốn tại Công ty cổ phần Bưu điện với giá trị 182 tỉ đồng, thu về 1.409 tỉ đồng. Công ty TNHH MTV Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam thoái vốn tại Công ty cổ phần Tập đoàn Tân Mai với giá trị là 72 tỉ đồng, thu về 83 tỉ đồng. Tổng công ty Viễn thông MobiFone thoái vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần cổ phần Đông Nam Á (SeABank) với giá trị là 60 triệu đồng, thu về 350 triệu đồng.

Ngân sách đã thu về 350 triệu đồng từ thương vụ thoái vốn của MobiFone tại SeABank. 
Ảnh minh hoạ: DNCC.

Với kết quả trên, Bộ Tài chính đánh giá tiến độ triển khai cổ phần hóa, thoái vốn vẫn chậm do một số nguyên nhân.

Về nguyên nhân khách quan, doanh nghiệp cổ phần hóa, thoái vốn có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng, đa ngành, đa lĩnh vực, nhiều tài sản chuyên ngành, khó xác định giá trị nên việc xử lý tài chính tài sản, nợ, xác định giá trị doanh nghiệp, giá trị phần vốn nhà nước và công tác chuẩn bị hồ sơ, phương án cần nhiều thời gian.

Thêm vào đó, một số doanh nghiệp thuộc nhóm này còn có nhiều vấn đề phải xử lý về tài chính; một số đơn vị vi phạm quy định về quản lý vốn, tài sản đang thực hiện thanh tra, kiểm tra, điều tra.

Với doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, vốn là các đơn vị cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, hoạt động gắn liền với các hoạt động của địa phương, Bộ Tài chính cho biết các đơn vị có doanh thu và lợi nhuận thấp nên không thu hút nhà đầu tư.

Ngoài ra, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và xung đột chính trị – quân sự trên thế giới tác động đến tình hình thị trường tài chính, chứng khoán trong nước cũng ảnh hưởng đến công tác xác định giá trị doanh nghiệp, đấu giá phần vốn nhà nước.

“Việc triển khai cổ phần hóa, thoái vốn phụ thuộc vào tình hình thị trường, lựa chọn thời điểm bán cổ phần hợp lý để đem lại hiệu quả, đảm bảo tính khả thi”, theo Bộ Tài chính.

Về nguyên nhân chủ quan, cơ quan này cho rằng, nhận thức và tổ chức thực hiện của một số cơ quan đại diện chủ sở hữu và người đứng đầu doanh nghiệp còn chưa cao, chưa quyết liệt trong tổ chức triển khai, thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nên còn tư tưởng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm.

Việc rà soát, lập kế hoạch sắp xếp lại doanh nghiệp giai đoạn 2021-2025 chưa được các cơ quan, đơn vị quan tâm đúng mức.

Công tác chuẩn bị cổ phần hóa, thoái vốn cũng chưa tốt. Theo đó, nhiều doanh nghiệp chưa hoàn thiện đầy đủ thủ tục pháp lý sắp xếp lại, xử lý các cơ sở nhà, đất theo pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công trước khi cổ phần hóa, thoái vốn; còn nhiều vướng mắc, tồn tại về tài chính chưa được xử lý dứt điểm.

Thêm vào đó, việc phối hợp giữa các cơ quan đại diện chủ sở hữu với các Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, bộ, ngành liên quan trong xử lý vướng mắc phê duyệt phương án sử dụng đất; xử lý tồn tại tài chính còn kéo dài.

VÂN PHONG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét