Thứ Hai, 28 tháng 3, 2022

20220329. CĂNG THẲNG NGA-UKRAINA (16)

 ĐIỂM BÁO MẠNG


SAU UKRAINE 'ĐIỂM NÓNG' TIẾP THEO SẼ Ở ĐÂU ?

ĐINH HOÀNG THẮNG / BVN 19-3-2022


Hình minh hoạ: một người lính Ukraine một nhà kho bị cháy vì pháo kích của Nga ở Kyiv hôm 17/3/2022.

Trước đây, có thể là một trong hai nơi: Đài Loan hoặc Việt Nam. Nhưng nay, Trung Quốc đang rút ra những sai lầm từ cuộc xâm lược Ukraine của Putin và có thể sẽ có điều chỉnh. Trước mắt, “chảo dầu” trên Biển Đông vẫn tiếp tục sôi.

Từ các chiến trường Nga – Ukraine…

Theo tin từ Washington DC, Tổng thống Joe Biden sẽ nói chuyện “phải quấy” với Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc qua trực tuyến, vào ngày 18/3 này. Đây là cuộc thảo luận đầu tiên giữa hai nhà lãnh đạo từ tháng 11 năm ngoái đến nay. Bản tin của CNN cho hay, bà Jen Psaki, phát ngôn viên Nhà Trắng, loan báo việc này chỉ ít ngày sau khi một công điện ngoại giao Mỹ được công bố, theo đó, Trung Quốc bày tỏ sự sẵn sàng cung cấp sự hỗ trợ về quân sự và tài chính cho Nga trong cuộc xâm lăng vào Ukraine. Các giới chức Mỹ nói rằng, đến nay chưa rõ Trung Quốc dự trù cung cấp những gì cho Nga. Bà Psaki nói, cuộc nói chuyện giữa Tổng thống Biden và Chủ tịch Tập là “một phần của nỗ lực duy trì đối thoại giữa Mỹ và Trung Quốc”. Bà cho biết thêm: “Hai nhà lãnh đạo sẽ thảo luận về sự cạnh tranh giữa hai quốc gia, cùng với cuộc xâm lăng của Nga ở Ukraine, cũng như các vấn đề khác mà cả hai bên cùng quan tâm” (1).

Xem vậy để thấy, lò lửa Ukraine chưa tắt nhưng các cường quốc hàng đầu đang vội vã lo toan tính cho các “cuộc lấn sân nhau” trong giai đoạn “hậu Ukraine”. Mâu thuẫn giữa ba đại cường Mỹ – Nga – Trung rõ ràng đang/và sẽ tiếp tục bị đẩy lên cao hơn, đối kháng. Họ tiếp tục giành giật quyết liệt các khu vực ảnh hưởng của nhau. Không phải ngẫu nhiên trước và trong cuộc chiến tranh Nga – Ukraine hiện nay, hai “ngọn núi lửa” âm ỉ khác là Đài Loan và Biển Đông lúc nào cũng chực phun trào (2).

Tuy nhiên, với cuộc chiến tranh ở Ukraine, Trung Quốc, trên thực tế đã bỏ công nghiên cứu và theo dõi rất kỹ mọi diễn tiến trên chiến trường cũng như các xung lực khác đằng sau cuộc xung đột. Trong quá trình các cuộc hội đàm Mỹ – Trung diễn ra căng thẳng, giới phân tích cho rằng, rồi ra Trung Quốc sẽ buộc phải điều chỉnh mục tiêu. Trước mắt, Trung Quốc nhận thấy Đài Loan không dễ nuốt trôi. Xã hội Đài Loan, tiềm lực và năng lực của lãnh thổ này hoàn toàn khác với xã hội và quốc lực Ukraine. Đặc biệt, Mỹ vẫn nhấn mạnh về “Bộ Luật Đài Bắc” (Taipei Act) để cảnh báo Trung Quốc chớ hành động một cách bất cẩn.

Từ quan điểm được cho là khách quan nói trên, cuộc chiến của Nga ở Ukraine hẳn đang đặt ra những câu hỏi nghiêm túc về tính khả thi của một cuộc xâm lược tương tự của Bắc Kinh vào Đài Loan. Phản ứng quyết liệt và dứt khoát của NATO trước sự hung hăng của Nga khiến cho bài học đầu tiên này càng có giá. Không thể tưởng tượng rằng, Bắc Kinh nhìn vào phản ứng của các chính phủ phương Tây và cả của Nhật Bản nữa, đối với cuộc xâm lược của Nga, mà không kết luận rằng, phương Tây trên thực tế có thể “bật dậy lần nữa” khi đối mặt với hàng loạt hiểm hoạ địa-chính trị mới do cuộc tấn công Đài Loan gây ra.

Qua phản ứng tập thể của phương Tây và NATO, rõ ràng châu Âu không phải là “lục địa già” đang lụi tàn trên sân khấu chính trị thế giới. Ngược lại, phương Tây và NATO vẫn luôn là một đối trọng có vai vế chủ lực, mang tính hệ quả cao, có thể tác động lên toàn cầu. Nhưng bài học thứ hai liền kề nói rằng, châu Âu không thể đến giúp Ukraine thông qua một liên minh phòng thủ, vì Kyiv không phải là thành viên NATO.

Bài học thứ hai này dường như đi ngược lại bài học thứ nhất, tức là Hoa Kỳ và châu Âu rõ ràng không muốn mạo hiểm chiến tranh hạt nhân đối với các mối quan hệ an ninh không tuân thủ theo hiệp ước. Washington đã tuyên bố rất rõ ràng rằng, Mỹ sẽ không dung thứ cho một cuộc tấn công nhằm vào một quốc gia thành viên NATO, rằng họ sẽ tôn trọng các cam kết Điều 5 của Hiệp ước, trong trường hợp chiến tranh bùng nổ.

Kết luận rút ra là, trong trường hợp không có hiệp ước song phương (như với Nhật hoặc đa phương như hiệp ước với các thành viên NATO), Mỹ khó có thể can thiệp trực tiếp bằng quân sự để bảo vệ Đài Loan. Nếu thực tế là như vậy, Bắc Kinh có thể được khuyến khích sử dụng vũ lực quân sự trong bất kỳ cuộc khủng hoảng nào trong tương lai liên quan đến chính quyền Đài Bắc (3). Tuy nhiên, “Taipei Act” vẫn là một “sự lập lờ về chiến lược” của Mỹ mà Trung Quốc không thể coi thường trước khi quyết định khai hoả.

Bài học thứ ba, cuộc chiến Ukraine cho thấy, cộng đồng quốc tế có thể tự huy động để đối phó với hành động xâm lược. Từ các chính phủ đến các tổ chức quốc tế, từ các công ty tư nhân đến các hiệp hội văn hóa, thế giới đã phản ứng với hành động xâm lược của Nga một cách nhanh chóng và có tác động tức thì. Tất nhiên, khả năng khá cao là trong khi cộng đồng quốc tế sẵn sàng huy động chống lại sự xâm lược của một nước Nga đang đi xuống, thì cộng đồng này sẽ ít có xu hướng hành động quyết liệt và nhất quán như vậy, khi phải đối mặt với cuộc xâm lược được thực hiện bởi một Trung Quốc hùng mạnh hơn nhiều và có nền kinh tế sung mãn. Cộng hưởng của cả ba bài học này là Trung Quốc có thể “bỏ qua” mục tiêu Đài Loan. Điều này đặt ra vấn đề là mâu thuẫn Trung – Mỹ tới đây sẽ “được” xì tiếp ra ở đâu?

Đến cuộc chạy đua với thời gian

Để trả lời câu hỏi nói trên, trước hết phải ghi xương khắc cốt các cuộc kháng chiến oanh liệt trước đây của dân tộc Việt Nam từ năm 1954 đến gần đây nhất là cuộc chiến tranh biên giới tháng 2/1979 với Trung Quốc. Rõ ràng, mục tiêu hàng đầu của các cuộc kháng chiến thiêng liêng ấy chính là giành lấy các quyền dân tộc tự quyết, quyền được sống trong độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Tuy nhiên, từ một góc nhìn khác, qua các cuộc chiến khốc liệt ấy, Việt Nam cũng đã “từng là Ukraine” cho Đông Á và thế giới. Giữa những khát vọng cháy bỏng của con dân đất Việt, cho đến nay, vẫn còn đó một số mục tiêu đâu có thể coi là đã trọn vẹn. Chưa bàn tới, nếu căng thẳng hiện nay ở Biển Đông dẫn đến xung đột toàn diện, theo ý kiến các chuyên gia, dường như ngày càng có nhiều khả năng mục tiêu mà Trung Quốc tấn công đầu tiên sẽ là Việt Nam (4).

Giáo sư Panos Mourdoukoutas, Trưởng khoa Kinh tế Đại học LIU Post, New York trong bài viết trên Forbes cách đây một năm cũng khẳng định, Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục là mục tiêu của Trung Quốc khi Bắc Kinh thúc đẩy chương trình nghị sự trên Biển Đông (5).

Hãy mở to mắt để nhìn: Thuỵ Sỹ, Thuỵ Điển, Na Uy… lần đầu tiên trong lịch sử đã bỏ qua quy chế trung lập của mình để tham gia vào mặt trận chung của Mỹ và EU trừng phạt nước Nga. Đa số các nước ASEAN đầy lo lắng nguy cơ nước lớn dùng vũ lực ăn hiếp nước nhỏ. Tám thành viên ASEAN đã bỏ phiếu tán thành nghị quyết của Đại hội đồng LHQ phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa này, trong đó Singapore tham gia các biện pháp trừng phạt kinh tế Nga. Chỉ riêng Việt Nam và Lào bỏ phiếu trắng.

Thủ tướng Úc Scott Morison ngày 06/03/2022 phải kêu lên, nước Úc chưa bao giờ bị đe doạ nguy hiểm như hôm nay kể từ sau chiến tranh thế giới thứ Hai, và đã xúc tiến các biện pháp phòng vệ.

Mỗi ngày mới đến, là một ngày chiến sự khốc liệt hơn trên khắp các chiến trường Ukraina. Song thời gian đen tối nhất của cuộc chiến tranh này vẫn đang ở phía trước, với những kết cục chưa ai định trước được… Chưa ai biết trước được cuộc chiến tranh sẽ kết thúc như thế nào. Nhưng thế giới có niềm tin vững chắc: nhân dân Ukraina có thể bị đè bẹp trong một số trận đánh, nhưng chung cuộc họ sẽ đánh bại cuộc chiến tranh phi nghĩa vô cùng tàn bạo này. Bởi vì, nếu cái ác thắng, thì cả thế giới sẽ là một hoả ngục lớn! (6)

Xem thế để khẳng định đã đến lúc Việt Nam nên nghiêm chỉnh rút tỉa những kinh nghiệm xương máu từ bài học của Ukraine. Phải chăng bài học quan trọng nhất là, Việt Nam phải trở lại, và trở thành là chính mình, đã đến lúc phải dũng cảm bỏ qua những thành kiến từ quá khứ, nhận thức rõ chính tà, phải trái, đâu là quyền lợi sát sườn hiện nay của quốc gia dân tộc. Trong tình thế quốc tế nước sôi lửa bỏng như hiện nay, giờ không phải là lúc ngồi bàn yêu ai ghét ai. Bây giờ là lúc sinh mệnh quốc gia, tương lai của dân tộc đang thực sự bị thách thức (7). Phải thấu triệt cho được mọi mưu đồ của Trung Quốc, nhất là một khi Trung Quốc đang lăm le bắt tay với Nga, trước mắt là trên chiến trường Ukraine, sau này có thể cả trên Biển Đông.

Các chiến lược gia quốc tế chỉ rõ, tới đây, Trung Quốc rất có thể sẽ nắn gân Mỹ ở Biển Đông. Thậm chí, nếu Trung Quốc mở một “chiến dịch quân sự đặc biệt” đối với Việt Nam, giống như Nga mở ở Ukraine, thì sự phản đối của cộng đồng quốc tế đối với Bắc Kinh, đặc biệt là sự hỗ trợ to lớn và hiệu quả như Mỹ và châu Âu hiện đang dành cho Kyiv sẽ không diễn ra như thế đối với chiến trường Biển Đông (8).

Nhìn nhận cục diện như trên không phải để bi quan, mà cũng không phải để “kê cao gối ngủ”. “Đất nước chưa bao giờ có cơ đồ như hiện nay!” là nói để tuyên truyền, khác với nói để chuẩn bị chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Nhận diện tình hình khách quan là để nhấn mạnh một số nguy cơ hiện hữu trong bối cảnh chúng ta vẫn còn cơ hội để thoát hiểm (9). Chúng ta đã thành công một bước trong quá trình “quốc tế hoá” cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông, nhưng để thực sự hạ nhiệt “chảo dầu sôi” ấy, chúng ta còn rất-rất nhiều việc phải làm cả về đối nội lẫn đối ngoại. Tiếc rằng sau hơn 30 năm đổi mới, lòng người ngay trong và ngoài nước Việt Nam vẫn còn ly tán. Chúng ta chưa hiện đại hoá được cái minh triết của Hưng Đạo Vương dặn lại vua quan đời Trần: “Phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”. Đấy là chưa nói sự cố kết giữa người Việt trong và ngoài nước vẫn còn khoảng cách. Từ khoảng cách ấy, sự đoàn kết quốc tế, nếu có chiến sự ở Biển Đông, sẽ khá bấp bênh. Càng bấp bênh hơn, nếu trong cuộc chiến Nga – Ukraine, một bộ phận không nhỏ trong xã hội chưa phân biệt được Putin không phải là nước Nga, mà nước Nga lại càng không phải là Liên Xô. Luyến tiếc và hoài niệm về một tương quan “Việt – Trung – Xô” viển vông nào đó, thì thật hiểm hoạ khôn lường.

Nếu lãnh đạo xác định tới đây là thời cơ để Việt Nam thay đổi, sẽ là hồng phúc cho dân tộc. Nếu được đổi mới toàn diện, cả kinh tế lẫn chính trị, mạnh mẽ trên con đường nhà nước pháp quyền, thì chúng ta còn cơ hội. Đảng lúc bấy giờ phải là Đảng của Dân tộc, Đảng của Đất nước, Đảng của Nhân dân, chứ không phải của một nhóm người đặc quyền đặc lợi. Nói như Giáo sư Nguyễn Đình Cống khả kính, nếu cứ tăng cường độc quyền đảng trị như hiện nay thì nhiều khả năng u ám bao trùm. Đến lúc nào đó, dân tộc sẽ lâm nguy, mà Đảng cũng chẳng còn, chỉ còn lại một nhúm người tay sai cho bọn thống trị ngoại bang và một quần chúng nô lệ, bị hủy diệt dần như Tây Tạng và Tân cương hiện nay (10). Trong khi đó, nếu Việt Nam quyết tâm thay đổi, Trung Quốc cũng chẳng thể làm gì. Còn đất nước sẽ có cơ hội mở ra với thế giới văn minh mà không cần phải chọn bên.

Hiện nay, Thủ tướng nói không chọn bên, chọn lẽ phải, chọn công lý, nhưng bỏ phiếu ở LHQ ta lại chọn Nga, chọn Tàu, thì thật là nói một đằng, làm một nẻo. Không những bạn bè thất vọng, thế giới ngạc nhiên, mà trong nước “quân ta” sẽ tiếp tục đánh nhau với “quân mình”. Mấy ông tướng tiếp tục tụng ca “đồng chí Putin”, lên án “kẻ địch” Ukraine. Thử hỏi có bi kịch nào lớn hơn đối với một dân tộc đang tứ bề thọ địch?! Khi Tàu ép ta, thậm chí “nổi lửa” trên Biển Đông, lúc đó chỉ còn một mình ta với họ.

Thảm hoạ thay!!!

Đ.H.T.

_____

Tham khảo:

1. https://www.cnn.com/2022/03/17/politics/joe-biden-xi-jinping-friday/index.html

2. https://tu-do.com/index.php/categories/tu-do/business/fbnc-vietnam/youtube-id-3npobgywh-4

3. https://thehill.com/opinion/international/597560-three-geopolitical-lessons-china-is-learning-from-russias-war-in

4. https://www.rfi.fr/vi/viet-nam/20190909-vi-sao-trung-quoc-se-chon-danh-viet-nam

5. https://vn.sputniknews.com/20190910/bien-dong-vi-sao-viet-nam-tro-thanh-muc-tieu-cua-trung-quoc-8011979.html

6. http://www.viet-studies.net/NguyenTrung/NguyenTrung_KhongXemChoiGa.html

7. https://vov.vn/the-gioi/quan-sat/he-lo-them-nguyen-nhan-sau-xa-khien-trung-quoc-muon-doc-chiem-bien-dong-855981.vov

8. https://www.cnn.com/2022/03/14/politics/us-china-russia-ukraine/index.html

9. https://vpctn.gov.vn/tin-tuc-su-kien/chu-tich-nuoc-nguyen-xuan-phuc-chu-tri-phien-hop-thu-nhat-bcd-xay-dung-de-an-tong-ket-chien-luoc-bao-ve-to-quoc-trong-ti.html

10. https://www.rfa.org/vietnamese/news/blog/from-diplomatic-trick-to-real-play-02202022085525.html

* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do.

Nguồn: rfa.org/vietnamese

'NỘI CHIẾN' NGÔN NGỮ: TIẾNG UKRAINE HAY TIẾNG NGA ?

TRẦN HỮU THỰC/BVN 20-3-2022


Không phải tất cả những gì viết bằng tiếng Nga đều thuộc về văn chương Nga, hoặc thuộc về (nước) Nga. Những nhà văn Ukraine viết tiếng Nga không viết về người Nga mà về người Ukraine.

Andrey Kurkov

Bối cảnh lịch sử và chính trị

Ukraine là nước lớn thứ hai ở Âu Châu, sau Nga, với diện tích 603,628 km2, xấp xỉ tiểu bang Texas (695.622 km2), gần gấp đôi Việt Nam (331.2121 km2). Theo kiểm tra dân số tháng 1/2022 (www.ukrstat.gov.ua.), thì Ukraine (không kể bán đảo Crimea đã bị Nga sáp nhập) có 41.167.336 người, trong đó, 77,8 % là người Ukraine và 17,3% là người Nga với 67% nói tiếng Ukraine và 24% nói tiếng Nga(1).

Dẫu vậy, Tổng thống Nga Vladimir Putin nhiều lần khẳng định “Không hề có một nước gọi là Ukraine”! Ngay từ đầu một bài viết quan trọng của mình, “On the Historical Unity of Russians and Ukrainians”(2) công bố trên trang mạng của điện Kremlin ngày 21/7/2021, Putin không úp mở xác định rằng “người Nga và người Ukraine là một dân tộc - một toàn thể duy nhất”(3), vì Nga và Ukraine có cùng một gia tài và một vận mệnh chung. Cái gọi là căn cước quốc gia Ukraine hiện nay chỉ là một sản phẩm của các thế lực nước ngoài, theo ông.

Hai nước Ukraine và Nga quả thực đã cùng chia sẻ một lịch sử khá phức tạp, nhưng lập luận này rõ ràng xuất phát từ một ám ảnh lâu đời của tinh thần đế quốc Nga.

Từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ 13, một quốc gia Đông-Slave (East Slavic) đầu tiên có tên gọi là Kievan Rus xuất hiện, với một lãnh thổ rộng lớn và đông dân nhất Âu Châu thời đó; trung tâm của nó là Kyiv, thủ đô Ukraine hiện nay, mà các nước Belarus, Russia, và Ukraine đều xem là nguồn gốc của họ. Vào thế kỷ 12, trong lúc người Nga dần dần tách khỏi Kievan Rus và hình thành một quốc gia riêng, thì những cuộc tranh giành và chiến tranh tương tàn cùng với sự xâm lăng của Mông Cổ đã khiến Kyivan Rus suy yếu và cuối cùng, bị sáp nhập vào vương quốc Polish-Lithuanian. Dẫu vậy, di sản văn hóa và tôn giáo của nó là nền tảng cho tinh thần quốc gia Ukraine về sau, giúp hình thành một nước Ukraine mới gọi là Cossack Hetmanate vào thế kỷ thứ 17, sau một cuộc nổi loạn chống người Ba Lan. Quốc gia này giữ vững độc lập trong vòng hơn 100 năm (1648-1764) mặc dầu bị nước Nga áp chế. Đến nửa sau thế kỷ 18, Cossack Hetmanate lại suy đồi và hoàn toàn bị Đế quốc Nga sáp nhập; người Ukraine chịu đựng cảnh mất nước thêm gần 200 năm nữa cho đến khi Nga hoàng bị sụp đổ năm 1917. Ukraine được hưởng một thời gian ba năm độc lập ngắn ngủi (1917-1920). Nhưng sau đó, khi chế độ Cộng sản Liên Xô vững mạnh, Ukraine lại hoàn toàn nằm dưới sự thống trị của người Nga. Ukraine chỉ giành lại được độc lập trọn vẹn khi chế độ Liên Xô tan rã vào năm 1991.

Dù đất nước triền miên chìm trong khủng hoảng do di sản của chế độ Cộng sản và do tham nhũng, thiếu khả năng và nhiều vấn đề linh tinh khác, người dân Ukraine vẫn cương quyết theo đuổi lý tưởng dân chủ của mình: từ năm 1991 đến nay, Ukraine có tất cả 6 tổng thống được bầu lên theo thể thức dân chủ(4).

Gay cấn nhất là cuộc bầu cử năm 2004 với hai ứng cử viên đại diện cho hai khuynh hướng đối chọi nhau: Viktor Yushchenko thân Tây phương còn Viktor Yanukovych thân Nga. Yushchenko, do lập trường của mình nên bị tình báo Nga đầu độc, được cứu sống với một khuôn mặt bị biến dạng. Viktor Yanukovych đắc cử, nhưng bị phát hiện là gian lận, nên dân chúng biểu tình đòi hủy bỏ kết quả. Khi bầu lại, Yushchenko đắc cử. Điều này khiến mâu thuẫn giữa hai nước Nga và Ukraine càng thêm gay gắt.

Trong cuộc bầu cử năm 2010, Yanukovych trở lại chính trường, cam kết đưa Ukraine thân thiện với châu Âu và rồi đắc cử tổng thống sau những năm kinh tế suy sụp dưới thời Yushchenko. Năm 2013, Yanukovych thay đổi lập trường, quay sang thắt chặt quan hệ với Nga. Điều này gây phẫn nộ trong quần chúng, đưa đến những cuộc biểu tình liên tục vào cuối năm 2013 và đầu năm 2014. Yanukovych áp dụng biện pháp mạnh, đàn áp và giết hàng trăm người, nhưng không khuất phục được sự bất mãn của nhân dân, lại bị quốc tế lên án, nên cuối cùng, phải chạy trốn qua Nga. Petro Poroshenko, một chính trị gia thân Tây phương, đắc cử tổng thống vào năm 2014, thắt chặt quan hệ trở lại với Tây phương. Đầu năm 2019, Giáo hội Chính thống giáo Ukraine chính thức cắt đứt quan hệ với Giáo hội Chính thống Nga (Russian Orthodox Church) là tổ chức tôn giáo vốn có quan hệ hết sức chặt chẽ với các chế độ của Nga qua hàng nhiều thế kỷ. Điều này làm Nga càng thêm nổi giận, tố cáo Hoa Kỳ âm mưu xúi giục Ukraine tách khỏi ảnh hưởng Nga, làm suy yếu Nga và quyền lợi của những người nói tiếng Nga ở Ukraine.

Trong cuộc bầu cử vào năm 2019, Volodymyr Zelensky, một diễn viên điện ảnh hài hước, thắng cử tổng thống với hơn 70% phiếu bầu, đánh bại đương kim Tổng thống Petro Poroshenko. Zelensky tiếp tục đường lối của người tiền nhiệm, cam kết đưa Ukraine trở thành thành viên của khối NATO. Zelensky ra lệnh sử dụng những biện pháp mạnh chống lại tay tài phiệt Viktor Medvedchuk, chủ tịch một đảng thân Nga lớn nhất ở Ukraine. Chính phủ cho đóng băng tài sản ba năm, đóng cửa các kênh truyền hình thân Nga, buộc ông ta vào tội phản bội vì cho rằng ông đã chuyển những cơ sở dầu hỏa và khí đốt ở Crimea (mà Nga chiếm năm 2014) cho Nga. Căng thẳng Nga-Ukraine lên đến tột đỉnh.

Và cái gì đến, phải đến: ngày 24/2/2022, Putin ra lệnh mang 150 ngàn quân tấn công Ukraine.

Bối cảnh văn chương

Văn chương Ukraine không có một sự tiến triển bình thường, êm ả, thiếu sự liên tục do chịu ảnh hưởng của chiến tranh và do bị lệ thuộc vào nước ngoài kéo dài suốt cả thiên niên kỷ. Đã thế, ngôn ngữ viết chỉ được sử dụng trong lãnh vực tôn giáo, thay đổi chậm hơn so với ngôn ngữ nói, tạo nên một sự cách biệt càng ngày càng lớn giữa hai cách sử dụng. Như một toàn thể, tiến trình văn chương Ukraine trải qua nhiều thời kỳ, mỗi thời kỳ mang một sắc thái riêng biệt(5):

- Thời kỳ Kyivan Rus (thế 9-13)

- Thời kỳ Cossack Hetmanate (cuối thế kỷ 17-đầu thế kỷ 18)

- Thời kỳ bản ngữ (vernacular/cuối thế kỷ 18-đầu thế kỷ 20)

- Thời kỳ Phục hưng (1917-1933)

- Thời kỳ Sô Viết [Xô Viết – BVN] (thập niên 1930-1991)

- Thời kỳ độc lập (từ 1991)

Trong một quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước bấp bênh và thăng trầm như thế, thì quả tình “Ukraine là một quốc gia bất toàn” (incomplete), cho nên văn chương của nó cũng bất toàn. Văn chương bất toàn không thể thỏa mãn tất cả mọi quyền lợi tri thức, nên nó được xem như bị lệ thuộc vào các nền văn chương khác”, sử dụng lại một nhận xét của Dmytro Cyzevkyi khi bàn về văn chương Ukraine giai đoạn Cổ điển (Classics)(6).

Khi Đế quốc Nga thống trị Ukraine vào thế kỷ 18, Nga hoàng cho thay thế tất cả phiên bản tiếng Ukraine trong tôn giáo bằng tiếng Nga, đồng thời ra lệnh cấm lưu hành tất cả các tác phẩm văn chương bằng tiếng Ukraine. Chỉ còn tiếng Ukraine bình dân (ngôn ngữ nói) là vẫn được sử dụng. Mặt khác, hầu hết những gì viết bằng tiếng Ukraine đều là thứ ngôn ngữ sách vở chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tiếng Nga, do đó, tách dần khỏi ngôn ngữ bản địa Ukraine. Văn chương cao cấp Ukraine (high style) trở thành văn chương Nga; kịch và văn xuôi thì pha trộn giữa ngôn ngữ sách vở và ngôn ngữ bình dân (middle style); chỉ có văn chương bình dân (chuyện tục, chuyện cười) mới sử dụng tiếng Ukraine thực sự (vernacular literature). Những tác phẩm viết bằng tiếng Ukraine đầu tiên ở Kievan Rus từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 13 là những tác phẩm tôn giáo, sử dụng ngôn ngữ “Church Slavonic” (Church-Slavonic language), do đó, là tài sản văn chương chung của cả Nga, Belarus và Ukraine. Sau khi bị Mông Cổ xâm lăng, và nước Nga tách ra thành một quốc gia riêng, thì văn chương Ukraine hoàn toàn suy đồi cho mãi đến thế kỷ 16.

Phải đợi đến đầu thế kỷ 19 thì văn chương bằng tiếng bản ngữ Ukraine mới có cơ hội phát triển. Đây là thời kỳ văn chương mang ý thức quốc gia Ukraine mạnh mẽ nhất trong lịch sử Ukraine, bất chấp sự cai trị tàn bạo của đế chế Nga. Ivan Kotlyarevsky, nhà thơ và nhà viết kịch, được xem là người khởi đầu cho truyền thống văn chương Ukraine mới, với Eneida (1798), một vở kịch thơ có tính cách giễu nhại, sử dụng ngôn ngữ bình dân, thông tục. Về văn xuôi thì có truyện dài Marusya (1834) của Hryhorii Kvitka-Osnovianenko. Đặc biệt nhất là Taras Shevchenko, một họa sĩ và một nhà thơ ngoại hạng của văn chương Ukraine mà ở khía cạnh thi ca và ngôn ngữ, có thể so sánh với Nguyễn Du của Việt Nam. Sinh ra trong một gia đình nông nô năm 1814, nhưng được giải thoát khỏi thân phận này vào năm 1838, Shevchenko vào học ở “Viện hàn lâm Nghệ thuật St. Petersburg” (St. Petersburg Academy of Art). Thơ ông lúc đầu mang dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn (Romantics) nhưng sau đó chuyển sang tình cảm yêu nước với lòng hoài vọng đến thời kỳ độc lập của quốc gia Cossack Hetmanate, vẽ lại hình ảnh u tối của một đất nước bị người Nga chiếm đoạt. Đặc biệt, trường ca Haidamaky (1841) là một tác phẩm trào phúng, chế giễu và lên án sự đàn áp của người Nga đối với người Ukraine(7). Ông bị nhà cầm quyền Nga đày đi lao dịch một thời gian, dài đến… 10 năm (1847-1857). Với tinh thần yêu nước nồng nàn và với một sự nghiệp văn chương lớn lao được sáng tác bằng tiếng Ukraine, Taras Shevchenko đã được người dân Ukraine tôn vinh như là người tái thành lập quốc gia Ukraine hiện đại. Tượng đài vinh danh nhà thơ này được tìm thấy ở nhiều trường đại học và công viên trên khắp đất nước Ukraine hiện nay và ngay cả trong các quốc gia Liên Xô cũ.

Theo học giả văn chương Tetyana Ogarkova, “Vị Cha già Dân tộc [của Ukraine] chẳng phải là một Hoàng tử hay Nga hoàng, cũng không phải là triết gia, nhưng là một nhà thơ, đó là Taras Shevchenko”(8).

Nhà thơ Taras Shevchenko

Khoảng thời gian độc lập ngắn ngủi từ năm 1917 và một thập niên sau đó do chế độ Liên Xô còn cởi mở, là thời kỳ nở rộ của các tác phẩm văn chương, cả sáng tác lẫn phê bình. Đây là giai đoạn hưng thịnh bất ngờ của văn chương Ukraine. Tiếng Ukraine có dịp được người Ukraine sử dụng sau gần 200 năm bị đẩy vào quên lãng. Cho đến trước năm 1922 không có một tờ báo nào bằng tiếng Ukraine, nhưng từ đó cho đến năm 1933, có đến 372 tờ nhật báo, 89 tạp chí đuợc xuất bản bằng tiếng Ukraine ở Ukraine(9).

Nhưng rồi thời kỳ này bị chấm dứt một cách tàn nhẫn do sự đàn áp của chính quyền Liên Xô. Tất cả mọi tổ chức độc lập đều bị tiêu diệt. Hầu hết các nhà văn Ukraine hoặc chịu phục tùng hoặc bị tù tội, bị thủ tiêu hay tự sát. Ước lượng có đến 250 nhà văn nổi tiếng Ukraine bị giết trong giai đoạn này.

Từ khi được độc lập (1991), văn chương Ukraine bước vào một giai đoạn mới. Do không còn chế độ kiểm duyệt, văn học nghệ thuật Ukraine phát triển một cách mạnh mẽ hầu như trên tất cả mọi lãnh vực từ hội họa, âm nhạc, kịch nghệ cho đến văn chương. Các nhà văn nhà thơ quay sang những đề tài mới mẻ vốn đã từng bị cấm kỵ trước đây như tình dục, nghiện hút, nạn đói dưới thời Liên Xô, mang văn chương Ukraine hòa vào dòng văn chương đương đại thế giới, kể cả xu hướng hậu hiện đại. Giải văn chương “Drahoman Prize” được Văn Bút Ukraine (PEN Ukraine) và Viện Sách Ukraine (Ukrainian Book Institute) thành lập năm 2020, nhằm khuyến khích các dịch giả dịch và phổ biến văn chương Ukraine trên thế giới. Văn chương Ukraine hậu-độc lập là một trong những yếu tố quan trọng góp phần xác định căn cước của những người công dân nước Ukraine.

Nội chiến ngôn ngữ

Văn chương gắn liền với ngôn ngữ. Sau hàng thế kỷ bị Nga-hóa từ thời Peter the Great (1672-1725), Catherine the Great (1729-1796) rồi Alexander II (1818-1881) cho đến khi chế độ Liên Xô sụp đổ, tiếng Ukraine hầu như bị loại trừ ra khỏi mọi sinh hoạt công cộng trong một thời gian dài. Ở ngoài đường phố hay trong trường học, ai nói tiếng Ukraine thường bị xem là quê mùa. Nhiều người Ukraine đã trải qua thời kỳ thơ ấu bị phân biệt đối xử vì ngôn ngữ. Inna Sovsun, một luật sư, nguyên Bộ trưởng Giáo dục và Khoa học Ukraine (2014-2016) cho biết là hồi học mẫu giáo, bà thường bị chế giễu khi nói tiếng Ukraine, dù chỉ là nói ở bên ngoài lớp học. Chính vì thế mà trong thời kỳ Liên Xô, có một phong trào trong sinh viên âm thầm vận động người Ukraine nên nói tiếng Ukraine trong giờ giải lao. Đến khi Ukraine giành được độc lập, việc phục hồi ngôn ngữ Ukraine càng ngày càng trở nên cấp thiết. Đó là động lực lớn lao, thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của đất nước, kể cả văn chương. Thanh niên Ukraine đã bắt đầu hãnh diện vì mình là người Ukraine, hãnh diện vì ngôn ngữ Ukraine, nhất là khi đối mặt với Nga, vốn là những kẻ “không thừa nhận sự hiện hữu của một quốc gia độc lập, tự do và thực sự mang tính cách Ukraine”, theo học giả Tetyana Ogarkova(10).

Nhiều người Ukraine có tinh thần cực đoan chủ trương thúc đẩy sử dụng tiếng Ukraine cả về chính trị lẫn xã hội và kinh tế. Nhất là những người vốn sống ở bán đảo Crimea mà Nga sát nhập từ năm 2014. Cộng đồng người Ukraine ở đây bị lực lượng Nga chiếm đóng phân biệt đối xử. Vì không chịu nổi sự áp bức nên nhiều người trốn khỏi Crimea và trở thành những người hăng hái nhất trong cuộc chiến giành giựt ngôn ngữ. Nổi tiếng nhất trong nhóm này là Akhtem Seitablayev (tài tử/giám đốc điện ảnh) và Nariman Aliev (giám đốc điện ảnh). Họ đều sinh trưởng trong những gia đình chỉ nói tiếng Nga, nhưng do sự áp chế cho nên dù sống ở quê hương (Crimea) mà cảm thấy như sống ở nước ngoài. Họ cực đoan: vận động mọi người không nói, không đọc, không xem bất cứ sản phẩm nào bằng tiếng Nga(11). Họ chủ trương Ukraine-hóa (Ukrainization) ngôn ngữ vì chỉ như thế mới thực sự đặt nền móng cho một nước Ukraine độc lập, hiện đại, thuộc về Âu Châu, tách biệt hẳn ra khỏi Nga và mang lại căn cước chính thức của họ.

Bích chương vận động sử dụng tên của thủ đô Ukraine: Kyiv (tiếng Ukraine, phát âm: Kee-ef); Kiev (tiếng Nga, phát âm: Kee-yev)

Cuộc vận động Ukraine-hóa ngôn ngữ từng bước giành được thắng lợi. Năm 2017, Quốc hội Ukraine thông qua đạo luật giảm thiểu các ngôn ngữ thiểu số, kể cả tiếng Nga, biến tiếng Ukraine thành ngôn ngữ ưu thế trong mọi sinh hoạt công cộng, từ học đường, truyền thông cho đến các hoạt động kinh doanh. Theo cuộc thăm dò dư luận năm 2017, do tổ chức “Razumkov Center” thực hiện, hơn 2/3 dân Ukraine xem tiếng Ukraine là ngôn ngữ mẹ đẻ; và hơn 50% trong số đó sử dụng tiếng Ukraine ở nhà. Nhiều người Ukraine đã sử dụng tiếng Ukraine trong mọi giao tiếp mà không cảm thấy ngượng nghịu, theo Dylan Carter(12).

Người Ukraine thì nói tiếng Ukraine, tất nhiên thôi!

Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản như thế.

Tiếng Ukraine và tiếng Nga, cả hai đều thuộc cùng ngữ hệ Slavonic, một nhóm ngôn ngữ ở vùng trung và đông châu Âu, bao gồm cả tiếng Ba Lan, tiếng Tiệp và tiếng Bulgaria. Một ngàn năm trước đây, ngôn ngữ nói trong các vùng thuộc Nga và Ukraine là phương ngữ của cùng một ngôn ngữ. Chúng cùng chia sẻ nhiều điểm giống nhau về văn phạm, từ vựng, phát âm, mẫu tự… Nhưng theo thời gian, do ảnh hưởng của các biến cố lịch sử như chiến tranh, di dân, do các giao tiếp về văn hóa, chúng dần dà khác nhau. Riêng về Ukraine, do một thời gian quá dài nằm dưới sự thống trị của người Nga, tiếng Nga trở thành ngôn ngữ phổ thông ở đó và là tiếng mẹ đẻ thứ hai của khoảng 30% công dân Ukraine hiện nay(13). Hai ngôn ngữ gần gũi và pha trộn lẫn nhau đến nỗi tạo nên một thứ ngôn ngữ lai gọi là Surzhyk, được sử dụng ở nhiều nơi Ukraine. Không lạ gì, vai trò của tiếng Nga, từ lâu, đã là nguồn tranh cãi nóng bỏng về chính trị và văn hóa, nhất là từ khi cuộc chiến ly khai ở vùng Đông Ukraine (Donbas) nổ ra năm 2014.

Hiện nay, tuy tiếng Ukraine đã trở thành chính thức, nhưng trong các sinh hoạt xã hội, vẫn còn một áp lực vô hình thúc đẩy người Ukraine sử dụng tiếng Nga trong giao tiếp. “Người ta vẫn xem tiếng Nga như một ngôn ngữ quyền lực, ngôn ngữ của nhà giàu, do đó mà người ta vẫn làm y như thể mình thuộc giới này, cho nên nhiều người Ukraine trong thâm tâm vẫn cảm thấy hổ thẹn khi nói tiếng Ukraine trên đường phố”(14). Ngay cả trong trường học, nhiều sinh viên học sinh cho rằng học tiếng Ukraine chỉ là việc thứ yếu. Họ vẫn thích nghiên cứu văn chương Liên Xô và đọc sách Nga văn hơn.

Hiện nay, có ba thành phần:

- Thành phần ủng hộ tiếng Nga: đó là những người, hoặc vì họ đã hưởng được mọi ưu đãi do nền giáo dục Nga mang lại, hoặc họ là người Nga chính gốc (hơn 17% người Nga đang sống trong Ukraine), sử dụng tiếng Nga là tiếng mẹ đẻ của mình. Trong vùng Donbas - nơi nhiều người Nga sinh sống -, sở dĩ những người thân Nga nổi loạn đòi ly khai khỏi Ukraine vào năm 2014, vì chính phủ ở Kyiv đã vi phạm quyền được nói tiếng Nga của họ(15).

- Thành phần ủng hộ tiếng Ukraine. Đó là những người đầy ắp tinh thần dân tộc chủ nghĩa, xem tiếng Nga là một di sản của chủ nghĩa đế quốc cần phải bị loại trừ.

- Thành phần trung dung: xem tiếng Nga là thứ ngôn ngữ chung sử dụng để giao tiếp trong môi trường liên-chủng tộc.

Theo Mansur Mirovalev(16), trong bài viết “Language in Ukraine: Why Russian vs. Ukrainian Divides So Deeply”, Ukraine là một đất nước sử dụng nhiều ngôn ngữ kết hợp: tiếng Nga, tiếng Áo-Hung, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, chưa kể đến các ngôn ngữ thiểu số khác như Do Thái, Hy Lạp, Tomani. Tuy thế, Nga ngữ là ngôn ngữ ưu thế suốt thời Liên Xô trong lúc Ukraine được xem như phương ngữ. Sau 30 năm độc lập, tiếng Ukraine trở thành ưu thế với 2/3 người dân Ukraine thừa nhận như là tiếng mẹ đẻ. Từ tháng 1/2021, bộ “Luật Ngôn ngữ” (Language Law) bắt buộc tất cả mọi nhân viên làm dịch vụ công cộng (cửa hàng, bệnh viện, công sở) chuyển tất cả đối thoại từ tiếng Nga duy nhất sang song ngữ Nga-Ukraine. Một bộ luật khác được Tổng thống Petro Poroshenko đưa ra vào năm 2019 từng bước cho phép cấm các hệ thống truyền hình thân Nga và sách in ở Nga. Nhưng Tổng thống hiện nay Volodymyr Zelensky muốn đảo ngược luật này. Zelensky lớn lên trong một gia đình chỉ nói tiếng Nga và lãnh đạo một kịch đoàn sử dụng cả hai thứ tiếng trong các vở kịch hài, bêu riếu xu hướng Ukraine-hóa ngôn ngữ, và ông thường nói tiếng Nga trước công chúng. Ông đưa ra thông điệp thống nhất ngôn ngữ: chấp nhận cả tiếng Ukraine lẫn tiếng Nga. “Chúng ta khác nhau, nhưng cũng rất giống nhau”, theo ông. Để chứng minh cho luận điểm của mình, ông luôn phát biểu dưới hình thức song ngữ. Ông cho rằng “Ukraine là một xứ sở chung, nhưng đa dạng, giống như một cửa hàng bán đủ thứ loại hoa, màu sắc và hương thơm khác nhau, nhưng tất cả đều là Ukraine”, theo ông. Thông điệp của Zelensky dường như phản ảnh xu hướng của đa số dân Ukraine, nên cuối cùng, Zelensky thắng cử. Nhưng áp lực chung bênh tiếng Ukraine chống tiếng Nga vẫn tiếp tục dưới thời ông(17).

Bắt đầu từ tháng 7/2021, các chương trình truyền hình và phim ảnh bằng tiếng Nga buộc phải có phụ đề tiếng Ukraine, mặc dầu hàng thập niên dưới chế độ Liên Xô, hầu như mọi người ai cũng hiểu tiếng Nga. Trong thời gian sắp tới, hàng chục ngàn nhân viên y tế, trường học, tòa án, cảnh sát… đều phải thi trắc nghiệm viết và nói tiếng Ukraine để xác nhận trình độ tiếng Ukraine của mình. Tuy nhiên, bộ luật mới khiến người Ukraine bị chia rẽ và thành kiến lẫn nhau. Theo cuộc thăm dò do một tổ chức phi-chính phủ, Space of Freedom, thực hiện vào tháng 11/2020, 53% cho biết là họ chỉ sử dụng tiếng Ukraine ở nhà và 29% thích nói tiếng Nga hơn. Nhiều người cho rằng đàng sau tinh thần quốc gia, “Luật Ngôn ngữ” mang xu hướng kỳ thị ngôn ngữ. Không những người Nga mà một số người Ukraine cũng cảm thấy bị tổn thương. Theo họ, nói tiếng Nga không phải là một tội, vì đó cũng là tiếng mẹ đẻ. Nhiều người không dám nói tiếng Nga vì bị sợ quy cho là “thân-Nga”(18).

Sự lép vế của tiếng Ukraine đối với tiếng Nga gần như trở thành một quán tính tập thể. Theo Natalka Sniadanko(19), tiếng Ukraine, do bị Nga-hóa, trong tưởng tượng của quần chúng chỉ là một phương ngữ của tiếng Nga, không thể tự tồn tại một mình. Sau khi Ukraine giành độc lập, những nhà xuất bản đầu tiên của Ukraine tìm cách xuất bản những tác phẩm cổ điển của thế giới bị cấm dưới thời Liên Xô để cho dân Ukraine được thưởng thức, nhưng khổ nỗi, tất cả đều được viết bằng tiếng Nga. Họa hoằn lắm mới xuất bản được một một tác phẩm bằng tiếng Ukraine thì điều đó trở thành một biến cố lớn, không chỉ vì chúng hay, nhưng vì đó là một hiện tượng bất thường.

Nhà văn nữ Larysa Denysenko, tác giả của 10 tác phẩm, trong “Majority as a Minority” (Đa số thành Thiểu số) cho biết trong hai thập niên 1970 và 1980 ở thủ đô Kyiv, bất cứ một người nào mà nói chuyện bằng tiếng Ukraine, dù lớn hay nhỏ, đều bị xem ngay là thuộc loại nông dân, với ý khinh bỉ. Chuyển sang học và nói tiếng Nga là lập tức thay đổi hoàn cảnh và giai cấp, trở thành người thành thị, dễ kiếm việc làm, được có cảm tình và khỏi bị chê là “quê mùa”. Hãy tưởng tượng bạn sinh trưởng trong một gia đình nói tiếng Nga, học hành, đọc sách, báo tiếng Nga, nói chuyện và sinh hoạt hoàn toàn trong một môi trường tiếng Nga. Bạn ở trong thành phần “đa số”. Rồi đột nhiên, sau 1991, mọi chuyện thay đổi: bạn phải nói tiếng Ukraine, ngôn ngữ của bạn, nhưng lại như kẻ xa lạ, “thiểu số”. Yêu nước, từ từ, bạn làm quen với không khí, ngữ cảnh của tiếng Ukraine ở trong nhà trường, trong tòa án, trong công sở, trong các dịch vụ công cộng. Bạn hiểu biết, tin cậy và làm quen với nó. Nhưng “Bạn thực sự không bao giờ bắt đầu nói tiếng Ukraine. Bạn cảm thấy như bạn bị tước đoạt ra khỏi tình trạng đa số, và điều đó làm cho bạn đau đớn. Điều này chẳng hề tan biến một cách nhanh chóng và tự nhiên đâu!”(20).

Do đó, một quan điểm dung hòa, cho rằng phải dành ưu thế cho tiếng Ukraine, nhưng không nên loại bỏ tiếng Nga hoàn toàn, vì dù muốn dù không, nó đã là một ngôn ngữ được sử dụng chính thức.

Yuri Andrukhovych, nhà văn đương đại nổi tiếng, là tác giả của nhiều tiểu thuyết viết bằng tiếng Ukraine và đoạt nhiều giải thưởng văn chương, tuy ủng hộ tiếng Ukraine, nhưng chấp nhận thực tế: không dễ dàng loại bỏ tiếng Nga. Trong bài phỏng vấn do Volodymyr Yermolenko - người đứng ra biên soạn tuyển tập “Ukraine In Histories And Stories” - hỏi: một Ukraine trong vòng 30-40 năm có phải là một nước độc lập, thành công và song ngữ không, Andrukhovych quả quyết rằng, “Ukraine vẫn còn là nước đơn ngữ tiếng Nga” (a unilingual Russian speaking country). Vì sao? Tiếng Ukraine bây giờ hiện diện ở Kyiv nhiều hơn trước, nhưng luôn luôn đi sau tiếng Nga. Và ngay cả ở những vùng mà tiếng Ukraine chiếm ưu thế, người ta vẫn hướng về chủ nghĩa cơ hội, nghĩa là hướng về tiếng Nga, vì giỏi tiếng Nga thì dễ kiếm việc làm và dễ thành công hơn trong xã hội. Ở những vùng mà thứ tiếng hỗn hợp (surzhyk) được sử dụng, người ta cũng có xu hướng chuyển về tiếng Nga. Theo Andrukhovych, đó là điều “không thể đảo ngược” (irreversible). Điều mà ông hy vọng là tiếng Ukraine sẽ vẫn còn giữ địa vị ngôn ngữ thứ hai (second language). “Tiếng Ukraine không bao giờ có thể loại trừ được tiếng Nga. Tranh đấu để giữ vững tiếng Ukraine có nghĩa là tranh đấu để cho một chế độ song ngữ thực sự”(21).

Trong lúc đó Andrey Kurkov, một nhà văn và nhà báo nổi tiếng khác của Ukraine, tác giả của gần 20 tiểu thuyết viết bằng tiếng Nga, đưa ra một cách nhìn có phần tương tự với Yuri Andrukhovych, nhưng khác về cách lập luận(22). Theo ông, Ukraine nên chấp nhận nền văn hóa sử dụng tiếng Nga (Russian-language culture). Nền văn hóa này khác hẳn thế giới văn hóa của Liên bang Nga. Văn chương sử dụng tiếng Nga không nhất thiết là văn chương Nga như chính các tác phẩm của ông đã chứng minh. Ông là một trong những nhà văn Ukraine có tác phẩm bán chạy viết bằng tiếng Nga nhưng ông là nhà văn Ukraine. Sự phân biệt này rất quan trọng, đặc biệt để chống lại khái niệm “Russian World” (Thế giới Nga) của điện Kremlin. Khái niệm này gộp chung người Nga (Russian) và “những người nói tiếng Nga” (Russian-speaking compatriots) vào một giỏ.

Kurkov cho rằng văn chương sử dụng tiếng Nga ở Ukraine có hai đặc điểm:

- Nó phản ảnh hiện thực xã hội và văn hóa Ukraine, nó kể ra những câu chuyện hoàn toàn khác với thứ văn chương của Liên bang Nga. Điều này có lẽ giống như người Québec (Canada): viết văn bằng tiếng Pháp nhưng không thuộc về văn chương Pháp; hay cũng giống văn nhân Việt ngày xưa: làm thơ chữ Hán nhưng không thuộc văn chương Trung Hoa.

- Về mặt ngữ học cũng như về mặt văn hóa, ông phân biệt hai loại tiếng Nga: tiếng Nga-Nga (Russian-Russian) là tiếng Nga thuần túy (của người Nga chính gốc); và tiếng Nga-Ukraine (Ukrainian-Russian) là tiếng Nga của người Ukraine. Ukraine có phiên bản riêng của tiếng Nga, khác hẳn với chính tiếng Nga. Tiếng Nga-Ukraine phát triển dưới ảnh hưởng của nhiều ngôn ngữ khác (Hung, Ba Lan, Lỗ Mã Ni, Slovak…) mà ông gọi là “Ukrainianisms” (ngôn ngữ được Ukraine-hóa). Nó không những khác về từ vựng, mà còn về ngữ pháp (syntax) và ngữ âm (phonetics). Điểm này phần nào tương tự như sự khác biệt giữa tiếng Hán và tiếng Hán-Việt chăng?(23).

Theo Kurkov, nhiều tác giả Ukraine viết bằng tiếng Nga nhưng tác phẩm của họ có gốc rễ sâu trong ngữ cảnh văn hóa Ukraine. “Không phải tất cả những gì viết bằng tiếng Nga đều thuộc về văn chương Nga, hoặc thuộc về (nước) Nga. Những nhà văn Ukraine viết tiếng Nga không viết về người Nga mà về người Ukraine”, theo ông. Chẳng hạn, tác phẩm Death and the Penguin (1996) của ông viết bằng tiếng Nga, nhưng nhà xuất bản Moscow chỉ đồng ý xuất bản nếu ông thay khung cảnh của truyện từ Kyiv bằng Moscow, bởi vì theo họ, chẳng người nào ở Moscow muốn đọc về đời sống ở Kyiv. Ông không chấp nhận thay đổi và giao tác phẩm này cho nhà xuất bản ở Ukraine. Tương tự, Volodymyr Rafieienko, một nhà văn Ukraine viết tiếng Nga khác, vốn cư ngụ ở Donetsk, cho biết tác phẩm của ông viết về hiện thực Ukraine chứ không về hiện thực Nga. Khi chiến tranh ly khai xảy ra, tách Donetsk khỏi Ukraine, ông chọn sống ở Ukraine hơn là ở Nga.

Kurkov đề nghị thành lập một viện nghiên cứu sự khác biệt ngữ học giữa “Ukrainian-Russian” và “Russian-Russian”, khởi đầu bằng cách phân tích các tác phẩm của những nhà văn Ukraine viết tiếng Nga và tìm hiểu cách sử dụng riêng biệt của thứ tiếng Nga mà người Ukraine dùng. Mục đích cuối cùng là phải đòi lại cho Ukraine thứ văn hóa sử dụng tiếng Nga của nó (should take ownership of its Russian-language culture). Đồng thời phải thừa nhận những ngôn ngữ khác nằm trong văn hóa của mình, kể cả tiếng Nga.

Quan điểm của Kurkov bị cả hai phía chỉ trích. Phía thân-Nga thì cho rằng nghiên cứu phiên bản Ukraine của tiếng Nga là một “philological fantasy’ (ảo tưởng ngữ văn). Ngược lại, phía thân-Ukraine thì cho rằng Kurkov ủng hộ một hình thức tân-Nga-hóa (a new form of Russification).

Quả là rối rắm!

Tính cho đến hôm nay (8/3/2022) khi tôi đang viết bài này, cuộc xâm lăng Ukraine của Nga đã diễn ra gần hai tuần, đẩy đất nước Ukraine an bình càng ngày càng chìm trong khói lửa, chết chóc và tàn phá. Trước sự chống đối của toàn thế giới và trước sức kháng cự anh dũng và bền bỉ của chính quyền và quân đội Ukraine, quân đội Nga đã chững lại, nhưng chưa có dấu hiệu gì cho thấy Putin lùi bước. Có thể tìm thấy lý do ngay trong đầu óc của người lãnh đạo nước Nga hiện nay.

Để chuẩn bị cho cuộc xâm lăng Ukraine, Tổng thống Nga Vladimir Putin, trong bài viết dài “On the Historical Unity of Russians and Ukrainians” vào ngày 21/7/2021 của ông (đã nêu lên từ đầu bài)(24), đã trưng dẫn nhiều dữ kiện lịch sử để chứng minh (trước) rằng Nga không “xâm lăng” Ukraine, mà chỉ tiến hành một “chiến dịch đặc biệt” để “làm tròn nhiệm vụ” của người Nga ở Ukraine. Theo Putin, Ukraine và Nga đã phát triển như là một hệ thống kinh tế qua hàng thế kỷ với nhiều thành tựu. Nhưng do tách rời khỏi Nga nên niềm hãnh diện của Ukraine mà cũng là niềm hãnh diện chung của toàn thể Liên bang không còn nữa. Vì thế, “Hôm nay, Ukraine trở thành một xứ sở nghèo nhất của châu Âu”. (…) “Chính nhà cầm quyền Ukraine đã phung phí và phá hỏng những thành tựu của nhiều thế hệ”. Ông cho rằng các nước phương Tây đã trực tiếp can thiệp vào công việc nội bộ của Ukraine và hỗ trợ một cuộc đảo chánh. Cuộc đảo chánh này và những hành động kế tiếp của nhà cầm quyền Kyiv đã kích động sự đụng độ và nội chiến. Từng bước một, Ukraine bị lôi kéo vào một trò chơi chính trị nguy hiểm nhằm biến Ukraine thành một sức bật chống lại nước Nga. Nhà cầm quyền Ukraine tìm cách “viết lại lịch sử, loại bỏ đi những gì vốn đã kết hợp chúng ta”, theo ông. Kết luận bài viết, Putin nhắc lại, “Tôi tin rằng chủ quyền thực sự của Ukraine chỉ có thể có được khi cùng cộng tác với nước Nga. Cùng đứng với nhau, chúng ta luôn luôn đã và sẽ nhiều lần mạnh hơn và thành công hơn. Bởi vì chúng ta là một dân tộc”(25) (tôi nhấn mạnh).

Ngoài những dẫn chứng về lịch sử, Putin cũng nêu lên vấn đề ngôn ngữ để chứng minh luận điểm của mình. Chữ “Ukraine”, theo Putin, được sử dụng trong ý nghĩa của một từ ngữ Nga cổ là “okraina” tìm thấy trong những văn bản từ thế kỷ 12, có nghĩa là “vùng ngoại biên” quy cho các vùng đất biên giới. Ngoài sự tương đồng về đức tin, truyền thống văn hóa, và “Tôi [Putin] nhấn mạnh một lần nữa rằng – tương đồng ngôn ngữ”, nên Ukraine không thể tách rời khỏi Nga. Putin không ngần ngại vơ luôn những nhà văn và nhà thơ yêu nước Ukraine như Ivan Kotlyarevsky, Grigory Skovoroda, và cả thi hào Taras Shevchenko vào với Nga. “Tác phẩm của họ là gia tài văn hóa và văn chương chung của chúng ta. Taras Shevchenko làm thơ bằng tiếng Ukraine và văn xuôi chủ yếu viết bằng tiếng Nga(26)”. Chả thế mà, ông không ngại ngần quả quyết, “Tất cả những gì kết hợp chúng ta lại bây giờ đang bị tấn công, mà trước hết và trên hết, chính là tiếng Nga”.

Trong bài viết “There is no Ukraine”: Fact-Checking the Kremlin’s Version of Ukrainian History”, tiến sĩ Björn Alexander Düben, hiện đang giảng dạy tại đại học King’s College London, đã phản bác các luận điểm của Putin. Theo ông, ngôn ngữ riêng biệt của Ukraine đã bắt đầu xuất hiện ngay trong thời gian cuối cùng (thế kỷ 13) ở Kievan Rus, quốc gia cổ của Ukraine. Và sau này, bất chấp nỗ lực liên tục và có hệ thống của các nhà cầm quyền đế quốc Nga nhằm thủ tiêu văn hóa và ngôn ngữ Ukraine, một ý thức quốc gia riêng biệt xuất hiện và củng cố trong suốt thế kỷ 19, nhất là trong giới trí thức và ưu tú, những người đã thực hiện nhiều nỗ lực khác nhau nhằm nuôi dưỡng và bảo tồn ngôn ngữ Ukraine(27).

Không khác lắm với Björn Alexander Düben, qua một bài viết khác xuất hiện trong trang mạng “Conversation”, “Ukrainian and Russian: How Similar Are The Two Languages?”, tác giả cho biết là tiếng Nga và Ukraine, theo cách tính của những nhà ngữ học, chia sẻ 55% từ vựng, nhưng không đủ để xem chúng là một ngôn ngữ, hay tiếng này là phương ngữ của tiếng kia. Ngay từ lúc Nga kiểm soát Ukraine vào thế kỷ thứ 18, tiếng Nga và tiếng Ukraine đã không còn liên hệ chặt chẽ với nhau nữa. Hai thứ tiếng khác biệt nhau nhiều hơn cái được Putin gọi là chỉ là những khác biệt ngôn ngữ vùng (regional language peculiarities), xuất hiện cả ở từ vựng cũng như phát âm và văn phạm. Bằng cách tìm kiếm sự “thống nhất” trong ngôn ngữ giữa Nga và Ukraine, Putin hình thành một lập luận cho phép nước Nga có quyền can thiệp vào cái mà ông ta khẳng định đó là “không gian Nga” (Russian space)(28).

Quả thật là có một cuộc “nội chiến” ngôn ngữ giữa tiếng Ukraine và tiếng Nga. Nhưng đó sẽ không phải là cuộc chiến đấu một còn một mất mà là một tiến trình tất yếu tìm kiếm và khẳng định bản sắc của Ukraine trong chiều dài lịch sử của nó. Ukraine sẽ tồn tại như một quốc gia độc lập với ngôn ngữ riêng biệt của nó, bất chấp mọi ý đồ của Nga muốn tiếp tục thống trị Ukraine như các chế độ Nga Hoàng và đế quốc Liên Xô đã làm trước đây.

Cuộc chiến đấu kiên cường hiện nay của chính phủ và nhân dân Ukraine tự nó là một phản bác hùng hồn luận điểm “On the Historical Unity of Russians and Ukrainians” của Vladimie Putin!

3/2022

T.H.T.

Tài liệu tham khảo:

1. Björn Alexander Düben, “There is no Ukraine”: Fact-Checking the Kremlin’s Version of Ukrainian History (Web The London School of Economics and Political Science/LSE)

https://blogs.lse.ac.uk/lseih/2020/07/01/there-is-no-ukraine-fact-checking-the-kremlins-version-of-ukrainian-history/

2. Dmytro Cyzevskyi, “A History Of Ukrainian Literature (From The 11th To The End Of The 19th Century)”, bản dịch tiếng Anh của Dolly Ferguson, Doreen Gorsline, và Ulana Petyk, Second Edition, 1997, nxb The Ukrainian Academy of Arts and Sciences and Ukrainian Academic Press New York and Englewood, Colorado.

3. Internet Encyclopedia of Ukraine (Literature)

http://www.encyclopediaofukraine.com/display.asp?linkpath=pages%5CL%5CI%5CLiterature.htm

4. Ukrainian Literature

https://www.britannica.com/art/Ukrainian-literature

5. Dylan Carter, Ukraine’s linguistic & cultural revival overcomes repression

https://newstral.com/en/article/en/1204495823/ukraine-s-linguistic-cultural-revival-overcomes-repression

6. Ukraїner, What is the Ukrainian language?

https://ukrainer.net/what-is-the-ukrainian-language/

7. Mansur Mirovalev, Language in Ukraine: Why Russian vs. Ukrainian divides so deeply

https://www.csmonitor.com/World/Europe/2021/0817/Language-in-Ukraine-Why-Russian-vs.-Ukrainian-divides-so-deeply

8. Natalka SniadankoLiterature as last bastion.

https://www.theguardian.com/books/the-writing-life-around-the-world-by-electric-literature/2015/nov/11/literature-as-last-bastion-natalka-sniadanko-on-suppression-solidarity-and-language-in-ukraine

9. Volodymyr Yermolenko (biên tập), Ukraine In Histories And StoriesUkraine In Histories And Stories (Essays By Ukrainian Intellectuals), Ukraine World (UW), Kyiv 2019.

10. Maria Montague, Ukraine’s distinctive Russian-language culture: an evening with Andrey Kurkov

https://ukrainianinstitute.org.uk/ukraines-distinctive-russian-language-culture-an-evening-with-andrey-kurkov/

11The Conversation, Ukrainian and Russian: how similar are the two languages?

https://theconversation.com/ukrainian-and-russian-how-similar-are-the-two-languages-178456?utm_medium=ampemail&utm_source=email

12. Vladimir Putin, On the Historical Unity of Russians and Ukrainians

http://en.kremlin.ru/events/president/news/66181

Chú thích:

[1] Wikipedia.

[2] Vladimir Putin, On the Historical Unity of Russians and Ukrainians

http://en.kremlin.ru/events/president/news/66181

[3] “During the recent Direct Line, when I was asked about Russian-Ukrainian relations, I said that Russians and Ukrainians were one people – a single whole.”

http://en.kremlin.ru/events/president/news/66181

[4] Các tổng thống Ukraine từ 1991- 2022: Leonid Kravchuk, Leonid Danylovych Kuchma, Viktor Andriyovych Yushchenko, Viktor Yanukovych, Oleksandr Turchynov (quyền tổng thống), Petro Poroshenko, Volodymyr Zelensky (từ 5/2019)

[5] Internet Encyclopedia of Ukraine (Literature)

http://www.encyclopediaofukraine.com/display.asp?linkpath=pages%5CL%5CI%5CLiterature.htm

[6] Dmytro Cyzevskyi, “A History Of Ukrainian Literature (From The 11th To The End Of The 19th Century)”, bản dịch tiếng Anh của Dolly Ferguson, Doreen Gorsline, và Ulana Petyk, Second Edition, 1997, nxb The Ukrainian Academy of Arts and Sciences and Ukrainian Academic Press New York and Englewood, Colorado , tr 432.

Tham khảo thêm “Internet Encyclopedia of Ukraine (Literature)

http://www.encyclopediaofukraine.com/display.asp?linkpath=pages%5CL%5CI%5CLiterature.htm

[7] Ukraine Literature,

https://www.britannica.com/art/Ukrainian-literature

[8] The ‘Founder of the Nation’ is neither Prince nor Tsar, nor philosopher, but rather a poet, Taras Shevchenko”

Dylan Carter, Ukraine’s linguistic & cultural revival overcomes repression

https://newstral.com/en/article/en/1204495823/ukraine-s-linguistic-cultural-revival-overcomes-repression

[9] Ukraїner, What is the Ukrainian language?

https://ukrainer.net/what-is-the-ukrainian-language/

[10] Dylan Carter, Ukraine’s linguistic & cultural revival overcomes repression

[11] Dylan Carter

[12] Dylan Carter

[13] Xem The Conversation, Ukrainian and Russian: how similar are the two languages?

https://theconversation.com/ukrainian-and-russian-how-similar-are-the-two-languages-178456?utm_medium=ampemail&utm_source=email

[14] Dylan Carter

[15] Xem Mansur Mirovalev, Language in Ukraine: Why Russian vs. Ukrainian divides so deeply

https://www.csmonitor.com/World/Europe/2021/0817/Language-in-Ukraine-Why-Russian-vs.-Ukrainian-divides-so-deeply

[16] Mansur Mirovalev, Language in Ukraine: Why Russian vs. Ukrainian divides so deeply

https://www.csmonitor.com/World/Europe/2021/0817/Language-in-Ukraine-Why-Russian-vs.-Ukrainian-divides-so-deeply

[17] Nina JankowiczThis Ukrainian presidential candidate is challenging language divisions with a message of unity

https://theworld.org/stories/2019-04-19/ukrainian-presidential-candidate-challenging-language-divisions-message-unity

[18] Mansur Mirovalev

[19] Natalka SniadankoLiterature as last bastion.

https://www.theguardian.com/books/the-writing-life-around-the-world-by-electric-literature/2015/nov/11/literature-as-last-bastion-natalka-sniadanko-on-suppression-solidarity-and-language-in-ukraine

[20] Volodymyr Yermolenko (biên tập), Ukraine In Histories And StoriesUkraine In Histories And Stories (Essays By Ukrainian Intellectuals), Ukraine World (UW), Kyiv 2019, tr. 180, 181

[21] Volodymyr Yermolenko, tr 65, 66.

[22] Maria Montague, Ukraine’s distinctive Russian-language culture: an evening with Andrey Kurkov

https://ukrainianinstitute.org.uk/ukraines-distinctive-russian-language-culture-an-evening-with-andrey-kurkov/

[23] Câu hỏi đặt ra như một gợi ý. Người viết bài này không rành về ngữ học.

24] Vladimir Putin, On the Historical Unity of Russians and Ukrainians

[25 Together we have always been and will be many times stronger and more successful. For we are one people. (W. Putin)

[26] Ivan Kotlyarevsky, Grigory Skovoroda, and Taras Shevchenko played a huge role here. Their works are our common literary and cultural heritage. Taras Shevchenko wrote poetry in the Ukrainian language, and prose mainly in Russian.

[27] Björn Alexander Düben, “There is no Ukraine”: Fact-Checking the Kremlin’s Version of Ukrainian History (Web The London School of Economics and Political Science/LSE)

https://blogs.lse.ac.uk/lseih/2020/07/01/there-is-no-ukraine-fact-checking-the-kremlins-version-of-ukrainian-history/

[28] The Conversation, Ukrainian and Russian: how similar are the two languages?

T.H.T.

Tác giả gửi BVN

'ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN'-HỌ LÀ AI ?

ÁI CHÂU/ TD 25-3-2022

Việt Nam cho đến nay chỉ chọn ba nước làm “đối tác chiến lược toàn diện” là Nga, Trung Quốc và Ấn Độ. Mỹ đã đề nghị ba lần nâng cấp quan hệ với Việt Nam lên “đối tác chiến lược” (thấp hơn “đối tác chiến lược toàn diện” một bậc) nhưng Việt Nam chưa trả lời.

Hôm 21/3/2022, Đại sứ Mỹ ở Việt Nam Marc Knapper đề nghị nâng tầm quan hệ Việt Mỹ lên “đối tác chiến lược”. Mỹ ít nhất đã đề nghị nâng quan hệ lên thành “đối tác chiến lược” với Việt Nam từ thời Ngoại trưởng Hillary Clinton. Gần đây nhất, trong chuyến thăm tháng 8/2021, Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris đã nhắc lại đề xuất nâng cấp quan hệ thành “đối tác chiến lược”. Cả ba lần nêu trên, Mỹ đều là phía chủ động, nhưng Việt Nam vẫn im lặng.

Bài viết này đánh giá lựa chọn nói trên của Việt Nam thông qua số liệu và tình hình thực tế.

1) “Đối tác chiến lược toàn diện” Nga: Yêu nhưng không hôn

Tổng kim ngạch giao thương của Việt Nam năm 2021 là gần 670 tỷ USD (Số liệu Tổng cục Thống kê Việt Nam). Trong đó, năm 2021, Việt Nam giao thương:

– Với Nga là là 5,5 tỷ USD,

– Với Ấn Độ là hơn 12,8 tỷ USD

– Với Trung Quốc là 165,8 tỷ USD (còn theo thống kê của Trung Quốc thì đã vượt 200 tỷ USD, có thể do họ tính cả các giao thương phi chính thức), trong đó Việt Nam nhập khẩu hơn 100 tỷ USD, tức nhập siêu 53,9 tỷ USD.

– Với Mỹ là 111 tỷ USD (trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ 96,3 tỷ USD)

– Với EU là 41,3 tỷ USD,

– Với Nhật Bản là 42,7 tỷ USD.

Việt Nam cần nhìn vào số liệu để biết nồi cơm của mình nằm ở đâu, và lựa chọn của mình hợp lý hay không.

Nga chỉ chiếm 0,8% tổng kim ngạch giao thương của Việt Nam.

Điều đó có nghĩa là nếu nước Nga biến mất thì Việt Nam vẫn có thể dễ dàng bù đắp chỗ khác, mức độ ảnh hưởng không lớn.

Ấn Độ chỉ chiếm hơn 1,8% tổng kim ngạch giao thương của Việt Nam. Điều đó có nghĩa là tầm quan trọng của Ấn Độ đối với sự sinh tồn của Việt Nam không hơn Nga là mấy.

Trung Quốc chiếm hơn 24% tổng kim ngạch giao thương của Việt Nam. Một con số khá lớn.

Hoa Kỳ chiếm hơn 17% tổng kim ngạch giao thương của Việt Nam, nhưng là nước mà Việt Nam xuất siêu nhiều nhất, 96,3 tỷ USD (xem Tổng cục Thống kê) tức là nơi Việt Nam kiếm được tiền nhiều nhất.

Như vậy, trong ba nước Việt Nam chọn là “đối tác chiến lược toàn diện” thì có đến hai nước nếu “đột nhiên biến mất” thì không ảnh hưởng lắm đến nồi cơm thực tế của mình.

Chỉ có Trung Quốc thực sự có ý nghĩa, chiếm hơn 24% tổng kim ngạch giao thương của Việt Nam (nhưng lại là nơi Việt Nam chi hơn trăm tỷ USD để nhập khẩu, trong khi chỉ bán được cho Trung Quốc một nửa số đó).

Còn Hoa Kỳ? Đây là nơi Việt Nam kiếm tiền nhiều nhất, nhận được viện trợ nhiều nhất ở tất cả các lĩnh vực, nhưng Hoa Kỳ nhiều năm nay không được Việt Nam coi là “đối tác chiến lược”, chứ chưa nói đến cấp độ “đối tác chiến lược toàn diện” như với Nga và Ấn Độ.

Phần tiếp theo đi sâu vào trường hợp Nga ở hai khía cạnh kinh tế và quân sự, như một sự lựa chọn điển hình của Việt Nam.

2) Mối tình Việt Nga: Đôi uyên ương không cần đến nhau

2.1. Kinh tế Nga:

Kể cả trước cuộc xâm lược đại bại của Nga vào Ukraine, nước này đã không còn quan trọng với Việt Nam.

Năm 2021, Việt Nam xuất khẩu thu về gần 337 tỷ USD, trong đó, xuất sang Hoa Kỳ thu về 96,3 tỷ USD (chiếm gần 30% số tiền Việt Nam xuất khẩu được), xuất khẩu sang Trung Quốc thu về gần 56 tỷ USD (chiếm hơn 16%), xuất sang EU thu về gần 46 tỷ USD (chiếm gần 14%), xuất sang Nhật thu về hơn 20 tỷ USD (gần 6%), xuất sang Hàn Quốc thu về gần 22 tỷ USD (hơn 6%).

Trong khi Việt Nam xuất khẩu sang “đối tác chiến lược toàn diện” Nga thu về bao nhiêu? 3,2 tỷ USD, tức là chỉ chiếm 0,9%.

Giao thương giữa Nga và Trung Quốc là 140 tỷ năm 2019. (Global times), cũng chỉ nhỉnh hơn giao thương Việt Nam – Trung Quốc không nhiều. Năm 2021, giao thương của Nga với Trung Quốc đạt 146 tỷ USD, còn thua xa giao thương của Việt Nam với Trung Quốc (165,8 tỷ USD).

Nga cũng không còn quan trọng cho Trung Quốc khi mà tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của nước này năm 2021 đã là hơn 5.000 tỷ USD, trong đó Nga chỉ chiếm khoảng 2,5%.

Xem lại những năm trước đó, ví dụ 2019, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Nga chỉ 3,5 tỷ USD vào 2019, trong khi đó, kim ngạch ngoại thương Việt Nam với Mỹ thì là 92 tỷ USD. Tức là năm 2019, Việt Nam giao thương với “đối tác chiến lược toàn diện” Nga chỉ bằng khoảng 3.8% giao thương với Hoa Kỳ.

Về tổng thực lực của kinh tế Nga, tổng kim ngạch giao thương của Nga năm 2021 là 785 tỷ USD, so sánh với năng lực của Việt Nam, 670 tỷ USD, rõ ràng không lớn hơn quá nhiều. Trong đó Nga chủ yếu xuất khẩu những mặt hàng của một nước chậm tiến, không có dấu hiệu của một quốc gia công nghiệp phát triển: dầu thô, khoáng sản, hoá chất, nông sản, lâm sản, và một ít máy móc thiết bị.

2.2. Vũ khí Nga:

Khi quyết định xâm lược Ukraine, Putin đã không ngờ Châu Âu chấp nhận đau thương, đóng cửa với Nga về tài chính và chuỗi cung ứng.

Đây chính là điều Việt Nam nên sợ, vì nó có thể vô hiệu hoá hệ thống vũ khí chủ lực của quân đội.

Những phương tiện chiến tranh như máy bay, xe tăng, tàu ngầm, tên lửa đều cần được duy tu, bảo dưỡng, thay thế linh kiện thường xuyên. Nếu không được bảo dưỡng thường xuyên, không có thiết bị thay thế thì không chiến đấu được.

Ngoài ra, các phương tiện chiến tranh nói trên đều cần có vũ khí đi kèm, quan trọng nhất là tên lửa dành riêng cho mỗi loại máy bay, tàu ngầm.

Nga đào tạo đội ngũ chuyên viên kỹ thuật và sỹ quan chiến đấu, nhưng không chuyển giao công nghệ sản xuất linh kiện, phụ tùng và các loại vũ khí đi kèm. Việt Nam cũng không tự copy được chúng.

Mỗi chiếc máy bay, tàu ngầm, xe tăng có hàng ngàn linh kiện, phụ tùng. Không có nước nào tự sản xuất được tất cả những linh kiện đó mà phải có hợp tác quốc tế để làm được. Ngay cả để sản xuất một linh kiện cụ thể cũng cần hợp tác. Đây là một đặc điểm của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa mà chỉ các nhà lãnh đạo kỹ trị, và dựa trên tư vấn của chuyên gia, mới nắm hết được. Các nhà lãnh đạo độc tài, độc đoán như Putin tưởng rằng chỉ cần chuẩn bị dự trữ ngoại hối tương đương 640 tỷ USD là có thể vượt qua những “phiền phức” nhất thời do Âu Mỹ tạo ra khi mình gây chiến.

Âu Mỹ Nhật không cấm Nga bán, cho nên về lý thuyết thì Việt Nam vẫn mua được thiết bị, linh kiện cho máy bay chiến đấu do Nga sản xuất, nhưng thực tế thì Việt Nam sẽ không mua được, vì Nga bị cấm mua mọi thứ phục vụ cho quy trình sản xuất linh kiện, thiết bị, phụ tùng, nên Nga cũng không sản xuất để bán được.

Nga phải xin mua linh kiện máy bay dân dụng từ Trung Quốc. Trung Quốc đã từ chối. Rõ ràng, Trung Quốc không muốn rơi vào tình cảnh ngành hàng không bị đắp chiếu như Nga. Đây là một đòn đánh chí mạng, vì kinh tế – xã hội và cả quốc phòng Nga không thể vận hành được nếu ngành hàng không bị vô hiệu hoá.

Những đội quân đã mua vũ khí Liên Xô sẽ tiếp tục quán tính mua vũ khí Nga. Bởi lẽ đổi từ hệ thống vũ khí Liên Xô – Nga sang hệ vũ khí Mỹ hoàn toàn không đơn giản, vì phải chuyển đổi đồng bộ từ phương tiện chiến tranh, vũ khí, thiết bị phụ tùng, và đặc biệt là đào tạo lại, đào tạo mới sỹ quan, binh sỹ, không chỉ vì kỹ thuật sử dụng khác nhau mà còn vì chiến lược, chiến thuật chiến tranh cũng phải được đổi khác, đúng hơn là nâng cấp, để thích ứng với vũ khí mới.

Thực tế, Nga chỉ bán được vũ khí cho một số khách hàng truyền thống từ thời Liên Xô cũ. Cho nên giả sử Việt Nam có làm Nga mất lòng thì Nga vẫn sẽ bán linh kiện, vũ khí (nếu còn sản xuất được) vì Việt Nam không mua thì không có thêm khách hàng mới.

Lựa chọn đúng của Việt Nam với Nga

Những số liệu và thực tế nói trên cho thấy:

– Nga không còn quan trọng gì với Việt Nam, cả về quan hệ kinh tế lẫn quân sự.

– Bỏ phiếu trắng trước cuộc xâm lược phi nghĩa Nga đối với Ukraine ở Liên Hiệp quốc không phải là bảo vệ lợi ích quốc gia của Việt Nam.

Những gì Việt Nam cần:

– Cần sống với thực tại, không sống với cảm xúc thời chiến đã kết thúc hơn 30 năm trước, khi còn biết ơn Liên Xô vì được viện trợ bo bo (thức ăn gia súc) để sống.

– Cần sống với tinh thần mới, nhìn vào số liệu để biết nồi cơm của mình ở đâu mà đầu tư đúng chỗ.

3) Hun Sen: Chàng tuổi trẻ

Hôm 21/3, khi Đại sứ Mỹ ở Hà Nội kêu gọi nâng tầm quan hệ Việt Mỹ lên “đối tác chiến lược”, Thủ tướng Nhật đến Nam Vang, cùng Thủ tướng Hun Sen của Campuchia ra thông cáo chung, phản đối Putin xâm lược Ukraine.

Thủ tướng Hun Sen lãnh đạo một nước dân số chỉ bằng vùng Đông Nam Bộ của Việt Nam, phụ thuộc vào Trung Quốc, nhưng Nga thì không liên quan đến mối quan hệ này của họ. Campuchia ký vào nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hiệp quốc lên án và yêu cầu Putin rút quân khỏi Ukraine, trong khi Việt Nam bỏ phiếu trắng.

Việt Nam chỉ còn một tuần cuối trong tháng 3 này để ra quyết sách cho rõ ràng.

Mùa xuân ở Ukraine đã đến, tuyết đã bắt đầu tan, cả Ukraine là một cánh đồng vô tận, biến thành một bãi sình lầy khổng lồ. Putin không thể đánh lớn được nữa.

Ngay cả trong mùa đông, hơn ba tuần trước, Putin đã đại bại trước kế sách “dĩ dật đãi lao”, “thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh, dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều” của đội quân “tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào” Zelensky.

Mùa xuân sang, tuyết tan, Putin sẽ phải đổi chiến lược, bằng lòng với việc cướp mấy thành phố ở biên giới, dồn quân đánh thành phố Mariupol, thành lập “nước cộng hòa tự trị” ở đó, thông lãnh thổ Nga với bán đảo Crimea. (Một lần nữa, bán đảo này bị khóa trong Biển Đen, một vùng biển kín).

Zelensky sẽ không thể bất chấp xương máu của bao chiến sỹ đã đổ xuống mà chấp nhận cắt đất. Ông đã nói mọi quyết định về lãnh thổ sẽ phải quyết định qua trưng cầu dân ý. Ai cũng rõ dân Ukraine sẽ quyết định như thế nào sau khi chiến đấu ngoan cường và đau thương như thế. Hai bên sẽ tiếp tục đánh nhau lai rai ở biên giới cho đến khi Nga rút quân. Ukraine sẽ được phương Tây tái thiết vùng trung tâm là Kyiv.

Còn Nga, trước chiến tranh GDP đã không bằng một tỉnh của Trung Quốc (Quảng Đông, Giang Tô), một bang của Mỹ (New York, Texas, California), không bằng Vùng Tokyo của Nhật Bản.

Nếu Putin tiếp tục cầm quyền thêm 10 năm nữa, từ nay Nga sẽ suy thoái thành một nước còn bé hơn Indonesia, GDP chỉ còn dưới ngàn tỷ USD, thậm chí GDP của nó có thể suy thoái thành một Singapore chỉ hơn năm triệu dân.

Hun Sen, người trở thành Tư lệnh Trung đoàn Vùng Đông của Khmer Đỏ khi mới 25 tuổi, luôn hiểu nước mình cần gì.

Nghiên cứu Việt-Mỹ

XUNG ĐỘT NGA-UKRAINE: BÀN CỜ CỦA CÁC CƯỜNG QUỐC VÀ BÀI HỌC CHO CÁC NƯỚC NHỎ

ĐỨC HOÀNG/ DT 26-3-2022

Các chuyên gia cho rằng, từ căng thẳng Nga - Ukraine suốt một tháng qua, các nước nhỏ và vừa có thể rút ra bài học trong việc xử lý mối quan hệ với các nước lớn trên "bàn cờ" địa chính trị toàn cầu.

Một tháng trước, Nga tuyên bố mở chiến dịch quân sự ở Ukraine và đây được xem là một sự kiện có tính bước ngoặt của thế giới.

Kể từ đó, toàn cầu đã chứng kiến những sự "rung chuyển" không chỉ về quân sự mà còn trong hàng loạt lĩnh vực như kinh tế, trật tự thế giới. Xét cho cùng, các nước lớn và mối quan hệ giữa những nước này từ trước tới nay luôn có tác động lớn tới xu thế phát triển của chính trị thế giới. Điều đó cũng đồng thời đặt ra bài toán quan trọng cho các nước nhỏ trong việc đảm bảo giữ vững độc lập, chủ quyền giữa "bàn cờ" của các nước lớn.

Trong buổi tọa đàm "Nhìn từ cuộc chiến Nga - Ukraine: Nước nhỏ trong vòng xoáy chính trị cường quyền" do Hội truyền thông số Việt Nam tổ chức ngày 25/3, nguyên Thứ trưởng ngoại giao Phạm Quang Vinh và nguyên Thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Quốc Cường đã nêu ra những nhận định về tình hình Nga - Ukraine hiện tại, cũng như bài học cho các nước nhỏ trong quan hệ với các cường quốc toàn cầu.

Nước nhỏ, vừa trong "vòng xoáy" của nước lớn


Nguyên Thứ trưởng ngoại giao Phạm Quang Vinh (Ảnh: Đức Hoàng).

Theo ông Phạm Quang Vinh, cường quyền của các nước lớn vốn là điều tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử thế giới. Với sức mạnh và tầm ảnh hưởng, các động thái của các cường quốc luôn có tác động tới khu vực và thậm chí trên toàn cầu.

Ở một góc nhìn rộng hơn, địa chính trị nước lớn không chỉ là cường quyền mà còn mang theo ý nghĩa tập hợp, tức là sự cọ sát giữa các nước lớn để tập hợp lực lượng về phía mình. Trong hoạt động tập hợp lực lượng, có cả yếu tố gây sức ép, cạnh tranh. Trong "bàn cờ" này, có sự đối đầu giữa nước lớn với nước lớn, nước lớn với nước nhỏ, và cách ứng xử đáp lại của nước nhỏ.

Từ góc nhìn trên, ông Phạm Quang Vinh cho rằng, căng thẳng Nga - Ukraine hiện tại một phần bắt nguồn từ thực tế là Mỹ, NATO đã mở rộng sang phía Đông trong suốt những năm qua, làm thu hẹp không gian hậu Liên Xô, không gian an ninh của Nga. Nga đã nhiều lần cảnh báo với các đối thủ về thực trạng này.

"Việc Mỹ và NATO mở rộng về phía Đông dường như đã phá vỡ cơ hội tạo ra cấu trúc an ninh chung có thể tương đối ổn định cho cả phía Đông và phía Tây châu Âu. Trước đó, trong thời kỳ đầu, Nga và NATO đã thiết lập hình thái hợp tác ban đầu, nhưng dần dần cam kết đó đã bị giảm đi", ông Phạm Quang Vinh cho biết.

Năm 2008, Nga đã có phản ứng khi nước láng giềng Gruzia có xu hướng ngả về phương Tây. Tới năm 2014, một bước ngoặt lớn đã xảy ra với sự việc Nga sáp nhập bán đảo Crimea sau khi phong trào biểu tình Maidan dẫn tới việc lật đổ chính quyền cựu Tổng thống Ukraine Viktor Fedorovych Yanukovych.

Theo ông Phạm Quang Vinh, ngoài lý do bị đe dọa về mặt an ninh, từ góc nhìn địa chính trị nước lớn, Nga quyết định mở chiến dịch quân sự ở Ukraine dường như còn vì muốn khôi phục lại vị thế và tầm ảnh hưởng của mình như trước đó.

Trong khi đó, Ukraine, quốc gia nằm sát cạnh Nga, có lịch sử và văn hóa gần gũi với Nga, sau khi Liên Xô tan rã dường như có sự "giằng co" từ những năm 1990 giữa việc hợp tác phương Đông hay phương Tây trong định hướng phát triển. Tuy nhiên, trong suốt gần 30 năm kể từ khi tuyên bố độc lập, những sự thay đổi chính phủ ở Ukraine cho thấy họ chưa vạch ra con đường phát triển cụ thể khi chính quyền khi thân phương Tây, khi lại thân Nga. Bước ngoặt xảy ra với con đường của Ukraine chính là sự kiện năm 2014 và Ukraine dường như đã quyết định chuyển hẳn sang hợp tác chính trị, an ninh, kinh tế gắn với phương Tây.

Việc Ukraine muốn gia nhập NATO và được khối liên minh "bật đèn xanh" đặt ra những thách thức cho Nga về cả an ninh lẫn yếu tố địa chính trị, buộc họ quyết định hành động.

Tuy nhiên, sau khi chiến sự nổ ra, chính bản thân NATO cũng chứng kiến mối đe dọa từ Nga đối với khối trở nên lớn hơn, với lo ngại rằng xung đột có thể lan ra châu Âu. Ngoài ra, theo ông Vinh, châu Âu trong tương lai dường như vẫn cần cơ chế hợp tác an ninh có sự tham gia của Nga, nhưng cơ chế này không thể đạt được "một sớm một chiều" sau khi cuộc chiến khép lại do những hậu quả về niềm tin sau chiến sự. 

Một điểm đáng chú ý theo ông Phạm Quang Vinh là lần đầu tiên sau Chiến tranh Lạnh, Mỹ và phương Tây có phản ứng nhanh, mạnh, đồng bộ chưa từng có trước chiến dịch quân sự của Nga.

Các động thái đã tác động mạnh tới toàn thế giới, không chỉ còn nằm gọn trong châu Âu, và nó đặt ra những câu hỏi về việc các lệnh trừng phạt sẽ kéo dài trong bao lâu, Nga sẽ ứng phó ra sao với các biện pháp trên; các quan hệ giữa các nước và khu vực lớn như Mỹ, Nga, Trung Quốc và cả EU sẽ bị tác động như thế nào.

Những diễn biến trên cho thấy, "thứ nhất là, cấu trúc an ninh châu Âu vốn không phù hợp trong không gian hậu Liên Xô nay đã đổ vỡ. Thứ hai là, quan hệ giữa EU và Nga từ trước tới nay dù xấu đi hay tốt hơn, nhưng 2 bên vẫn tranh thủ hợp tác. Nhưng sau khi cuộc chiến xảy ra, quan hệ này dường như có dấu hiệu sụp đổ. Một số nước có quan điểm trung dung ở châu Âu đã có những dấu hiệu của việc thay đổi thái độ với Nga. Điều này có thể cho thấy, họ dường như lo ngại về viễn cảnh của một cuộc chiến mở rộng ra quy mô châu lục", ông Phạm Quang Vinh nhận định.

Ông dự đoán rằng, với tình hình hiện tại ở Ukraine, ngoài giải pháp quân sự, cần phải có giải pháp về chính trị về lâu về dài. Ngay cả trong kịch bản Nga đẩy nhanh tốc độ cuộc chiến, nhưng nếu thiếu giải pháp chính trị phù hợp, Moscow vẫn có thể đối mặt với nguy cơ phải can dự lâu dài ở Ukraine để giữ lấy những gì họ đạt được và điều này có thể dẫn tới kịch bản họ bị "sa lầy". 

Ông Phạm Quang Vinh nhận định, giải pháp chính trị được cho có thể trở thành lối thoát cho xung đột Nga - Ukraine là Kiev trở nên trung lập, như không tham gia NATO, sửa hiến pháp bỏ mục tiêu tham gia NATO, không cho phép nước ngoài đặt căn cứ quân sự, đặt khí tài. Bản thân Ukraine thời gian qua cũng nhiều lần thừa nhận rằng họ khó có thể được sớm kết nạp vào NATO.

Tuy nhiên, các yêu cầu về lãnh thổ của Nga tới Ukraine, như việc công nhận Moscow sáp nhập Crimea, công nhận độc lập 2 vùng ly khai ở Donbass, dường như sẽ khó có thể được chính quyền Kiev đồng ý. Điều này có thể tạo ra thế bế tắc cho việc đàm phán, gây khó khăn cho việc tháo nút thắt cho một giải pháp chính trị để kết thúc chiến sự.

Bài học cho nước nhỏ, vừa trong "bàn cờ" của các cường quốc


Nguyên Thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Quốc Cường (Ảnh: Đức Hoàng).

Theo quan điểm của nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Quốc Cường, việc nổ ra chiến sự giữa Nga và Ukraine được xem là diễn biến khá bất ngờ vì trước đó, Nga có một thời gian dài theo đuổi chính sách gây áp lực lên Ukraine để Kiev thay đổi con đường nghiêng sang phương Tây.

Theo ông Cường, diễn biến bất ngờ này có thể tạo ra những tiền lệ bất lợi cho các nước nhỏ liên quan tới vấn đề luật pháp quốc tế trong tương lai. Động thái của Nga được xem "tạo bước ngoặt lớn nhất tại châu Âu hậu Chiến tranh Lạnh". Cơ cấu an ninh châu Âu cho tới nay là hiệp ước Helsinki ký năm 1975, khi hầu hết các nước ký vào thỏa thuận bảo đảm an ninh cho châu Âu. Trong hàng thập niên vừa qua, châu Âu đã vận hành hiệp ước này để tạo ra một khu vực ổn định, hòa bình, an ninh nhưng giờ đây tiếng súng đã trở lại châu Âu. Lục địa này lại đối diện với việc một cuộc chiến có nguy cơ lan ra toàn châu lục, kéo theo hàng loạt vấn đề về kinh tế và khủng hoảng nhập cư. Ông Cường nhận định rằng, những vấn đề này có thể sẽ gây ra hậu quả lâu dài cho châu Âu trong thời gian tới.

Những gì đã diễn ra trong một tháng qua cho thấy đây có thể là cuộc đối đầu tổng lực nhất ở châu Âu trong nhiều năm về cả quân sự, kinh tế, tài chính, thông tin. Nga hiện bị áp hơn 5.000 biện pháp trừng phạt, trở thành quốc gia chịu nhiều lệnh trừng phạt nhất thế giới. Theo ông Cường, Moscow cũng đang đối mặt với phong trào cô lập Nga trong hàng loạt lĩnh vực như văn hóa, thể thao...

Ông Nguyễn Quốc Cường cho biết, xét về góc độ địa chính trị, cuộc chiến Nga - Ukraine đang tạo ra cơ sở để Mỹ "tập hợp lại lực lượng" các đồng minh. Trước đó, phương Tây dường như đã có những chia rẽ nhất định dưới thời cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump, với chính sách "Nước Mỹ là trên hết". Giờ đây, chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden đang cùng với các đồng minh phương Tây có những phản ứng tổng lực nhanh chóng và mạnh chưa từng có với Nga.

Mặc dù vậy, theo ông Cường, Nga dù có thể bị ảnh hưởng bởi chiến dịch quân sự ở Ukraine nhưng họ vẫn sở hữu 3 "vũ khí" để tiếp tục duy trì vị thế trên thế giới là: Quyền phủ quyết ở Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, kho vũ khí hạt nhân lớn hàng đầu thế giới và nguồn tài nguyên dầu khí dồi dào.

Theo ông Nguyễn Quốc Cường, các nước lớn là bên đứng sau dựng lên trật tự toàn cầu. "Vũ khí" mạnh và có hiệu quả bảo vệ lớn nhất của các nước nhỏ và nước tầm trung chính là luật pháp quốc tế. Các nước nhỏ và tầm trung cần kiên trì theo đuổi luật pháp quốc tế.

Ngoài ra, các nước nhỏ và nước tầm trung cũng cần phải tập hợp lực lượng để nhận lấy sự ủng hộ từ quốc tế cho các vấn đề trong tương lai. Uy tín của một quốc gia ngày càng gia tăng là phụ thuộc vào việc họ kiên quyết theo đuổi, tuân thủ và bảo vệ luật pháp quốc tế, theo ông Cường.

Mặt khác, cựu đại sứ Nguyễn Quốc Cường nhận định, các nước nhỏ và tầm trung cần theo đuổi việc đa dạng hóa quan hệ chính trị, kinh tế, an ninh không để chỉ phụ thuộc vào bất cứ một bên nào. Thêm vào đó, ông Nguyễn Quốc Cường nhận định, các nước nhỏ và tầm trung cũng cần gia tăng sự tự chủ với các sản phẩm, công nghệ, không thể dựa hoàn toàn vào nước ngoài.

Một điều mà ông Cường đặc biệt lưu ý là vấn đề an ninh mạng. Ông cho hay, với sự phát triển của khoa học, công nghệ hiện tại, an ninh mạng ngày càng nổi lên là một chủ đề cần được quan tâm. Các nước cần chuẩn bị kỹ năng phòng thủ trước nguy cơ bị tấn công, và khả năng răn đe cũng như đáp trả khi cần thiết.

Ông Phạm Quang Vinh cho rằng, khi nhắc tới cường quyền, các nước nhỏ và tầm trung sẽ coi đây là yếu tố nguy hiểm, nhưng xét trên quy mô rộng hơn là địa chính trị nước lớn, thì nó mang lại không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội cho các nước nhỏ và tầm trung có không gian để "đan xen lợi ích, hợp tác để nâng vị thế của quốc gia trong khu vực và trên toàn cầu".

"Các nước nhỏ hiểu rằng có tồn tại cái gọi là cường quyền và địa chính trị nước lớn, nhưng họ không thể không hợp tác với các nước lớn", ông Phạm Quang Vinh nhận định.

Xung đột Nga-Ukraine: Bàn cờ của các cường quốc và bài học cho các nước nhỏ - 3

Một người đàn ông đứng giữa cảnh tượng đổ nát tại một trung tâm thương mại ở Kiev, Ukraine bị trúng hỏa lực ngày 21/3 (Ảnh: Reuters).

Theo ông Nguyễn Quốc Cường, lập trường của Việt Nam với tình hình căng thẳng Nga và Ukraine là rất rõ ràng. Trong bài phát biểu của Đại sứ Đặng Hoàng Giang - Trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc, Việt Nam khẳng định lập trường nhất quán về giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp Quốc, đặc biệt là nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ, không sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Ông Cường nhận định rằng, các hành động của Việt Nam trong thời gian qua ở Đại hội đồng Liên Hợp Quốc liên quan tới vấn đề Nga - Ukraine là hợp lý, thể hiện rõ sự cân nhắc kỹ lưỡng tới lợi ích quốc gia, cũng như quan hệ bạn bè với cả 2 quốc gia Nga và Ukraine. Nó cũng gửi đi một thông điệp rằng, Việt Nam là quốc gia có quan điểm độc lập và chính sách ngoại giao xuất phát từ lợi ích của đất nước.

Ông Phạm Quang Vinh cũng nhắc lại phát biểu của Đại sứ Đặng Hoàng Giang về việc Việt Nam ủng hộ các nỗ lực nhân đạo của Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, các cơ quan Liên Hợp Quốc, các nước trong khu vực, các đối tác quốc tế và sẵn sàng đóng góp cho các hoạt động cứu trợ nhân đạo của Liên Hợp Quốc đối với Ukraine trong điều kiện và khả năng cho phép.

"Chúng ta có quan hệ tốt với Ukraine và Nga, chúng ta luôn muốn duy trì quan hệ tốt với 2 nước. Khi hai người bạn có mâu thuẫn lẫn nhau, Việt Nam mong muốn những căng thẳng được tháo gỡ và ủng hộ cho 2 bên đối thoại để giải quyết vấn đề", ông Vinh nhận định.

Đức Hoàng

VÌ SAO BẠN ỦNG HỘ PUTIN ?

MẠC VIỆT HỒNG/ BVN 28-3-2022

Các bạn bảo vệ Đảng Cộng sản VN, mình hiểu các bạn. Cha mẹ các bạn có thể là đảng viên Đảng CS, bản thân các bạn ăn cây nào rào cây ấy. Nhưng các bạn ủng hộ Putin mình hoàn toàn không hiểu các bạn. Nếu lúc đầu cuộc chiến, do thiếu thông tin, các bạn chọn nhầm bên, ok thông cảm được. Giờ này, trắng đen đã khá rõ ràng, báo chí VN cũng đưa tin 2 chiều, chứ không đưa tin 1 chiều như lúc đầu nữa. Vậy mà các bạn vẫn còn ủng hộ Putin thì vì lẽ gì?

- Nếu nói Nga đã từng ủng hộ VN đánh Mỹ thì Ukraine cũng vậy, vì khi đó họ ở cùng trong Liên bang Xô Viết và Liên Xô ủng hộ Việt Nam.

- Trong mối quan hệ gần đây, Ukraine đã công khai ủng hộ lập trường của Việt Nam, trong lúc Nga ủng hộ lập trường của Trung Quốc ở biển Đông.

- Nếu đứng trên góc độ kinh tế thì Việt Nam hưởng lợi trong quan hệ thương mại và đầu tư với Mỹ và EU. Việt Nam xuất siêu vào Mỹ mỗi năm cỡ gần trăm tỉ đô la, với EU cũng thế. Còn quan hệ ngoại thương với Nga cả vốn lẫn lãi là 5,5 tỉ đô/năm 2021. Xét về lợi ích kinh tế (thứ quyền lực vĩnh cửu trong bang giao quốc tế) các bạn phải ủng hộ quyết định của Mỹ và EU mới đúng chứ.

- "Nhưng chúng tôi học ở Nga", mình từng nghe câu trả lời như vậy. Trong vài chục năm quan hệ với Nga, mỗi năm nhà nước VN gửi sang đó vài trăm học sinh. Nếu tính 200 sinh viên/năm trong 60 năm thì con số là 12 ngàn. Nếu tính chung cả nghiên cứu sinh, cứ cho là 400 đi, thì trong 60 năm là 24 ngàn! Nếu mỗi người sang đó học 5 năm, thì trong 1 năm học có 2000 sinh viên và nghiên cứu sinh theo học tại Nga. Nên nhớ, tiêu chuẩn chọn du sinh trước kia rất khắt khe, nên không nhiều đâu, số liệu tôi đưa tương đối sát (Ba Lan mỗi năm có 20 du học sinh thôi).

Còn hiện tại, theo báo Thanh Niên, du học sinh tại Mỹ TÍNH RIÊNG năm 2021 là 21.000 (Việt Nam đứng thứ 6 về số lượng du sinh tại Mỹ), trong đó có nhiều người có học bổng toàn phần hay 1 phần. Vậy "một nhúm" học ở Nga ăn thua gì so với số lượng sang học ở Anh- Mỹ và các nước phương Tây hiện nay. Vậy nếu tính ơn huệ trên góc độ "được ăn học" phải ơn Mỹ hay phương Tây gấp rất nhiều lần Nga chứ? Người Nga không dạy các bạn làm toán à.

- Bênh Nga vì Ukraine có phát xít: Tôi đã tiếp xúc với cả trăm người Việt chạy từ Ukraine sang. Có những người ở bển 30 năm rồi, họ có 3 căn nhà, có vài cửa hàng, xe hơi xịn, có cuộc sống hạnh phúc và họ nói không có phát xít nào cả. Phát xít là phân biệt chủng tộc, nên nếu có phát xít thì "mọi vàng" là đối tượng bị lên thớt đầu tiên, nhất là đó lại là nhóm người buôn bán và thường có nhiều tiền mặt.

Theo thống kê của nhà nước Ba Lan, từ Ukraine chạy sang lánh nạn có công dân của 100 quốc gia khác nhau. Điều đó cho thấy, sự văn minh của Ukraine khi đã trở thành một quốc gia đa sắc tộc.

Một phép thử nữa mà bạn có thể làm, bạn hãy vào Google tra từ khoá "Bọn đầu trọc hành hung người Việt ở Nga" và cụm từ tương tự "Bọn đầu trọc hành hung người Việt ở Ukraine" bạn sẽ thu được kết quả đầy bất ngờ. Đó là nạn phát xít ở Nga mới kinh khủng, người Việt (và người nước ngoài nói chung) bị hành hung, bị giết khá nhiều, trong khi tra cứu ở Ukraine không thấy có gì.

Như vậy ai mới là phát xít, ai mới dung dưỡng phát xít?

- Góc độ "đồng bệnh tương lân": Ukraine và Việt Nam cùng một hoàn cảnh, cùng là nước nhỏ ở cạnh nước lớn có tham vọng bành trướng, mở rộng lãnh thổ. Vậy tại sao các bạn lại không ủng hộ người cùng cảnh ngộ với mình?

- Góc độ lương tâm: Một nước đem quân xâm lược nước khác, gây bao tổn thất cho dân lành, trong đó có nhiều trẻ em; phá tan bao nhà cửa, trường học, bệnh viện. Vậy các bạn bênh bên xâm lược, lương tâm có hay không, để ở đâu?

- Vì Ukraine muốn nhập NATO gây nguy hiểm cho Nga? Thứ nhất cần phải biết rằng, Nga đã 4 lần muốn gia nhập NATO nhưng bị từ chối. Nên việc Nga viện cớ này đánh Ukraine nghe không... trong sáng chút nào. Thứ hai, nếu đó là nguy hiểm thật thì thiếu gì cách để nói chuyện với nhau, thoả thuận với nhau mà phải đánh tan nát một đất nước ra như vậy?

Status này mong được trao đổi ôn hoà với phe Putin. Mời các bạn vào đây gõ bàn phím.

M.V.H.

Nguồn: FB Mạc Việt Hồng

XÉT LẠI CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG BỐN KHÔNG CỦA VIỆT NAM

TRƯƠNG NHÂN TUẤN/ TD 26-3-2022

Chính sách "bốn không" của quốc phòng Việt Nam không phải tự nhiên mà có. Đây không hề là kết quả của sáng kiến "ngọai giao cây tre" mà các lãnh đạo CSVN thường hay "nổ".
Theo tôi, đây là sự áp đặt của Trung Quốc đối với Việt Nam như là một điều kiện để được "tái lập bang giao", sau khi quan hệ hai bên "đóng băng" từ "cuộc chiến biên giới 1979". Theo tôi, đây cũng là điều ước "cốt lõi" của cái gọi là "hiệp ước Thành đô 1990" (nếu có).
Nội dung chính sách quốc phòng bốn không của VN: "Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế".
Nếu ta xét lại các yêu sách của Putin đối với Zelensky (để chấm dứt cuộc xâm lược), điều quan trọng cốt lõi là Ukraine phải tuyên bố "trung lập" và không được gia nhập NATO.
Tức là Putin muốn Ukraine trở thành một thứ Việt Nam ở cạnh bên Trung Quốc.
Thời tổng thống tiền nhiệm Petro Poroshenko, năm 2019 Ukraine thông qua bản sửa đổi hiến pháp, coi việc Ukraine trở thành thành viên NATO là mục tiêu chiến lược của đất nước. Cả quốc hội Ukraine và Poroshenko đều ủng hộ Ukraine gia nhập NATO.
Mục tiêu gia nhập NATO của Ukraine, dưới mắt Putin, trở thành một "đe dọa chiến lược" cho Nga.
Có nhiều lý do Putin mở "chiến dịch quân sự đặc biệt", cách nói khác của cuộc xâm lược Ukraine. (Kiểu jus ad bellum trong chiến tranh).
Putin vịn vào các quyền:
1/ Quyền "tự vệ chính đáng";
2/ Quyền "tự vệ tập thể chính đáng" (điều 51 Hiến chương LHQ) - (vì Ukraine có xung đột với hai cộng hòa "tự phong" Donetsk và Luhansk);
3/ Quyền "can thiệp vì lý do nhân đạo" để bảo vệ kiều dân Nga bị thảm sát ở vùng Donbass.
Các "quyền" mà Putin nại ra không có "quyền" nào hợp lý và hợp pháp. Đại đa số các quốc gia thành viên LHQ hôm 2 tháng 3 biểu quyết "lên án Nga về cuộc xâm lược Ukraine và yêu cầu Moscow rút các lực lượng quân sự".
Tức là nguyên nhân Putin đưa đến quyết định xâm lược Ukraine là vì Ukraine muốn gia nhập NATO.
Nói thêm một chút khái niệm về "chủ quyền" của quốc gia trong vấn đề an ninh quốc gia.
Chủ quyền quốc gia về quốc phòng có ý nghĩa như là quốc gia hoàn toàn độc lập trong những quyết định liên quan đến an ninh quốc gia, như gia nhập một liên minh phòng thủ (kiểu NATO), quyền được mua các loại vũ khí tự vệ v.v... Quốc gia có "quyền" làm mọi thứ để bảo vệ an ninh quốc gia, miễn là các việc này không vi phạm luật lệ hay tập quán quốc tế.
Chủ trương "bốn không" trong quốc phòng Việt Nam là Việt Nam đã từ bỏ các quyền cơ bản của quốc gia nhằm tự vệ chính đáng.
Việt Nam đã lệ thuộc Trung Quốc từ năm 1990.
Cuộc xâm lược Ukraine của Nga hiên nay cho ta thấy viễn ảnh một "cuộc chiến tranh lạnh" mới. Ngay cả khi Nga rút quân, không có gì cho thấy các biện pháp "trừng phạt" của Mỹ và EU lên Nga sẽ được dỡ bỏ. Cũng không có gì ngăn cản ta nghĩ đến việc Mỹ và đồng minh Tây Âu, cùng các quốc gia dân chủ tự do Đông Á... sẽ đặt "bức màn sắt" bao vây cả TQ, Nga và các xứ độc tài.
Cuộc "cách mạng dân chủ" kỳ này do Mỹ cầm đầu, được các quốc gia dân chủ tự do ủng hộ. Sẽ không có trận "sống mái" nào giữa bên dân chủ với bên độc tài. Huyết mạch kinh tế bị tắc nghẽn khiến Nga sẽ kiệt quệ và "quốc gia" Nga sẽ "giải thể". Trung Quốc cũng có thể có cùng chung tương lai với Nga, trừ khi Đài Loan giành thế thượng phong "dân chủ hóa lục địa".
Việt Nam sẽ ra sao? Nếu đảng CSVN biết đâu là lợi ích đích thực của quốc gia, họ phải sớm "dân chủ hóa chế độ". Việt Nam sẽ đứng về "bên thắng trận". Tương lai quốc gia Việt Nam sẽ sáng sủa.
Còn nếu đảng CSVN đặt lợi ích của đảng lên trên lợi ích quốc gia, chắc chắn Việt Nam sẽ đứng về phía Trung Quốc và Nga. Không có con đường thứ ba. Việt Nam sẽ "tiêu tùng", như Nga hay Trung Quốc.

KINH TẾ NGA: ĐÒN CẤM VẬN ĐÃ BẮT ĐẦU 'NGẤM TỚI XƯƠNG'

MỸ ANH/BVN 27-3-2022

Một siêu thị trống rỗng hàng hóa, Moscow, ngày 23 Tháng Ba (ảnh: Vlad Karkov/SOPA Images/LightRocket via Getty Images)

Theo ghi nhận tổng hợp mới nhất (cập nhật ngày 25 Tháng Ba 2022), chi phí sinh hoạt ở Nga bắt đầu tăng ào ạt. Các số liệu chính thức cho thấy giá một số mặt hàng chủ lực cho sinh hoạt – chẳng hạn đường – đã tăng tới 14% trong tuần qua. Ngày 23 Tháng Ba, Bộ Kinh tế Nga cho biết lạm phát hàng năm đã tăng 14.5% trong tuần kết thúc vào ngày 18 Tháng Ba – mức cao nhất kể từ cuối năm 2015.

Hàng tiêu dùng tăng phi mã

Cơ quan Thống kê Nhà nước Liên bang Nga cho biết giá đường tăng tới 37.1% ở một số địa phương. Đường, thường được sử dụng để bảo quản thực phẩm hoặc nấu rượu, là mặt hàng tăng giá mạnh nhất. Củ hành là loại tăng mạnh thứ hai trong tuần, tăng 13.7% trên cả nước và 40.4% ở một số khu vực. Tã lót đắt hơn 4.4%. Giá trà đen tăng 4% và giấy vệ sinh tăng 3%… Ngân hàng Trung ương Nga đã tăng gấp đôi lãi suất, lên 20% vào Tháng Ba, trong nỗ lực ngăn đồng tiền trượt giá không phanh… Phó Thủ tướng Viktoria Abramchenko trấn an: Nước Nga vẫn “hoàn toàn tự cung về đường và kiều mạch” và người dân “không cần phải hoảng sợ. Có đủ cho tất cả”. Tuy nhiên, thực tế bi thảm hơn những gì Viktoria Abramchenko nói, đối với một quốc gia được Ngân hàng Thế giới xếp hạng có nền kinh tế lớn thứ 11 thế giới.

Hóa ra Nga không mạnh như được tưởng. Họ gần như không thể tự cung tự cấp gì cho ra hồn. Mọi thứ đều nhập. Wall Street Journal cho biết, công nghiệp xe hơi Nga đang thoi thóp vì thiếu phụ tùng nước ngoài. Nhiều năm nay, cái gọi là công nghiệp hàng không của một quốc gia có tàu vũ trụ vẫn phải nhập động cơ và nhiều bộ phận quan trọng khác từ các nhà cung cấp nước ngoài. Thậm chí thức ăn cho vật nuôi và thuốc tây cũng nhập. Sự phụ thuộc của Nga vào nhập khẩu trong thực tế đã trở nên tồi tệ ngay cả trước khi xảy ra cuộc chiến Ukraine. Năm 2021, khoảng 81% nhà sản xuất cho biết họ không thể tìm thấy hàng nội địa để có thể hoàn thiện qui trình sản xuất-chế tạo sản phẩm của họ. Hơn một nửa công ty Nga cho biết họ không hài lòng với chất lượng sản phẩm “cây nhà lá vườn”.

Kinh tế Nga yếu hơn được tưởng

Năm 2020, nhập khẩu chiếm 75% doanh số hàng tiêu dùng không thuộc nhóm thực phẩm (nonfood consumer goods) trên thị trường bán lẻ Nga, theo một nghiên cứu của Trường Kinh tế Cao cấp ở Moscow. Trong một số lĩnh vực, tỷ lệ này thậm chí cao hơn, lên tới 86% đối với thiết bị viễn thông. Nhập khẩu chiếm khoảng 1/5 GDP vào năm 2020, so với 16% ở Trung Quốc và cao hơn so với các nền kinh tế lớn khác như Ấn Độ và Brazil. Các nhà sản xuất xe hơi Nga bị ảnh hưởng nặng nề do thiếu các linh kiện nhập khẩu, đặc biệt chip. Một lĩnh vực đang chịu rủi ro cao khác nữa là ngành năng lượng. Ít người có thể hình dung rằng Nga phụ thuộc vào công nghệ phương Tây cho các mỏ dầu và khí đốt của họ.

Ngay cả những dự án qui mô mà Kremlin từng khoe là bằng chứng cho thấy tính tự cung tự cấp của công nghiệp Nga cũng phụ thuộc nhiều vào hàng ngoại. Dự án khủng Sukhoi Superjet 100, ra mắt năm 2007, là một nỗ lực hồi sinh lĩnh vực chế tạo máy bay dân dụng. Tuy nhiên, khoảng một nửa chi phí các bộ phận được sử dụng để chế tạo Superjet lại đến từ thiết bị nhập khẩu. Bây giờ, với “án” cấm vận, Sukhoi Superjet 100 coi như xếp xó. Hãng hàng không vũ trụ Pháp Safran SA – đơn vị sản xuất động cơ, thiết bị hạ cánh và vỏ động cơ của máy bay phản lực cho Sukhoi Superjet 100 – không thể làm ăn ở Nga vì lệnh trừng phạt của phương Tây. Phiên bản dự kiến ​​của máy bay Sukhoi được làm gần như hoàn toàn bằng các bộ phận nội địa sẽ không được sản xuất hàng loạt cho đến năm 2024.

Truyền hình Nga chiếu cảnh Putin trong một phiên họp về các giải pháp đối phó cấm vận (ảnh: Igor Golovniov/SOPA Images/LightRocket via Getty Images)

Nga thật ra đã nỗ lực xây dựng một nền kinh tế tự chủ. Từ 2015-2020, chính phủ Nga đã phân bổ hơn 2.9 nghìn tỷ rúp (khoảng $27 tỷ) cho chương trình thay thế nhập khẩu, tương đương 1.4% ngân sách chi tiêu trong giai đoạn trên. Tuy nhiên, chính sách này vẫn không thúc đẩy nổi nền kinh tế Nga, một phần do phải hứng chịu tác động kép từ các lệnh trừng phạt (sau vụ thôn tính Crimea năm 2014) và giá dầu liên tục giảm. Và nguyên do nữa là hàng nội địa có chất lượng quá kém. Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội chậm hơn mức trung bình thế giới kể từ năm 2014 và người Nga đã bắt đầu “nghèo hơn” so với trước sự kiện sáp nhập Crimea. Lệnh cấm nhập khẩu thực phẩm đã đẩy giá lên cao, khiến người tiêu dùng thiệt hại 445 tỷ rúp (tương đương $4.1 tỷ) mỗi năm.

Một sức mạnh dựa trên xương sống nước ngoài

Một trong những ngành bị thiệt hại nặng nhất là công nghiệp kỹ thuật cao. Nhiều năm qua, Nga vẫn dựa vào công nghệ nước ngoài để thiết kế chip. Năm 2020 – theo Wall Street Journal, Nga nhập các thiết bị bán dẫn trị giá khoảng $440 triệu, trong đó có diode và transistor; và khoảng $1.25 tỷ cho bo mạch tích hợp (chủ yếu mua của Taiwan Semiconductor Manufacturing Co. và Samsung Electronics Co.).

Giới giám đốc điều hành công nghiệp bán dẫn phương Tây khi khảo sát thực trạng công nghiệp Nga cho biết công nghệ chế tạo chip của Nga kém TSMC (Taiwan Semiconductor Manufacturing) hơn 15 năm. Nhà sản xuất chip hàng đầu của Nga, Mikron, là công ty nội địa duy nhất có khả năng sản xuất hàng loạt chất bán dẫn với vi mạch 65 nanomet, một công nghệ có từ năm 2006. Bộ vi xử lý Baikal mới nhất (được sử dụng rộng rãi trong nhiều máy tính và máy chủ do Nga sản xuất) – của công ty thiết kế chip Baikal Electronics JSC (Nga) – cũng do TSMC chế tạo. Và một số bộ vi xử lý Elbrus mới nhất, được thiết kế bởi Trung tâm Công nghệ SPARC ở Moscow, cũng được sản xuất bởi TSMC.

Công nghiệp chip điêu đứng dẫn đến ảnh hưởng tức thì đến công nghiệp vũ khí của Nga. Nó cũng ảnh hưởng đến “công nghiệp” trí thông minh nhân tạo, dịch vụ internet 5G tốc độ cao và công nghệ robot. James Lewis, Phó chủ tịch cấp cao của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (Washington DC) cho biết, Nga khó có thể tận dụng “nguồn” chip “móc” ra từ các thiết bị tiêu dùng như điện thoại thông minh để tái sử dụng cho vũ khí. Trung Quốc có thể giúp cung cấp tụ điện và bóng bán dẫn nhưng chính công nghiệp sản xuất chip Trung Quốc cũng không thể sản xuất hàng loạt những con chip “xịn” bằng Đài Loan, Hàn Quốc hoặc Mỹ… Nói cách khác, một khi bị cắt khỏi chuỗi cung ứng quốc tế, Nga chẳng khác gì bị rút ống thở.

Hàng tấn vàng của Nga có thể trở thành những “viên gạch” mang tính “biểu trưng” (ảnh: Alexander Manzyuk/Anadolu Agency via Getty Images)

M.A.

Nguồn: saigonnhonews.com


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét