Thứ Năm, 27 tháng 5, 2021

20210528. QUỐC HỘI XV: CẦN SỬA LUẬT ĐẤT ĐAI VẪN NỢ

 ĐIỂM BÁO MẠNG 

CÁC VẤN ĐỀ CỐT LÕI CẦN XEM XÉT ĐỂ SỬA ĐỔI LUẬT ĐẤT ĐAI 
CỦA VIỆT NAM

TÔ VĂN TRƯỜNG/ BVN 24-5-2021

Dù biện luận bất cứ cách nào, nói quanh, nói co để phủ nhận quyền sở hữu đất đai này của dân cũng đều không ổn. Nếu đất đai là của toàn dân thì chính quyền chỉ là một thành tố trong khái niệm ấy chứ không đồng nghĩa: Chính quyền = Nhà nước = toàn Dân. Mập mờ về khái niệm là gốc dẫn đến mọi vi phạm.

Quốc hội Việt Nam khóa 14 vẫn còn nợ dân về sửa Luật Đất đai vì đây là nguyên nhân gây bất ổn xã hội, bao oan ức, kiện tụng khắp cả nước.

Kẻ thủ lợi trong những năm qua chính là các nhóm lợi ích đã lộ diện hoặc đang giấu mình. Nếu không sửa Luật Đất đai dựa trên cơ sở khoa học, hợp lòng dân thì các nhóm lợi ích sẽ vơ vét thêm nữa để rồi sẽ được Luật sửa đổi bảo vệ. Sự căng thẳng xã hội sẽ còn tăng cao hơn nhiều.

Ảnh: Biểu cảm của một số người dân Thủ Thiêm trong các cuộc đối thoại với chính quyền địa phương để đòi lại đất bị giải tỏa trái pháp luật

Tôi thường được nghe người nông dân tâm sự ngày xưa “theo Đảng để dân cày có đất”. Có đất, đương nhiên phải có quyền sở hữu. Nhưng sau bao hy sinh, người nông dân chỉ đổi được phận ông chủ hờ. Ngay cả những người chắt bóp cả đời mua được mảnh đất cũng bỗng dưng mất quyền làm chủ.

Dù biện luận bất cứ cách nào, nói quanh, nói co để phủ nhận quyền sở hữu đất đai này của dân cũng đều không ổn. Nếu đất đai là của toàn dân thì chính quyền chỉ là một thành tố trong khái niệm ấy chứ không đồng nghĩa: Chính quyền = Nhà nước = toàn Dân. Mập mờ về khái niệm là gốc dẫn đến mọi vi phạm.

Quốc hội Việt Nam khóa 14 vẫn còn nợ dân về sửa Luật Đất đai vì đây là nguyên nhân gây bất ổn xã hội, bao oan ức, kiện tụng khắp cả nước.

Kẻ thủ lợi trong những năm qua chính là các nhóm lợi ích đã lộ diện hoặc đang giấu mình. Nếu không sửa Luật Đất đai dựa trên cơ sở khoa học, hợp lòng dân thì các nhóm lợi ích sẽ vơ vét thêm nữa để rồi sẽ được Luật sửa đổi bảo vệ. Sự căng thẳng xã hội sẽ còn tăng cao hơn nhiều.

Vậy nên Việt Nam không thể tiếp tục để cho Luật sửa đổi đất đai trở thành con dao hai lưỡi.

Muốn gỡ vướng chính sách liên quan đến lĩnh vực kinh tế như sửa Luật Đất đai, riêng Bộ Tài nguyên Môi trường không đủ lực. Việt Nam cần phải có sự phối hợp đa ngành, thay đổi nhận thức từ Trung ương (cụ thể là Ban Kinh tế Trung ương) vì còn liên quan đến cả Hiến pháp, Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch đô thị và nhiều quy định về pháp luật về đất đai, xây dựng, quy hoạch khác cũng cần được rà soát điều chỉnh, sửa đổi.

Việt Nam phải sửa Luật Đất đai trên cơ sở quy hoạch và quy trách nhiệm xử lý cụ thể cho những người có trách nhiệm, kể cả truy cứu trách nhiệm nếu cán bộ cố ý làm sai dù đã nghỉ hưu.

Nhiều cử tri, xuất phát từ thực tiễn, có chung nhận thức về quan điểm khi sửa Luật Đất đai như sau:

1. Việt Nam cần phải công nhận tính đa sở hữu đối với đất đai, bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân.

Trong đó, sở hữu tư nhân vừa là nguồn lực quan trọng nhất, năng động nhất trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Riêng đất ở đã cấp và thu tiền sử dụng đất nên chuyển sang sở hữu tư nhân và ghi rõ trong sổ đỏ để người dân được thực hiện các quyền của chủ sở hữu chứ không phải chỉ được quyền sử dụng đất nhưng trên thực tế lại vẫn thực hiện đủ các quyền chủ sở hữu kể cả chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp.

2. Cần tôn trọng nguyên tắc mọi công dân, tổ chức (doanh nghiệp) đều bình đẳng trước pháp luật. Nội dung Luật Đất đai sửa đổi phải phù hợp với quy luật, cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường, tạo khung pháp lý chi phối sự vận động của đất đai nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cả về kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường.

3. Việc xác định giá đất khi giải toả, đền bù cần quy định lại và làm rõ các nguyên tắc sau đây:

• Chấm dứt kiểu tư duy nhà nước có thể “trưng thu/ thu hồi” đất đai của dân và “đền bù” cho họ. Phải xây dựng tư duy mới, trên cơ sở tôn trọng quyền tư hữu của dân. Khi nhà nước cần sử dụng đất của dân để xây dựng các công trình quốc phòng, an ninh, trụ sở cơ quan nhà nước, giao thông, bệnh viện, trường học công lập thì phải tuân thủ hai điều kiện. Một là phải có quy hoạch. Quy hoạch này phải được sự đồng thuận của người dân thông qua các cơ chế giám sát. Hai là nhà nước phải mua lại đất của dân theo giá thị trường hàng năm.

• Loại trừ trường hợp nhà nước thu hồi đất của dân, giao cho doanh nghiệp làm dự án kinh doanh. Đây là chính là cơ chế gây ra biết bao oan ức trong lòng xã hội. Vì cơ chế này tất yếu tạo điều kiện cho quan chức nhà nước cấu kết với doanh nghiệp, nhân danh các dự án “kinh tế xã hội” nhưng thực chất đem lại lợi ích riêng cho doanh nghiệp và chà đạp lên lợi ích của số đông người dân. Ngoài ra, đã có nhiều trường hợp bản thân các quan chức nhà nước trục lợi bằng cách “trưng thu” đất của dân thông qua các “doanh nghiệp tư nhân” bình phong.

• Bất kể trường hợp doanh nghiệp tư nhân muốn mua đất của người khác để xây dựng các cơ sở sự nghiệp tư, hay cơ quan nhà nước cần mua đất của dân để làm việc công, như xây dựng trụ sở cơ quan, thì như trên đã nói, ngoài việc phải phù hợp quy hoạch và cấp phép của cấp có thẩm quyền, còn phải mua lại theo giá thị trường và thoả thuận với dân. Việc mua lại và thỏa thuận với bên bán là chủ sở hữu đất đều phải chủ đầu tư trực tiếp làm, cho dù chủ đầu tư là cơ quan nhà nước hay tư nhân. Việt Nam phải chấm dứt tình trạng chính quyền “thu hồi” đất, “đền bù” cho dân, rồi “bàn giao” lại mặt bằng cho chủ đầu tư như từ trước đến nay, vì cơ chế này đã gây ra rất nhiều hệ luỵ tai hại.

Hay nói rõ hơn, khi nhà nước cần sử dụng đất của dân cho các mục đích công, cần từ bỏ tư duy “thu hồi đất”, đồng thời, cần làm rõ mục đích, tính cần thiết, điều kiện, thẩm quyền đối với việc khu vực đất đai mà nhà nước cần đến.

Việt Nam cần chấm dứt việc trưng thu để giao đất cho các khu kinh tế vì chủ thể kinh doanh thì phải tính hết các chi phí theo giá thị trường.

Những nỗi bất bình trong dân suốt ba thập niên vừa qua chủ yếu thuộc trường hợp nhà nước thu hồi đất của dân, giao cho bên thứ ba vì lý do “phát triển kinh tế”. Cơ chế này tất yếu bị tư bản thân hữu lợi dụng.

4. Đất đai là tài sản có giá trị lớn, lại càng ngày càng bị thu hẹp do dân số tăng thêm, vì thế cần chấm dứt tình trạng các cấp quản lý được quyền cấp đất cho cán bộ xây nhà ở, nhất là cấp đất cho cán bộ lãnh đạo hoặc “hoá giá” nhà đất theo mức giá ưu đãi rất rẻ mạt. Thực tiễn nhiều quan chức đã bán ngay nhà đất được “phân phối” hoặc “hoá giá” và hưởng phần chênh lệch hàng chục lần.

5. Cần xử lý cứng rắn và kiên quyết với mọi trường hợp lấn chiếm đất công, kể cả ở vùng sâu vùng xa, rồi hợp thức hoá thành đất tư nhân. Nhiều quan chức hoặc có quan hệ với quan chức, do nắm được thông tin quy hoạch trước khi công bố, đã cho người thân hoặc bán thông tin cho những người khác để họ chiếm đất, như trường hợp đất ven sông Tô Lịch, một số bãi rác ven đô… Khi nhà nước tiến hành cống hoá thành đường giao thông, hoặc xây khu dân cư trên bãi rác hoang trước đó thì họ kiếm tiền bồi thường rất nhiều lần.

Luật Đất đai 2003 đã cho phép cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các trường hợp bất hợp pháp trước 1993 mà không có tranh chấp, khiếu nại, như vậy nhà nước đã chấp nhận hợp thức hoá một lần cho tất cả các trường hợp chiếm đất bất hợp pháp trong quá khứ, không lý gì lại tiếp tục việc đó nhiều lần sau nữa.

6. Nghị quyết 10 năm 1988 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam có chính sách giao đất cho hộ gia đình. Nghị quyết này xác định hộ gia đình là đơn vị kinh tế để giao đất do tập thể (hợp tác xã) quản lý về cho hộ thành viên. Bằng cách này, Nghị quyết 10 giao đất cho từng hộ dân mà không làm ảnh hưởng đến quan điểm xã hội chủ nghĩa về công hữu.

Tuy nhiên, hiện nay các giao dịch đất đai của các hộ gia đình nói trên đã phát sinh rất nhiều, nhưng “hộ gia đình” lại là khái niệm không được xác định rõ bằng luật pháp. Hiện nay, ngành quản lý đất đai có cho chuyển giấy quyền sử dụng đất giao cho hộ thành cá nhân nếu được các thành viên trong sổ hộ khẩu đồng ý. Đối với trường hợp này, luật nên đổi thành giao đất cho cá nhân, tài sản trị giá trên mức nào đó thì cả vợ chồng đồng đứng tên giống như các tài sản khác (nhà, xe…).

7. Người dân và doanh nghiệp có toàn quyền định đoạt trong các giao dịch dân sự về ruộng đất thuộc quyền sở hữu của mình. Những xung đột lợi ích trong quan hệ ruộng đất đã và đang diễn ra ngày càng gay gắt, trên quy mô lớn, chủ yếu là do không thừa nhận chế độ đa sở hữu ruộng đất, trong đó có quyền sở hữu tư nhân về đất đai.

Trước mắt, điều Việt Nam có thể làm ngay để khắc phục một phần những xung đột lợi ích trong quan hệ ruộng đất, là xóa bỏ quy định của Luật Đất đai hiện hành cho phép các cấp chính quyền thu hồi và đền bù giá trị quyền sử dụng đất của người dân theo khung giá do chính quyền cấp tỉnh, thành phố quy định theo thời kì 5 năm/1 lần. Thay vào đó là sự thừa nhận quyền sử dụng đất hiện hành của công dân và doanh nghiệp là quyền tài sản, là hàng hóa được trao đổi theo nguyên tắc thuận mua, vừa bán, như tất cả các tài sản khác.

8. Các lực lượng vũ trang (quân đội và công an) không được thành lập doanh nghiệp, vì các cơ quan chức năng của nhà nước sẽ không thể kiểm soát các hoạt động của các doanh nghiệp này. Dưới chiêu bài “vì an ninh quốc gia”, các doanh nghiệp này dễ lạm dụng quyền để lấy đất của người dân không theo cơ chế thị trường, không theo pháp luật. Đó là chưa kể, lực lượng vũ trang đã nắm vũ khí lại còn nắm cả nguồn lực kinh tế chính là cơ chế và điều kiện đưa họ đến khả năng có thể vượt ra ngoài tầm kiểm soát của lãnh đạo chính trị.

Trung Quốc từ cuối giai đoạn Đặng Tiểu Bình còn ảnh hưởng quyền lực, đã cải tổ lực lượng vũ trang theo nguyên tắc lực lượng vũ trang phải chuyên nghiệp, chỉ tập trung vào vấn đề vũ trang, an ninh và quân sự, không được có nguồn thu kinh tế riêng mà chỉ được nhận ngân sách do nhà nước cung cấp.

9. Nếu nghiên cứu sâu về Luật Đất đai, như trên đã nói, không nên tiếp tục sử dụng khái niệm “thu hồi đất”. Phải bỏ ngay điều 62 của Luật Đất đai hiện hành. Không cần quy định quyền sử dụng đất nếu thừa nhận quyền sở hữu đất của người dân. Nếu không dùng khái niệm quyền sở hữu thì nội dung quan hệ giao dịch phải được tự do như có quyền sở hữu. Nạn tham nhũng cũng từ cái quyền rất thiêng liêng nhưng lại rất mơ hồ trong luật hiện nay.

10. Trong chương trình chuyển đổi số quốc gia, khó nhất là cơ sở dữ liệu số hoá về đất đai. Đến nay hầu như chưa địa phương nào làm được điều này. Vì vậy Việt Nam cần ưu tiên xây dựng cơ sở dữ liệu này và công khai cùng quy hoạch đất. Điều này vừa giúp bảo vệ quyền lợi của người dân vừa hỗ trợ tốt cho dịch vụ hành chính công về đất đai.

Lời kết

Luật Đất đai, hay nói cụ thể hơn là quan điểm về sở hữu trong Luật Đất đai, đang là điểm nghẽn trong phát triển, thậm chí là hiểm họa đối với trật tự an toàn xã hội và an ninh chính trị ở Việt Nam.

Sửa Luật Đất đai là vấn đề phức tạp, chắc chắn đụng chạm đến quyền lợi của nhiều tổ chức, cá nhân và nguồn thu ngân sách, nhưng sửa Luật là yêu cầu bức thiết của thực tiễn. Việt Nam cần ưu tiên thực hiện sửa đổi vấn đề quan trọng này trong nhiệm kỳ của Quốc hội khoá 15.

Vấn đề liên quan đến chuyển nhượng, góp vốn quyền sử dụng đất nông nghiệp mới được đưa vào điểm b khoản 4 Điều 29 Luật Đầu tư năm 2020. Đây chỉ là phần nhỏ trong nội dung cần sửa của Luật Đất đai. Ngoài nội dung nhỏ này, các cơ quan nhà nước của Việt Nam có liên quan đến đất đai cũng cần phải rà soát, tổng kết, đánh giá Luật Đất đai ngay trong năm 2021 để làm cơ sở cho việc sửa các nội dung của Luật, để Luật thực sự hữu ích cho sự phát triển bền vững về kinh tế xã hội và môi trường.

T.V.T.

Nguồn: usvietnam.uoregon.edu

LUẬT ĐẤT ĐAI: TU CHỈNH HAY...LÀM LUẬT MỚI ?

THỤC TRINH/ BVN 13-5-2021



(VNTB) - Việc sửa đổi, bổ sung, càng sửa sẽ càng sai. Do vậy, nên xây dựng bộ Luật Đất đai mới với tiêu chí đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện và thống nhất.

“Tôi cho rằng không nên sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai 2013 vì sửa đâu sai đó. Để khắc phục bất cập hiện nay, nên xây dựng bộ Luật Đất đai mới thay thế Luật Đất đai 2013 với tiêu chí đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện và thống nhất.

Việc xây dựng nên giao cho cơ quan lập pháp xây dựng chứ không nên giao cho cơ quan hành pháp vì nếu cơ quan hành pháp xây dựng sẽ gây ra tình trạng làm có lợi cho mình” – Ông Nguyễn Văn Xa – Cựu Cục trưởng Cục Quản lý Công sản, Bộ Tài chính có ý kiến tại Hội thảo “Quản lý đất đai và phương hướng sử dụng đất đai hiệu quả trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.

Vì sao đến nỗi “sai đâu sửa đó”?

Ông Nguyễn Thanh Phương, giảng viên khoa Luật, Trường ĐH Nam Cần Thơ, dẫn chứng về vấn đề quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.

Theo ông Phương, xét vấn đề trên phương diện chấm dứt hoạt động dự án đầu tư và thu hồi đất do không thực hiện, hoặc không có khả năng thực hiện dự án theo tiến độ đã đăng ký và không thuộc trường hợp được gia hạn tiến độ đầu tư cho thấy chưa thống nhất trong việc xử lý vấn đề đất đai cũng như tài sản gắn liền với đất trong trường hợp dự án bị chấm dứt hoạt động do không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện dự án theo tiến độ đã đăng ký và không thuộc trường hợp được giãn tiến độ đầu tư theo qui định.

Cụ thể, Thứ nhất, nếu tại Điều 64, Luật Đất đai năm 2013 qui định trong trường hợp không đưa đất vào sử dụng hoặc chậm đưa đất vào sử dụng sẽ được giãn tiến độ 24 tháng. Sau khoảng thời gian gia hạn, nếu không đáp ứng tiến trình đưa đất vào sử dụng đồng nghĩa Nhà nước sẽ tiết hành thu hồi đất và không bồi thường.

Tuy nhiên, Luật đất đai và những văn bản thi hành không qui định với trường hợp dự án bị chấm dứt hoạt động do không triển khai thực hiện, hoặc không có khả năng thực hiện dự án theo tiến độ đã đăng ký trước đó, cũng như các trường hợp không thuộc đối tượng trường hợp được giãn tiến độ đầu tư theo qui định.

Xét vấn đề trên phương diện Khoản 3 và 4 – Điều 48 – Luật Đầu tư qui định: Nhà đầu tư tư thanh lý dự án đầu tư trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày chấm dứt hoạt động; Trường hợp không tự thanh lý được thì cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất tổ chức thanh lý tài sản gắn liền với đất.

Thứ hai, liên quan đến thời gian được giãn tiến độ đầu tư, nói cách khác là thời gian được gia hạn tiến độ sử dụng đất, pháp luật chưa có sự đồng nhất giữa cơ chế gia hạn tiến độ sử dụng đất theo qui định tại điểm i – Khoản 1 – Điều 64 Luật Đất đai 2013 và Khoản 3- Điều 46- Luật Đầu tư 2014.

Cụ thể, tại điểm i – Khoản 1 – Điều 64 Luật Đất đai 2013 qui định dự án đầu tư có thể được sử dụng đất chậm đến 48 tháng bao hàm khoảng thời gian chậm 24 tháng và thời gian được gia hạn thêm 24 tháng. Tuy nhiên, xét trên phương diện Khoản 3- Điều 46- Luật Đầu tư 2014 có sự không thống nhất khi tổng thời gian giãn tiến độ đầu tư được giới hạn ở mức không quá 24 tháng.

Bên cạnh đó, nếu căn cứ trên bình diện Khoản 3- Điều 46- Luật Đầu tư 2014, một số vấn đề cần đặt ra như sau:

(i) Điều luật trên không nêu rõ dự án có thể tiến hành giãn tiến độ đầu tư bao nhiêu lần trong tổng thời gian 24 tháng được phép gia hạn.

Từ đó, tuỳ thuộc vào quan điểm của các cơ quan quản lý đầu tư là có thể cho phép giãn tiến độ một lần hay nhiều lần theo tiến độ của một dự án. Điều này có thể dẫn đến hệ quả thiếu công bằng và thống nhất trong việc áp dụng luật, đồng thời tạo ra sự bị động cho các nhà đầu tư khi có ý định giãn tiến độ đầu tư cho một dự án.

(ii) Chế định nêu rõ tổng thời hạn giãn tiến độ đầu tư đối với mọi dự án đồng nhất không vượt định mức 24 tháng mà không tính đến qui mô của từng dự án, tính chất giản đơn hay phức tạp của từng dự án là qui định chưa mang tính thực tiễn.

Đơn cử với nhiều dự án gắn với chuyển giao công nghệ, đầu tư xây dựng, cấp phép xây dựng v.v đòi hỏi cần nhiều thời gian tiến hành triển khai.

Làm sao để luật nọ không xọ luật kia?

Trong mối bùng nhùng như một đơn cử ở trên, ý kiến của ông Đặng Hùng Võ – Cựu Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, rằng cần phải viết lại Luật Đất đai 2013 vì luật làm năm 2013 tiếp cận theo hướng quyền lực quản lý của nhà nước và khác hoàn toàn với Luật Đất đai 2003 tiếp cận theo hướng thị trường.

Việt Nam hiện nay áp dụng cả Văn phòng Đăng ký Đất đai và Văn phòng Công chứng nên đang chồng chéo.

Cách xây dựng luật hiện nay là luật nọ đang mâu thuẫn với luật kia. Việc này đã được đề xuất thống nhất dung một văn phòng nhưng chưa được sửa đổi.

Ông Đặng Hùng Võ đề xuất: Khi xây dựng luật đất đai mới, cần bãi bỏ khung giá đất của Chính phủ và thay thế bằng cơ quan định giá đất quốc gia hoặc hội đồng thẩm định giá đất quốc gia.

Đồng thời, cần có qui định chế tài xử lý mạnh đối với các địa phương qui định giá đất trên bảng giá đất thấp hơn giá đất trung bình trên thị trường.

Xem ra, việc xoá hẳn làm lại đối với Luật Đất đai 2013 có vẻ đơn giản hơn là tiếp tục đắp vá với những “điều chỉnh” bằng các văn bản dưới luật như suốt thời gian qua.

T.T.

VNTB gửi BVN

THỦ THIÊM VÀ LUẬT ĐẤT ĐAI

HOÀI NGUYỄN / BVN 17-5-2021

(VNTB) – Nhân danh quy hoạch xây dựng khu đô thị mới Thủ Thiêm, các ‘Nhà nước đại diện chủ sở hữu’ đã đẩy họ ra đường, trở thành những người vô gia cư.

VNTB – Thủ Thiêm và Luật Đất đai

    Trong bối cảnh của một nền kinh tế đầy những khó khăn, thách thức do tác động từ đại dịch lịch sử Covid-19, dường như đã đến lúc không thể chậm trễ hơn – cần bàn sâu rõ đến câu chuyện sửa đổi Luật Đất đai.

    Bắt tay vào tháo gỡ để thẳng tay chặn đứng những kẽ hở tạo nên tham nhũng, tiêu cực, tạo động lực thúc đẩy và vực dậy nền kinh tế nước nhà.

    Lý thuyết là vậy.

    Chiều 15-5, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tham gia hội nghị tiếp xúc trực tuyến giữa cử tri với ứng cử viên đại biểu Quốc hội khóa XV đơn vị bầu cử số 10 tại huyện Hóc Môn, TP.HCM. Tại buổi tạm gọi là ‘tranh thủ lá phiếu cử tri’, ông Nguyễn Xuân Phúc có nói rằng, “Nhà ở dành cho công nhân đang khó khăn còn quá ít trong khi nhà ở thương mại cho người giàu có thì nhiều quá. Chúng ta phải điều chỉnh cơ chế để dành nhiều nguồn lực làm nhà ở cho công nhân”.

    Để điều chỉnh thì phải căn cứ theo pháp luật về đất đai. Và nếu nhận định rằng quy định của Luật Đất đai 2013 hoàn chỉnh không tạo ra kẽ hở khiến người ta trục lợi, thì đó là sự lạc quan tếu.

    Luật Đất đai 2013 dường như chưa xác lập được cơ chế để kiểm soát quyền đại diện, tức là kiểm soát những cơ quan có thẩm quyền trong việc giao đất, thu hồi đất.

    Thứ nữa là chế tài trong Luật Đất đai quy định rất chung chung, ví như sai phạm nặng hay nhẹ để xử phạt hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng vấn đề là hiểu thế nào là nặng hay nhẹ thì nằm ở chỗ cơ quan thực thi pháp luật.

    Giờ thì ông Nguyễn Xuân Phúc ngồi vào ghế Trưởng ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung ương.

    Liệu có lần nào ông Nguyễn Xuân Phúc từ hồi còn làm cấp phó cho ông Nguyễn Tấn Dũng, sau đó là Thủ tướng, và hồi đầu tháng Tư vừa rồi chuyển qua làm Chủ tịch nước, ông có từng băn khoăn bi kịch đất đai Thủ Thiêm kéo dài ròng rã hơn 20 năm qua?

    Khu đô thị mới Thủ Thiêm là một siêu dự án có gần 15.000 hộ dân thuộc diện đền bù, giải tỏa với hơn 60.000 nhân khẩu đã di dời.

    Theo kết luận của Thanh tra Chính phủ được công bố năm 2018, sai phạm tại Thủ Thiêm chủ yếu về điều chỉnh ranh quy hoạch và bố trí đất tái định cư xảy ra trong giai đoạn đầu thực hiện. Đây chính là “nguồn cơn” của việc khiếu nại, tố cáo kéo dài hơn chục năm qua.

    Thanh Tra chính phủ đã kiến nghị UBND TP.HCM xác định rõ, cụ thể trách nhiệm liên quan đến những khuyết điểm, vi phạm khi thực hiện dự án khu đô thị này.

    Điều 4 của Luật Đất đai, ghi: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này”.

    Vậy thì rất đơn giản, bao nhiêu năm quy hoạch, quả bóng trách nhiệm, nhùng nhằng không giải quyết nhanh gọn ngày này qua tháng khác, bao nhiêu người đã không đợi được, ra đi trong uất hận ở Thủ Thiêm, khi đền bù cho dân 18 triệu đồng/m2, nhưng khi người dân gọi đến công ty nhà đất, hỏi mua nhà gần nơi cũ, thì được thông báo giá đất lên 350 triệu/m2…

    Tất cả điều ở trên có rất rõ một địa chỉ chịu mọi trách nhiệm, đó là “Nhà nước”; cụ thể hơn thì đó là “Nhà nước xã hội chủ nghĩa”, và chịu trách nhiệm cao nhất trong “lãnh đạo Nhà nước” theo Điều 4, Hiến pháp, đó là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.

    Nếu đã đồng ý rằng không khó để nhận thấy sự lạm dụng để trục lợi lớn của các doanh nghiệp thân hữu, cánh hẩu, đối lập với sự thiệt thòi lớn của người dân mất đất, trong toàn bộ quá trình thu hồi đất ở Thủ Thiêm và nhiều nơi khác nữa, vậy thì vì sao không thay đổi định nghĩa về quyền sở hữu tài sản đất đai của người dân?

    Vì “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”, nên còn gì đau lòng và chua xót hơn khi họ từng là những cư dân thành thị, có nhà cửa như bao người khác – Nhưng rồi nhân danh quy hoạch xây dựng khu đô thị mới Thủ Thiêm, các ‘Nhà nước đại diện chủ sở hữu’ đã đẩy họ ra đường, trở thành những người vô gia cư. Số đông tứ tán mọi phương, số ít bám trụ và ‘ở trọ’ ngay trên chính ngôi nhà của mình, số khác tạm cư trong những ngôi nhà xập xệ.

    H.N.

    VNTB gửi BVN

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét