Thứ Hai, 17 tháng 5, 2021

20210518. BÀN VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM

 ĐIỂM BÁO MẠNG 

VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

NGUYỄN PHÚ TRỌNG/ VNN 17-5-2021

VNN- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa có bài viết quan trọng: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam".Tổng Bí thư viết bài này nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2021) và bầu cử ĐBQH khoá XV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 vào ngày 23/5 tới đây. VietNamNet trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết quan trọng này của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học.

Trong phạm vi bài này, tôi chỉ xin đề cập một số khía cạnh từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam. Và cũng chỉ tập trung vào trả lời mấy câu hỏi: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?.

Bài viết của Tổng Bí thư về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng một số lãnh đạo tại Đại hội XIII của Đảng

Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tuỳ theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay. Vậy thì chúng ta phải định hình chủ nghĩa xã hội thế nào, và định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể ở Việt Nam?

Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá.

Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác.

Có người còn phụ hoạ với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường xã hội chủ nghĩa! Thực tế có phải như vậy không? Thực tế có phải hiện nay chủ nghĩa tư bản, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp không? Có phải Việt Nam chúng ta đã chọn con đường đi sai không?

Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước.

Từ giữa thập kỷ 70 và nhất là từ sau khi Liên Xô tan rã, để thích ứng với điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản thế giới đã ra sức tự điều chỉnh, thúc đẩy các chính sách "tự do mới" trên quy mô toàn cầu; và nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó.

Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt là, năm 2008 - 2009 chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Các nhà nước, các chính phủ tư sản ở Phương Tây đã bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, các tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, nhưng không mấy thành công.

Và hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc.

Những tình huống "phát triển xấu", những nghịch lý "phản phát triển", từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội, và ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với các làn sóng biểu tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế. Sự thật cho thấy, bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu.

Sự thật đó cũng làm phá sản những lý thuyết kinh tế hay mô hình phát triển vốn xưa nay được coi là thời thượng, được không ít các chính khách tư sản ca ngợi, được các chuyên gia của họ coi là tối ưu, hợp lý.
Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái,... đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại.

Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Theo nhiều nhà khoa học phân tích, các cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa.

Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức "dân chủ tự do" mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ.

Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào "99 chống lại 1" diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản.

Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là "tự do", "dân chủ" dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản.

Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm.

Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hoà với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và huỷ hoại môi trường.

Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi.
Như chúng ta đều biết, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân với tinh thần "Không có gì quý hơn Độc lập Tự do".

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.

Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương: "Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa".

Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh".

Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chúng ta một lần nữa khẳng định: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử".

Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là điều mà chúng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...

Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Bài viết của Tổng Bí thư về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng một số lãnh đạo bỏ phiếu kiện toàn nhân sự tại kỳ họp 11 của Quốc hội khóa XIV

Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới.

Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển.

Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.

Theo nhận thức của chúng ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ).

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.

Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không "hy sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xoá đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hoá đồng bộ, hài hoà với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hoá nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao.

Chúng ta xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hoá, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh.

Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hoà với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội.

Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.

Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội. Chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân.

Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Đồng thời, chúng ta xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo.

Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam; Đảng ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo cả dân tộc, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình và do đó Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.

Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, mà là thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, vì giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.

Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ. Ý thức được nguy cơ đối với đảng cầm quyền là tham nhũng, quan liêu, thoái hoá v.v..., nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hoá v.v... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị.

Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua.

Trước Đổi mới (năm 1986), Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về người, về của và môi trường sinh thái. Tôi chỉ nêu thí dụ, cho đến nay vẫn có hàng triệu người chịu các bệnh hiểm nghèo và hàng trăm ngàn trẻ em bị dị tật bẩm sinh bởi tác động của chất độc da cam/dioxin do quân đội Mỹ sử dụng trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam.

Theo các chuyên gia, phải mất đến hơn 100 năm nữa Việt Nam mới có thể dọn sạch hết bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Sau chiến tranh, Mỹ và phương Tây đã áp đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20 năm. Tình hình khu vực và quốc tế cũng diễn biến phức tạp, gây nhiều bất lợi cho chúng ta. Lương thực, hàng hoá nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ.

Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008.

Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020.

Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỉ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

Hiện dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc anh em, trong đó hơn 60% số dân sống ở nông thôn. Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Tỉ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước).

Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết.

Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí.

Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc.

Đời sống văn hoá cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hoá phát triển phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hoá các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.

Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) đã nhận định, sự nghiệp đổi mới đã giành được "những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử". Trên thực tế, xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay đang có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây.

Đó là một trong những lý do giải thích vì sao sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo được toàn dân Việt Nam đồng tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu thực hiện. Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế.

Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa lại khẳng định và nhấn mạnh: "Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá.

Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Bài viết của Tổng Bí thư về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Các ủy viên Trung ương dự Hội nghị Trung ương 2 khóa XIII

Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới" (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, trang 25 - 26).

Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước.

Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế; môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.

Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hoá, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình" nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế.

Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền vững với các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội (Văn kiện Đại hội XIII, tập 2, trang 337 - 338).

Về xã hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời sống văn hoá cho nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội.

Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển.

Mặt khác, Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại.

Trong thế giới toàn cầu hoá như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.

Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện.

Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

VÀI TRAO ĐỔI CÙNG 'BÁC CẢ' TRỌNG

LƯU TRỌNG VĂN/ TD 18-5-2021

Bài viết tràn ngập lý luận của “bác cả” Trọng tôi nghiêm túc đọc từ dòng đầu đến dòng cuối.

Tôi chú ý hơn cả chương bác viết về kinh tế thị trường định hướng XHCN, một khái niệm cả Mác và Lê Nin cũng như cụ Hồ chưa đề cập.

Tôi nói vậy, vì đọc cả chương lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN, không hề thấy nhà lý luận số một của VN, kiên định lập trường chủ nghĩa Mác Lê và tư tưởng HCM, trích dẫn một câu nào đó của các cụ tiền bối trên về kinh tế thị trường định hướng XHCN hết.

“Bác cả” dẫn giải và định nghĩa rất dài gã xin tóm tắt lại, kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế thị trường:

– Dưới sự lãnh đạo của đảng CSVN.

– Không phải kinh tế thị trường tư bản.

– Không phải kinh tế thị trường XHCN đầy đủ vì VN đang ở thời kì quá độ lên CNXH.

– Kinh tế nhà nước là chủ đạo.

– Sở hữu, tổ chức quản lý, phân phối theo định hướng XHCN.

– Gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.

Xưa nay tôi không hiểu lắm thế nào là kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chỉ nhận thức theo trình độ của mình, kinh tế thị trường định hướng XHCN là kinh tế thị trường đúng nghĩa nhưng lợi nhuận của nó được phân phối theo định hướng XHCN thông qua thu thuế công bằng và phân phối công bằng, đầu tư an sinh xã hội công bằng. Với cái nhận thức đó của tôi thì thấy thực tế “Nó” chưa đi vào cuộc sống vì nhiều kẻ không làm gì có ích cho XH lại được chia nhiều hơn trong khi nhiều người nai lưng ra làm lại được chia ít hơn và an sinh xã hội còn là một bể… khổ.

Nhưng qua bài viết của “bác cả” thì tôi mới thấy kinh tế thị trưởng định hướng XHCN đã từ lâu đi vào cuộc sống rồi chứ không còn mơ hồ đâu đâu nữa thể hiện ở sự lãnh đạo của đảng và nền tảng kinh tế nhà nước là chủ đạo rất rõ rệt.

Ở đây tôi không bàn đến hiệu quả mà chỉ bàn tới công thức lý luận thôi bởi vì không thể nói hiệu quả khi VN mới chỉ đang ở thời kì quá độ. Còn thời kì quá độ này kéo dài bao lâu thì phải chờ đến năm 2045 theo “bác cả” là thời điểm VN hoàn chỉnh hệ thống lý luận XHCN của mình mới biết chắc được.

Tôi thú thật rất lo ngại cho tương lai của Đất nước khi phải mất 24 năm nữa mới đến mốc 2045, liệu “bác cả” còn khoẻ mạnh để tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống lý luận XHCN mà bác đang là một trong những tác giả chính, hay không?

Nhưng có điều tôi thắc mắc khi “bác cả” cho rằng kinh tế thị trường định hướng XHCN không phải là “kinh tế thị trường tư bản” trong khi chính bác khẳng định: “Theo nhận thức của chúng ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường…” không phải là kinh tế thị trường mà các nước tư bản phát triển sáng tạo nên và đang thực hiện thì nó là kinh tế thị trường nào?

Còn một thắc mắc nữa, là trong bài lý luận của “bác cả” tôi chú ý con số rất cụ thể này:

“Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.”

Với thực tế kinh tế nhà nước chỉ chiếm 27% trong toàn bộ giá trị kinh tế thì làm sao chủ đạo để dẫn dắt, định hướng XHCN được nếu nhà nước không tự cho mình làm chủ toàn bộ khối tài sản khổng lồ là tài nguyên và đất đai cùng quyền phân phối tổng thuế?

Tài nguyên hiện nay thì như TT Phạm Minh Chính thừa nhận là đã bị khai thác cạn kiệt, vậy cái còn lại cho kinh tế nhà nước để bảo đảm sức mạnh chủ đạo để định hướng XHCN chỉ còn lại là đất đai và tổng tiền thuế thôi.

Phải chăng với bảo đảm cốt lõi này để bảo vệ định hướng XHCN nên nhà nước vẫn khư khư giữ Luật Đất đai bất cập và không giống ai hiện nay, bất chấp chính nó là cản trở lớn nhất cho 60 triệu nông dân làm giàu cho mình và cho Đất nước?

Tôi xin thắc mắc chút xíu nữa trong thống kê của “bác cả”, cộng đi cộng lại vẫn thiếu gần 10% tổng sản phẩm quốc gia. Vậy 10% còn lại này là do ai tạo nên?

Hay trong cơ cấu nền kinh tế xét trên sở hữu ngoài nhà nước, tập thể, hộ gia đình, tư nhân, tư bản nước ngoài còn ai khác?

Vậy ai khác ấy là ai có góp phần cho kinh tế thị trường đi đúng định hướng XHCN không?

Quả thật tôi rất lo ngại về sự bí ẩn của 10% này mà nghi nghi có thể là 20 tỷ đôla người Việt ở nước ngoài gửi về chăng?

Nhưng, tôi thở phào nhẹ nhõm sau khi đọc các lý luận kiên định của “bác cả” là “bác cả” vẫn rất khách quan thẳng thắn với thực tế đất nước hiện nay, mặc dù đất nước đang đi theo kinh tế thị trường định hướng XHCN, và về chính trị kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, khi bác thừa nhận:

“Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế; môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.

Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.”

Với thực tế này, tính ưu việt của mô hình kiên định XHCN mà “bác cả” vẽ ra sẽ còn phải trải qua muôn vàn thử thách nữa mới có thể tự mãn chê các nước tư bản đang khủng hoảng, suy thoái…



THẦY DẠY MÔN CHÍNH TRỊ

TẠ DUY ANH/ TD 17-5-2021

(Nhân đọc bài của giáo sư Nguyễn Phú Trọng, tự dưng nhớ đến các thầy dạy môn chính trị. Đoạn dưới đây trích từ tự truyện DƯỚI BÀN TAY VÔ HÌNH-chưa xuất bản)

… Môn học chính trị ban đầu dự định một tháng, nhưng tự động kéo dài hai tháng, sáu tháng, rồi có nguy cơ không biết đến bao giờ thì dừng. Mãi sau này chúng tôi mới biết, hóa ra lớp mà chúng tôi theo học, thuộc loại chuyên môn mới toanh, chưa có giáo trình. Tức là chưa ở đâu có các môn học mà chúng tôi sẽ học. Vì thế, môn chính trị được dùng để lấp tạm vào. Nhưng hồi đó, khi thấy những giờ học chính trị kéo dài lê thê, thì đứa nào cũng phấn khởi ra mặt, vì nó cho thấy khả năng chúng tôi được đưa sang Liên Xô là rất có cơ sở.

Nếu không đi Tây thì học chính trị nhiều thế để làm gì.

Mà đâu chỉ có mình thầy Trương lên lớp môn này. Hàng chục người khác cũng tham gia giảng dạy, với cùng một nội dung mà kể cả 4000 năm sau vẫn còn nguyên giá trị-như các thầy nói. Nhiều giáo viên vốn là những công nhân phổ thông, mới học đến biết viết, nhưng vì có thành tích trong việc nhặt tạp chất khỏi đất đá dùng để đắp đập nên sau đó được bồi dưỡng để thành cán bộ. Họ cứ bê nguyên xi lời giảng của một ông bà công nhân được nâng cấp thành cán bộ tiền bối nào đó bắt chúng tôi ghi chép. Thậm chí bất cứ ai từ công ty chả có việc gì bèn tạt xuống thăm, cũng chớp cơ hội tranh thủ phô trương vốn kiến thức chính trị to lớn, uyên bác của mình.

Hình như ở đất nước này bất cứ ai cũng có thể là giáo viên môn chính trị, nhất là những người vô công rồi nghề! Ngay thầy giáo chuyên về hoá của những lớp mà học sinh chưa có bằng tốt nghiệp cấp ba, cũng tạt ngang nói về “Ba dòng thác cách mạng”, về “cá lớn nuốt cá bé” là bản chất của bọn tư bản thối tha. Là sự ưu việt hiển nhiên của Chủ nghĩa xã hội v.v…

Rồi nhiều hôm, vì không tìm đâu ra giáo viên, nhà trường mời cả ông bảo vệ tên là Thứ lên lớp. Cụ Thứ quê Hải Dương, sống hiền lành nhưng cực kỳ máy móc. Ngày ngày cụ trông coi mấy cái xe ben bị hỏng vứt chỏng trơ ngay lối vào trường, chờ đất đồi lấp dần. Ngoài ra cụ có nghĩa vụ chăm sóc đám cây hoa trồng ngoài hiên của phòng giáo vụ. Vì chả có việc gì nên cụ nuôi thêm con lợn, vài con gà để có cớ lặn lội đào bới dưới suối suốt ngày. Mỗi khi có việc gì người ta mới cần, cụ ăn mặc tươm tất để giữ trật tự.

Thế mà nào ngờ có ngày cụ được làm thầy giáo, giảng đúng cái thứ mà cụ khoái khẩu. Mỗi khi nói cụ thường ề à, xuýt xoa rất sốt ruột, cứ chữ N thành chữ L theo đúng thổ ngữ Hải Dương. Nhưng cụ cũng phán như thần về đấu tranh giai cấp. Mặc dù ăn uống vô cùng kham khổ, thường chỉ nấu nửa bò (vỏ hộp sữa đặc, loại 400g) gạo với một ít cá khô rồi ngồi úp mặt vào tường ăn vì sợ có người nhìn thấy, nhưng cụ vẫn khuyên chúng tôi chớ có ăn phải bả vật chất, phồn vinh giả tạo của chủ nghĩa tư bản. “Bọn tư bản chúng ló thối tha, tàn bạo “nắm”, chớ có thấy “chúng ló lói” hay “lói” tốt mà “nại” dại dột tin chúng “ló”. “Thối lát nắm!”

Về sau này chúng tôi mới biết, hình như cụ bị kỷ luật vì liên quan đến chuyện gái gú gì đó, khai trừ treo về đảng nên lãnh đạo công ty tống cụ xuống cái nơi khỉ ho cò gáy với nhiệm vụ cai quản chúng tôi, coi như một hình thức kỉ luật có ưu ái, chờ đủ thời gian kết nạp lại rồi giải quyết chính sách.

Cùng với cụ Thứ có thêm ông Bách, làm công tác công đoàn và chú Hệ, phụ trách thanh niên thỉnh thoảng cũng đá gà đá vịt tí chuyên chính. Ông Bách nhà ở Chương Mỹ, Hà Tây, cùng quê với tôi, trưởng thành từ một anh thợ máy gì đó, chuyên áo bốn túi cáu bẩn vì hàng tháng không giặt.

Ông Bách ăn nói ề à, cứ thứ bảy là lọc cọc đạp chiếc xe ghẻ lở toàn thân qua sáu chục km về mang theo sắn khô để vợ ở nhà độn cơm hay nuôi lợn. Gặp chúng tôi ông chỉ cười hề hề, mặt bủng beo vì bệnh gan. Còn chú Hệ thì nghe nói cũng lăng nhăng trai gái mà bị đưa khỏi công trường để “cách ly”. Chú phụ trách luôn cái đài nghe đĩa to như cái thùng của Liên Xô, thỉnh thoảng tiếp vào hệ thống loa của trường chương trình thanh niên. Ngoài ra đó cũng là phương tiện để nhà trường thông báo đến tất cả học sinh những quy định mới hay sự kiện nào đó.

Chú Hệ cũng hay lồng vào những bài xã luận do chú viết, nói về lý tưởng của thanh niên, với dày đặc khẩu hiệu. Cái loa chỉ tắt hẳn khi một lần chú Hệ về quê, nhờ tôi “tiếp sóng” giúp chú và tôi đã cắm nhầm dây loa vào ổ cắm điện khiến gây tiếng nổ lớn. Sau đó chiếc đài bị cháy và tôi phải sửa đến đúng 6 tháng mới xong. Sau khi nhận bàn giao từ tôi, thầy hiệu trưởng chuyển chiếc đài lên phòng giáo vụ để thỉnh thoảng nghe đĩa và từ đó chúng tôi không thấy nó đâu nữa.

Hầu như tuần nào chúng tôi cũng có sinh hoạt, hò hát, làm tự kiểm điểm do chú Hệ chủ trì. Học thì không, kiến thức chuyên môn chưa có tí ti nhưng khuyết điểm thì đứa nào cũng đầy mình. Có đứa hôn gái, không kìm được, tinh trùng xuất ra, bị bắt gặp quả tang moi quần còn ướt, cũng phải làm kiểm điểm. Có đứa hát nhạc vàng i ỉ câu: “Lâu lắm xa rồi mình chẳng gặp nhau” cũng làm kiểm điểm. Có đứa nửa đêm đói quá nhóm lửa luộc sắn, cũng kiểm điểm. Kỳ cục hơn cả là có đứa chiều thứ bảy bạn trai mang xe đạp đến đón về, cũng phải kiểm điểm. Con bé làm kiểm điểm xong, khóc tức tưởi bảo: “Chúng tôi đèo nhau chứ có đéo nhau đâu hu hu”. Nghĩa là mọi thứ y như thật. Chỉ riêng việc học của chúng tôi là cứ phải chờ thầy. Giai điệu chờ thầy vang lên trong nỗi vui mừng của những đứa ngại học suốt cả năm đầu tiên, tiếp sang năm thứ hai. Không biết ba lớp kia thế nào, riêng lớp Thí nghiệm “gồm toàn con ông cháu cha” thì ngày này qua ngày khác chỉ cứ rồng rắn kéo nhau lên lớp lại ngồi chờ thầy.

Có hôm muốn thay đổi không khí, thầy hiệu trưởng tên là Chương (chứ không phải ông Trương chính trị) lấp chỗ trống bằng một bài giảng y như những gì chúng tôi đã nghe nhưng có thêm sự đùa cợt khiến không khí rôm rả đôi phần. Chẳng hạn khi nói về lý tưởng thì thầy nháy mắt như trêu gái bảo: “Đừng có thiếu lờ tờ nhé”. Hoặc, giá trị thặng dư, ký hiệu bằng chữ m, thì thầy gọi là em. Có em là có tất. Có hai em (200% lợi nhuận) là bán cha mẹ, có ba em là sẵn sàng thắt cổ, có bảy em là nhảy vào lửa…Em, ai chả thích hích hích…Thầy cười tít mắt. Hôm nào không đến được thì thầy sai người đưa lên cho chúng tôi mấy câu hỏi về làm chủ tập thể để cả lớp thảo luận, cốt sao chúng tôi không nhàn cư vi bất thiện nghịch bậy là được. Còn thầy thì tranh thủ ngồi giạng chân ra, nạo sắn phơi đem bán. Có hôm chim thầy thò cả ra ngoài nhưng vẫn nói ra rả về tật xấu của chủ nghĩa tư bản nếu có mặt chúng tôi ở đó.

Sau khi chúng tôi ra trường, thầy Chương được điều về tổng công ty. Thầy có chân trong đoàn cán bộ nòng cốt của Công trường sang Liên Xô, vừa học tập, vừa tham quan nhưng việc chính là mua hàng mang về. Nào là dây may-so, bàn là điện, quạt tai voi, chậu giặt bằng nhôm…Thấy mọi người kể lại rằng, cả đoàn cán bộ ưu tú rồng rắn nhau đi càn quét các cửa hàng mậu dịch ở Mátxcơva. Ông nào cũng tay xách, nách mang, lưng đeo, đầu đội cả chồng chậu giặt, như những kẻ làm nghề bốc vác thuê. Chả hiểu thầy Chương của chúng tôi tiện tay “cầm nhầm” cái gì đó và bị phát hiện, thế là thầy phải về giữa chừng. Từ đấy nghe bảo thầy ít nói về đạo đức cách mạng và chúng tôi cũng không biết thầy bị những dòng thác cuốn về đâu?

Tạ Duy Anh

SỰ THUA ... VÀ LỐI THOÁT

NGUYỄN NGỌC CHU/ TD 11-5-2021

1. THUA HƠN 100 NƯỚC VỀ THU NHẬP GDP ĐẦU NGƯỜI

Theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) năm 2020, thu nhập GDP bình quân đầu người tính theo sức mua tương tương của Việt Nam là 10.755 USD, đứng thứ 106 trên tổng số 186 nước được xếp hạng. Trong các nước ASEAN thì Singapore thứ 2 (96.603 USD,), Brunei thứ 8 (61.816 USD,), Malaysia thứ 51 (27.287 USD,), Thái Lan thứ 70 (18.073 USD,), Indonesia thứ 95 (12.345 USD,). Ở bảng xếp hạng này, Việt Nam thua 105 nước.

Theo đánh giá Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2019, thu nhập GDP bình quân đầu người tính theo sức mua tương tương của Việt Nam là 8.374 USD, đứng thứ 120 trên tổng số 187 nước được xếp hạng. Trong các nước ASEAN thì Singapore thứ 2 (101.376 USD,), Brunei thứ 9 (64.673 USD,) Malaysia thứ 50 (29.526 USD,), Thái Lan thứ 69 (19.228 USD,), Indonesia thứ 103 (12.302 USD,), Philippines thứ 115 (9.277 USD,). Ở bảng xếp hạng này, Việt Nam thua 119 nước.

Đây là đánh giá của 2 tổ chức tài chính lớn nhất và có uy tín nhất thế giới. Dù chỉ mang tính tương đối nhưng cho chúng ta thấy được Việt Nam đang ở vị trí nào trên bản xếp hạng thế giới về thu nhập GDP đầu người.

2. SỰ THUA LO LẮNG NHẤT

Nhưng sự thua về thu nhập GDP theo đầu người chưa phải là điều lo lắng nhất của Việt Nam. Sự thua lo lắng nhất của Việt Nam là không sở hữu công nghệ nguồn và không có nền công nghiệp tương ứng để tự sản xuất được sản phẩm của chính mình.

Hãy nhìn vào các sản phẩm điện thoại di động mang nhãn hiệu Việt Nam. Tất cả các linh kiện đều của nước ngoài. Đến vỏ bao điện thoại cũng đặt hàng từ nước ngoài. Sự phá sản của các hãng điện thoại mang nhãn hiệu Việt Nam là điều nhìn thấy trước.

Các sản phẩm khác cũng chịu chung số phận tương tự. Dù đó là ô tô, máy bay không người lái, xe máy điện, hay máy tính điện tử – không có linh kiện nào Việt Nam tự sản xuất được. Vì thế các sản phẩm của Việt Nam lắp ráp chỉ là công nghệ hạng 2 hoặc kém hơn nữa.

Kêu gọi đầu tư nước ngoài, nhất là các hãng công nghệ lớn, không chỉ để tăng thu nhập GDP theo đầu người, mà quan trọng hơn là để bắt chước mà sản xuất ra sản phẩm của chính nước mình. Các hãng lớn như Sonny hay Samsung đã vào Việt Nam hơn 30 năm, nhưng Việt Nam không bắt chước được một chút nào về công nghệ. Đó là sự khác biệt một trời một vực giữa Hàn Quốc và Trung Quốc so với Việt Nam.

Thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, khi Hàn Quốc kêu gọi đầu tư nước ngoài là để học hỏi công nghệ của nước ngoài. Rồi sau đó Hàn Quốc có được những hãng khổng lồ về công nghệ. Như Samsung hiện nay đang đi tiên phong trong nhiều lĩnh vực, đồng thời cạnh tranh ngang ngửa với các hãng công nghệ hàng đầu thế giới như Apple của Mỹ hay Sonny của Nhật Bản.

Còn Trung Quốc thì đang vươn lên cạnh tranh vị trị số 1 thế giới với Mỹ, dẫu rằng 60 năm trước Trung Quốc thuộc vào nhóm các nước có thu nhập đói nghèo nhất thế giới. Không nhìn về dân số Trung Quốc, mà hãy nhìn về cách Trung Quốc học hỏi và đánh cắp công nghệ của các hãng hàng đầu thế giới. Chỉ lấy thí dụ về tên lửa đạn đạo, máy bay chiến đấu, hàng không mẫu hạm – mọi thứ Trung Quốc có được hiện nay đều từ sao chép và đánh cắp sản phẩm của Liên Xô, Nga và Mỹ.

Tại sao Việt Nam lại không thể làm được một phần như Hàn Quốc và Trung Quốc?

Việt Nam đã có thể làm được một phẩn như Hàn Quốc và Trung Quốc nếu biết tự đổi mới căn bản.

Trung Quốc cũng chưa đổi mới căn bản. Nhưng Trung Quốc vẫn đạt được những thành tựu kinh thiên động địa. Ở điểm này, các lãnh đạo Trung Quốc, dù đó là Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình hay Tập Cận Bình – đều là học trò xuất sắc của Stalin: độc tài nhưng sáng trí.

Nói sự thua của Việt Nam khi không sở hữu công nghệ nguồn và không có nền công nghiệp tương ứng để tự sản xuất được sản phẩm của chính mình – là sự thua lo lắng nhất – là bởi vì nếu thiếu nó, Việt nam không bao giờ trở thành cường quốc, trong khi phải sống cạnh một siêu cường với dã tâm mở rộng lãnh thổ không giới hạn. Ai có thể không lo lắng vì sự thua này?

LỐI THOÁT KHỎI SỰ THUA

Nước nào cũng vậy, không riêng gì Việt Nam, thu nhập GDP đầu người sẽ được cải thiện theo thời gian. Đó là theo quy luật tiến bộ nhân loại. Còn Việt Nam muốn bứt phá nhanh thứ hạng thì cần phải thay đổi mạnh mẽ.

Cựu Tổng thống Nga Medvedev (hay ai đó?) đã từng đề cập: “Thời kỳ quá độ là con đường dài nhất đi từ Tư bản Chủ nghĩa đến Tư bản Chủ nghĩa”. Nước Nga phải mất 74 năm theo con đường quá độ – từ năm 1917 đến năm 1991 – để quay trở về con đường Tư bản Chủ nghĩa như trước cuộc chính biến ngày 7/11/1917.

Điều mà Việt nam gọi là đổi mới từ Đại hội VI tháng 12/1986 không có gì khác – là cho người dân tự sản xuất trên đất đai được thuê, cho người dân được tự lập công ty tư nhân để kinh doanh sản xuất, công ty nhà nước thì tiến hành tư nhân hoá (cổ phần hoá) một phần. Nói là đổi mới, nhưng thực chất là quay trở về con đường cũ trước tháng 9/1945. Nhưng chỉ quay lại theo một phần mà không phải là theo tất cả. Việt Nam vẫn đang trên con đường quá độ. Việt Nam chưa đến được Xã hội Chủ nghĩa. Việt Nam chưa đến được Tư bản Chủ nghĩa.

Không ngừng thay đổi là quy luật phát triển của vũ trụ. Chậm thay đổi tỷ lệ thuận với chậm phát triển. 76 năm qua kể từ tháng 9/1945, quản trị quốc gia của Việt Nam không có nhiều thay đổi và chưa có những thay đổi bước ngoặt. Như trên đã viện dẫn, giai đoạn gọi là đổi mới sau tháng 12/1986 cho đến hiện tại – thực chất là quay trở lại đi theo đường cũ. Về mặt tiến bộ nhân loại thì không phải là mới.

Lối thoát khỏi sự thua lo lắng nhất là đổi mới căn bản. Muốn đổi mới thì phải có người mới. Khuôn mặt cũ không mang lại đổi mới.

SAU 'THU NGÂN SÁCH TĂNG 0,3%' SẼ CÓ BAO NHIÊU... ĐẠI ÁN ?

TRÂN VĂN/ Blog VOA/ TD 15-5-2021

Vừa có vài thông tin trả lời cho thắc mắc: Tại sao hàng trăm ngàn doanh nghiệp phải rời thị trường (trung bình, mỗi ngày, số lượng doanh nghiệp rời thị trường lên tới 430). Số doanh nghiệp lớn (qui mô vốn ở mức trên 100 tỉ) rời thị trường tăng 49,1% so với cùng kỳ năm ngoái, số lượng doanh nghiệp đang chờ hoàn tất thủ tục giải thể tăng 17,5% so với cùng kỳ năm ngoái, chưa kể khoảng 87% doanh nghiệp (bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp hoạt động bằng vốn đầu tư của ngoại quốc – FDI) xác nhận, dịch COVID-19 tác động tiêu cực trên diện rộng lên toàn bộ hoạt động nên họ gặp rất nhiều khó khăn (1) nhưng… TỔNG THU NGÂN SÁCH CỦA QUÝ MỘT NĂM NAY VẪN TĂNG 0,3% SO VỚI CÙNG KỲ NĂM NGOÁI (2)

***

Bộ Tài chính Việt Nam mới cung cấp một phần câu trả lời cho thắc mắc vừa kể. Đó là trong quý một năm nay, “ta” vừa đem công sản ra bán dưới mỹ danh… thoái vốn nhà nước ở chín doanh nghiệp thuộc Tổng Công ty Cao su (VRG), ở Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội (Viettel), ở Nhà Xuất bản Giáo dục (NXB Giáo dục) Việt Nam, ở Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam (VNPT), ở Tổng Công ty Thái Sơn (doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc Phòng như Viettel) và ở… BA DOANH NGHIỆP THUỘC QUYẾT ĐỊNH SỐ 908/QĐ-TTg CỦA THỦ TƯỚNG.

Có một điểm đáng chú ý: Tuy vốn nhà nước là công sản. Công sản thuộc sở hữu toàn dân, chính phủ chỉ là đối tượng được toàn dân ủy nhiệm để quản lý công sản, điều hành việc sử dụng công sản sao cho có lợi nhất đối với quốc gia, dân tộc nhưng chính phủ chỉ loan báo khi đã bán chín doanh nghiệp của VGR, Viettel, NXB Giáo dục, VNPT, Tổng Công ty Thái Sơn thu về tổng cộng 2.081, 3 tỉ và bán BA DOANH NGHIỆP THUỘC QUYẾT ĐỊNH SỐ 908/QĐ-TTg CỦA THỦ TƯỚNG thu về tổng cộng 84,1 tỉ đồng. Chính phủ không thèm thông báo những chi tiết liên quan tới chuyển nhượng, chuyển nhượng một phần hay toàn bộ, chuyển nhượng cho ai? Có tổ chức đấu giá không? Giữa giá thẩm định và giá chuyển nhượng có khác biệt không, thấp hơn hay cao hơn, vì sao?..

Thay mặt chính phủ, Bộ Tài chính loan báo, ngoài việc đã bán những doanh nghiệp nhà nước (DNNN) sừng sỏ như liệt kê, quý vừa qua chính phủ còn bán BA DOANH NGHIỆP THUỘC QUYẾT ĐỊNH SỐ 908/QĐ-TTg CỦA THỦ TƯỚNG. Nếu chịu khó tìm kiếm sẽ thấy Quyết định số 908/QĐ-TTg được ban hành hồi giữa năm ngoái (4). Quyết định này đính kèm tới ba phụ lục – chính xác là ba danh mục cụ thể nhằm phân loại những DNNN mà chính phủ quyết định bán (Phụ lục một là những DNNN mà chính phủ sẽ bán trong năm 2020. Phu lục hai là những DNNN phải soạn thảo kế hoạch cụ thể để mang ra bán. Phụ lục là những DNNN phải tạm ngưng bán trong năm 2020 để xem xét lại trước khi đem ra bán trong giai đoạn từ 2021 – 2025).

Trong Phụ lục một có 120 DNNN của một số bộ và nhiều tỉnh, thành phố được xác định là phải bán trong năm 2020, bốn DNNN nếu không bán được thì cuối năm 2020 phải giao cho SCIC (Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước) quyết định, 14 DNNN phải sớm giao cho SCIC đứng bán. BA DOANH NGHIỆP THUỘC QUYẾT ĐỊNH SỐ 908/QĐ-TTg CỦA THỦ TƯỚNG là những DNNN nào trong Phụ lục 1 hay thậm chí là những DNNN trong Phụ lục 2, hoặc Phụ lục 3? Vì sao chính phủ – đối tượng chỉ được ủy nhiệm quản lý tài sản thuộc sở hữu toàn dân và thay toàn dân điều hành – sử dụng tài sản lại xem thường chủ của mình đến như vậy?

***

Khi DNNN có thể khai thác tận tình kinh tế thị trường theo định hướng XHCN để vắt kiệt nội lực quốc gia nhưng chỉ tạo thêm nợ, giải tư (tư nhân hóa), hay cổ phần hóa DNNN, hay thoái vốn, hay mang công sản ra bán là cần thiết. Tuy nhiên thay vì cả đảng, lẫn quốc hội, nhà nước, chính phủ cùng tự kiểm, thừa nhận chủ trương, chính sách liên quan đến DNNN đã gây thiệt hại đến mức nào, sẽ bán công sản để khắc phục hậu quả ra sao, vớt vát lại được bao nhiêu thì hệ thống chính trị, hệ thống công quyền lại dùng tiền bán công sản như một bằng chứng để khoe rằng các chính sách phòng – chống dịch, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân ứng phó với đại dịch COVID-19 đã giúp… thu ngân sách của quý một tăng 0,3% so với cùng kỳ năm ngoái!

Vì sao đã có rất nhiều scandal liên quan đến mua – bán tài sản thuộc sở hữu toàn dân nhưng hệ thống chính trị, hệ thống công quyền vẫn tiếp tục bán công sản không công khai, thiếu minh bạch, chẳng thèm bận tâm đến toàn dân – chủ sở hữu thật sự của những khối tài sản này nghĩ gì, muốn gì? Sau vô số vụ án đã xét xử xong hoặc đang điều tra và vô số đề nghị, khuyến cáo (5), hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam không có khả năng rút kinh nghiệm, lắng nghe, không muốn sửa sai hay xem đó là… cơ hội – đến thời điểm nào đó sẽ chỉ đạo biến một số vụ mua bán công sản thành… đại án để chứng tỏ… chống tham nhũng không có vùng cấm, không chấp nhận ngoại lệ?

Chú thích

(1) https://www.thesaigontimes.vn/td/315958/moi-ngay-co-gan-430-doanh-nghiep-dong-cua.html

(2) http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/nhip-song-tai-chinh/2021-03-29/thu-ngan-sach-quy-i-2021-dat-hon-403-nghin-ty-dong-101697.aspx

(3) https://www.thesaigontimes.vn/316302/ngan-sach-thu-hang-ngan-ti-dong-nho-thoai-von-cac-doanh-nghiep-thuoc-viettel-vnpt-vrg.html

(4) https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-quy-pham-phap-luat/quyet-dinh-so-908qd-ttg-ngay-2962020-cua-thu-tuong-chinh-phu-phe-duyet-danh-muc-doanh-nghiep-co-von-nha-nuoc-thuc-hien-thoai-von-6590

(5) https://plo.vn/thoi-su/cac-dai-gia-nham-vao-dat-khi-co-phan-hoa-doanh-nghiep-nha-nuoc-951850.html

'ĐỪNG ĐỂ CHUYỆN ĐÃ RỒI'

VŨ VINH PHÚ/ Leader/ BVN 17-5-2021


Chuyên gia kinh tế Vũ Vinh Phú,
nguyên Phó giám đốc Sở thương mại Hà Nội. Ảnh: Dân Việt.

Trong quá trình đổi mới phát triển kinh tế hơn 30 năm qua, ở các địa phương trong toàn quốc xuất hiện nhiều gương người tốt việc tốt, nhiều câu chuyện về quản lý kinh tế của các ngành các cấp, hiệu quả, đem lại sự phồn vinh cho đất nước và nâng cao đời sống của nhân dân.

Mục tiêu phấn đấu của Nghị quyết 13 đã nêu rõ: “Đưa Việt Nam trở thành một đất nước hùng cường, thịnh vượng, phát triển kinh tế ở trình độ cao, giai đoạn 2030 – 2045".

Tuy nhiên, nghiêm túc mà đánh giá trên toàn quốc vẫn còn xảy ra, không phải là cá biệt, những hiện tượng, hành động, việc làm của các tổ chức cá nhân làm hại đến tiến trình đi lên của đất nước, gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng, không thể chấp nhận được.

Bài viết này chỉ đề cập đến một số vụ việc ở 5 ngành then chốt của nền kinh tế Việt Nam gồm tài nguyên môi trường, nông nghiệp, giao thông vận tải, thương mại và y tế.

Thứ nhất, về lĩnh vực tài nguyên môi trường, có những thông tin về vấn đề môi trường nước ở Việt Nam hiện nay rất đáng báo động và lo ngại. Đó là 70% nước của các con sông và ao hồ ở Việt Nam không thể sử dụng làm nước sinh hoạt.

Chúng ta đều biết nước rất cần cho sự sống, phát triển kinh tế của các ngành sản xuất,… Mặc dù nước ta là nước có nguồn tài nguyên nước vào dạng trung bình của thế giới, nhờ vào khí hậu nhiệt đới gió mùa, tuy nhiên phải khẳng định rằng, nước và tài nguyên nước không phải là vô tận, nếu chúng ta không biết chắt chiu, giữ gìn và bảo vệ cho chính đất nước mình.

Câu chuyện của các dòng sông thuộc vùng Đồng bằng Bắc Bộ có liên quan đến nhiều tỉnh thành ở miền Bắc đang bị ô nhiễm tương đối nghiêm trọng. Chúng ta nhớ lại đã có rất nhiều cuộc họp để bàn cách xử lý nhằm giảm thiểu sự ô nhiễm của các con sông này.

Tuy nhiên đến cuối năm 2020, theo phóng sự điều tra của các phóng viên và sự phản ánh của nhân dân thì hình như tình hình ô nhiễm của các con sông này lại càng nghiêm trọng hơn và chưa hề khắc phục một cách cơ bản.

Ví dụ trên cho ta thấy một hình ảnh điển hình của công tác giữ gìn tài nguyên nước và môi trường sống của nước ta hiện nay. Vậy ngành tài nguyên và môi trường đã thể hiện trách nhiệm quản lý nhà nước và tham mưu cho Chính phủ trong lĩnh vực này như thế nào trong việc giữ gìn môi trường, trong đó có môi trường nước. Cần phải xem lại ngay sự vào cuộc của các địa phương, bộ ngành liên quan về các con sông này như thế nào.

Nguyên nhân có lẽ ai cũng biết từ lâu, đó là sự quá tải của nước thải, rác thải sinh hoạt từ các khu vực dân cư thuộc lưu vực các con sông và những nguồn nước thải hầu như không được xử lý của các cơ sở sản xuất: dệt nhuộm, hóa chất, chế biến thực phẩm... đã đổ ra những con sông này từ nhiều năm qua mà họ chỉ phải bị xử phạt vài chục triệu đồng, thậm chí vài trăm triệu đồng, song sau một thời gian đâu lại vào đấy, vì lợi nhuận sản xuất kinh doanh của họ thu được gấp hàng chục lần tiền phạt.

Chính phủ đã chỉ đạo “Không đánh đổi sự phát triển kinh tế bằng mọi giá gây hậu quả cho môi trường một cách lâu dài”.

Chính vì vậy, câu chuyện về môi trường nước cũng như không khí, tiếng ồn, các loại hóa chất độc hại, phương tiện vận tải gây ô nhiễm... vẫn chưa có hồi kết nếu không có những chính sách đúng đắn, đầu tư đúng mức để tiến tới hạn chế thấp nhất tình trạng ô nhiễm này.

Bởi lẽ, đất nước đã bị ô nhiễm thì chúng ta có hàng tỷ đô la cũng không lấy lại được môi trường như trước đây.

Kinh nghiệm như các nước Nhật Bản, Trung Quốc... do tăng trưởng nóng, ít chú ý đến môi trường, họ đã đang và sẽ tiếp tục phải giải quyết hậu quả là một bài học quý báu cho Việt Nam.

Thứ hai, về lĩnh vực nông nghiệp, trong đó đáng chú ý là lâm nghiệp. Chúng ta đều biết, không ngày nào, tuần nào, tháng nào, báo chí không đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng về việc lâm tặc phá hoại rừng hoặc một số bà con không hiểu biết phá rừng để sản xuất. Có những tỉnh hàng năm có hàng chục vụ phá rừng.

Có một bình luận: “Rừng ở Tây nguyên đã cơ bản phá xong”! Nếu đúng như vậy thì quả là đau xót! Chúng ta đều biết bảo vệ rừng chính là bảo vệ tài nguyên thiên nhiên đã có hàng trăm hàng nghìn năm nay, bảo vệ rừng là bảo vệ nguồn nước, bầu không khí trong lành cho đất nước, cho xã hội.

Tuy nhiên, vì mưu sinh và lợi nhuận mà một bộ phận không nhỏ đã xâm phạm đến nguồn tài nguyên quý giá này một cách không thương tiếc. Hàng năm, hàng trăm ha rừng quý hiếm ở rất nhiều các tỉnh thành phố bị tàn phá nhưng chưa ngăn chặn triệt để.

Điều trớ trêu mà mọi người đều biết là những vụ phá hoại rừng có quy mô rất lớn, chỉ cách trạm kiểm lâm hoặc trụ sở chính quyền địa phương một vài km, mà sao các cơ quan quản lý và chính quyền không phát hiện sớm để ngăn chặn.

Điều quan tâm hơn nữa là nhiều vụ phá rừng hàng trăm mét khối gỗ nhưng chỉ thấy mấy đồng chí kiểm lâm tới đo đạc chụp ảnh, lập biên bản, coi như hoàn thành nhiệm vụ. Rất ít thấy được hình ảnh kiểm lâm phát hiện sớm việc phá hoại rừng của lâm tặc.

Chính vì vậy rừng của chúng ta, lá phổi của đất nước, khi mà Chính phủ đã có lệnh đóng cửa rừng từ một vài năm gần đây, ngày càng bị xâm hại nghiêm trọng, đó là chưa kể đến hàng nghìn ha rừng bị san lấp làm thủy điện, chưa được trồng lại đầy đủ theo quy định. Điều cần đặc biệt quan tâm là rừng tự nhiên có tác dụng cao hơn hẳn rừng trồng lại khi chúng ta đã phá bỏ rừng tự nhiên bằng nhiều hình thức.

Đã đến lúc phải xem lại hiệu quả của việc sử dụng lực lượng kiểm lâm ở các địa phương, xem lại các chính sách bảo vệ rừng và lấy dân làm gốc để chăm sóc, khai thác có kế hoạch và phát hiện kịp thời các vụ việc vi phạm.

Thực tế vẫn có một vài địa phương giữ gìn rừng rất tốt, những bài học này, ngành nông nghiệp phải nhân rộng ra cả nước để cùng học tập giữ gìn bảo vệ rừng của Việt Nam, góp phần cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Kỷ cương phép nước phải được nghiêm hơn, rất ít vụ phá rừng bị xử lý hình sự, những đối tượng đó không sợ sự răn đe của pháp luật do những khung hình phạt đó không đủ độ chín nên vẫn xảy ra tình trạng tái phạm.

Tình hình trên cho thấy ngành nông nghiệp rất cần thể hiện trách nhiệm quản lý và vai trò tham mưu cho Chính phủ về vấn đề lớn này; cần phải thay đổi cách thức và tư duy quản lý trong 5 - 10 năm tới mới có thể bảo vệ tài nguyên rừng quý giá.

Thứ ba, về lĩnh vực giao thông vận tải, một số năm gần đây, nhiều hình ảnh của những con đường hàng chục nghìn tỷ được Nhà nước đầu tư cho các địa phương bằng các hình thức như BOT… nhưng mới sử dụng được vài tháng hoặc một vài năm đã xuống cấp, phải bỏ tiền ra để sửa chữa lại.

Chúng ta đều biết ngành giao thông vận tải là một ngành sử dụng nguồn kinh phí rất lớn hàng năm của đất nước, có vai trò quan trọng trong việc tạo lập một mạng lưới giao thông thuận tiện, an toàn và bền vững. Giảm bớt các chi phí vận tải logistics, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và nền kinh tế Việt Nam.

Tuy nhiên nếu để tình trạng đường mới làm đã hỏng, không ai chịu trách nhiệm cụ thể đến nơi đến chốn thì thật là nguy hiểm cho hạ tầng giao thông của đất nước khi mà lưu lượng vận chuyển hàng hóa ngày càng tăng lên.

Kinh nghiệm ở các nước cho thấy rõ, khâu giám sát thiết kế thi công đầu tư và bảo dưỡng đường là vô cùng quan trọng. Họ hầu như không để câu chuyện đã rồi mới đi khắc phục, sửa chữa đường và giải quyết hậu quả.

Từng km đường phải được giám sát, nghiệm thu chặt chẽ hàng ngày, hàng giờ trên công trường, vai trò của người giám sát thi công là quan trọng nhất và là cao nhất, kể cả quyền lợi và nghĩa vụ trách nhiệm.

Ở Việt Nam hình như khi có vụ việc xảy ra thì ba ta cùng chịu. Chúng ta nhớ lại cách đây hơn 50 năm, nước bạn Cuba giúp chúng ta khảo sát và thi công con đường Hà Nội - Hòa Bình, sau 50 năm đường này mới phải nâng cấp sửa chữa. Đó là một ví dụ cho chúng ta thấy thời kì đó sao khác với thời kì làm đường bây giờ thế?

Con đường “vừa đi vừa làm thơ nhạc” sau 2 năm sử dụng đã bắt đầu phải sửa chữa, quả là một vấn đề đáng lo ngại cho việc thi công các con đường trên đất nước mà trong thời gian sắp tới, Nhà nước, doanh nghiệp còn tiếp tục đầu tư nhiều hơn nữa.

Ngành giao thông vận tải và các ngành có liên quan cần vào cuộc quyết liệt để giải quyết vấn đề hệ trọng này; cần có đích thời gian nhất định để hạn chế tới mức thấp nhất tỷ lệ đường vừa làm, vừa mới đi đã bị hư hỏng, xuống cấp nhanh chóng.

Thứ tư, về hai lĩnh vực thương mại và y tế. Cách đây một số tháng, dư luận lên tiếng về vụ pate Minh Chay của cơ sở sản xuất ở Đông Anh Hà Nội bán hàng trên toàn quốc với 12.000 khách hàng gần xa. Một số khách hàng đã bị ngộ độc mà chi phí cho mỗi đợt điều trị do ngộ độc pate lên tới 70 – 80 triệu đồng/người, bằng thuốc nhập khẩu ở nước ngoài. Gần đây lại xuất hiện nhiều vụ ngộ độc tập thể của công nhân, học sinh bán trú các trường học ở nhiều địa phương…

Đây là những hồi chuông cảnh tỉnh và báo động đỏ cho vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm ở nước ta khi mà luật an toàn thực phẩm và bảo vệ người tiêu dùng đã có hiệu lực một số năm nay.

Nhắc lại câu chuyện “tiền kiểm và hậu kiểm” mà ngành y tế và công thương cho phép các đơn vị sản xuất hàng hóa nội địa được tự công bố chất lượng và lưu hành trên thị trường và sẽ được hậu kiểm của các cơ quan quản lý thị trường, y tế sau khi đã tung hàng ra bán.

Nói đơn giản là cái cốc, cái thìa, cái bát làm theo nguyên tắc mà hai bộ cho phép như trên thì còn nghe được, nhưng những thứ vào bụng người tiêu dùng hàng ngày, nhất là những mặt hàng thiết yếu như lương thực thực phẩm, các mặt hàng chế biến, ăn uống, giải khát... thì trong thực tế chờ các cơ quan đi kiểm tra thì những mặt hàng đó đã được tiêu thụ bởi hàng nghìn, chục nghìn người dân mất rồi. Vụ pate Minh Chay vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi về câu chuyện nên tiền kiểm hay hậu kiểm.

Theo ý kiến của tôi, những mặt hàng lương thực thực phẩm thiết yếu phải được tiền kiểm từng lô hàng trước khi đưa ra thị trường (chúng ta có thể tính đến tiền kiểm bằng nhiều cách sao cho tiết kiệm nhất, ít phiền hà nhất và nhanh chóng đưa sản phẩm hàng hóa ra thị trường phục vụ).

Điều này ngành công thương, nông nghiệp, y tế và khoa học công nghệ phải tìm cách để giải bài toán này, mục tiêu là phải bảo vệ sớm, phòng bệnh sớm cho cái bụng và quan trọng là sức khỏe của nhân dân; đó cũng chính là đảm bảo cho sự an toàn và thịnh vượng của dân tộc, của đất nước.

Câu chuyện của pate Minh Chay chỉ là một trong những ví dụ điển hình của câu chuyện đã rồi mới chạy theo để xử lý, là một bài học cho công tác quản lý ăn uống, dịch vụ ở thị trường Việt Nam.

Trong khi kỷ luật sản xuất, kỷ luật thị trường, kỷ cương phép nước chưa đủ sức răn đe với người vi phạm. Thói quen làm hàng mẫu thì tốt, hàng bán các đợt sau chất lượng hay bị suy giảm, kém phẩm chất để tung ra thị trường không phải là cá biệt, là một vấn đề cần phải từng bước khắc phục triệt để. Mong rằng ngành thương mại, y tế và các ngành khác có liên quan hết sức lưu tâm vấn đề này.

Điểm qua những chuyện đã rồi của 5 ngành nói trên cho thấy, chúng ta cần theo lời khuyên của bác sỹ “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Đừng để những chuyện đã rồi xảy ra rồi mới đi khắc phục hậu quả thì đã quá muộn, làm tổn hại đến tài sản của nhà nước, đến của cải của nhân dân xã hội và vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.

Nếu có một kế hoạch cụ thể và có những giải pháp hữu hiệu thì trong 5 - 10 năm tới, những câu chuyện đã rồi gây hậu quả đáng tiếc sẽ giảm bớt đáng kể.

Góp phần làm lành mạnh các quan hệ kinh tế xã hội, từ đó người dân sẽ được thụ hưởng những thành quả của công tác quản lý nhà nước trong các lĩnh vực đã đề cập ở trên, góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ kinh tế xã hội của đất nước và các địa phương trong năm 2021 và những năm tiếp theo.

V.V.P.

Nguồn: The Leader


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét