Thứ Hai, 24 tháng 5, 2021

20210525. BẦU CỬ QUỐC HỘI Ở TRUNG QUỐC VÀ ĐÀI LOAN

 ĐIỂM BÁO MẠNG 

VỪA ĐA ĐẢNG, VỪA ĐỘC TÀI: 7 THỦ THUẬT DÀN XẾP BẦU CỬ
 CỦA TRUNG QUỐC

Y CHAN/ LUẬT KHOA/ viet-studies 20-5-2021

Rằng khác thì cũng thật là khác, mà quen thì cũng thật là quen.


Thể chế chính trị của Trung Quốc và Việt Nam lâu nay vẫn được xem như anh em song sinh: Trung Quốc thế nào thì Việt Nam thế ấy. Hệ thống bầu cử của hai nước cũng được đánh giá tương tự.

Tìm hiểu về bầu cử tại Trung Quốc vì thế có thể giúp người đọc hiểu thêm phần nào đó về tình hình tại Việt Nam.

Các vấn đề thường được nêu ra trong bầu cử tại Việt Nam đều xuất hiện ở Trung Quốc, như các thủ thuật “hiệp thương” để loại bỏ ứng viên độc lập, việc một người trong gia đình đại diện cho cả nhà bỏ phiếu, hay sự xuất hiện của các ứng viên có chức năng “bình hoa di động” làm màu cho cuộc bầu cử.

Tuy vậy, hình thức bầu cử tại hai quốc gia này vẫn có nhiều điểm khác biệt quan trọng.

Ở Trung Quốc, cơ quan tương ứng với Quốc hội là “Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc” (National People’s Congress – NPC), thường được gọi tắt là “Toàn quốc Nhân đại” hay “Nhân đại” (人大). Với khoảng 3.000 thành viên, đây được xem là cơ quan nghị viện lớn nhất thế giới. Tất cả các chức danh lãnh đạo chủ chốt nhất của nhà nước, từ chủ tịch, phó chủ tịch nước đến thủ tướng, chánh án Tòa án Tối cao, viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao… đều được cơ quan này chọn ra.

Hệ thống “nhân đại” của Trung Quốc có năm cấp từ trên xuống: trung ương -> tỉnh -> thành -> huyện -> hương.

Các đại biểu cấp trung ương, tức Quốc hội, không phải do dân trực tiếp bầu ra mà được lựa chọn gián tiếp. Họ được “nhân đại” ở cấp dưới bầu, và đại biểu cấp đó lại do cấp thấp hơn bầu ra. Chỉ có đại biểu hai cấp thấp nhất, huyện và hương, là được cử tri trực tiếp bỏ phiếu chọn.

Trong khi đó, tại Việt Nam, đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân được chọn ra bằng hình thức bầu trực tiếp.

Bầu cử – quá trình để tất cả người dân đưa ra lựa chọn – vốn thường có yếu tố bất định. Bầu cử càng dân chủ, càng tự do, càng nhiều lựa chọn, kết quả lại càng khó đoán trước. Mặt khác, mọi thể chế toàn trị đều cần đảm bảo quyền lực tập trung về tay mình.

Chính quyền Trung Quốc làm thế nào để vừa tổ chức bầu cử dân chủ – theo định nghĩa của họ, vừa đảm bảo kết quả cuối cùng theo đúng ý muốn?

Trong nghiên cứu “Playing by the rules: How local authorities engineer victory in direct congressional elections in China” được đăng trên Journal of Contemporary China năm 2017, tác giả Zhongyuan Wang, giảng viên ngành khoa học chính trị thuộc Đại học Phúc Đán, Trung Quốc, thông qua khảo sát thực địa đã chỉ ra những chiến lược và cách thức kiểm soát bầu cử của chính quyền trung ương đối với các cuộc bầu cử tại địa phương.

Người viết liệt kê một số điểm đáng chú ý trong nghiên cứu trên.

1. Ứng viên gà nhà luôn áp đảo

Theo Luật Bầu cử của Trung Quốc, gần như ai cũng có thể ra ứng cử trong các cuộc bầu cử tại địa phương.

Luật quy định các ứng viên có thể do những chính đảng giới thiệu, gọi là “tổ chức đề cử”, hoặc do nhóm nhiều hơn 10 cử tri hay đại biểu khác giới thiệu, được gọi là “liên danh đề cử”.

Các ứng viên của “tổ chức đề cử” tuyệt đại đa số đều do Đảng Cộng sản kiểm soát. Có một điểm cần đề cập là trên danh nghĩa, Trung Quốc hiện có tất cả chín đảng phái chính trị. Trên thực tế, ngoài Đảng Cộng sản nắm quyền tuyệt đối, tám đảng còn lại đóng vai trò như các tổ chức mặt trận, phối hợp với chính quyền thực thi các chính sách được ban ra. Vì vậy, các ứng viên do tổ chức đề cử, bất kể là đảng viên nơi đâu, về bản chất đều là người của chính quyền.

“Liên danh đề cử” là con đường duy nhất khả dĩ để các ứng viên độc lập tham gia. Tuy nhiên, chính quyền cũng kiểm soát phần lớn cuộc chơi, biến con đường này thành một cái ngõ hẹp.

Với yêu cầu chỉ cần 10 người đề cử, đảng cầm quyền dễ dàng tạo ra những ứng viên độc lập trên danh nghĩa. Trong nhiều trường hợp, các ứng viên ban đầu được tổ chức đề cử sẽ được chuyển thành liên danh đề cử nhằm đảm bảo tỷ lệ ứng viên phù hợp, giúp tạo ra hình ảnh cuộc bầu cử công khai, công bằng và có cạnh tranh thực sự.

2. Cử theo cơ cấu, bầu bằng hiệp thương

Các ứng viên thật sự không có liên hệ gì với chính quyền phần lớn bị đánh rớt ngay từ vòng đăng ký: họ không đáp ứng tỷ lệ cơ cấu (proportion structure).

Tỷ lệ cơ cấu là tiêu chuẩn được đưa ra nhằm đảm bảo các nhóm dân cư khác nhau đều có đại diện được bầu. Những sắc tộc khác nhau, các nhóm tôn giáo, những người thuộc các “chính đảng” khác, phụ nữ, hay đại diện các ngành nghề như công nhân, nông dân, trí thức… đều được giao tỷ lệ nhất định tham gia ứng cử.

Cơ cấu này là rào cản đầu tiên được áp dụng linh hoạt để loại bỏ các ứng viên tự do. Nghiên cứu dẫn trường hợp một luật sư nam tại Thâm Quyến đã phải rút lui khi chính quyền địa phương thông báo khu vực đó chỉ có suất dành cho ứng viên nữ.

Rào cản thứ hai là một quy trình tương tự như ở Việt Nam, được gọi là “uẩn nhưỡng” (cất rượu) và “hiệp thương”. Nó được thực hiện theo phương pháp “ba lên, ba xuống” (three ups, three downs).

Danh sách các ứng viên sẽ được ủy ban bầu cử rà soát một lần (lên), gửi cho các nhóm cử tri đại diện họp thảo luận cho ý kiến (xuống). Kết quả thảo luận được tập hợp lại gửi cho cơ quan phụ trách bầu cử (lên) và thông báo cho tất cả cử tri để nhận phản hồi (xuống). Phản hồi được tập hợp lần nữa trình cho ủy ban bầu cử để chốt danh sách chính thức (lên), và cuối cùng công khai kết quả (xuống).

Các cuộc họp lên lên xuống xuống này vừa là công cụ để loại những ứng viên độc lập “không phù hợp”, vừa là diễn đàn để những ứng viên của chính quyền tiếp cận và tranh thủ sự ủng hộ của cử tri.

3. Phù phép bản đồ đơn vị bầu cử

Việc kiểm soát cử tri được thực hiện từ trước khi tổ chức bầu cử. Thông qua các cuộc khảo sát, chính quyền nắm được số lượng cử tri, ý định bỏ phiếu của họ, từ đó đưa ra kế hoạch tổ chức bầu cử sao cho có lợi nhất cho ứng viên của mình.

Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất là phân chia khu vực bầu cử, hay “gerrymandering” (vẽ lại bản đồ khu vực bầu cử).

Lợi dụng các quy định phức tạp và lắt léo của luật, các quan chức phụ trách bầu cử thường tùy tiện tách hay nhập các khu vực. Như trường hợp một huyện ở tỉnh Quý Châu, khi nhận thấy ứng viên của đảng có thể không đạt đủ đa số phiếu như yêu cầu, các quan chức nơi đây đã gom thêm các khu dân cư khác vào tạo thành đơn vị bầu cử mới.

Một trường hợp khác là khi một giáo sư đại học ở Bắc Kinh tự ra ứng cử. Không muốn ứng viên độc lập này trúng cử, chính quyền đã tách đơn vị bầu cử là trường đại học ra làm hai, một dành cho cán bộ nhân viên của trường, một dành cho sinh viên. Bằng cách đó, các sinh viên không thể bầu cho giáo sư của mình.

Những khu vực cách xa nhau về địa lý cũng có thể bị gom lại thành một đơn vị bầu cử, như các cơ quan công sở thuộc cùng hệ thống được gom lại để đảm bảo ứng viên, thường là quan chức đứng đầu cơ quan, đạt đủ số phiếu.

Vẽ lại bản đồ khu vực bầu cử không chỉ xuất hiện ở Trung Quốc mà còn là công cụ ưa thích và gây rất nhiều tranh cãi tại Mỹ (đọc thêm về “gerrymandering” tại Mỹ tại đây).

Ngoài ra, các cử tri được khuyến khích đăng ký bầu cử theo đơn vị công tác. Bằng cách đó, họ dễ bị kiểm soát và thuyết phục bầu theo chủ trương của cơ quan mình làm việc. Chính quyền chỉ cần làm việc với những người đứng đầu các cơ quan – lúc này đóng vai trò như “cò phiếu” – đảm bảo kết quả cuối cùng như ý muốn.

4. Không cần đi bầu vẫn được tính phiếu

Luật Bầu cử của Trung Quốc cho phép việc bầu hộ (proxy voting). Một người có thể ủy quyền cho người khác bỏ phiếu giúp mình. Mỗi người được thay mặt tối đa ba người bỏ phiếu. Nghĩa là, một người có thể bầu tối đa bốn phiếu (một cho mình và ba cho người khác).

Quy định bầu cử trực tiếp đại biểu là “hai lần quá bán” – hơn một nửa số lượng cử tri đã đăng ký tham gia bỏ phiếu, và người trúng cử đạt được hơn một nửa trong tổng số phiếu đó.

Với quy định bỏ phiếu hộ, trên lý thuyết, chính quyền chỉ cần 1/8 số cử tri đã đăng ký xuất hiện, hay 12,5% cử tri là đủ để thực hiện cuộc bầu cử đúng luật. Đây là con số cử tri đã đăng ký (registered voters). Nếu tính tất cả những cử tri đủ điều kiện (eligible voters) nhưng không đăng ký, tỷ lệ này còn thấp hơn nữa.

Trên thực tế, chính quyền địa phương thường tập trung nguồn lực vận động những người đứng đầu các đơn vị công tác và các chủ hộ gia đình. Nhờ vậy, họ có thể huy động lượng phiếu bầu hợp lệ với chi phí thấp nhất.

5. Tam ca và tam cấm

Các phương tiện truyền thông ở Trung Quốc luôn nằm dưới sự kiểm soát toàn diện và chặt chẽ của chính quyền. Trong các cuộc bầu cử, toàn bộ hệ thống báo chí truyền hình lẫn công cụ mạng xã hội đều được vận động để thực hiện công tác tuyên truyền.

Các thông điệp tuyên truyền thường có ba phần, có thể gọi tắt là “tam ca”. Một là ca ngợi hệ thống bầu cử dưới sự lãnh đạo của đảng, khẳng định chỉ có đảng mới có thể giúp người dân thực sự làm chủ. Hai là phổ biến các kiến thức về luật và quy trình bầu cử để cử tri thực hiện đúng cách. Cuối cùng là ca ngợi tính ưu việt của chế độ “dân chủ xã hội chủ nghĩa” (socialist democracy).

Ngoài “tam ca”, truyền thông còn có “tam cấm”. Một là cấm đưa tin về hoạt động của các ứng viên độc lập hay các chiến dịch tranh cử cá nhân. Hai là cấm bàn đến các chủ đề nhạy cảm. Và ba là cấm đưa tin tiêu cực về bầu cử.

6. Suất diễn cho các “bình hoa di động”

Một chiến thuật tinh tế được sử dụng rộng rãi trong các kỳ bầu cử ở Trung Quốc là việc cho xuất hiện các “bình hoa di động”: những ứng viên đóng vai trò làm nền cho các ứng viên thực sự.

Những người này được mời, hay thậm chí bị gây áp lực buộc phải ra ứng cử. Họ thường là cán bộ ở cấp thấp trong tổ chức, hoặc người có rất ít kinh nghiệm, không có thành tích gì nổi bật, hay chỉ đơn giản là tên có nhiều nét hơn và sẽ bị xếp dưới cùng trong danh sách (tương tự như tên nằm cuối bảng chữ cái của tiếng Việt).

Những trường hợp thực tế như việc một cán bộ tầm tầm ở huyện ghi danh “cạnh tranh” với lãnh đạo huyện đó, hay một công nhân trẻ tuổi ứng cử cùng đơn vị với cảnh sát trưởng của khu vực.

Bộ máy tuyên truyền của Trung Quốc thường dùng các trường hợp này để nhấn mạnh tính ưu việt của thể chế. Họ cho rằng đó là bằng chứng cho thấy bất kỳ ai, kể cả “người thường”, cũng có thể cạnh tranh với quan chức lãnh đạo, trái ngược với bầu cử của phương Tây, được họ mô tả chỉ là cuộc chơi độc quyền của giới nhà giàu.

7. Vẫn có chỗ cho những bất ngờ

Không phải mọi kết quả của cuộc bầu cử đều diễn ra theo ý muốn của chính quyền.

Luật Bầu cử năm 2010 quy định cử tri có thể bầu hay loại bỏ ứng viên trong danh sách, hoặc bầu cho một ứng viên bất kỳ nào khác.

Vào kỳ bầu cử đại biểu năm 2001 – 2002, theo báo cáo, trên cả nước có hơn 8.000 ứng viên được cử tri tự ghi thêm vào (write-in candidates) và đạt đủ số phiếu để trúng cử.

Các cuộc bầu cử địa phương còn thể trở nên vô hiệu khi không có đủ số lượng cử tri tham gia. Một báo cáo được dẫn ra trong nghiên cứu cho biết trong kỳ bầu cử năm 2006 – 2007, có 1,7% các cuộc bầu cử ở cấp hương và 1,3% bầu cử cấp huyện vô hiệu vì không có đủ cử tri bỏ phiếu.

Nghiên cứu chỉ ra vấn đề của chính quyền khi phải cân bằng giữa chuyện kiểm soát kết quả bầu cử và làm sao để bầu cử còn có ý nghĩa. Càng tăng cường các biện pháp cấm đoán, kiểm soát, người dân càng không thấy có lý do tham gia bầu cử. Chính quyền vì vậy sẽ mất đi tính chính danh có được từ các cuộc bầu cử giả hiệu đó.

Bầu cử đại biểu cấp địa phương tại Trung Quốc không phải là cuộc bầu cử duy nhất mà người dân được trực tiếp bỏ phiếu quyết định. Tại các thôn làng, trong hơn 30 năm qua, người dân đã được trực tiếp bầu chọn ra trưởng thôn và ủy ban quản lý thôn. Nhiều người đánh giá đây mới là hình thức bầu cử dân chủ nhất đang tồn tại ở Trung Quốc, với các ứng viên độc lập thật sự và kết quả thường không nằm trong sự kiểm soát của chính quyền.

 

Tài Liệu Tham Khảo

 

TỪ ĐỘC ĐẢNG SANG ĐA ĐẢNG: ĐÀI LOAN ĐÃ DÂN CHỦ HÓA CUỘC 

BẦU CỬ NHƯ THẾ NÀO ?

Y CHAN/ LUẬT KHOA/ BVN 19-5-2021

Đảng cò kè, quan cạnh tranh, dân hưởng lợi

Tóm tắt:

• Năm 1991, Đài Loan có cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên sau 45 năm chịu sự kiểm soát toàn diện của Quốc dân Đảng (KMT). Cạnh tranh giữa các đảng phái bắt đầu xuất hiện.

• Một trong những cuộc cạnh tranh quan trọng nhất là về chính sách bảo hiểm y tế. Để giành chiến thắng, các đảng phải đưa ra chính sách sao cho ngày càng có nhiều người dân được hưởng phúc lợi hơn.

• Sự cạnh tranh còn tạo động lực để các vấn nạn thể chế như tham nhũng được đưa ra ánh sáng, bóc tách và sửa chữa. Dưới áp lực cạnh tranh, các đảng phái cũng buộc phải tự sửa mình.

• Trong thời kỳ độc tài, một danh tính Trung Hoa chung được áp đặt lên người Đài Loan. Chỉ đến khi các đảng phái khác xuất hiện, người dân mới bắt đầu lên tiếng đấu tranh cho một căn tính khác của riêng mình.

• Công trình nghiên cứu của Dafydd Fell trong quyển “Party Politics in Taiwan” cung cấp bằng chứng cho các thay đổi tích cực mà cạnh tranh đảng phái góp phần tạo ra ở Đài Loan.

Vào năm 1987, khi chính phủ Đài Loan tuyên bố chấm dứt tình trạng thiết quân luật, nước này đã xác lập một kỷ lục không hay ho gì: là quốc gia có tình trạng thiết quân luật lâu nhất trên thế giới tính đến thời điểm đó (kéo dài gần bốn thập niên).

Dưới chế độ độc tài của Quốc dân Đảng, người Đài Loan không có tự do ngôn luận, không được tự do lập hội, và không có quyền bầu ra những lãnh đạo của đất nước. Những tiếng nói đối lập đều bị thẳng tay đàn áp, bỏ tù hoặc giết hại.

Tranh minh họa thời kỳ thiết quân luật tại Đài Loan. Nguồn: Taiwan Times.

Ngày nay, chỉ ba thập niên sau khi bức màn kiểm soát quân sự bị xé bỏ, Đài Loan lột xác trở thành một trong những quốc gia dân chủ tự do nhất thế giới. Thể chế dân chủ của nước này được đánh giá là số một ở châu Á, vượt qua cả Nhật Bản lẫn Hàn Quốc.

Những quả ngọt của quá trình dân chủ hóa tại Đài Loan đến rất nhanh và rất sớm. Ngay trong những năm đầu tiên kể từ khi cải cách, người dân đã chứng kiến các thay đổi thực tế trong hầu hết các vấn đề, từ quốc kế dân sinh đến chủ nghĩa dân tộc.

Các thay đổi này có thể được tìm thấy trong quyển sách “Party Politics in Taiwan” của Dafydd Fell, một nhà khoa học chính trị chuyên nghiên cứu về Đài Loan. Ông là giảng viên Khoa Chính trị và Quan hệ quốc tế thuộc Đại học London, Anh. Cuốn sách là công trình nghiên cứu của tác giả về sự thay đổi của các đảng phái và quá trình dân chủ hóa tại Đài Loan từ năm 1991 đến 2004.

Thông qua phân tích các thông điệp tuyên truyền bầu cử, phỏng vấn trực tiếp quan chức cấp cao của các đảng, thu thập ý kiến từ những chuyên gia, tác giả kết luận rằng việc cạnh tranh trong bầu cử đem lại một môi trường tích cực cho toàn bộ xã hội Đài Loan.

Các đảng phái nâng cao năng lực quản trị, người dân có được những đại diện thực chất giúp giải quyết các vấn đề của mình, còn các vấn đề xung đột dần đạt được đồng thuận thông qua tranh luận cởi mở và công khai.

Nghiên cứu của Dafydd Fell tập trung vào ba vấn đề lớn: đưa ra chính sách trợ cấp xã hội, xử lý nạn tham nhũng và xác định danh tính dân tộc.

Trợ cấp xã hội: hướng đến công bằng cho tất cả

Trước thập niên 1990, ngoài tầng lớp lãnh đạo, tại Đài Loan có một nhóm người được hưởng đặc quyền đặc lợi. Nhóm này được gọi là “quân công giáo” (jungongjiao), viết tắt từ quân đội, công chức và những người làm việc trong ngành giáo dục. Đa phần họ đều là đảng viên Quốc dân Đảng, vốn là điều kiện tiên quyết để thăng tiến trong sự nghiệp.

Họ ủng hộ nhiệt thành các chính sách của Quốc dân Đảng, đổi lại nhận được trợ cấp xã hội hậu hĩnh. Trong khi đó, người dân thuộc các ngành nghề khác được hưởng rất ít, hoặc không có được bất kỳ trợ cấp nào từ chính quyền.

Theo thống kê, vào năm 1991, trong số chi tiêu trợ cấp của chính phủ, nhóm “quân công giáo” hưởng đến 74%.

Lịch sử phức tạp của Đài Loan góp phần tạo nên sự thiên lệch này.

Vào năm 1949, khi Quốc dân Đảng thất trận tại đại lục, họ chạy sang Đài Loan, đem theo bộ máy chính quyền cũ và những quân nhân công chức trong hệ thống đó. Những người này được gọi là “người đại lục” (Mainlanders) để phân biệt với “người Đài Loan” (Taiwanese), sinh ra và lớn lên tại đảo quốc. Nhóm người đại lục chỉ chiếm thiểu số, nhưng nắm độc quyền và hưởng đặc lợi. Sự bất bình đẳng này gây ra nhiều mâu thuẫn sắc tộc.

Dưới chế độ thiết quân luật, chính quyền đàn áp đẫm máu những ai dám lên tiếng phản đối. Các mâu thuẫn bị đè nén, không được bàn luận công khai. Chỉ tới khi những đảng phái khác xuất hiện, các chính sách bất công này mới bị thách thức.

Đảng Dân tiến (DPP) là một trong những đảng đầu tiên nêu ra vấn đề cải cách trợ cấp xã hội, với việc yêu cầu phải có chính sách y tế và lương hưu công bằng cho mọi người dân.

Tuy mới thành lập, không có thực quyền, nhưng những yêu cầu của Đảng Dân tiến nhận được nhiều sự ủng hộ từ cử tri.

Nắm bắt được xu thế đó, Quốc dân Đảng nhanh chóng “cướp diễn đàn”, giành quyền ban hành chính sách bảo hiểm y tế. Với lợi thế nắm đa số tại Quốc hội, vào năm 1994, họ nhanh chóng thông qua luật về Bảo hiểm y tế toàn dân (National Health Insurance – NHI). Chính sách này thành công lớn, nhận được hơn 70% sự ủng hộ từ người dân. Trong các cuộc bầu cử sau này, Quốc dân Đảng vẫn thường nhắc lại NHI như một lá bài ghi điểm quan trọng.

Tranh cổ động tham gia chương trình Bảo hiểm y tế toàn dân (NHI) của Đài Loan. Nguồn: nhi.gov.tw.

Đây là trường hợp hiếm hoi một đảng phái “cướp” thành công diễn ngôn của phe đối lập và biến nó thành lợi thế riêng.

Về phần mình, Đảng Dân tiến không từ bỏ cuộc chiến. Họ đưa yêu cầu cải cách về lương hưu, một vấn đề lớn khác của trợ cấp xã hội.

Giống như trường hợp bảo hiểm y tế, Quốc dân Đảng cố gắng đưa ra đề xuất cải cách lương hưu của riêng họ để đáp trả. Tuy nhiên, do các xung đột nội bộ liên quan đến lợi ích nhóm, Quốc dân Đảng không ra được quyết sách nào về vấn đề này.

Đổi lại, khi Đảng Dân tiến nắm quyền vào năm 2002, họ đã thông qua các luật cải cách về chế độ lương hưu cho người dân như lời hứa.

Sự cạnh tranh của các đảng phái ngày càng giúp nhiều người dân Đài Loan được hưởng lợi ích công bằng từ chế độ phúc lợi xã hội.

Tham nhũng thể chế: Từ trắng sang đen và bị xóa bỏ

Trước thập niên 1990, nhiều hình thức tham nhũng tại Đài Loan được thể chế hóa, hay hoàn toàn hợp pháp mà không ai dám lên tiếng thách thức. Nhiều người còn không nghĩ rằng đó là chuyện xấu cần phải loại bỏ.

Đây cũng là một vấn đề có căn nguyên lịch sử.

Khi chính quyền Quốc dân Đảng bỏ chạy sang Đài Loan, họ là những kẻ mới tới. Để thiết lập được bộ máy cai trị hiệu quả, Quốc dân Đảng cần đến sự hợp tác của các nhóm người có quyền lực tại địa phương (local factions). Một mối quan hệ cộng sinh được thiết lập.

Chính quyền trung ương tạo điều kiện cho các nhóm lợi ích địa phương thiết lập hoạt động kinh tế độc quyền, cho tiếp cận với nguồn vốn trung ương và giao cho họ các hợp đồng nhà nước béo bở. Các hoạt động làm ăn phi pháp như cờ bạc hay vũ trường cũng được nhắm mắt bỏ qua. Đổi lại là sự ủng hộ tuyệt đối của các băng nhóm địa phương này cho Quốc dân Đảng.

Trong nhiều thập niên, đây là hình thức “tham nhũng trắng” (white corruption), hoàn toàn hợp pháp và không ai dám thách thức sự tồn tại của nó, cho đến khi các đảng phái khác xuất hiện và lên tiếng.

Khảo sát top 10 vấn đề được các đảng lớn nêu ra trong các quảng cáo tranh cử từ năm 1991 đến 2000. Tham nhũng (political corruption) là một trong những vấn đề hàng đầu. Nguồn: Sách “Party Politics in Taiwan”.

Trong cuộc bầu cử tự do đầu tiên của Quốc hội mới vào năm 1992, Đảng Dân tiến đặt chống tham nhũng là vấn đề trọng tâm, với các khẩu hiệu và chiến dịch quảng cáo trên truyền thông chỉ trích trực diện Quốc dân Đảng đang nắm quyền lúc đó.

Lần đầu tiên các ứng viên giàu có của Quốc dân Đảng bị phe đối lập đặt cho cái tên “bò vàng” (kim ngưu), với cáo buộc họ có nguồn tiền vô hạn, không minh bạch, sẵn sàng chi tiêu xả láng cho việc tranh cử, thậm chí là mua phiếu bầu.

Các “bò vàng” gây ra bất mãn cao trong xã hội, khiến ngay cả nội bộ Quốc dân Đảng cũng lên tiếng phản đối việc đề cử những nhân vật tai tiếng này.

Năm 1993, những người có xu hướng chống tham nhũng trong Quốc dân Đảng liên kết với Đảng Dân tiến cùng thông qua một đạo luật chống tham nhũng, bắt buộc các quan chức cấp cao phải công khai tài sản và nộp vào trong một quỹ quản lý.

Trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 1995, Đảng Dân tiến tung ra một quảng cáo truyền hình trong đó nhấn mạnh 67,77% số ứng viên của Quốc dân Đảng là những người có quan hệ với các băng nhóm tội phạm hoặc nhóm lợi ích địa phương.

Ngoài ra, tại một cuộc họp báo vào năm 1995, một nhà lập pháp thuộc Đảng Dân tiến công bố số tài sản công mà Quốc dân Đảng tích lũy qua nhiều thập niên cai trị đất nước lên tới 150 tỷ Đài tệ (hơn 5 tỷ USD theo giá trị hiện tại).

Đối diện với các cáo buộc này, Quốc dân Đảng hầu như im lặng.

Tuy vậy, trước sức ép của công luận và phe đối lập, các lãnh đạo của đảng cầm quyền cũng phải lên tiếng.

Bộ trưởng Tư pháp Mã Anh Cửu vào năm 1995 hứa với công luận sẽ “đá bay tệ nạn mua phiếu bầu ra khỏi Đài Loan”.

Năm 1996, tại một Hội nghị phát triển dân tộc, Quốc dân Đảng lần đầu tiên đồng ý sẽ thay đổi các chính sách về tài sản của đảng (theo cáo buộc của phe đối lập là tài sản công), đồng thời cải cách các cuộc bầu cử tham nhũng tại địa phương.

Năm 2000, khi vận động cho cuộc bầu cử tổng thống, ứng cử viên Liên Chiến và cũng là Chủ tịch của Quốc dân Đảng đã hứa sẽ chấm dứt các hoạt động làm ăn kinh doanh của đảng, nộp các tài sản của đảng vào công quỹ và cắt bỏ liên hệ với những ứng viên có dính dáng đến nguồn tiền không minh bạch.

Tại Đài Loan, chống tham nhũng dường như không có vùng cấm. Cả hai cựu tổng thống Lý Đăng Huy (trái) và Trần Thủy Biển đều từng bị truy tố về tội tham nhũng. Ảnh: UDN.

Vấn đề tham nhũng thể chế, hay “tham nhũng trắng”, từ việc được xem là bình thường, sau khi bị dư luận và các đảng phái đối lập nêu ra chỉ trích, đã dần bị đặt lại đúng vị trí “tham nhũng đen”, trở thành mục tiêu mà các chính đảng đều quyết tâm loại bỏ để lấy lòng cử tri.

Danh tính dân tộc: Từ gốc gác Trung Quốc đến căn tính Đài Loan

Trong nhiều thập niên kể từ khi thất trận phải chạy về Đài Loan, chính quyền Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch vẫn luôn nuôi mộng quay về “giải phóng đại lục”.

Họ thiết lập các chính sách kinh tế, giáo dục, văn hóa với mục tiêu một ngày nào đó quay lại phản công quân đội cộng sản. Tiếng phổ thông (Mandarin) là ngôn ngữ duy nhất được sử dụng chính thức. Các tiếng địa phương đều bị cấm. Một căn tính Trung Hoa chung được áp đặt cho toàn bộ người Đài Loan.

Đến khi các đảng phái khác xuất hiện, người dân mới bắt đầu lên tiếng đấu tranh cho một căn tính khác của riêng mình.

Đảng Dân tiến đi đầu trong việc cổ vũ cho một danh tính riêng biệt của người Đài Loan, độc lập hoàn toàn với Trung Quốc đại lục.

Việc có một căn tính khác biệt có liên hệ mật thiết với yêu cầu dân chủ hóa đất nước.

Quốc dân Đảng cho tới cuối thập niên 1980 vẫn từ chối tổ chức bầu cử tự do cho các vị trí trong Quốc dân Đại hội (National Assembly) và Quốc hội (Legislative Yuan). Những thành viên trong các cơ quan này đa số vẫn là những người đã được bầu vào thập niên 1940 tại đại lục, sau đó theo chân Tưởng Giới Thạch chạy sang Đài Loan.

Quốc dân Đảng xem mình là đại diện hợp pháp duy nhất cho toàn bộ đất nước Trung Quốc. Dưới chế độ Quốc dân Đảng, Đài Loan vẫn là một phần của Trung Quốc, nằm trong danh tính chung của toàn bộ đất nước Trung Hoa. Nếu để người Đài Loan bầu ra chính quyền và lãnh đạo mới, các cơ quan này sẽ không còn đại diện được cho “tất cả người dân Trung Quốc”.

Nói cách khác, dưới danh tính (là một phần của) Trung Hoa, người Đài Loan không thể có dân chủ.

Bãi bỏ thứ danh tính cũ này, tạo ra một căn tính độc lập vì vậy là một phần của yêu cầu cải cách dân chủ.

Không chỉ có Đảng Dân tiến, ngay cả Quốc dân Đảng và các đảng phái khác cũng tham gia sôi nổi vào quá trình thảo luận và đề xuất lựa chọn ra một hướng đi riêng cho đất nước.

Người Đài Loan biểu tình với khẩu hiệu “Đài Loan không phải là Trung Quốc, Đài Loan là Đài Loan”. Nguồn: Taiwan News.

Cùng với việc mở rộng cửa đón nhận người bản địa Đài Loan gia nhập đảng, Quốc dân Đảng bắt đầu nói nhiều hơn về một “Đài Loan mới” với những đặc điểm riêng biệt. Họ cũng không còn nhắc lại nhu cầu phải “giải phóng Trung Quốc”. Thậm chí theo thời gian, Quốc dân Đảng tự xây dựng hình ảnh tương đối trung lập trong vấn đề này, chống lại chủ trương “thống nhất sớm” với Trung Quốc của các đảng cực hữu lẫn đường lối “độc lập ngay” của các nhóm cực tả.

Về phần mình, Đảng Dân tiến cũng tự biết điều chỉnh. Khi chủ trương tuyên bố độc lập khiến họ nhận thất bại nặng nề trong các cuộc bầu cử năm 1991 và 1996, các lãnh đạo đảng đã giảm bớt mức độ cực đoan. Họ đưa ra các đường lối phù hợp hơn với số đông, như nhấn mạnh đến nguyên tắc “tự chủ” (self-determination) thay vì giương cao ngọn cờ “độc lập” (independence), vốn bị chỉ trích là có thể gây ra chiến tranh với Trung Quốc.

***

Các cuộc thảo luận công khai của những đảng phái giúp người dân có được nhiều lựa chọn. Và bằng lá phiếu của mình, người dân giúp các chính đảng thay đổi để đến gần nhất với nguyện vọng của cử tri.

Ngay cả khi thắng trong một cuộc bầu cử, đảng phái cũng phải tính đến lá phiếu trong tương lai của người dân để thay đổi. Như trường hợp của Quốc dân Đảng, dù chiến thắng cuộc bầu cử năm 1996, nhưng họ vẫn phải đưa ra cam kết thay đổi để chống tham nhũng như chủ trương của phe đối lập.

Hoặc trường hợp của Đảng Dân tiến, khi nhận ra đường lối độc lập của mình không được lòng cử tri, họ bắt buộc phải đổi tông, đồng thời tìm ra các vấn đề dân sinh khác (như trợ cấp xã hội, chống tham nhũng) để giành được sự ủng hộ của người dân.

Thông qua chế độ cạnh tranh công khai và công bằng, tất cả thành phần trong xã hội đều được lợi.

Y.C.

---

Bài viết nằm trong chuyên mục “Đọc sách cùng Đoan Trang”, đăng vào tối thứ Ba hàng tuần.

Nguồn: https://www.luatkhoa.org/2021/05/tu-doc-dang-sang-da-dang-dai-loan-da-dan-chu-hoa-cuoc-bau-cu-nhu-the-nao/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét