Thứ Tư, 30 tháng 1, 2019

20190130. BÀN VỀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ QUỐC GIA

ĐIỂM BÁO MẠNG

ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ QUỐC GIA ĐỂ VIỆT NAM TỊNH VƯỢNG

HẢI LỘC/ TVN/ BVN 29-1-2019

 - “Đổi mới hệ thống quản trị quốc gia” là một trong những vấn đề rất quan trọng góp phần thúc đẩy hay kìm hãm phát triển đất nước.
LTS: Tuần Việt Nam mở Diễn đàn "Vì Việt Nam hùng cường" với mong muốn thu nhận từ quý độc giả những ý kiến, bài viết về các giải pháp phát triển đất nước trong tất cả các lĩnh vực nhằm khơi thông tiềm năng phát triển, cổ vũ niềm tin của cộng đồng vào tương lai Việt Nam.
Chủ đề đầu tiên của Diễn đàn tập trung vào thể chế kinh tế. Mời quý vị cùng theo dõi.
Trong loạt bài trước, người viết đã nêu rõ nước ta đang bị tụt hậu về kinh tế, nhất là so với các nước xung quanh, chứ không còn là “nguy cơ” như Đảng ta đã cảnh báo hơn 30 năm trước. Muốn khắc phục tụt hậu, vươn lên thịnh vượng cần đẩy mạnh công cuộc Đổi mới, bắt đầu từ đổi mới tư duy để có đường lối, chính sách phù hợp.
Bài viết tiếp theo này đề cập đến vài chuyện cũ cả trong và ngoài nước liên quan đến “đổi mới hệ thống quản trị quốc gia”, mà người viết nghĩ rằng “quản trị quốc gia” là một trong những vấn đề rất quan trọng góp phần thúc đẩy hay kìm hãm phát triển đất nước. Đúng như tác giả Nguyễn Ngọc Chu đã viết trên Tuần Việt Nam/VietNamNet “Chính phủ giỏi - chìa khoá mở cánh cửa kinh tế hùng cường”; và “chuyện cũ” nhưng vẫn còn nguyên ý nghĩa thời sự đối với chúng ta hiện nay.
Hai chính quyền song song
Ở Liên Xô và nhiều nước XHCN khác ở Đông Âu đã từng tồn tại một hệ thống quản trị quốc gia mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là hệ thống “Hai chính quyền Nhà nước song song tồn tại trong một nhà nước thống nhất”. Hệ thống chính quyền thứ nhất là hệ thống tổ chức Đảng (gọi tắt là “chính quyền Đảng”). Hệ thống chính quyền thứ hai là hệ thống chính quyền Nhà nước.
Hệ thống chính quyền Nhà nước thứ nhất là hệ thống cơ quan lãnh đạo Đảng có đầy đủ các cấp, tổ chức chằng chịt theo chiều dọc lẫn chiều ngang và hệ thống tổ chức này hành xử không khác gì hệ thống chính quyền Nhà nước. Theo chiều dọc từ Trung ương đến cơ sở, ở đâu có chính quyền Nhà nước ở đó có “chính quyền Đảng”. Và cũng chằng chịt theo chiều ngang (Ban Đối ngoại – Bộ Ngoại giao; Ban nông nghiệp Trung ương – Bộ Nông nghiêp; Ban Công nghiệp – Bộ Công nghiệp; Ban lãnh đạo bộ - Ban cán sự Đảng…).
Bất kỳ cấp nào, ở đâu có cơ quan chính quyền Nhà nước, ở đó có cơ quan lãnh đạo Đảng. Thậm chí, ở các tổ chức hội, đoàn không phải là cơ quan chính quyền Nhà nước thì ở đó vẫn có cơ quan lãnh đạo Đảng… Các tổ chức thuộc cả ba nhánh quyền lực đều có các ban cán sự đảng, đảng đoàn từ trên xuống dưới để thực hiện các chức năng liên quan trực tiếp đến mọi hoạt động hằng ngày của người dân, của đất nước.
Nói sơ lược nhất, hệ thống “chính quyền Đảng” ở Liên xô hồi bấy giờ có ít nhất có 3 đặc trưng cơ bản: không được hình thành theo quy định của pháp luật nhà nước; trên thực tế có siêu quyền lực; không hề chịu bất kỳ trách nhiệm pháp lý và vật chất nào trước dân tộc về các quyết định do mình đưa ra.
“Quản trị quốc gia” là một trong những vấn đề rất quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển đất nước. Ảnh: Lê Anh Dũng

Nói rõ đôi điều về ba đặc trưng cơ bản nêu trên:

(i) Hệ thống chính quyền Đảng không được hình thành theo quy định của pháp luật.
Nhắc lại, với cả hệ thống tổ chức và nhân sự lãnh đạo đảng các cấp, lãnh đạo các cấp của Đảng Cộng sản Liên Xô (ĐCSLX) thuộc các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp thực thi công vụ hằng ngày không khác tý nào so với hệ thống chính quyền Nhà nước hoàn chỉnh thuộc các nhánh tương ứng. Tuy nhiên, hệ thống chính quyền Đảng chỉ được hình thành theo Điều lệ Đảng và theo các quy định, quyết định nội bộ của ĐCSLX. Đương nhiên hệ thống chính quyền đảng không do chính quyền Nhà nước quyết định thành lập, giải thể khi cần thiết. Nhân sự của hệ thống chính quyền đảng không hề được dân bầu, không được bổ nhiệm như hệ thống chính quyền nhà nước.
(ii) Trên thực tế, các nghiên cứu cho thấy, hệ thống chính quyền đảng ở Liên xô hồi bấy giờ có siêu quyền lực, đứng trên hiến pháp và pháp luật, đứng trên chính quyền Nhà nước ở tất cả các cấp, không có ngoại lệ.
Bởi không hề có văn bản pháp quy nào quy định quyền kiểm soát, giám sát của dân đối với hệ thống chính quyền đảng… ngoài vài câu ghi tại Điều 126 Hiến pháp Liên xô năm 1936 và Điều 6 Hiến pháp Liên xô năm 1977: “ĐCSLX là lực lượng lãnh đạo và dẫn dắt xã hội Xô viết, là hạt nhân của hệ thống chính trị của nhà nước và các tổ chức xã hội”; “ĐCSLX tồn tại vì nhân dân và phục vụ nhân dân”; “Mọi tổ chức đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp Liên Xô”. Điều đáng nói hơn, không hề có văn bản pháp quy nào quy định cái gọi là “khuôn khổ” đó cả, nên trên thực tế ĐCSLX hoạt động trên và ngoài hiến pháp và pháp luật. 
(iii) Hệ thống chính quyền đảng không hề chịu bất kỳ trách nhiệm pháp lý và vật chất nào trước dân về các quyết định do mình đưa ra.
Cho đến ngày tan rã, không hề có bất kỳ văn bản pháp quy nào quy định rõ trách nhiệm của ĐCSLX trước dân. Trong khi đó, rất khó tìm một lĩnh vực, một khu vực, một hoạt động cụ thể nào, cả đối nội lẫn đối ngoại trong đời sống của người dân Liên xô mà ở đó không có sự can thiệp, điều hành của cơ quan đảng và người lãnh đạo đảng các cấp của ĐCSLX.
Khi lãnh đạo ĐCSLX nhận ra những điều tồi tệ trên đây thì đã quá muộn. Ngày 23 tháng 6 năm 1990, trên tờ “Sự thật”, ông A. Iakovlev, ủy viên Bộ chính trị, nhà lý luận của ĐCSLX đã nêu lên đặc trưng của hệ thống chính quyền nhà nước Liên Xô lúc bấy giờ là: “Một nền kinh tế trì trệ, phản dân chủ một cách trắng trợn, quan liêu và tham nhũng. Các cơ quan của Đảng, trên thực tế, đã thay thế tất cả các tổ chức khác, nhưng lại không chịu bất kì trách nhiệm về kinh tế hay pháp lý nào về các chỉ thị và nghị quyết của mình”.
Chỉ 14 tháng sau khi tuyên bố này được đưa ra, ngày 19 tháng 8 năm 1991, ĐCSLX tan rã trong nháy mắt và Liên Xô sụp đổ ngay sau đó sau 74 năm tồn tại. Đương nhiên, ai cũng hiểu việc Liên Xô sụp đổ do nhiều nguyên nhân phức tạp, nhưng không thể không kể đến nguyên nhân về tổ chức quản trị quốc gia như nêu trên đây.
Những bài học cần rút ra
Ở nước ta trong một thời gian không ngắn cũng áp dụng hệ thống quản trị quốc gia na ná như ở Liên Xô đã phân tích trên.
Để tránh hiểu lầm, cần nói rõ thêm, ở hầu hết các quốc quốc gia trên thế giới, đảng chính trị sau khi thắng cử, nắm quyền quản trị quốc gia, không bao giờ nhân danh một hay một số đảng cầm quyền để ban hành các đường lối, chính sách phát triển đất nước nói chung cũng như từng lĩnh vực trọng yếu, mà luôn nhân danh nhà nước để thực thi các chức năng quản trị quốc gia. 
Ở nước ta, khi công cuộc đổi mới được bắt đầu, Đảng ta cũng làm rất nhiều việc, chẳng hạn giải thể một loạt các Ban mà chức năng quản lý trùng lặp với các cơ quan quản lý Nhà nước (Ban Nông nghiệp TW; Ban Công nghiệp; Ban Tài mậu...). Đồng thời, Đảng ta đã đề ra mô hình quản trị quốc gia theo hướng: Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý – Nhân dân làm chủ. Và Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý – Nhân dân làm chủ đều phải theo khuôn khổ của pháp luật.
Mô hình ba vế vừa nêu là đúng đắn, rõ ràng. Trong mấy thập niên qua, chúng ta đã từng bước hình thành và hoàn thiện hệ thống pháp luật áp dụng đối với hệ thống quản lý nhà nước. Các văn bản pháp quy đã quy định rõ, mỗi nhánh quyền lực được làm những gì, không được làm gì. Chưa nói đến nội dung, về hình thức văn bản pháp quy, chẳng hạn Quốc hội được ban hành Luật, Nghị quyết; Chính phủ được ban hành Nghị định, Nghị quyết; Thủ tướng Chính phủ được ban hành Quyết định, Chỉ thị… Tất nhiên vẫn còn vô số việc phải làm để nâng cấp, hoàn thiện hệ thống pháp luật này.
Đối với hai vế còn lại, nhất là vế "Đảng lãnh đạo, về mặt pháp lý vẫn còn các khoảng trống lớn. Đây là sự chậm trễ rất đáng tiếc, để lại hậu quả không tốt. Xin nói rõ thêm vài điều liên quan đến điều đáng tiếc đó.
Hiến pháp của nước ta ghi rõ “Đảng Cộng sản Việt Nam […] là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”; “Đảng Cộng sản Việt Nam […] chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”; “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật”.
Những điều ghi trên đây là cần thiết, nhưng chưa đủ. Để đưa những nội dung rất quan trọng đã được ghi vào Hiến pháp như vừa nêu vào thực hiện trong cuộc sống một cách đúng đắn thì còn cần một hệ thống pháp luật quy định rõ "Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội" là thế nào, Ban lãnh đạo cũng như người đứng đầu cơ quan lãnh đạo Đảng các cấp được làm gì và không được làm gì; quy định rõ cơ chế “chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình” là thế nào…
Báo cáo Chính trị trình Đại hội XII và một số Đại hội Đảng trước đó cũng thừa nhận một phần nội dung còn khiếm khuyết này: “Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước còn những nội dung chưa rõ; phương thức và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở các cấp còn nhiều điểm chưa được chế định rõ và phù hợp với nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền”.
Chúng ta đã hình thành được hệ thống pháp luật để thực hiện vế “Nhà nước quản lý”, thì không khó khăn gì trong việc hình thành hệ thống pháp luật để thực hiện hai vế còn lại, nhất là vế “Đảng lãnh đạo”. Hệ quả của khiếm khuyết nêu trên là chúng ta vẫn chưa hoàn toàn xóa bỏ được tình trạng “hai chính quyền song song tồn tại trong một nhà nước thống nhất” trong quản trị quốc gia. Hệ lụy của sự chậm trễ này, có nhiều. Dưới đây, xin nêu vài chuyện:
Thứ nhất, trên thực tế, lâu nay Đảng nắm quyền quyết định tuyệt đối trong một số lĩnh vực quan trọng. Thí dụ, Đảng nắm quyền quyết định tuyệt đối về công tác cán bộ, không có ngoại lệ. Bao giờ lãnh đạo Đảng cũng là người đầu tiên đưa quyết định liên quan đến các chức danh quản lý  trong hệ thống chính quyền Nhà nước, thăng quân hàm trong các lực lượng vũ trang. Sau đó hệ thống chính quyền Nhà nước chỉ làm các thủ tục có tính chất hành chính tiếp theo.
Ở đây, chưa cần bàn việc Đảng nắm quyền quyết định tuyệt đối về công tác cán bộ như vừa nêu có hợp lý hay không, mà điều cần bàn là việc Đảng nắm quyền quyết định tuyệt đối đó được quy định tại văn bản pháp quy nào? Dường như chưa hề có văn bản pháp lý nào quy định Đảng làm việc cụ thể ấy.
Thứ hai, các văn kiện chính thức đã nói nhiều về sự “chồng chéo”, “lấn sân”, “làm thay”… trong việc ra các quyết định trong điều hành phát triển đất nước, nhưng thường nói về khiếm khuyết này trong nội bộ hệ thống.
Đã có một vài dẫn chứng về “chồng chéo”, “lấn sân”, “làm thay” giữa “hai hệ thống chính quyền”. Chẳng hạn, trong cuộc sống có vô số công việc liên quan đến quản trị quốc gia, theo hệ thống pháp luật hiện hành đã quy định rất rõ, là việc của cơ quan quản lý Nhà nước, nhưng cơ quan Đảng tự mình vẫn ban hành quyết định và yêu cầu mọi người dân phải chấp hành.
Hoặc cũng có vô số công việc, theo hệ thống pháp luật hiện hành quy định, đó đích thực là việc của cơ quan quản lý Nhà nước. Nhưng vì nhiều lý do khác nhau, cơ quan quản lý Nhà nước luôn “xin ý kiến chỉ đạo” của cơ quan lãnh đạo Đảng tương ứng, mà thực chất là xin quyết định của lãnh đạo cơ quan Đảng đó.
Cả hai tình huống vừa nêu xảy ra cả ở Trung ương lẫn địa phương, nhưng càng xuống cấp dưới xảy ra càng phổ biến hơn.
Hậu quả để lại của các tình huống vừa nêu là không tốt, cũng có thể nói là xấu. Hậu quả xấu thường hay nhắc tới là bộ máy quản lý phình to, kém hiệu quả… Đó chỉ là phần không lớn, phần nổi của hậu quả xấu. Hậu quả nặng nề nhất của tình trạng nêu trên là gây ra sự mâu thuẫn, chậm trễ không đáng có trong việc ra quyết định điều hành, phát triển đất nước.
Bởi chậm trễ trong việc đưa ra các quyết định liên quan đến quản trị quốc gia luôn gắn với “lỡ nhịp”, gắn với “mất cơ hội”. Mà mất cơ hội để đi lên là mất mát tiền của của dân, mất cơ hội phát triển, tụt hậu ngày càng xa so với các quốc gia khác… 
Thứ ba, tuy Hiến pháp quy định rõ: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật”; Đảng “chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”, nhưng trên thực tế, hình như chưa có văn bản pháp quy nào thể chế hóa “khuôn khổ” nêu trong Hiến pháp, cũng như chưa có văn bản pháp quy nào  quy định trách nhiệm pháp lý và vật chất trước dân về các quyết định do Đảng đưa ra.
Đương nhiên từ đó Đảng không chịu sự giám sát, kiểm soát của dân một cách cụ thể và sát thực. Tha hóa luôn gắn liền với quyền lực. Đảng ta đang ra sức chống tha hóa đối với từng cán bộ, đảng viên. Nhưng người viết cho rằng loại bỏ cho kỳ được nguyên nhân sinh ra tha hóa là quan trọng, là cơ bản hơn nhiều.
Bài viết đã quá dài, xin phép dừng ở đây. Lần nữa, rất hoan nghênh VietNamNet mở Diễn đàn “Vì Việt Nam hùng cường”. Tôi cho rằng đây là nơi rất tốt để mọi người tâm huyết nêu thực trạng, nguyên nhân cốt lõi của tình hình và kiến nghị của mình để làm sao cho Việt Nam thịnh vượng. Nếu được phép, tôi sẽ cùng mọi người tìm cách trả lời các khía cạnh khác nhau của các câu hỏi do Diễn đàn nêu ra và tôi có nhắc lại tại các bài viết trước.
H.L. 
Nguồn: 
https://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/tieudiem/doi-moi-quan-tri-quoc-gia-de-viet-nam-thinh-vuong-504318.html?fbclid=IwAR24UHxPuRTb_38n0qtNaWrUGGa0jFQGJQT8MckPBj_XQMOOjS0GyRvnJt8



ĐẢNG VIÊN TRỪ, ĐẢNG VIÊN SẠCH VÀ CHUYỆN 'THÀ ÍT MÀ TỐT'

VŨ LÂN/ TVN 29-1-2019

Việc có công cụ để đo đếm, thanh lọc những “đảng viên trừ”, “đảng viên sạch” làng nhàng là quan trọng và cần thiết để đội ngũ đảng viên dù ít nhưng mà tốt.
LTS:Công tác cán bộ được coi là khâu đột phá, then chốt để xây dựng Đảng vững mạnh. Như Bác Hồ từng chỉ ra “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”.
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Đảng 3/2, Tuần Việt Nam trân trọng gửi đến độc giả loạt bài xoay quanh vấn đề được rất nhiều người quan tâm này.
Cuối năm 2018, Ban Bí thư Trung ương đã họp, cho ý kiến về việc ban hành Chỉ thị về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những người không còn đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng. Trong phát biểu của mình, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh việc tập trung vào khâu kết nạp Đảng, giáo dục, rèn luyện, sàng lọc, xử lý cán bộ đảng viên, chống cho được tình trạng suy thoái hiện nay, khắc phục tình trạng “đông nhưng không mạnh”, “hữu danh vô thực”.
Cách đây gần một thế kỷ, trong bài viết “Thà ít mà tốt” đăng tải trên tờ Pravda, Lê-nin nói rằng “Đảng viên hữu danh vô thực” thì cho không cũng không cần.
Còn 25 năm trước, trong cuốn sách nhỏ Văn hóa và đổi mới, Nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Cố vấn BCH Trung ương Đảng cũng đã thổ lộ tâm sự về tình trạng của Đảng ta lúc bấy giờ là đảng viên nhiều mà không mạnh; đảng viên thì nhan nhản, cộng sản thì vắng bóng. Hồi đó, bên ngoài xã hội cũng có một số ý kiến dị nghị về nhận xét này của ông, cho rằng nhận xét hơi quá, không phản ánh đúng sự thật. 

Đảng viên trừ, đảng viên sạch và chuyện ‘thà ít mà tốt’
Cán bộ được coi là khâu đột phá, then chốt để xây dựng Đảng vững mạnh. Ảnh minh họa: Lê Anh Dũng
Một thời gian ngắn sau đó, trên Tạp chí Cộng sản số 2/1995, ông Nguyễn Phú Trọng, khi đó là Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản, đã giới thiệu cuốn sách nói trên bằng bài viết “Định hướng xã hội chủ nghĩa là văn hóa”. Bài báo của ông có đoạn viết: “Nhân tố hàng đầu quyết định tính định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Hiện nay, sự lãnh đạo của Đảng, sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, tính tiền phong gương mẫu (cả về trí tuệ và phẩm chất) của cán bộ, đảng viên có ý nghĩa cực kỳ quan trọng”. Nhận xét này rất nhất quán và phù hợp với tình hình hiện nay của đất nước ta.
Tình trạng đảng viên đông mà tổ chức đảng không mạnh có nhiều nguyên nhân, trong đó có tình trạng nể nang, né tránh, dĩ hòa vi quý trong nhận xét, phân loại đảng viên từ chi bộ đảng. Nhiều người không xứng đáng là đảng viên, thậm chí vi phạm kỷ luật của Đảng như bỏ sinh hoạt nhiều lần liên tục không có lý do chính đáng; có những đảng viên cả năm không liên hệ với cấp ủy nơi cư trú, không gắn bó với quần chúng, nhân dân... nhưng vẫn được chiếu cố không khai trừ mà chỉ bị xếp loại là “đảng viên trừ”, tức là có yếu kém một vài mặt công tác nào đó.
Ngoài đảng viên trừ, thì còn một kiểu được gọi là “đảng viên sạch”. Nhưng “đảng viên sạch” hoàn toàn không đồng nhất với “đảng viên trong sạch”. Trong cách gọi của Đảng, “trong sạch” bao giờ cũng đi liền với “vững mạnh” chứ không bao giờ trong sạch chung chung. Các văn kiện của Đảng bao giờ cũng gắn bó các cặp mệnh đề với nhau như: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng...” hoặc, “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh...”.
Những “đảng viên sạch” này không tham nhũng (có thể do không có điều kiện tham nhũng), không lãng phí do cũng không nắm giữ vị trí để mà có điều kiện lãng phí, không phiền hà, nhũng nhiễu, không nhận quà cáp, biếu xén, do không phải đối tượng có chức, có quyền để gây phiền hà, nhận quà cáp của người khác.
Người ta tưởng những đảng viên như thế là tốt, là quý cho Đảng rồi. Nhưng với tư cách của một đảng viên, một cán bộ cách mạng, trước quần chúng, nhân dân thì nếu chỉ như thế cũng chưa thật sự xứng đáng danh hiệu cũng như lời thề trước khi vào Đảng.
Đã là đảng viên phải tiên phong, gương mẫu, cương quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, bảo vệ cái đúng, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, nhưng cũng không nương tay, gượng nhẹ, bỏ qua, im lặng trước những hiện tượng tiêu cực trong Đảng, trong xã hội hoặc thờ ơ, vô cảm trước cái ác, cái xấu ở đời... Trong khi những “đảng viên sạch” này thấy cái tốt, cái đẹp, cái thiện không lên tiếng cổ vũ, ủng hộ, ra tay bảo vệ, thấy người xấu, việc xấu không dám tỏ thái độ lên án, cương quyết đấu tranh loại bỏ.
Những “đảng viên sạch” như vậy liệu có tác dụng gì góp phần nâng nêu gương, cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một tổ chức đảng? Đảng mà toàn những “đảng viên sạch” như vậy, liệu có đủ khả năng lãnh đạo, dân tộc, đất nước?
Trong các vị thuốc trong các bài thuốc dân gian nước ta có một vị thuốc được gọi với cái tên hoa mỹ là hoài sơn, dân gian gọi là gọi là củ mài. Củ mài có vị man mát, bô bổ. Nếu dùng đơn độc chỉ một vị hoài sơn thì tác dụng chữa bệnh rất kém, thành ra người ta bảo trong các vị thuốc có vị hoài sơn thì cũng tốt, không có thì cũng không sao.
Mọi sự so sánh đều khập khiễng, nhưng có người gọi những “đảng viên trừ” hay “đảng viên sạch” giống như củ mài trong vị thuốc Nam vậy.
Do vậy, ngoài một bộ phận không nhỏ đảng viên thoái hóa, biến chất, tự chuyển hóa, tự diễn biến như nghị quyết của Đảng đã chỉ ra, thì để cho Đảng trong sạch vững mạnh việc có công cụ để đo đếm, thanh lọc những “đảng viên trừ”, “đảng viên sạch” là quan trọng và cần thiết để đội ngũ đảng viên của đảng dù ít nhưng mà tốt.
Vũ Lân
TIN VÀ BÀI LIÊN QUAN:
ÔNG VUA CON, 'ÔNG CHỐNG LƯNG' THỜI @

ĐINH ĐỨC SINH/ TVN 30-1-2019
 Bước sang năm 2019, người dân trông đợi có bước đột phát để không một ông vua con nào còn tồn tại trong đời sống chính trị - kinh tế - xã hội đất nước.
LTS:Công tác cán bộ được coi là khâu đột phá, then chốt để xây dựng Đảng vững mạnh. Như Bác Hồ từng chỉ ra “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”.
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Đảng 3/2, Tuần Việt Nam trân trọng gửi đến độc giả loạt bài xoay quanh vấn đề được rất nhiều người quan tâm này.
Những “ông vua con” là thuật ngữ đã được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sử dụng để chỉ “một số người có chức có quyền giữ tác phong quan cách, gia trưởng”.
Khác với thời xưa chỉ có vua cha và một vua con là hoàng thái tử. Ngày nay, ông vua con vừa không do vua cha sinh ra, vừa không chỉ có một mà là rất nhiều “ông”, tạm gọi là những “ông vua con thời @”. Đặc điểm nổi bật của những “ông” này là “ăn của dân không từ một thứ gì”, là một phiên bản méo mó sinh ra từ bộ máy nhà nước.
Thật vậy, Nhà nước Việt Nam là nhà nước Của dân - Do dân - Vì dân. Bộ máy nhà nước của 30 năm kháng chiến giải phóng dân tộc (1945-1975), của 20 năm trăn trở và khởi động công cuộc Đổi Mới (1976-1995) đã làm nên biết bao kỳ tích mà không sinh ra ông vua con nào. Sau 50 năm kể trên, khi nền kinh tế phát triển, đã có của ăn của để thì trong bộ máy nhà nước bắt đầu xuất hiện những ông vua con, ban đầu chỉ là một bộ phận “nhỏ”, rồi “không nhỏ”, nay đã kết thành bè thành mảng, ngày càng đông đúc.
Những phần tử này từ đâu sinh ra thì đã rõ, nhưng vì sao lại hình thành và phát triển thì không phải dễ thấy, nhưng một số khâu đã dần dần hé lộ.
Ông vua con, ‘ông chống lưng’ thời @
Đặc điểm nổi bật của những “ông” này là “ăn của dân không từ một thứ gì”. Ảnh minh họa
Ở khâu tuyển chọn. Mặc dù khâu này đã có tiêu chuẩn, quy trình, ngày càng chi tiết, chặt chẽ nhưng nhiều khi lại bị những quy trình tự biên tự diễn về “chạy phiếu”, “chạy chức”, “chạy quyền”… vô hiệu hóa. Các quy trình “chạy” này đã đẻ ra những ông vua con “sành điệu” về luồn lách, đục khoét.
Ở khâu giao quyền. Trong bộ máy nhà nước, đâu đâu cũng thấy những người được giao làm Đại diện chủ sở hữu đối với những tài sản mà pháp luật quy định là thuộc sở hữu toàn dân. Mặc dù pháp luật không giao cho bất cứ cá nhân nào được làm “Đại diện toàn quyền” chủ sở hữu toàn dân, nhưng những ông vua con đã tự cho mình cái quyền đó.
Với quyền này, khi là người mua sắm tài sản cho nhà nước thì họ mua với giá cao hơn giá thị trường, còn khi là người bán họ lại bán với giá thấp hơn giá thị trường. Công khai, minh bạch, đấu thầu, đấu giá là những quy định bắt buộc trong các công việc thu chi ngân sách nhà nước, nhưng các ông vua con đã chủ động phớt lờ hoặc cố tình bỏ qua.
Tất cả đều nhằm tạo ra những chênh lệch giá, theo đó Nhà nước là người bị thiệt đơn thiệt kép, còn những ông vua con lại ngon lành vớ bẫm. Ở khâu giao quyền này, những ông vua con xuất hiện như nấm mọc sau mưa, thiên hình vạn trạng mà ngành nào, cấp nào cũng có.
Ở khâu thanh tra, kiểm tra, giám sát. Khâu này bao gồm một rừng thanh Bảo kiếm khiến những người ngay thẳng cũng phải dè chừng. Nhưng đối với những ông vua con thì những thanh Bảo kiếm này có vung lên hay không, vung lên rồi có chém xuống hay không, chém xuống nhưng có trúng đích hay không… tất cả còn tùy thuộc vào những “ông chống lưng” cho từng ông vua con.
Từ hơn chục năm trước Đại hội XII, đa phần các ông vua con đã thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật với bao “ấm ức thanh tra”, “qua loa giám sát”. Những công cụ pháp luật này chào thua khi gặp đội ngũ những “ông chống lưng”.
Ở khâu tai mắt nhân dân. Những ông vua con ở đâu, đi đâu, làm đâu, ăn đâu… nhân dân đều biết. Nhưng đối với những người là cấp dưới thì ít ai dám nói cái tật của họ; Những người cùng nơi cư trú với họ thì dù biết nhưng không có nghiệp vụ ghi lưu bằng chứng, nên tố ai nghe. Trong khi đó, những người là đại biểu của dân thì phải nói và làm theo nghị quyết của tổ chức, đoàn thể, đâu phải muốn xử là được đối với các ông vua con.
Vậy là, người dân dù với tư cách nào cũng ở vị trí yếu thế hơn so với các ông vua con, làm sao dẹp được họ. Thật ngạc nhiên, vẫn những người dân ấy, khi làm tai mắt để tìm bắt bọn trộm cắp không có chức tước thì hiệu nhiệm vô cùng, đố tên nào thoát lưới.
Ở khâu kỷ luật Đảng. Đây là khâu khắc tinh đối với các ông vua con. Nếu khâu này cũng mắc lỗi thì họ sẽ an toàn trên cả tuyệt vời. Nhưng thật không may cho họ bởi ngay sau Đại hội XII của Đảng, chính Tổng bí thư, người đã nhận diện loại “vua” này đã hạ quyết tâm cao để chống bọn “nội xâm” trong đó có những ông vua con với phương châm “sai đến đâu xử đến đó, không có vùng cấm”.
Nhiệm kỳ XII tuy mới đi được nửa chặng đường, nhưng nhiều ông vua con, kể cả những ông vua con rất to như Ủy viên Bộ chính trị, Ủy viên trung ương, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Bí thư và Phó bí thư cùng Chủ tịch và Phó chủ tịch cấp tỉnh, Thiếu tướng cùng Trung tướng và Thượng tướng đã lĩnh án kỷ luật Đảng nhiều mức. Kéo theo đó là việc mất hết mọi chức, quyền Nhà nước giao, cùng mọi bổng lộc, địa vị hoàng kim do tự biên tự diễn mà có của những ông vua con.
Để những ông vua con không thể tiếp tục sinh sôi
Như đã thấy, chỉ qua nửa nhiệm kỳ Đại hội XII, với chuyển biến có tính cách mạng về kỷ luật Đảng, một bộ phận trong bè mảng những ông vua con đã bị xử lý. Nhưng chắc chắn vẫn còn nhiều ông vua con vẫn chưa bị trừng trị hoặc vẫn trễm trệ trên ghế quyền lực để tiếp tục “ăn của dân không từ một thứ gì”. Cuộc chiến chống giặc nội xâm còn tiếp diễn.
Số phận những ông vua con được tạo ra trước Đại hội XII sớm muộn sẽ được định đoạt. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào khâu kỷ luật Đảng thì cuộc chiến này sẽ kéo dài tới vô tận bởi các khâu khác vẫn tiếp tục cho ra lò những ông vua con mới.
Để kết thúc cả một thời vùng vẫy của những ông vua con đã sinh ra và không để sinh ra thêm một ông vua con mới nào nữa thì các khâu khác phải cùng vào cuộc với tính cách mạng như khâu kỷ luật Đảng đã và đang làm.
Bước sang năm 2019, toàn dân đang đặt nhiều niềm tin vào những đột phá mới của đất nước, trong đó có đột phá để không một ông vua con nào còn tồn tại trong đời sống chính trị - kinh tế - xã hội đất nước với hy vọng rằng:
Việc tuyển chọn sẽ loại được những kẻ giỏi luồn lách, đục khoét;
Việc giao quyền sẽ loại ra được những kẻ tự cho mình có toàn quyền định đoạt các tài sản thuộc Sở hữu toàn dân do được giao quản lý;
Việc kiểm tra, thanh tra, giám sát sẽ vượt qua dược những “ông chống lưng”;
Việc giám sát của nhân dân sẽ được trao những thực quyền để họ và những đại diện của họ không còn bị yếu thế khi phải đương đầu không chỉ với những ông vua con mà cả với những “ông chống lưng” nữa.
TS. Đinh Đức Sinh
TIN VÀ BÀI LIÊN QUAN:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét