Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2019

20190106. BÌNH LUẬN VỀ CUỘC CHIẾN THƯƠNG MẠI MỸ-TRUNG

ĐIỂM BÁO MẠNG
TƯƠNG LAI NÀO CHO ĐỐI ĐẦU MỸ-TRUNG

NGUYỄN QUANG DY/ BVN 4-1-2019



Câu chuyện Mỹ-Trung tranh giành vị trí bá chủ thế giới như một vở kịch lớn nhiều tập vẫn đang tiếp diễn, với những màn kịch vẫn còn chưa biết. Tuy Mỹ-Trung ngừng bắn đã gần một tháng (từ 1/12/2018), nhưng con đại bàng Mỹ và con rồng Trung Quốc vẫn đang vờn nhau. Thỏa thuận ngừng bắn 90 ngày để đàm phán như một khoảng lặng trước cơn bão lớn. Bước vào năm mới 2019 với những bất định từ đối đầu Mỹ – Trung, chúng ta thử điểm lại một số sự kiện trong năm cũ 2018, vì câu chuyện năm mới thường bắt đầu từ năm cũ.
Cuối năm cũ có gì mới?
Hai năm qua, đã có 12 quan chức hàng đầu trong chính quyền Trump từ chức (hoặc bị sa thải). Bộ trưởng quốc phòng James Mattis là “người lớn” và vị tướng cuối cùng phải ra đi, sau H.R. McMaster (Cố vấn An ninh Quốc gia) và John Kelly (Chánh văn phòng Nhà Trắng). Tuy tin này không bất ngờ, nhưng Mattis từ chức chủ yếu vì bất đồng quan điểm với Trump về quyết định rút quân đột ngột khỏi Syria làm “giọt nước tràn ly”. Điều đó càng bộc lộ tình trạng bất hòa và bất ổn trong Nhà Trắng.  Đơn từ chức của Mattis đã nói lên nhiều điều.
Tại Lầu Năm góc, trong khi mọi người nghỉ lễ Giáng sinh và Năm mới, James Mattis phải dọn văn phòng để nghỉ việc luôn từ 1/1/2019 (chứ không phải 28/2/2018 như ông dự định). Trump đã nổi giận buộc Mattis nghỉ sớm 2 tháng chỉ vì ông đã chỉ trích tổng thống trong đơn từ chức, lại còn in ra 50 bản như truyền đơn để phân phát trong Lầu Năm góc. Mattis được nhiều người khen ngợi và nuối tiếc càng chọc tức Trump. Tuy Mattis ra đi là một điều đáng tiếc đối với nhiều người, nhưng nó phản ánh quan điểm của Trump. Trước mắt quyết định rút 2.000 quân khỏi Syria có vẻ gây sốc, nhưng về lâu dài nó phản ánh một tầm nhìn mới.
Trong bối cảnh tranh chấp chiến lược Mỹ-Trung, Mattis phải ra đi sớm hơn dự kiến để lại một lỗ hổng trong Nhà Trắng vì ông là tác giả chính của Chiến lược Quốc phòng (NDS) và tầm nhìn chiến lược “Indo-Pacific Mở và Tự do” (FOIP). Nhưng Trump bổ nhiệm Patrick Shanahan (thứ trưởng quốc phòng) là cánh tay phải của Mattis trong việc soạn thảo NDS. Tuy Shanahan cũng có lập trường cứng rắn đối với Trung Quốc, nhưng ông ủng hộ Trump về chủ trương lập bộ tư lệnh không gian (mà Mattis không tán thành). Trong khi nước Mỹ phân hóa và chia rẽ về nhiều vấn đề, hầu như tất cả đều đồng thuận chống Trung Quốc. Trump quyết định rút quân khỏi Syria (và Afghanistan) cũng nhằm mục đích tập trung chống Trung Quốc.
Trong khi Biển Đông trở thành tâm điểm (và “thùng thuốc súng”) trong tranh chấp chiến lược Mỹ-Trung, Việt Nam dễ bị mắc kẹt vào trò chơi quyền lực giữa hai siêu cường (hay “bẫy Thucydides”).
Dù Biển Đông dậy sóng hay tạm lắng thì Việt Nam (và các nước ASEAN) vẫn không yên.  Theo Carl Thayer, từ tháng 10/2018, Việt Nam đã “lặng lẽ” hủy bỏ 15 hoạt động giao lưu quốc phòng với Mỹ (kế hoạch năm 2019), vì “sợ làm mất lòng Bắc Kinh” (nếu không phải vì đạo luật CAATSA). Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng động thái này chỉ là “tình thế” vì hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt vẫn tiến triển tốt. Bộ trưởng quốc phòng Mỹ đã thăm Việt Nam 2 lần trong năm 2018. Theo Lê Hồng Hiệp, hành động của Trung Quốc tại Biển Đông có thể là nhân tố quan trọng nhất, quyết định tương lai hợp tác chiến lược Mỹ-Việt.
Vừa đánh vừa đàm
Ngoài những vấn nạn phải đối phó thường xuyên như biến đổi khí hậu (do thiên tai) và tham nhũng (do nhân họa), câu chuyện đầu năm đang làm thiên hạ đau đầu là cuộc chiến Mỹ-Trung. Trước thềm năm mới, Mỹ-Trung vừa hòa hoãn về thương mại, với “thỏa thuận ngừng bắn 90 ngày” tại Buenos Aires (1/12/2018), vừa triển khai chiến tranh lạnh về kinh tế, với vụ bắt “công chúa Huawei” (Mạnh Vãn Chu) tại sân bay Vancouver (1/12/2018).
Nếu 2018 là năm bản lề, đã mở ra bước ngoặt chiến lược (turning point) trong quan hệ Mỹ-Trung, từ hợp tác chuyển sang đối đầu, năm 2019 có thể kích hoạt cuộc chiến thương mại tới điểm bùng phát (tipping point), làm thay đổi bàn cờ Mỹ-Trung và trật tự thế giới. Tuy chưa biết Mỹ-Trung có bị xô đẩy vào “bẫy Thucydides” hay không, nhưng sang năm 2019, hình thái “vừa đánh vừa đàm” chắc vẫn là đặc trưng của trò chơi quyền lực Mỹ-Trung.
Khi cuộc chiến Mỹ-Trung leo thang và mở rộng, người ta mới nhận ra chiến tranh thương mại chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm”. Những góc khuất của “tảng băng chìm” đầy ẩn số và biến số đang lộ dần như các mảnh ghép của một chiến lược tổng thể mà Mỹ đang nhắm vào Trung Quốc. Nếu ta chỉ quan tâm đến chiến tranh thương mại, thì chỉ “thấy cây mà không thấy rừng” và bỏ qua bức tranh lớn. Sau một thời gian dài nước Mỹ như ngủ quên, nay đã thức tỉnh và điều chỉnh chiến lược, coi Trung Quốc là đối thủ số một (theo NDS).
Trong khi thỏa thuận ngừng bắn 90 ngày có thể đem lại “thế thượng phong” cho Trump, nó như “chiếc phao cứu sinh” đối với Tập Cận Bình. Nhưng có một sự kiện nằm ngoài dự kiến của Tập là Mạnh Vãn Chu (Meng Wanzhou) bị bắt tại sân bay Vancouver (1/12/2018), là một đòn bất ngờ làm Tập và Bắc Kinh mất mặt. Tuy không rõ Trump có biết hay không, nhưng Tập và các cố vấn chắc bị động và lúng túng nên mấy ngày sau mới có phản ứng. Quyết định bắt 2 công dân Canada là nhằm trả đũa và trấn an dư luận (để gỡ thể diện).
Như “họa vô đơn chí”, ngày 1/12/2018, giáo sư vật lý Trương Thủ Thịnh (Zhang Shou Cheng) đã bất ngờ nhảy lầu tự vẫn. Ông Trương và quỹ đầu tư Danhua Capital đang bị FBI điều tra vì liên quan đến chương trình “Nghìn Nhân tài” (Thousand Talents program), nhằm thu hút công nghệ và nhân tài về các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (big data), người máy (robotics) và blockchain.  Robert Lighthizer khẳng định(30/11/2018) Danhua Capital (vốn ban đầu US$434,5 triệu) liên quan đến kế hoạch “Made in China 2025”.
Theo chuyên gia Vũ Quang Việt, nếu Trung Quốc muốn vượt ra khỏi “bẫy thu nhập trung bình” (hiện nay là $8.000) phải có 3 yếu tố: (1) khả năng hấp thụ khoa học kỹ thuật và tự nghiên cứu phát triển; (2) khả năng vốn tự có, và (3) thị trường đủ rộng cho phát triển, đặc biệt là đẩy khu vực phát triển thấp bắt kịp khu vực phát triển cao trong nội địa. Nhưng nay cả 3 yếu tố này đang phụ thuộc nhiều vào hệ quả của cuộc chiến thương mại với Mỹ.
Chiến lược hay chiến thuật?
Trong bối cảnh đó, Tập đã tách vụ Mạnh Vãn Chu ra để trả đũa Canada, nhưng cố tránh gây căng thẳng với Mỹ vì ngừng bắn 90 ngày với Mỹ lúc này là nước cờ chiến lược quan trọng, nên Tập phải nuốt giận nhượng bộ Trump.  Ngoài quyết định mua 500.000 tấn đậu tương (trị giá $180 triệu) và giảm 25% thuế nhập khẩu ô-tô Mỹ (từ 40% xuống còn 15%), Bắc Kinh còn cấm bán sang Mỹ chất fentanyl (gây nghiện) và phạt thật nặng những ai vi phạm, đồng thời hứa xem xét lại vụ Qualcomm mua công ty NXP, và sẵn sàng mở cửa thị trường.
Tuy chưa rõ như vậy đã đủ để thuyết phục Trump hay vẫn “quá ít và quá muộn” (too little too late), nhưng qua vụ phạt ZTE (đã thành án lệ) và xử lý tiếp Huawei (đang diễn ra), Trump muốn tăng sức ép lên “chuỗi cung ứng” (như công nghệ 5G) là “gót chân Asin” của Trung Quốc. Huawei và ZTE là 2 chủ bài về công nghệ cao của Trung Quốc (Huawei lớn hơn ZTE 5 lần), nên chắc Tập phải cứu. Mới đây, Bắc Kinh có dấu hiệu điều chỉnh kế hoạch “Made in China 2025”, tuy chưa rõ đây là điều chỉnh chiến lược hay chỉ là chiến thuật.
Theo South China Morning Post, chính phủ Trung Quốc đã chỉ đạo các địa phương không tuyên truyền rầm rộ về “Made in China 2025” như trong ba năm vừa qua. Tuy Tập Cận Bình không dễ dàng đầu hàng Mỹ và bỏ kế hoạch chiến lược mang dấu ấn của mình, nhưng có thể ông đã nhận ra sai lầm và phải điều chỉnh. Bắc Kinh đang soạn thảo một kế hoạch mới để thay thế (vào đầu tháng 3/2019) chậm lại một thập kỷ (tới 2035). Tuy chưa rõ Henry Kissinger và Henry Paulson có thuyết phục được Tập đáp ứng các yêu sách của Trump không, nhưng theo yêu cầu của Tập, yêu sách 142 điểm của Mỹ được hai bên giữ kín (để giữ thể diện).
Trong khi đó, một số quan chức trong chính quyền Trump như bộ trưởng thương mại Wilbur Ross (có quan điểm ôn hòa) nghi ngờ kế hoạch mới của Bắc Kinh và cho rằng họ chỉ xuống thang để hoãn binh chứ chưa chịu từ bỏ kế hoạch “Made in China 2025”. Nên nhớ rằng báo cáo điều tra (từ  8/2017) của Đại diện Thương mại Mỹ theo Điều 301 Đạo luật Thương mại Hoa Kỳ (1974) là căn cứ cho chiến thương mại và danh sách 142 điểm mà Trump yêu cầu Bắc Kinh phải đáp ứng. Tháng trước, báo cáo cập nhật của văn phòng Lighthizer (USTR) vẫn khẳng định “Bắc Kinh chưa biết sợ (undaunting) và chưa làm gì để cải thiện tình hình”.
Quyết định của Trump cử Robert Lighthizer làm trưởng đoàn đàm phán với Trung Quốc chắc làm Bắc Kinh đau đầu. Vậy Lighthizer là ai? Tại một cuộc họp ở Nhà Trắng (8/2017), Robert Lighthizer đã lý giải đầy sức thuyết phục tại sao phải cứng rắn với Bắc Kinh, nên Trump đã lệnh cho ông điều tra và đề xuất các phương án triển khai. Trước đây, trưởng đoàn đàm phán thường là bộ trưởng tài chính (Steven Mnuchin) hoặc bộ trưởng thương mại (Wilbur Ross), nay Trump coi đàm phán với Trung Quốc là một ưu tiên hàng đầu, vì cơ hội tái cử năm 2020 phụ thuộc rất nhiều vào vấn đề này. Vì vậy, đây là một canh bạc lớn đối với Trump. Về con người và phong cách, Lighthizer và Trump tuy khác hẳn nhau, nhưng tư tưởng lớn gặp nhau.
Phần nổi của tảng băng chìm
Để tránh nhầm lẫn về khái niệm, trước hết “ngừng bắn tạm thời” (truce) là Mỹ tạm dừng chưa đánh thuế 25% để đàm phán tiếp (và nghỉ Giáng Sinh), chứ không phải “đình chiến” (ngừng bắn hẳn để chấm dứt chiến tranh). Thứ hai, “ngừng bắn tạm thời” chỉ liên quan đến cuộc chiến thương mại là “phần nổi của tảng băng chìm”, trong khi Mỹ-Trung xung đột trên nhiều lĩnh vực. Thứ ba, thời hạn 90 ngày chỉ là “hoãn binh” (chiến thuật), nhưng quá ngắn để Trung Quốc có thể chuyển đổi cơ cấu (structural changes) như Mỹ đòi hỏi.
Khi cuộc chiến leo thang, Tập và Trump đều cần hoãn binh để đối phó với những vấn đề nội bộ. Trong khi Trump bị sức ép từ thị trường chứng khoán và mấy bang trồng đậu tương, Tập phải đối phó với những vấn đề cấp bách trong nước tiềm ẩn rủi ro. Tuy Mỹ và Trung Quốc đã thông tin và lý giải khác nhau về thỏa thuận ngừng bắn 90 ngày, nhưng nếu Trung Quốc không thay đổi được trong 15 tháng qua thì làm sao họ có thể thay đổi trong 3 tháng tới.
Nói cách khác, trong khi Mỹ-Trung “đối đầu” (về chiến lược) thì họ “vừa đánh vừa đàm” (về chiến thuật). Trong bối cảnh đó, Mạnh Vãn Chu đã bị mắc kẹt trong trò chơi quyền lực mới như một tù binh hay con tin chờ quyết định dẫn độ. Mạnh Vãn Chu và Huawei bị cáo buộc đã gian lận để cung cấp thiết bị viễn thông cho Iran qua Skycom (một công ty con của Huawei) nên đã vi phạm lệnh trừng phạt của Mỹ (từ 2009 đến 2014). Theo các luật sư, một toà án tại New York đã có trát bắt Mạnh Vãn Chu từ 22/8/2018.
Theo Bloomberg (7/12/2018) nếu đàm phán thương mại đổ vỡ, và Trump áp thuế 25% lên toàn bộ hàng hóa của Trung Quốc (tổng cộng $517 tỷ), thì Trung Quốc có thể nguy to. Trong cuộc chiến thương mại “bất cân xứng”, Trump tin rằng sau “hiệp hai” Bắc Kinh sẽ “hết đạn” và tổn thất nặng nề. Các chuyên gia kinh tế dự báo sang năm 2019, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc sẽ giảm từ 6,5% xuống còn 5%, và chứng khoán Trung Quốc sẽ giảm 9,4%. Có lẽ Tập Cận Bình và các cố vấn chủ chốt đã tính toán lại, thấy cần phải xuống thang và đàm phán một thỏa thuận ngừng bắn, nhằm điều chỉnh kế hoạch trước khi quá muộn.
Gần đây, Viện Hoover (Standford University) phối hợp với George Washington University và Asia Society, đã quy tụ được một nhóm (working group) gồm 33 chuyên gia hàng đầu của Mỹ và một số nước khác, để phân tích những hoạt động của Trung Quốc nhằm gây ảnh hưởng đối với các lĩnh vực (quốc hội, chính quyền bang, cộng đồng Hoa kiều, trường đại học, viện nghiên cứu, báo chí, doanh nghiệp, và công nghệ) tại Mỹ và các nước khác. Đây là lần đầu tiên có một công trình nghiên cứu công phu và toàn diện, về thách thức của Trung Quốc trong hơn một năm qua. Tuy hầu hết các chuyên gia này trước đây đều ủng hộ chủ trương hợp tác với Trung Quốc (Constructive Engagement), nhưng nay chính họ lại đề xuất phải cảnh giác với Trung Quốc (Constructive Vigilance).
Việt Nam trong dòng thời cuộc
Tại diễn đàn “Vietnam Business Outlook 2019” (2/11/2018), tiến sỹ Vũ Thành Tự Anh (đại học Fulbright, thành viên tổ tư vấn của thủ tướng) đã nhận xét thẳng thắn “triển vọng kinh tế năm 2019 khá ảm đạm”. Nguyên nhân chủ yếu vừa do suy thoái kinh tế toàn cầu, vừa do tác động khó lường của cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung. Theo Tự Anh, không nên đặt vấn đề “Việt Nam được lợi gì từ cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung” (vì lợi bất cập hại). Một là, cuộc chiến này của Trump được sự đồng thuận của cả hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ. Hai là, cuộc chiến này không chỉ về thương mại mà là cuộc chiến tổng lực để sắp xếp lại trật tự thế giới. Ba là, còn nhiều rủi ro ở phía trước nên chớ vội lạc quan, vì “bên ngoài đang có bão”.
Theo Tự Anh, Việt Nam có nhiều cơ hội để tăng trưởng cao, nhưng khi thực hiện thì lưng chừng, nên kết quả cũng chỉ ở mức lưng chừng. Cứ sau 10 năm, lại có bất ổn vĩ mô xảy ra một lần. Năm nào kết thúc bằng số 9, thì kinh tế lại trục trặc do nền tảng tăng trưởng vĩ mô có vấn đề. Các bất ổn vĩ mô đã xảy ra trong các năm 1979, 1989, 1999, 2009. Năm 2019 chắc cũng không ngoại lệ (tuy đã ký CPTPP và có thể ký EVFTA). Đối với các hiệp định thương mại, ký kết và thực hiện không tương xứng. Ký hiệp định thương mại chỉ là cơ hội, còn tranh thủ được cơ hội hay không lại là chuyện khác (như bài học AFTA và WTO). Nguyên nhân do năng lực chúng ta chưa được chuẩn bị, “như bị trói chân tay rồi thả xuống nước để bơi”.
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ và cơ hội mới. Vấn đề là làm thế nào để nhận diện được nguy hay cơ, và khôn ngoan “biến nguy thành cơ”.  Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam có mấy rủi ro lớn: Một là độ mở cao và quá lệ thuộc vào xuất nhập khẩu; Hai là nhập siêu quá lớn (đặc biệt là với Trung Quốc); Ba là quá lệ thuộc vào đầu tư FDI như “bẫy gia công” (chiếm 50% tổng thu nhập và 70% hàng xuất khẩu); Bốn là bội chi ngân sách quá cao (tới 6% GDP); Năm là vay mượn quá nhiều (mắc vào “bẫy nợ công”).
Theo chuyên gia Vũ Quang Việt (TBKTSG, 3/9/2018), Việt Nam nợ Trung Quốc hơn $6 tỷ trong tổng số nợ nước ngoài gần $100 tỷ. Tuy khoản nợ này không lớn bằng các nước khác, nhưng đủ lớn để gây sức ép với Việt Nam như “bẫy nợ”, trong bối cảnh tài khóa bất ổn hiện nay. Gần đây, Trung Quốc tăng cường ép Việt Nam “gác tranh chấp để cùng khai thác dầu khí tại Biển Đông”, như ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã nói (Sài Gòn, 16/9/2018): “Cách tốt nhất để kiểm soát bất đồng trên biển là hợp tác khai thác trên biển”. Đó là cái bẫy mà Việt Nam và Philippines cần tránh, như Malaysia gần đây đã tỉnh ngộ và thủ tướng Mahathir gọi đó là “chủ nghĩa thực dân kiểu mới”. Trong khi đó, Mỹ rất cảnh giác và sẵn sàng đánh thuế cao (tới 25% -35%) lên các mặt hàng của Việt Nam có xuất xứ từ Trung Quốc. Riêng đối với thép Trung Quốc sản xuất tại Việt Nam, Mỹ có thể đánh thuế tới 256%.
Vũ Quang Việt cho rằng kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc vào Trung Quốc. Đến nay, Trung Quốc làm chủ thầu 49/62 dự án xi măng; 16/27 dự án BOT, 90% dự án EPC. Năm 2017 Việt Nam nhập từ Trung Quốc $57 tỷ hàng hóa (bằng 30% tổng giá trị nhập khẩu), đưa mức nhập siêu lên $26,3 tỷ (bằng 10% GDP). Hệ thống viễn thông của Việt Nam cũng dựa vào công nghệ của Trung Quốc. Trong khi Viettel dựa vào Huawei để xây dựng hạ tầng viễn thông 3G, và dựa vào ZTE về điện thoại, thì VNPT cũng dùng công nghệ ZTE, trong khi ZTE và Huawei đang bị các nước Mỹ, Anh, Nhật, Úc, Canada tẩy chay (hoặc cấm) vì an ninh quốc gia.
Tuy chưa biết xu thế đối đầu Mỹ-Trung sẽ kéo dài bao lâu, nhưng xu thế hợp tác đã kéo dài bốn thập niên (quá lâu). Cuộc chiến Mỹ-Trung sẽ không kết thúc ngay cả khi Trump và Tập ký hiệp định hòa hoãn, vì đây là cuộc chiến của thế kỷ 21 để định hình lại trật tự thế giới. Trong khi một số nước xoay trục để “thân Trung” (như Philippines) là hiện tượng nhất thời (có thể đảo ngược), các nước khác xoay trục để “thoát Trung” (như Malaysia) là hiện tượng phản tỉnh (backlash) nên là xu hướng khó đảo ngược. Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần cải cách thể chế và điều chỉnh chiến lược để kiến tạo một “không gian sinh tồn” an toàn hơn.
N.Q.D.
---
Ông Nguyễn Quang Dy đã từng học tập và nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Úc (ANU, 1976-1979), Đại học Harvard (Nieman Fellow, 1992-1993), công tác tại Bộ Ngoại giao (1971-2005). Ông là chuyên gia về nghiên cứu quốc tế, truyền thông báo chí, và đào tạo; đã làm cố vấn cấp cao cho một số tổ chức/chương trình đào tạo; hiện nay là nhà báo tự do và nghiên cứu/tư vấn độc lập.
Nguồn: http://nghiencuuquocte.org/2019/01/03/tuong-lai-nao-cho-doi-dau-my-trung/

VIỆT NAM LÀM GÌ TƯỚC CUỘC SO GĂNG TRUNG-MỸ (PHƯƠNG TÂY)?

NGUYỄN ANH TUẤN/ BVN 4-1-2019

Nguồn ảnh: Global Times

BẢN CHẤT CUỘC SO GĂNG

Không giống như sự nổi lên của Nhật Bản thập niên 70s-80s biến nước này thành một hội viên được đón chào của câu lạc bộ phương Tây, sự trỗi dậy của Trung Quốc mang dáng dấp của Nga Sô sau Thế Chiến II ở chỗ đều thách thức trật tự quốc tế hiện hành do phương Tây kiểm soát với sự tự tin rằng họ đang vận hành một mô hình phát triển ưu việt hơn.
Những thành tựu phát triển của Nga Sô thời bấy giờ và của Trung Quốc hiện nay quả nhiên có thể biện minh cách tiếp cận này của họ. Hơn thế nữa, trở thành siêu cường khi mà phương Tây đã bao vây khắp mọi nơi, không có nhiều lựa chọn cho Nga Sô và Trung Quốc trong cuộc cạnh tranh sinh tồn này ngoài việc phải xô đổ trật tự cũ. Nếu Nga Sô phải phá vòng vây bằng cách hỗ trợ các dân tộc thuộc địa vùng lên chống thực dân phương Tây và sau đó tham gia vào hệ thống XHCN do họ dẫn dắt, thì Trung Quốc đang tổng hợp những nỗ lực tương tự của mình trong Sáng kiến Vành đai Con đường đầy tham vọng nhằm chia lại vùng ảnh hưởng toàn cầu.
Như vậy, cũng như Nga Sô trước đây, cuộc so găng của Trung Quốc với phương Tây không chỉ bó hẹp trong một lãnh vực cụ thể mà thực chất là sự cạnh tranh chiến lược giữa hai mô hình phát triển:
- Về kinh tế, một bên nhấn mạnh vai trò quyết định của nhà nước, bên kia coi trọng sáng kiến tư nhân.
- Về chính trị, một bên tăng cường độc đoán cưỡng bách đảng trị, bên kia dựa vào dân chủ tự do pháp trị.
Bản chất mô hình phát triển dựa vào nhà nước là không khác nhưng Trung Quốc hơn Nga Sô ở chỗ tận dụng thành công bối cảnh toàn cầu hoá để học hỏi phương Tây bổ sung các yếu tố thị trường vào nền kinh tế; và cũng vì thế mà kém Nga Sô ở chỗ chưa thể xây dựng một hệ thống toàn cầu theo mô hình của mình bởi lẽ chính Trung Quốc cũng chưa đủ thời gian để hệ thống hoá chặt chẽ một mô hình mà họ chỉ mới mày mò nhờ ‘dò đá qua sông’. Nghĩa là hơn Nga Sô về chiến thuật nhưng kém về chiến lược vậy.
ĐẤU TRƯỜNG CHÍNH CỦA CUỘC SO GĂNG
Lenin từng nói một câu mà hậu bối của ông ít khi muốn nhớ, rằng xét đến cùng chủ nghĩa xã hội nếu muốn thắng chủ nghĩa tư bản sẽ phải thắng về năng suất lao động [1]. Cuộc đối đầu giữa các mô hình phát triển cuối cùng cũng nằm ở chỗ mô hình nào tạo ra năng suất lao động cao hơn.
Đó là lý do vì sao người ta đang dần nhận ra cuộc chiến Mỹ-Trung hiện nay chính yếu không phải về thương mại, mà là về công nghệ [2] - yếu tố quan trọng bậc nhất để tăng năng suất. Điều này cũng giải thích vì sao hai nước vừa tuyên bố đình chiến thương mại tạm thời nhưng ngay sau đó con gái chủ tịch Huawei - tập đoàn chủ đạo trong tham vọng cường quốc công nghệ của Trung Quốc - vẫn bị bắt.
Trung Quốc hiểu hơn ai hết tầm quan trọng của vấn đề này khi mà sự phát triển vượt bậc vài thập kỷ qua của họ không dựa vào công nghệ phát triển tự thân. Phương Tây sáng tạo công nghệ, Trung Quốc sao chép và tận dụng lợi thế quy mô (economies of scale) không thể so bì của mình để tăng năng suất, giảm giá thành rồi tranh thủ bối cảnh toàn cầu hóa để vươn lên thành thế lực sản xuất hùng mạnh bậc nhất.
Công thức phát triển này của Trung Quốc, bởi vậy, đặt trọng tâm vào việc sao chép công nghệ của phương Tây bằng 3 cách thức chủ yếu sau: (1) gián điệp công nghệ; (2) mua bán và sát nhập tập đoàn phương Tây để chiếm lấy công nghệ; (3) dùng thị trường nội địa khổng lồ để áp lực các tập đoàn phương Tây muốn làm ăn ở Trung Quốc phải chuyển giao công nghệ.
Không phải Tây phương không nhận ra chiến lược này của Trung Quốc, song chỉ khi họ vỡ mộng rằng sự phát triển kinh tế của Trung Quốc không dẫn đến cởi mở về chính trị mà trái lại còn giúp gia tăng quyền lực độc đoán đảng trị, và bừng tỉnh rằng siêu cường mới nổi này muốn tiếp bước Nga Sô thách thức trật tự quốc tế hiện hành, họ mới bắt đầu ra tay tấn công vào công thức phát triển của Đại lục với 3 đòn tương ứng sau: (1) truy bắt gián điệp công nghệ; (2) siết chặt việc mua bán và sát nhập có yếu tố Trung Quốc (qua cơ chế CFI/Ủy ban Đầu tư Nước ngoài); và (3) đẩy mạnh thương chiến nhằm sắp xếp lại chuỗi sản xuất toàn cầu vào tạo thế bảo vệ các tập đoàn làm ăn trên đất Trung Quốc.
Trung Quốc quả thật nên lo lắng, nhất là khi mới đây họ đã thất bại trong việc dùng lợi ích gây chia rẽ nội bộ khối Tây phương [3] và đang chứng kiến mỗi khi một quốc gia Tây phương ra đòn thì cả khối lại hùa theo hưởng ứng. Giờ đây vận mệnh của Trung Quốc, như Tập tuyên bố, sẽ được đặt trong nỗ lực của quốc gia này tự lực phát triển công nghệ [4].
PHE NÀO SẼ THẮNG?
Thái độ cẩn trọng không cho phép chúng ta dựa trên thiên kiến mà vội vàng đưa ra câu trả lời, đặc biệt khi chứng kiến sự phát triển vũ bão của Trung Quốc vài thập niên qua.
Tuy nhiên nếu đồng ý rằng công nghệ là đấu trường chính của cuộc so găng, Trung Quốc rõ ràng đang gặp quá nhiều bất lợi:
Đầu tiên, những diễn biến thời gian gần đây cho thấy mặc dù rất nỗ lực, Trung Quốc vẫn chưa chế ngự được khả năng sáng tạo công nghệ. Sự khốn đốn của ZTE - tập đoàn công nghệ hàng đầu Trung Quốc, dưới lệnh cấm vận công nghệ của Hoa Kỳ là một minh chứng không thể rõ nét hơn.
Hơn thế, trong khi nhiều nghiên cứu chỉ ra tự do chính trị quan trọng thế nào đối với khả năng sáng tạo về dài hạn [5], yếu tố này lại không thể chấp nhận được đối với mô hình phát triển của Trung Quốc. Nghĩa là tham vọng tự lực công nghệ thông qua chiến lược Made in China 2025 của họ, ngay cả khi không bị để ý cũng đã không dễ thành công, huống hồ hiện nay lại đang là đích nhắm tấn công của toàn khối Tây phương thì lại càng khó khăn bội phần.
Hi vọng sót lại của Trung Quốc được nuôi dưỡng bằng niềm tin rằng tinh thần quốc gia phục thù một khi được thổi bùng lên sẽ là nhiên liệu cho cỗ máy sáng tạo quốc gia như những gì từng xảy ra ở Đức sau Thế Chiến I.
Chưa rõ nỗ lực này sẽ đi về đâu nhưng nếu nhớ rằng trong khi Đức thuộc về nòng cốt của khối Tây phương, thừa hưởng sinh lực sáng tạo mạnh mẽ bắt rễ trong lối nghĩ, lối sống lý tính hóa cao độ hàng trăm năm của Tây phương nên đã chế ngự được khả năng sáng tạo, thì Trung Quốc, dù tăng trưởng liên tục những thập kỷ vừa qua nhưng chỉ mới chập chững những bước đầu tiên trong việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, sẽ thấy hy vọng của Trung Quốc dẫu chưa tới mức ảo tưởng nhưng vẫn khá mong manh.
Một thước đo khác, trực quan hơn, có thể giúp dự đoán kết quả cuộc so găng. Sáng tạo vốn dĩ gắn liền với nhân tài, là sản phẩm của cá nhân và tập thể nhân tài. Thử xem nhân tài trên thế giới đã, đang và sẽ đổ về Mỹ và phương Tây hay là về Trung Quốc để thấy viễn cảnh Trung Quốc u ám ra sao nếu vẫn đẩy quốc gia dấn sâu vào cuộc cạnh tranh chiến lược này [6].
VIỆT NAM PHẢI CHỌN
Câu hỏi đầu tiên đặt ra là liệu Việt Nam có thể đứng bên lề cuộc so găng lịch sử này với một tư thế trung lập được không?
Khả năng cao là không. Việt Nam là một nước nhỏ yếu nằm ở vị trí trung tâm của đấu trường so găng là khu vực Biển Đông, mà đã nhỏ yếu thì khó thoát vòng chi phối của các siêu cường mỗi khi họ đụng độ. ‘Các nước Đông Nam Á có thể bị buộc phải chọn một trong hai’ [7], lời phát biểu mới tháng trước của Lý Hiển Long tuy ngắn gọn nhưng đủ cho thấy đảo quốc này, nhờ đứng chân trên một di sản và kinh nghiệm ngoại giao phong phú, đã thấu hiểu thời cuộc ra sao.
Nghĩa là, dù Việt Nam có muốn hay không thì các siêu cường cũng sẽ tính toán trên lưng các nước nhỏ như Việt Nam, thế thì chi bằng Việt Nam chọn lựa vị trí của mình trước, ít ra cũng chiếm được đôi chút thế chủ động.
Tuy đáng lo ngại khi lịch sử chứa đầy các ví dụ cho thấy nước nhỏ, gồm cả Việt Nam, đã trở thành chiến trường ủy nhiệm của các siêu cường ra sao, nhưng lịch sử đồng thời cũng cho thấy các quốc gia chậm tiến chỉ có thể phát triển vượt bậc nhờ khéo léo khai thác mâu thuẫn giữa các siêu cường như thế nào. Nếu Nhật Bản nương vào cuộc tranh giành thuộc địa giữa các thực dân Tây phương thì Hàn Quốc tận dụng mâu thuẫn Chiến tranh Lạnh, nếu Đài Loan khai thác thù địch Mỹ-Trung thì chính Trung Quốc sau đó lại chủ động khoét sâu mâu thuẫn Mỹ-Nga Sô (mà việc xâm lược Việt Nam năm 1979 là một phần trong kế hoạch đó) - tất cả đều là để tìm cơ hội phát triển và hiện đại hóa quốc gia.
Vì sao lại thế? Vì chỉ khi đụng độ lớn các siêu cường mới sẵn sàng hỗ trợ hết mình cho đồng minh nhược tiểu nhằm phục vụ cho lợi ích của chính các siêu cường. Bên cạnh đó, vì nhu cầu chứng minh mô hình phát triển của mình là tốt nhất, sự hỗ trợ của các siêu cường cũng mang tính toàn diện, không chỉ gói gọn trong lãnh vực quân sự, mà lan rộng ra cả kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, xã hội.
Hiểu như thế để thấy Việt Nam chẳng nên lo ngại cuộc so găng lịch sử này mà trái lại cần hoan nghênh nó như một cơ hội, nếu đã coi phát triển quốc gia là mục tiêu tối thượng.
Cũng có nghĩa là, câu hỏi bây giờ không phải là có chọn phe hay không, mà là phải chọn phe nào?
CHỌN PHE NÀO?
Với những phân tích ở trên rõ ràng là nên nghiêng về phương án Mỹ/phương Tây bởi ưu thế vượt trội của phe này. Thực tế thì tất cả những nước Đông Á kể trên (Nhật, Hàn, Đài, Trung) cũng đã từng lựa chọn tương tự trong những thời điểm quốc gia đòi hỏi hiện đại hóa.
Đó là chưa nói đến có nhiều lý do khiến việc đứng về phe Trung Quốc không hề đảm bảo một kết cục tốt đẹp.
Trước hết, chiến lược ngoại giao bẫy nợ của Trung Quốc đang dấy lên lo ngại khắp nơi và thực tế là chưa có nước nhỏ yếu nào trở nên thịnh vượng nhờ gắn vận mệnh của mình vào Trung Quốc khi mà cách tiếp cận cùng thắng (win-win) chưa bao giờ là ưu tiên của quốc gia này.
Thứ nữa là tâm lý chống Trung Quốc lan rộng của người dân Việt Nam, hàm ý rằng ngay cả khi những người lãnh đạo bằng cách nào đó nhìn thấy lợi ích quốc gia trong việc tăng cường hợp tác với Trung Quốc thì sự hợp tác đó cũng khó lòng được công chúng ủng hộ, nghĩa là đã để ngỏ sẵn sự thất bại.
Cuối cùng nhưng quan trọng không kém là hồ sơ tranh chấp chủ quyền biển đảo sẽ khiến mọi chọn lựa đứng về phía Trung Quốc, nếu thành hiện thực, đồng nghĩa với đánh đổi chủ quyền quốc gia trên thực tế.
PHẢI LÀM GÌ?
Ngoại giao dù khéo léo đến đâu chỉ có thể trì hoãn chứ không thể chấm dứt được hiểm họa bành trướng Trung Quốc phủ bóng lên dân tộc chúng ta, và cũng không thể ngăn các siêu cường thương lượng trên lưng những nước nhược tiểu như chúng ta.
Ở một vị trí như nước ta trong tình thế hiện nay, ngoại giao cùng lắm chỉ giúp mua thời gian để chúng ta hiện đại hóa quốc gia nhanh nhất có thể. Mục tiêu của chúng ta không bao giờ là đổi danh dự lấy hòa bình để rồi đánh mất cả hai trong ô nhục, mà phải tìm mọi cách để xây dựng quốc gia hùng mạnh nhất có thể. Chỉ khi quốc gia chúng ta đủ hùng mạnh thì Trung Quốc mới phải cân nhắc thật kỹ trước khi chọn chúng ta làm đối tượng bành trướng của họ, và chính chúng ta mới đủ khả năng xoay sở vượt thoát thân phận con cờ trên bàn cờ nước lớn.
Mà muốn thế thì:
Đầu tiên, phải xóa bỏ tâm lý yếm thế, lo ngại xung đột của một thứ chủ nghĩa hòa bình thiếu chân đế. Nếu tin rằng phát triển quốc gia là mục tiêu tối thượng, trước là để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ sau là để dân tộc có cơ ngẩng mặt lên, chúng ta phải hoan nghênh và đón chào cuộc so găng lịch sử này như một cơ hội trăm năm cho dân tộc chúng ta. Vì rằng ngay cả khi chúng ta ở một vị trí chiến lược song nếu không có mâu thuẫn giữa các siêu cường thì chúng ta cũng chẳng vin vào đâu để phát triển vượt bậc cho được; tương tự, nếu mâu thuẫn giữa các siêu cường có nảy sinh đi chăng nữa nhưng nếu chúng ta nằm ngoài khu vực đấu trường trung tâm thì cũng rất khó tìm thấy cơ hội.
May thay chúng ta chẳng những có cả hai mà lại đang sở hữu lợi thế thời gian vì cuộc mâu thuẫn này chỉ mới chớm nở và còn nhiều đánh giá khác nhau xung quanh nó. Nhiều người, dựa trên tính khí thất thường của Trump cũng như động thái xuống nước gần đây của Trung Quốc, nghĩ rằng cuộc đụng độ này chỉ khởi lên tạm thời và mang tính chất giai đoạn, trong khi chúng ta, nhìn vào đồng thuận chống Trung Quốc của giới lãnh đạo chính trị phương Tây hiện nay [8] và dựa trên trải nghiệm va đập với Trung Quốc suốt chiều dài lịch sử của chính chúng ta, sẽ thấy cuộc so găng chiến lược này còn kéo dài, mở rộng nhiều thập kỷ tới, và Trung Quốc sẽ không bao giờ dừng lại cho đến khi nó thất bại. Thời gian ở đây là một lợi thế chỉ khi chúng ta nhanh chóng đưa ra quyết định chọn phe của mình thay vì mải mê đu dây, bởi lẽ một khi cuộc đụng độ đã định hình, phe phái đã phân chia, sự lựa chọn chậm trễ của chúng ta sẽ không còn ý nghĩa, hay nói đúng hơn, chúng ta khi đó sẽ không còn quyền chọn lựa nữa.
Sau khi đã có một thái độ đúng đắn với cuộc so găng lịch sử và chọn đúng phe của mình, chúng ta mới có thể đưa ra những đối sách phù hợp. Đó là dù có khoác mặt nạ ngoại giao hòa hiếu với Trung Quốc tới cỡ nào, chúng ta cũng phải ý thức rõ rằng đó chỉ để mua thời gian nhằm ra sức hợp tác toàn diện với Mỹ và phương Tây, vốn đã tỏ rõ đồng thuận mong muốn một Việt Nam thịnh vượng (dĩ nhiên là vì lợi ích chiến lược của chính họ). Sự hợp tác này phải ở mức đồng minh bất luận tên gọi của nó là gì, phải đủ toàn diện ở tất cả các lãnh vực kinh tế, giáo dục, chính trị, quân sự, xã hội và với cả ba chủ thể là nhà nước, thị trường, xã hội dân sự, phải đủ sâu sắc tới mức tạo được sự chuyển biến về chất. Trong sự hợp tác toàn diện đó, lẽ dĩ nhiên là nước chậm tiến đi sau, Việt Nam phải đóng vai một người học trò siêng năng, học lấy học để một cách chủ động như Nhật, Hàn, Đài, Trung đã từng (nghĩa là không chỉ sao chép máy móc mô hình), và còn phải chạy đua với thời gian, vì như đã nói, ngoại giao dù khéo léo đến đâu cũng không kéo dài được cuộc hòa hoãn quá lâu. Sự chủ động của chúng ta là tối quan trọng: chúng ta phải đòi hỏi hợp tác 10 ngay cả khi họ chỉ sẵn lòng hợp tác 1, chứ không phải ngược lại như hiện nay.
Dĩ nhiên là sẽ có những trở ngại đến từ thế chế chính trị hiện hành của Việt Nam nhưng cần lưu ý rằng hiện đại hóa quốc gia là quá trình diễn ra rộng khắp trên nhiều lãnh vực mà hình thức chế độ chỉ là một trong số đó, có thể thay đổi trước hoặc sau tùy hoàn cảnh, miễn sao mục đích phát triển đạt được. Trung Quốc cũng có thể phá hoại những nỗ lực ngoại giao câu giờ của Việt Nam bằng cách chất vấn vì sao các đồng chí là cộng sản mà lại hợp tác sâu rộng với Mỹ/phương Tây, nhưng không khó để đáp trả bằng cách nhắc họ nhớ rằng chính những người cộng sản Trung Quốc thời Đặng Tiểu Bình đã từng mong muốn liên minh quân sự với Mỹ và trên thực tế là đã hợp tác sâu rộng với siêu cường này nhiều thập kỷ sau đó để mưu tìm phát triển.
Tóm lại, trở lực lớn nhất ngăn Việt Nam chớp lấy cơ hội trăm năm có một này không đến từ bối cảnh quốc tế bên ngoài hay hiện tình chính trị nội bộ mà chính là viễn kiến của những người lãnh đạo Việt Nam hiện nay.
Với lề lối thực hành chính trị thiếu minh bạch ở đất nước chúng ta, người dân hiện không ở vị trí có thể biết được liệu những người lãnh đạo có nhìn ra cơ hội này không và có đang tìm cách chớp lấy hay không. Song khả năng cao là không, nếu chúng ta để ý những động thái sau: (1) tuyên truyền chống Mỹ/phương Tây trong hệ thống giáo dục, báo chí chính thống, và đặc biệt trong lực lượng vũ trang vẫn tiếp tục được duy trì; (2) sự cương quyết không nhượng bộ Mỹ/phương Tây khi đụng đến một số vấn đề nhân quyền không quá cốt yếu phản ánh tâm lý thắng-thua với Mỹ/phương Tây còn đậm nét; (3) sự rụt rè trong hợp tác với Mỹ/phương Tây mà gần đây là việc hủy bỏ nhiều chương trình giao lưu quốc phòng với Mỹ. Tất cả đều cho thấy những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay chỉ coi việc hợp tác với Mỹ/phương Tây mang tính chất tình thế và giai đoạn nhằm cân bằng áp lực từ Trung Quốc, chứ hoàn toàn không thấy ở đó cơ hội phát triển và hiện đại hóa vượt bậc cho quốc gia như nó nên là.
Cũng có nghĩa là, cơ hội để Việt Nam không bị nhỡ tàu như bao lần trước đây trong lịch sử nằm ở chỗ liệu mỗi chúng ta, trong tư cách phần tử quốc gia, có làm đủ không trong việc khiến những người lãnh đạo phải đặt quyền lợi dân tộc lên trên đảng phái, phe nhóm, cá nhân để từ đó thấu triệt vấn đề thời cuộc, hoặc chúng ta đã sẵn sàng chưa trong việc thay thế họ một khi thời gian không cho phép sự chậm trễ của họ thêm một giây phút nào nữa. 
N.A.T.
Tài liệu tham khảo: 
[1]https://www.marxists.org/archive/lenin/works/1919/jun/19.htm[2]https://www.washingtonpost.com/…/ec20468e-ffc5-11e8-862a-b6…[3]https://www.reuters.com/…/exclusive-china-presses-europe-fo…[4]https://amp.scmp.com/…/xi-jinping-urges-china-go-all-scient…[5]https://www.weforum.org/…/why-political-and-economic-freedo…[6]https://relocateme.eu/…/11-tech-talent-relocation-trends-t…/[7]https://www.bloomberg.com/…/singapore-fears-asean-may-need-…[8]https://www.nytimes.com/…/european-union-trump-china-trade.…https://www.straitstimes.com/…/eu-to-join-trump-in-criticis…
Nguồn: https://www.facebook.com/nguyen.anh.tuan8690/posts/2499907770024101

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét