Thứ Sáu, 11 tháng 1, 2019

20190111. LỖI VĂN BẢN TRONG THƯ XIN LỖI CỦA BT TRẦN TUẤN ANH

ĐIỂM BÁO MẠNG
BỘ TRƯỞNG TRẦN TUẤN ANH ĐÃ PHẢI ĐIỀU TRỊ THEO YÊU CẦU CỦA AI ?

HƯNG LONG/ GDVN 11-1-2019
Bộ trưởng Trần Tuấn Anh lên tiếng xin lỗi liên quan đến việc xe biển xanh của Bộ công thương được điều ra tận chân máy bay đón người nhà của ông. Nhưng việc này vẫn còn nhiều câu hỏi cần làm rõ.
Luật sư Hồ Nguyên Lễ - Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm, một văn bản được ban hành và báo chí đăng tải rộng rãi với nội dung hàm ý “xin lỗi” có rất nhiều… sạn.

Cụ thể, lỗi về hình thức, lỗi về chính tả, lỗi về cách dùng từ để diễn đạt nội dung chưa rõ ràng và lỗi về thông tin chưa chính xác.
Luật sư Lễ phân tích, Bộ Công Thương đã sử dụng tài sản công không đúng công việc.
Tuy nhiên, văn bản là lời xin lỗi của tư cách Bộ Công Thương thì phải trình bày với hình thức văn bản chính thống của Bộ Công Thương.
Văn bản phải được Bộ trưởng Trần Tuấn Anh đóng dấu ký tên với tư cách Bộ trưởng, thay mặt cho Bộ Công Thương nên không thể trình bày với tư cách cá nhân.
Luật sư Hồ Nguyên Lễ nhận xét về lỗi về chính tả trong văn bản ở dòng “Kính gửi”. Trong văn bản không có dấu hai chấm và sau dấu hai chấm chữ cái đầu của từ đầu tiên không viết hoa.
Ngày xảy ra sự việc được nêu trong văn bản là 04/01 nhưng không ghi rõ là năm nào?
Cụm từ “Chuyến bay VN262 tối ngày 4/1/2019” thì văn phạm hành chính phải viết là ngày 04/01/2019.
Do đây là văn bản chứ không phải thư tay của cá nhân Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nên “Vị trí ký tên phải ở bên phải văn bản”, luật sư Lễ nói.
Luật sư Hồ Nguyên Lễ tiếp tục phân tích lỗi về cách dùng từ để diễn đạt nội dung chưa rõ nghĩa. Trong văn bản không thể hiện người đứng đầu Bộ Công Thương vi phạm lỗi gì mà phải gửi lời xin lỗi đến Nhân dân...?
Văn bản của Bộ trưởng Trần Tuấn Anh còn thể hiện việc “vào đón người trong gia đình tôi ở khu vực sân bay Nội Bài” là chưa đúng chính xác địa điểm xảy ra sai phạm.
Luật sư Lễ nói, vì ở khu vực sân bay thì chưa chắc đã vi phạm nếu đón đúng địa điểm theo quy định ở sân bay.
Bộ trưởng Trần Anh Tuấn phải viết là “vào khu vực sân đỗ máy bay và nhà ga VIP A sân bay Nội Bài để đưa đón người trong gia đình tôi”
Cuối văn bản còn có dòng: “Trân trọng cảm ơn”. Luật sư Hồ Nguyên Lễ chỉnh lại, thư xin lỗi sao dùng từ “cảm ơn” mà phải viết là “Trân trọng” hoặc “Trân trọng xin lỗi”.
“Tôi coi đây là một bài học sâu sắc cho cá nhân, gia đình và Bộ Công Thương” là không rõ nghĩa. Bởi việc cho cá nhân, gia đình của ai, có phải cá nhân hoặc gia đình Bộ trưởng không?
“Lỗi vi phạm là Văn phòng Bộ đã sử dụng tài sản công không đúng thì lỗi này là bài học sâu sắc cho ai?”, luật sư Lễ tiếp tục đặt câu hỏi.
Và, luật sư Lễ nhận định, trước hết lỗi thuộc về Bộ Công Thương vì là đơn vị quản lý tài sản công, tiếp đến là những cá nhân sử dụng, tham mưu vụ việc sai trái.
Nếu Bộ trưởng chỉ đạo cấp dưới làm việc này thì ông phải chịu trách nhiệm.
Văn bản của vị Bộ trưởng còn có câu: “Tôi đã báo cáo với các cấp lãnh đạo cấp trên” là không rõ nghĩa? Vì báo cáo cái gì? Cấp trên của Bộ Công Thương là đơn vị nào? Hoặc với tư cách là Bộ trưởng thì cấp trên của Bộ trưởng là ai nữa?
Luật sư Hồ Nguyên Lễ còn khẳng định, văn bản của Bộ trưởng Trần Tuấn Anh ban hành có lỗi về thông tin chưa chính xác.
Ngoài ra, Luật sư Lễ được biết Bệnh viện Bạch Mai không có Khoa Tim mạch nên Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nằm điều trị bệnh ở đâu là chính xác?
Ở Việt Nam không có “Ban Bảo vệ sức khoẻ Trung ương”. Theo Quyết định 121-QĐ/TW thì phải viết đúng là “Ban Bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cán bộ Trung ương”.
Do đó, luật sư Hồ Nguyên Lễ nghi vấn, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh đã phải điều trị bệnh theo yêu cầu của ai là chính xác?
Hưng Long
TIN BÀI LIÊN QUAN:
LỊCH SỬ...CỨ NHƯ MỚI HÔM QUA
NGUYỄN HOÀNG/ RFA/ BVN 10-1-2019

Một nửa chiếc bánh mì vẫn là chiếc bánh mì, nhưng một nửa sự thật thì không còn là sự thật. Kỷ niệm 40 năm lật Khmer đỏ mà không được phép nhắc tới vai trò Trung Quốc và rút ra các bài học đắt giá của những năm tháng Việt Nam từ “bộ đội nhà Phật” trở thành kẻ chiếm đóng, thì ý nghĩa của mùa kỷ niệm liệu còn gì?

Biểu diễn nghệ thuật kỷ niệm cuộc chiến chống Khmer Đỏ ở Campuchia hôm 4/1/2018 tại Hà Nội
Biểu diễn nghệ thuật kỷ niệm cuộc chiến chống Khmer Đỏ ở Campuchia hôm 4/1/2018 tại Hà Nội. AFP
Mồng 7/1 năm nay trong nước kỷ niệm khá ồn ào, từ tội ác của Khmer đỏ đến tình đoàn kết VN-Campuchia. Tuy nhiên, hai thực thể hiển nhiên ai cũng nhớ thì báo chí lề phải không được “xớ rớ” tới. Thứ nhất, “Trung Quốc là người ‘bảo mẫu’ cho chế độ Khmer đỏ”. Thứ hai, “cái bẫy TQ dựng lên hồi bấy giờ đã khiến VN chảy máu, bị cô lập tuyệt đối trên trường quốc tế suốt 12 năm”.
Nửa sự thật không là sự thật
Kỷ niệm 40 năm lật Khmer đỏ mà không cho phép nhắc tới vai trò Trung Quốc và rút ra các bài học đắt giá của những năm tháng VN từ anh hùng giải phóng, trở thành kẻ chiếm đóng, thì ý nghĩa của lễ kỷ niệm liệu còn gì?
Bỉnh bút Naya Chanda mô tả dịp này 40 năm trước, các cố vấn Trung Quốc lang thang trong các khu rừng rậm ở miền tây Campuchia đến 61 ngày, ngủ trong lều lợp cỏ tranh, ăn đồ hộp. Sứ mệnh của những nhà ngoại giao ấy chỉ chấm dứt khi Việt Nam tấn công vào thủ phủ của Pol Pot trong rừng già.

Một lãnh đạo của Khmer Đỏ là Ta Mok (phải) đang chào đón quan chức đại diện Trung Quốc trong giai đoạn từ năm 1975 đến 1979
Một lãnh đạo của Khmer Đỏ là Ta Mok (phải) đang chào đón quan chức đại diện Trung Quốc trong giai đoạn từ năm 1975 đến 1979. AFP
Chiều 11/4/1979 vị đại sứ Trung Quốc cùng với bảy đồng nghiệp quần áo bẩn thỉu nhếch nhác, nước mắt đầm đìa lặng lẽ trốn qua Thái Lan”. Lần đầu tiên, đại diện của một vương triều trung tâm (tức là Trung Quốc) phải trốn chạy khỏi một vùng đất chư hầu (Campuchia) một cách thật tủi nhục”[1].
Mặc dù chiến thắng về mặt quân sự, nhưng theo ước tính, khoảng 25.000 chiến binh Việt đã mất mạng ở CPC từ tháng 12/1978 đến tháng 9/1989. Huy Đức trích từ trang mạng “SOHA”, dẫn lời tướng Hoàng Kiền, cho biết 12 vạn (120.000) bộ đội VN đã hy sinh trong các cuộc xung đột Tây Nam và trên biên giới phía Bắc (1977 - 1989).
“Chủ nghĩa nhân văn Tàu”
Hàng chục vạn người lính khác đã để lại một phần cơ thể họ trên đất nước chùa Tháp, nhiều chàng trai trong số họ để lại đôi chân trần, bởi một loại mìn rất đặc biệt do Trung Quốc chế tạo, không gây chết người nhưng cắt đứt luôn cả hai chân. (Không cho nạn nhân chết, chỉ để lại gánh nặng cho xã hội và chứng nhân cho lịch sử)[2]. Thế mới thấy “Chủ nghĩa nhân văn Tàu” thật rùng rợn! Lịch sử cứ như mới hôm qua đây thôi, cần được ôn lại một cách nghiêm túc và sòng phẳng!
Đối với Trung Quốc, “cuộc trường chinh” của họ từ bấy đến giờ xem ra lại “có hậu”. Hun Sen từng bị Đặng Tiểu Bình coi là “con rối của Việt Nam”, nay lại là đồng minh trung thành nhất của Bắc Kinh. Ngày nay, Campuchia đang có dấu hiệu biến thành một tỉnh của Trung Quốc.
Trước đây, Hun Sen từng tố cáo Trung Quốc là “kẻ chống lưng cho Khmer Đỏ”, nhưng năm 2012, Hun Sen công khai giúp Bắc Kinh ngăn chặn việc ASEAN ra thông cáo chung tại thượng đỉnh hàng năm, đồng lõa với hành vi bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông.
Thủ tướng Campuchia Hun Sen (giữa) vẫy tay trong lễ kỷ niệm đánh dấu 40 năm lật đổ Khmer Đỏ ở Sân vận động Olympic ở Phnom Penh hôm 7/1/2019
Thủ tướng Campuchia Hun Sen (giữa) vẫy tay trong lễ kỷ niệm đánh dấu 40 năm lật đổ Khmer Đỏ ở Sân vận động Olympic ở Phnom Penh hôm 7/1/2019. AFP
Đặc biệt, bước sang 2018, khi Trung Quốc thực hiện “Dự án Koh Kong” thì đến cả lợi ích kinh tế lẫn chủ quyền quốc gia, Hun Sen cũng sẵn sàng hy sinh nốt. Tờ “Asia Times” nhận định: “Bắc Kinh đã có thể tận dụng ảnh hưởng của mình để biến CPC thành căn cứ cho mục tiêu chiến lược lâu dài của họ trên toàn vùng Đông Nam Á”.
Chẳng thế, không phải ngẫu nhiên, ngày 7/12/2018 Hun Sen đã phải sang tận Hà Nội để bảo đảm với Nguyễn Xuân Phúc, rằng Hiến pháp CPC không cho phép bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình. Trong khi trước đó, truyền thông quốc tế lại đưa tin, Trung Quốc đã vận động hành lang CPC từ năm 2017 để thiết lập một căn cứ quân sự ở Koh Kong trong Vịnh Thái Lan.
Ông Hun Sen phủ nhận ngay những đồn đại trên và cho đấy là bịa đặt. Nhưng “thanh minh tức là thú nhận”, nhất là ở một đất nước có 43 cụm tượng phật Bayon 4 mặt khổng lồ với nụ cười đầy bí hiểm. Chưa nói, Hun Sen có lúc cũng đã đặt câu hỏi về “sự chống lưng” của Việt Nam dành cho ông ta, sau khi có thông tin cựu lãnh đạo đảng đối lập Sam Rainsy từng bí mật đàm phán với một số quan chức ngoại giao VN. Hun Sen nói sẽ yêu cầu Việt Nam cung cấp thông tin về vụ này.[3]
“Hội chứng Khmer Đỏ”
Thật ra thì Hun Sen hoàn toàn có thể chất vấn “ngược” đối với VN để chạy tội. Bởi vì, ngay cả dải đất Việt Nam cũng đang dần dần nằm gọn vào tay Trung Quốc. Bô xít Tây Nguyên phía Tây; đặc khu Vân Đồn (Quảng Ninh) ở phía Bắc; cảng nước sâu Vũng Áng Formosa (Hà Tĩnh) và đặc khu Bắc Vân Phong (Khánh Hòa) ở miền Trung và đặc khu Phú Quốc (Kiên Giang) ở phía Nam (nay mai).
Những đặc khu nói trên danh nghĩa là kinh tế nhưng khi động binh, sẽ hiện nguyên hình thực chất là những đặc khu quân sự. Vậy thì VN “trách cứ” CPC nỗi gì? Trong tương lai gần, cả về tiến độ lẫn quy mô các đặc khu mở ra cho Trung Quốc, giữa CPC và VN, chưa chắc ai đã vượt ai!
Như vậy, “rổn rảng” kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng CPC thoát khỏi hoạ diệt chủng, dường như chỉ là lý do phụ. Lý do chính yếu hơn, đó là nỗi lo sợ về một “hội chứng Khmer đỏ” có thể tái xuất hiện để kềm chế VN trong tương lai. Trong đợt kỷ niệm vừa qua, những “vùng huý kỵ” vẫn được cả VN lẫn CPC quán triệt để khỏi làm phật ý thiên triều, giờ là “đối tác chiến lược” của cả hai người anh em thù địch (brother enemy).
Để hoá giải “hội chứng Khmer đỏ” và ngăn ngừa nguy cơ xuất hiện một “Khmer Đỏ không Pol Pot”, Việt Nam cần nỗ lực cải thiện ngay sức mạnh mềm, để đủ sức thuyết phục “ông em” đầy bất trắc. Điều này, chỉ bằng sức mạnh quân sự không thôi là chưa đủ, quan trọng hơn đó phải là sự vượt trội của mô hình quản trị (governance) và chất lượng thể chế.
Một thực tế đáng ngại hiện nay, Việt Nam đang cho thấy sự tụt hậu so với cả hai “ông em” CPC và Lào trên một số tiêu chí như chất lượng tăng trưởng và năng suất lao động, tự do báo chí và xã hội đa nguyên… Thậm chí, khá nhiều doanh nhân khởi nghiệp Việt phải chạy sang tận Campuchia thì mới có đất dụng võ.
Nói cho cùng, thay vì ý tưởng về một “Liên bang Đông dương” gây tranh cãi, phải chăng Việt-Miên-Lào từ nay nên cùng tiến trên con đường tiếp thụ các giá trị phổ quát nhân loại. Nếu mỗi quốc gia này thụ đắc được mô hình nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường và xã hội dân sự thì đó mới là đảm bảo cho hoà bình và thịnh vượng chung trên bán đảo vốn đã chịu quá nhiều đau khổ trong lịch sử.
N.H.
Nguồn: https://www.rfa.org/vietnamese/news/blog/history-is-like-yesterday-01092019102656.html

TƯƠI CƯỜI 40 NĂM CAO MIÊN- CÚI MẶT 40 NĂM TÀU CỘNG

PHẠM TRẦN/ TD/ BVN 11-1-2019

Đảng Cộng sản Việt Nam đã chính thức kỷ niệm 40 năm để khoe công đã cứu nhân dân Cao Miên thoát chế độ diệt chủng Pol Pot-Khmer đỏ, nhưng lại không dám tưởng niệm những người Việt Nam đã hy sinh trong cuộc chiến chống quân xâm lược Tàu ngày 17/02/1979.
Dấu mốc lịch sử 40 năm của hai cuộc chiến chỉ cách nhau 30 ngày. Tại Cao Miên, bắt đầu từ ngày 23/12/1978, khoảng 200.000 quân Việt Nam đã vượt biên giới để tấn công mở đường và yểm trợ lực lượng 20.000 lính của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia, do Heng Samrin lãnh đạo và được Việt Nam yểm trợ, chiếm Thủ đô Nam Vang ngày 07/01/1979.
Mười ngày sau, 17/01/1979, quân Việt Nam là chính, đã kiểm soát gần hết lãnh thổ xứ Chùa Tháp. Pol Pot và Khmer đỏ, dù có Trung Cộng đứng sau lưng, đã phải rút quân về cố thủ dọc biên giới Thái Lan.
Để trả đũa thay cho Pol Pot, ngày 17/02/1979, lãnh tụ Trung Cộng Đặng Tiểu Bình đã tung 600.000 quân vượt biên giới đánh vào 6 tỉnh của Việt Nam gồm Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai và Yên Bái) và Lai Châu. Họ Đặng gọi cuộc hành quân là “dạy cho Việt Nam một bài học”.

CHIẾN TRANH HỦY DIỆT

Ngày 14/3/1979, Trung Cộng rút hết quân về nước, nhưng sau đó lại mở mặt trận đẫm máu thứ hai ở vùng biên giới, đặt trọng tâm vào Vị Xuyên (Tỉnh Hà Tuyên) từ 1984 đến 1990 để chiếm hai vị trí chiến lược núi Lão Sơn (Laoshan, điểm cao 1059, Việt Nam gọi là núi Đất) và Giả Âm Sơn (điểm cao 1250,Việt Nam gọi là đồi 722) và các điểm cao chiến lược khác dọc biên giới hai nước. Việt Nam đã mất vĩnh viễn phần lãnh thổ quan trọng này kể từ ngày 14/07/1984.
Vậy thương vọng đôi bên ở mặt trận Vị Xuyên (Hà Tuyên) ngày ấy ra sao? Phóng viên Hoàng Thùy của VnExpress viết ngày 25/07/2014: “Mặt trận Vị Xuyên - Thanh Thuỷ được xác định là vùng chiến sự ác liệt nhất trong cuộc chiến tranh chống lấn chiếm biên giới phía Bắc 1984-1989. Trong vòng 4 tháng (4/1984 - 8/1984), Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 7.500 quân Trung Quốc…”.
Thương vong của phía quân đội Việt Nam thì nhiều tài liệu nói là có khoảng 4,000 người đã hy sinh, một nửa trong số này vẫn còn nằm ở chiến trường. Thiếu tướng Lê Mã Lương, người đã chiến đấu 8 năm ở biên giới Việt-Trung và được phong tặng “Anh hùng Lực lượng vũ trang”, kể về chiến sự ác liệt tại Vị Xuyên: “Đã có cả chục ngàn người lính và thường dân ngã xuống và chừng đó người khác bỏ lại một phần thân thể mình dọc biên giới phía Bắc những năm 1979-1988. Khi nói về lịch sử, dân tộc, chúng ta phải công bằng, không ai được phép lãng quên, không ai được cố tình lãng quên sự thật này”. (Theo báo Tuần Việt Nam, ngày 27/07/2017)
Chuyện bi thương thứ hai nên kể về Pháo đài Đồng Đăng, tỉnh Lạng Sơn. Đó là khi: “Nhắc đến những ngày đương đầu với quân Trung Quốc tại Lạng Sơn, không thể không kể đến trận đánh tại pháo đài Đồng Đăng. Người trực tiếp chiến đấu tại pháo đài này là Đại tá - Anh hùng Nông Văn Pheo, năm nay 61 tuổi. Ông may mắn sống sót sau trận đánh vô cùng chênh lệch về lực lượng với quân xâm lược.
Để bảo toàn lực lượng, Đại tá Pheo và một số đồng đội đã phải rút lui khỏi pháo đài tìm đường về đơn vị tiếp tục chiến đấu. Theo thống kê, sau 3 ngày đêm chiến đấu anh dũng, Đại tá Nông Văn Pheo đã trực tiếp tiêu diệt 70 tên địch, góp phần gây tổn thất nặng nề cho quân địch.
Nhưng đau xót thay, sau khi pháo đài Đồng Đăng thất thủ, quân Trung Quốc đã sát hại hàng trăm đồng bào ta. Pháo đài trở thành ngôi mộ tập thể lớn nhất trong chiến tranh biên giới của nhân dân Lạng Sơn.
Trước sự tấn công ồ ạt của quân Trung Quốc, Đồng Đăng và thị xã Lạng Sơn đều bị thất thủ. Quân xâm lược đi đến đâu là tiến hành đốt phá nhà xưởng, công sở, kho tàng bến bãi tới đó. Thị xã Lạng Sơn và nhiều địa phương khác gần như bị phá huỷ hoàn toàn sau khi quân Trung Quốc rút đi”. (Báo Dân Việt, ngày 17/02/2018)
Chi tiết hơn, nhân chứng Hoàng Văn Liên là một trong hai người sống sót tại pháo đài Đồng Đăng, nấm mồ chung của gần 400 người cả dân thường và bộ đội Việt Nam.
Báo Tuần Việt Nam viết ngày 10/02/2018: “Nhóm của ông cùng lực lượng biên phòng chiến đấu quyết liệt. Sau ba ngày, bộ đội tại các lực lượng đã hy sinh gần hết. Những người còn lại rút vào cố thủ trong pháo đài và bắn qua lỗ châu mai. Pháo đài có 3 cửa, một cửa đã bị lấp từ trước, 2 cửa còn lại bị lính Trung Quốc chiếm giữ. Đến ngày thứ 4, lính Trung Quốc thả bộc phá và khí ngạt vào hang khiến toàn bộ gần 400 người cả dân và quân thiệt mạng. Ông và một đồng đội khác lợi dụng đêm tối đã lên khỏi hang rút đi, trở thành 2 nhân chứng cuối cùng cho câu chuyện bi tráng ở pháo đài Đồng Đăng”.
“Pháo đài Đồng Đăng vẫn ở đó, trở thành chứng tích của một sự kiện lịch sử, là nấm mồ chung của gần 400 người Việt Nam”. (Tuần Việt Nam, ngày 10/02/2018)
Cuộc chiến biên giới Việt -Trung dài 11 năm đã gây tổn thất cho cả hai phía, nhưng so với thiệt hại và thất bại chính trị của Trung Cộng thì sự phá hoại và tàn bạo của lính Trung Cộng để lại cho nhân dân 6 tỉnh đã vượt qua sự chịu đựng của người Việt Nam.
Theo thống kê bán chính thức của Bách khoa Toàn thư mở thì Việt Nam thừa nhận có 10,000 thường dân thiệt mạng, nhưng không công bố tổn thất quân sự. Các chuyên gia quân sự Tây phương ước tính có 20,000 quân lính Việt Nam chết và bị thương. Tây phương cũng phỏng định có lối 28,000 quân Trung Cộng tử thương và hàng chục ngàn lính bị thương.
Thế nhưng, đáng tiếc nhưng phải lên án Đảng CSVN đã vì sợ bị Trung Cộng trừng phạt mà không dám tổ chức tưởng niệm và ghi công những công dân và người lính đã hy sinh trong cuôc chiến bảo vệ Tổ quốc chống quân Tàu xâm lược từ 1979 đến 1990.

NGHĨA VỤ CHO AI, VÌ AI?

Trong khi đó tại chiến trường Cao Miên, ngược với trông đợi Việt Nam sẽ rút quân sau khi đánh bật Pol Pot ra khỏi Nam Vang, quân Việt Nam đã sa lầy ở đó đến 10 năm. Cho đến khi sức cùng lực kiệt Việt Nam đã buộc phải rút quân từ tháng 06 năm 1989, trước áp lực cấm vận của Quốc tế và là điều kiện bắt buộc của Bắc Kinh nếu Hà Nội muốn nối lại bang giao.
Vậy Việt Nam đã được gì sau cuộc chiến gọi là “nghĩa vụ quốc tế” của lực lượng “tình nguyện” ở Cao Miên? Hà Nội chẳng được gì, dù đã tổn thất khoảng 100,000 mạng sống gồm chết, bị thương và mất tích. Đất nước Cao Miên ngày nay, tuy quyền hành nằm trong tay cựu Trung đoàn trưởng Hun Sen, người được quân Việt Nam cứu và đưa trở lại Nam Vang nắm quyền sau Heng Samrin, đã nằm gọn trong tay Trung Cộng.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nhà nước Trung Hoa Hoa Tập Cận Bình đã có ảnh hưởng chính trị tuyệt đối với Cao Miên hơn cả Hoa Kỳ.
Ông Hun Sen đã nắm quyền lãnh đạo Campuchia 33 năm, sẽ tiếp tục được Bắc Kinh ủng hộ để thực hiện kế hoạch bành trướng “Một vành đai, Một con đường” của ông Tập Cận Bình, nhưng đồng thời cũng bao vây Việt Nam ở phía tây.
Một bài viết phổ biến trên Internet cho biết: “Là quốc gia viện trợ lớn nhất cho Campuchia, Trung Quốc đã hỗ trợ quốc gia Đông Nam Á này 11 triệu USD để tổ chức các cuộc bầu cử địa phương trong năm nay. Ở chiều ngược lại, chính phủ Campuchia mở cửa cho làn sóng đầu tư chưa từng có của các doanh nghiệp Trung Quốc. Hiện đã có 30 sòng bạc của doanh nghiệp Trung Quốc đi vào hoạt động ở Campuchia và 70 sòng bạc khác đang trong quá trình xây dựng.
Số lượng khách du lịch Trung Quốc đổ tới Sihanoukville, thành phố vốn chỉ có 90.000 dân, tăng gấp đôi trong vòng hai năm 2016-2017. Mọi nhà hàng, khách sạn, ngân hàng, cửa hàng mua sắm miễn thuế, siêu thị và ngân hàng ở Sihanoukville đều trưng biển hiệu viết bằng tiếng Trung Quốc”.
Theo thống kê, năm 2017 Việt Nam đã dầu tư ở Cao Miên 184.5 triệu Mỹ kim, so với 501.5 triệu của Trung Cộng.
Ngoài mất ảnh hưởng chính trị vì không có khả năng kinh tế và tài chính bao bọc cho Hun Sen bằng Trung Cộng, đảng cầm quyền CSVN còn phải đối phó với mối hiềm khích lịch sử dai dẳng với Cao Miên về tranh chấp lãnh thổ và chủng tộc. Dù ngoài mặt thân thiện, nhưng trong thâm tâm, người Miên vẫn lạnh nhạt với người Việt Nam. Nó giống hệt như mối thù tiềm ẩn không bao giờ ra khỏi máu người Việt đối với Trung Quốc mỗi khi người Việt nhớ đến cuộc tấn công vào 6 Tỉnh biên giới của Đặng Tiểu Bình năm 1979 để không quên rằng Việt Nam đã từng bị người Tàu đô hộ 1.000 năm trong nhiều Thế kỷ trước.
Do đó, khi tổ chức kỷ niệm chiến thắng Pol Pot-Khmer đỏ tại Hà Nội ngày 05/01/2019, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc của Việt Nam đã ngụ ý kỷ niệm chiến thắng quân Khmer đỏ ở mặt trận biên giới Tây Nam là chính, sau đó mới đến chuyện đánh bật Pol Pot và Khmer đỏ khỏi Thủ đô Nam Vang ngày 07/01/1979.
Ông Phúc muốn lồng 2 hành động vào một khung, là muốn tránh mở lại vết thương xung đột với Trung Cộng vì Bắc Kinh đã để mất quân bài Pol Pot trước cuộc tấn công của quân Việt Nam.
Hơn nữa khi Thủ tướng Việt Nam gọi lễ kỷ niệm là “Ngày Chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân, dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng (07/01/1979- 07/01/2019)” còn ngụ ý muốn thanh minh quân Việt Nam vượt biên vào Cao Miên 40 năm trước không phải là hành động “xâm lược chiếm đóng” như đã có lần bị chính Nhà vua Norodom Sihanouk tố cáo tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc. Ông Phúc muốn mọi người hiểu rằng Việt Nam chỉ phản công hành động đánh phá của Pol Pot-Khmer đỏ, và tình nguyện giúp người Miên thoát khỏi chế độ diệt chủng.
Ông Phúc nói: “Sau khi đập tan chiến tranh xâm chiếm biên giới Tây Nam - Việt Nam của Tập đoàn phản động Pôn Pốt, theo yêu cầu của cách mạng Campuchia, Việt Nam đã đưa quân tình nguyện sang giúp lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia giải phóng dân tộc khỏi nạn diệt chủng, khôi phục, xây dựng đất nước. Đến ngày 7/1/1979 thủ đô Phnôm Pênh đã được giải phóng. Đây là Chiến thắng có ý nghĩa lịch sử vô cùng trọng đại, từ đó nhân dân Campuchia hoàn toàn thoát khỏi chế độ diệt chủng, bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do, dựng xây đất nước”.
Nhóm chữ “cách mạng Campuchia” mà ông Phúc nhắc đến là tổ chức “Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia” được Việt Nam yểm trợ thành lập do Heng Samrin lãnh đạo và Hun xen là Ủy viên.
Báo chí Việt Nam, theo chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Đảng và Bộ Thông tin và Truyền thông, đã viết bài ca tụng quân đội Việt Nam đã “hoàn thành nghĩa vụ quốc tế vẻ vang”.
Nhưng trong khi kỷ niệm 40 năm chiến thắng mặt trận biên giới Tây Nam và giải phóng Cao Miên khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot được tổ chức cấp nhà nước thì trong 39 năm qua, những hy sinh cao cả và đẫm máu của quân-dân 6 tỉnh biên giới trong cuộc chiến chống quân Tàu xâm lược 1979-1990 đã bị đảng cầm quyền CSVN cố tình làm ngơ.
Chẳng những đớn hèn như thế mà Chính phủ còn ra lệnh chống phá, ngăn cấm mọi cố gắng tự phát của cựu chiến binh và người dân muốn tổ chức truy điệu và dâng hương ghi ơn quân-dân đã nằm xuống trong cuộc chiến hào hùng này.
Không có bất cứ lời giải thích nào từ phía lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam cho thái độ vô ơn bạc nghĩa này, nhưng nếu 40 năm sau ngày quân Tàu xâm lược 17/02/1979 mà hương khói vẫn lạnh tanh ở biên giới Việt-Trung thì vong linh của trên 45.000 quân-dân làm sao mà thảnh thơi nơi chín suối?
P.T.
Nguồn: https://baotiengdan.com/2019/01/10/tuoi-cuoi-40-nam-cao-mien-cui-mat-40-nam-tau-cong/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét