Thứ Bảy, 23 tháng 9, 2017

20170923. BÀN VỀ TRƯỜNG CÔNG, TRƯỜNG TƯ VÀ SỬA LUẬT GDĐH

ĐIỂM BÁO MẠNG
SỬA LUẬT GDĐH PHẢI BỎ ĐƯỢC PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ TRƯỜNG CÔNG TRƯỜNG TƯ

THÙY LINH/ GDVN 17-9-2017


Tiến sĩ Lê Trường Tùng – Chủ tịch Hội đồng quản trị trường Đại học FPT, Ủy viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nguồn nhân lực nhiệm kỳ 2016-2020 (Ảnh: Tiến sĩ Lê Trường Tùng cung cấp)
LTS: Luật Giáo dục đại học được Quốc hội thông qua và ban hành năm 2012, đến nay một số nội dung của Luật này đã không còn phù hợp với yêu cầu thực tiễn.

Được biết, Bộ Giáo dục và Đào tạo dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật giáo dục đại học vào năm 2018.

Trên tinh thần đó, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Lê Trường Tùng – Chủ tịch Hội đồng quản trị trường Đại học FPT, Ủy viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nguồn nhân lực nhiệm kỳ 2016-2020 với mong muốn có thêm một số góp ý để gỡ bỏ các nút thắt của giáo dục đại học hiện nay.

Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả cuộc trao đổi này. 


Phóng viên: Sắp tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ thông qua dự án sửa đổi Luật Giáo dục đại học. Theo ông, khi sửa đổi, bổ sung văn bản Luật này, Bộ cần chú ý điều gì khi bối cảnh xã hội và thế giới thay đổi rất nhanh chóng đặc biệt là cuộc cách mạng 4.0 hiện nay? 

Tiến sĩ Lê Trường Tùng: 
Với cuộc cách mạng 4.0, khi sử dụng rộng rãi các thành tựu công nghệ thông tin, khi triển khai rộng các chương trình đào tạo mang tính mở (open courseware), khi tăng cường hội nhập quốc tế, khi kỹ năng tự học và học suốt đời của sinh viên ngày càng quan trọng, thì mô hình tổ chức đào tạo đại học cũng sẽ có nhiều thay đổi.

Theo tôi trong Luật Giáo dục Đại học sửa đổi không nên phân biệt đào tạo “chính quy” và “không chính quy” nữa (hiện đang gọi là giáo dục thường xuyên, bao gồm vừa làm vừa học, học từ xa, qua mạng). Đào tạo chính quy hiện nay đã bắt đầu mang yếu tố “vừa làm vừa học”, mang yếu tố online (qua mạng) rồi.

Và thực tế là, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã có những bước đi ban đầu để gộp chính quy và phi chính quy, bằng cách đã ban hành các quy chế mới về đào tạo đại học theo hình thức vừa học vừa làm, từ xa, qua mạng - trong đó quy định đầu vào, chương trình, kiểm tra thi cử của đào tạo chính quy và đào tạo “không chính quy” không có gì khác nhau. 
Do đó, việc gộp các hệ đào tạo đại học lại sẽ tiến tới chỉ còn một loại bằng đại học – điều này cũng tăng trách nhiệm của nhà trường về chất lượng đầu ra, không còn tư duy theo kiểu có sản phẩm loại A (chính quy) và loại B (giáo dục thường xuyên) như trước nữa.
Cũng cần sửa đổi lại phần về hợp tác quốc tế. Hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học không chỉ mang tính chất  “nhập khẩu giáo dục” như văn bản hiện nay, mà cần có phạm vi rộng hơn.

Trên cương vị là lãnh đạo Đại học FPT, theo ông những nội dung nào của Luật Giáo dục đại học hiện hành không còn phù hợp với thực tiễn đặc biệt là những nội dung về trường đại học ngoài công lập? Những nội dung ấy cần sửa đổi, bổ sung như thế nào?


Tiến sĩ Lê Trường Tùng:
 Về bản chất, đại học công lập và ngoài công lập chỉ khác về việc ai là chủ đầu tư ban đầu, còn chức năng, trách nhiệm xã hội, quyền tự chủ… thì cần phải giống nhau. Điều này cũng là để đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh, không phân biệt đối xử trường công trường tư. 
Luật Giáo dục Đại học cần sửa theo hướng này. Những gì không liên quan đến đầu tư, đến chủ đầu tư thì không cần quy định gì khác giữa đại học công lập và ngoài công lập.
Chẳng hạn theo Luật Giáo dục Đại học hiện hành, một bên thì gọi là Hội đồng trường, một bên thì gọi là Hội đồng quản trị, một bên thì hiệu trưởng là chủ tài khoản, một bên chủ tịch là chủ tài khoản...

Ngoài ra, chủ đầu tư của đại học tư thục phải là một tổ chức (công ty, quỹ) chứ không phải các cá nhân riêng lẻ, các cá nhân sẽ là cổ đông của công ty đầu tư vào đại học chứ không phải cổ đông của trường - điều này cũng để dịch chuyển các tranh chấp cá nhân nếu có lên tầng chủ đầu tư, không phải ở tầng trường làm xấu môi trường giáo dục.

Nhiều chuyên gia cho rằng, cần  đi sâu vào vấn đề tự chủ khi trao đổi về việc xây dựng Luật Giáo dục Đại học sửa đổi, bổ sung lần này? Ông nghĩ sao về ý kiến này. 
Tiến sĩ Lê Trường Tùng:
Tôi đồng ý. Tự chủ đại học là một trong các yếu tố quan trọng nhất để phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay. 
Để thực hiện cơ chế tự chủ, cần tạo hành lang pháp lý minh bạch, rõ ràng để các trường đại học thực hiện quyền tự chủ của mình trong hành lang pháp lý đó, cùng với cơ chế hậu kiểm và giám sát xã hội, bỏ các quy định mang tính xin cho-phê duyệt.

Và để tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” thì Luật Giáo dục đại học sửa đổi cần gỡ bỏ những gì quy định cứng nhắc hoặc mang tính nước đôi ảnh hưởng đến việc tự chủ của các trường, đồng thời quy định rõ những việc các trường được tự chủ để văn bản dưới luật không quy định khác đi, lại biến thành cơ chế xin cho.

Ví dụ như tự chủ trong việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh. Luật Giáo dục Đại học hiện hành quy định “Cơ sở giáo dục đại học tự chủ xác định chỉ tiêu tuyển sinh”, đồng thời lại thêm câu “Chỉ tiêu tuyển sinh được xác định trên cơ sở nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch phát triển nguồn nhân lực” và “Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh” – thế là thành tự chủ nửa vời.

Thực tế cho thấy, mô hình quản trị đại học của Việt Nam hiện đang tồn tại song song Hội đồng trường và Đảng ủy cùng định hướng và giám sát toàn bộ hoạt động của trường. 
Vậy, thưa ông, mối quan hệ giữa Đảng ủy và Hội đồng trường trong một cơ sở giáo dục đại học hiện nay là như thế nào?
 
Tiến sĩ Lê Trường Tùng:
 Trong một trường đại học, ngoài Hội đồng trường (với trường tư thục gọi là Hội đồng quản trị) còn có nhiều tổ chức khác nữa.
Luật Giáo dục Đại học có Điều 13 về tổ chức Đảng, đoàn thể và tổ chức xã hội trong cơ sở giáo dục đại học, trong đó quy định các tổ chức này trong nhà trường được thành lập và hoạt động theo hiến pháp, pháp luật và điều lệ của tổ chức. 

Hội đồng trường hoạt động tập thể, quyết định theo đa số. Với trường đại học công lập, trong thành phần Hội đồng trường có hiệu trưởng, các phó hiệu trưởng, bí thư Đảng ủy, chủ tịch Công đoàn, bí thư Đoàn thanh niên, đại diện cơ quan chủ quản cơ sở giáo dục đại học.
Với trường tư thục, ngoài đại diện cho các chủ đầu tư, trong Hội đồng quản trị nhà trường có hiệu trưởng, đại diện cơ quan quản lý địa phương, đại diện tổ chức Đảng, đoàn thể.

Với cơ cấu như vậy, số đảng viên tham gia Hội đồng trường không ít, và Đảng ủy thực hiện vai trò lãnh đạo của mình thông qua các đảng viên là thành viên của Hội đồng trường.
Theo quy định, nếu là đảng viên thì phải thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của tổ chức Ðảng, không được nói khác, làm trái (47/NQ-TW), các đảng viên trong Hội đồng trường có trách nhiệm thuyết minh và chuyển tải các nội dung nghị quyết của Đảng ủy trường thành nghị quyết của Hội đồng trường để hiệu trưởng tổ chức thực hiện.

Theo quy định hiện tại, Hiệu trưởng là người đứng ra thành lập Hội đồng trường nên có ý kiến cho rằng, “hiệu trưởng sẽ tìm những người là người của mình, đưa toàn bộ bộ phận quản lý của mình vào, biến Hội đồng trường thành một bộ máy quản lý mở rộng chứ chẳng ai muốn thành lập ra một tổ chức giám sát mình, bắt mình phải giải trình”.
Ông nghĩ sao về những ý kiến này?
Tiến sĩ Lê Trường Tùng
: Một thời gian dài các trường đại học công lập không có Hội đồng trường, toàn bộ quyền lực tập trung vào hiệu trưởng và cơ quan chủ quản.
Với cơ cấu Hội đồng trường, một số quyền của cơ quan chủ quản và của hiệu trưởng thuộc về Hội đồng trường, và chắc không phải ai cũng vui vẻ khi phải chia Sẻ quyền lực. Việc hiệu trưởng muốn có Hội đồng trường hoạt động ăn ý với mình là mong muốn chính đáng. 
Với trường công lập chưa có Hội đồng trường, hiệu trưởng được giao trách nhiệm đứng ra thành lập hội đồng trường nhiệm kỳ đầu tiên theo các quy định chặt chẽ của Điều lệ trường đại học, chứ không phải muốn đưa ai vào thì đưa, cho nên không cần phải lo lắng về việc hiệu trưởng sẽ tìm những người là người của mình, đưa toàn bộ bộ phận quản lý của mình vào. 

Quy định hiện nay là: thành viên mặc định của Hội đồng trường là hiệu trưởng, các hiệu phó, bí thư đảng ủy, chủ tịch công đoàn, bí thư đoàn thanh niên; các thành viên bầu từ dưới lên là đại diện các khoa, viện do các khoa, viện trong trường bầu, đại diện cơ quan chủ quản do cơ quan chủ quản cử.

Hiệu trưởng chỉ có quyền đề xuất thêm một số thành viên bên ngoài nhà trường tham gia vào hội đồng trường và phải được cơ quan cấp trên phê duyệt.

Và cuối cùng, chủ tịch Hội đồng trường do Hội đồng trường bầu, và không được kiêm nhiệm giữ chức hiệu trưởng, hiệu phó.
Với quy định chặt chẽ như vậy thì thực ra giao cho ai đứng ra thành lập Hội đồng trường cũng được. Khi đã có Hội đồng trường thì bầu Hội đồng trường nhiệm kỳ tiếp theo là trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng trường, không còn là của hiệu trưởng nữa.

Trân trọng cảm ơn ông. 
Thùy Linh
TẠI SAO CỨ MÃI PHÂN BIỆT TRƯỜNG CÔNG VỚI TRƯỜNG TƯ ?
TRINH PHÚC/ GDVN 22/9/2017
Giáo sư Trần Hữu Nghị (ảnh Trinh Phúc).
Xóa bỏ cơ chế nhà nước hà hơi, tiếp sức cho các trường đại học
Ngày 21/9, Hiệp hội các trường Đại học Cao Đẳng Việt Nam tổ chức Tọa đàm đóng góp ý kiến sửa đổi về các luật giáo dục tại Trường Đại học Thăng Long, Hà Nội.
Tại buổi tọa đàm, Giáo sư Trần Hữu Nghị - Hiệu trưởng Trường Đại học Dân lập Hải Phòng đã đưa ra quan điểm về nhiều vấn đề liên quan đến Luật Giáo dục Đại học.
Trước hết, Giáo sư Trần Hữu Nghị đề nghị ban soạn thảo sửa luật Giáo dục Đại học phải làm sao sử dụng được ngay tránh quy định chung chung, dẫn đến việc luật ban hành còn phải chờ thông tư hướng dẫn, công văn chỉ đạo mới áp dụng được.
Vấn đề Giáo sư Trần Hữu Nghị quan tâm đầu tiên là quan điểm về tự chủ. Ông cho rằng, tự chủ là quyền lợi chứ không phải trách nhiệm của các trường đại học. Luật Giáo dục Đại học cần thể hiện rõ quan điểm này.
Lý giải về ý kiến của mình, Giáo sư Nghị phân tích: “Tự chủ phải là quyền lợi chứ không phải là nghĩa vụ có nghĩa nhà nước không bắt buộc bất cứ một cơ sở giáo dục công lập nào thực hiện tự chủ cả.
Mà tự chủ là trách nhiệm, thuộc tính của cơ sở giáo dục đại học không tách rời. Bản thân các cơ sở giáo dục đại học phải xem đó là đương nhiên”.
Qua ý kiến phát biểu của Hiệu trưởng Trường Đại học Dân lập Hải Phòng có thể thấy rằng, nhà nước không thể mãi nuôi nấng, bao bọc, chịu trách nhiệm tất cả các cơ sở giáo dục đại học.
Làm như vậy, các trường đại học sẽ mãi không thể phát triển lên.
Trong Luật Giáo dục Đại học sửa đổi cần thiết bổ sung trên tình thần, “nhà nước không chịu trách nhiệm mà giao các trường tự chủ, tự chịu trách nhiệm”.
Phải xóa được tình trạng các trường Đại học dựa mãi vào kinh phí và nguồn ngân sách của nhà nước. Để thay bằng chính sách, “nhà nước nắm vai trò định hướng trong các cơ chế, chính sách, nắm trọng trách đảm bảo các cơ sở giáo dục luôn thực hiện được trách nhiệm với cộng đồng”.
Nói cách khác, các trường đại học phải tự chủ, tự chịu trách nhiệm, giải trình tất cả những vấn đề đối với nhà nước và đối với xã hội.
Trong bài phát biểu của mình, Giáo sư Trần Hữu Nghị cũng rất quan tâm nguyên tắc cơ chế, kinh phí từ ngân sách nhà nước và sự hỗ trợ của nhà nước đối với người đi học ở các cơ sở giáo dục đại học.
Theo Giáo sư Trần Hữu Nghị, nguyên tắc cơ chế, kinh phí ngân sách hỗ trợ người học đại học của nhà nước chưa rõ ràng, chưa cho thấy được sự công bằng đối với người đi học ở các cơ sở giáo dục đại học.
Trong bối cảnh cơ sở giáo dục đại học có nhiều cơ quan chủ quản khác nhau như trường công, trường tư….thì vấn đề ngân sách của các trường thực tế có những sự khác biệt, có sự mất công bằng giữa các trường, giữa người học ở các trường.
Giáo sư Nghị chỉ rõ: “Trong khi, Điều 16 của Hiến pháp nước ta quy định: “Mọi người có quyền bình đẳng trước pháp luật và không ai bị phân biệt đối xử về đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
Tuy nhiên, sinh viên các trường đại học Việt Nam đang gián tiếp bị phân biệt đối xử do chính sách, ngân sách, do vốn ưu đãi và các hỗ trợ khác về giáo dục của nhà nước.
Đối với trường ngoài công lập, từ mầm non cho đến đại học do không được cấp ngân sách nhà nước nên người học ở đây nhiều năm qua không được hưởng sự ưu đãi của nhà nước.
Không những thế, sinh viên các trường ngoài công lập còn chịu đóng nhiều chính sách thuế như thuế ký túc xá, thuế ăn uống, thuế gửi xe trong trường…thậm chí, phải chịu thuế đất của nhà nước.
Cũng là công dân của một nhà nước, cũng là sinh viên tại sao họ phải chịu hoàn toàn kinh phí đào tạo, phải đóng thuế, phải trả thuế trong khi người học các trường công thì không. Sự khác biệt này là vô lý và có thể tạo ra sự bất ổn trong xã hội về sau”.
Khắc phục tình trạng Hội đồng trường nhiều nơi tồn tại như khôngGiáo sư Trần Hữu Nghị dành tâm huyết nhiều cho các vấn đề cụ thể liên quan đến Luật Giáo dục Đại học, trong đó quan tâm đến tổ chức hội đồng trường, hội đồng quản trị, chức năng, nhiệm vụ như thế nào.
Theo vị Giáo sư, về hội đồng trường thì hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật chưa làm rõ vai trò, quyền hạn trong tương quan giữa cơ quan chủ quản với hội đồng trường.
Hội đồng trường không có thực quyền. Nhiều trường công lập không thực hiện cũng không bị chế tài. Cần làm rõ hơn vai trò của hội đồng trường trong tương quan với cơ quan chủ quản và Đảng ủy nhà trường.
Ngoài ra, quy định về hội đồng quản trị chưa làm rõ được vai trò đại diện của chính quyền địa phương khi tham gia vào thành viên hội đồng quản trị nên dẫn đến tình trạng mất đoàn kết giữa các thành viên.​
Trước thực trạng trên, theo Giáo sư Trần Hữu Nghị đề nghị bổ sung vào Luật Giáo dục Đại học các vấn đề như: “Luật phải làm rõ nguyên tắc cơ chế cấp kinh phí, nguyên tắc hỗ trợ cho các cơ sở giáo dục đại học.
Phải làm sao, các nguyên tắc đó đảm bảo được sự minh bạch, bình đẳng, tương xứng với quyền lợi, trách nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học.
Có thể sử dụng cơ chế hợp đồng, đặt hàng đào tạo với các trường ở một số ngành. Các trường được đặt hàng phải công khai trên cơ sở tiêu chí, năng lực đào tạo không phân biệt trường công hay trường tư”.
Bên cạnh minh bạch cơ chế hỗ trợ tài chính đối với các cơ sở giáo dục đại học, vị chuyên gia này còn cho rằng cần thiết trong Luật Giáo dục Đại học sửa đổi phải làm rõ nguyên tắc cơ chế hỗ trợ kinh phí đối với người học trong các trường đại học.
Ngoài ra, Luật phải cụ thể hóa được các chế tài quản lý, ưu đãi nhà nước đối với các trường đại học tư thục hoạt động vì lợi nhuận hoặc không vì lợi nhuận.
Luật mới phải thể hiện đậm nét chủ trương của nhà nước trong việc khuyến khích các trường hoạt động không vì lợi nhận phát triển.
Cần quy định rõ ràng, đặc biệt các tiêu chí công nhận trường không vì lợi nhuận và trường hoạt động vì lợi nhuận. Trách nhiệm và quyền lợi của mỗi mô hình.
Trường vị lợi nhuận có thể coi như doanh nghiệp tư nhân. Còn trường không vì lợi nhuận coi như doanh nghiệp xã hội, phúc lợi cộng đồng.
Phân tầng đại học không phải để phân biệt cao hay thấp
Theo Giáo sư Trần Hữu Nghị, hiện các văn bản luật chưa làm rõ được khái niệm phân tầng,  có sự lộn xộn giữa phân tầng và xếp hạng đại học.
Các khai niệm hiện nay dễ hiểu lầm đại học nghiên cứu đương nhiên ở bậc cao, quan trọng hơn đại học ứng dụng. Cách hiểu như vậy là không đúng vì mỗi tầng có chức năng riêng, đều quan trọng như nhau. Nghị định phân tầng giáo dục đại học không phù hợp và chưa phát huy được trên thực tế.
Về việc xếp hạng đại học cần được thực hiện theo tiêu chí riêng cho trường nghiên cứu hay ứng dụng. Việc sử dụng tiêu chí chung trong đánh giá trường đại học là không phù hợp.
Trinh Phúc
NGHỊCH LÝ GIÁO SƯ, PHÓ GIÁO SƯ: SỮNG SỜ TRƯỚC NHỮNG CON SỐ
QUÝ HIÊN/ TN/ BVN 21-9-2017
GS Hoàng Xuân Phú đang trao đổi tại một tọa đàm bàn về các tiêu chuẩn giáo sư, phó giáo sư /// Ảnh Nghiêm Tuấn
GS Hoàng Xuân Phú đang trao đổi tại một tọa đàm bàn về các tiêu chuẩn giáo sư, phó giáo sư

GS Hoàng Xuân Phú (Viện Toán học - Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam) cho rằng những con số mà Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước đã công bố khiến bất kì nhà khoa học thực thụ nào cũng đều phải… sững sờ!
Khoa học giáo dục Việt Nam nằm đâu trên bản đồ khoa học thế giới?
GS Hoàng Xuân Phú chia sẻ:
Dựa vào số liệu thống kê đã được đăng tải về mức độ công bố trên các tạp chí quốc tế thuộc hai danh sách mang tên ISI (tên mới là Web of Science) và Scopus của đợt xét công nhận chức danh PGS và GS năm 2016, tôi đã thu được những con số rất đáng ngạc nhiên.
Với nhóm ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật và công nghệ, bình quân số bài ISI/Scopus của 411 người được công nhận chức danh PGS và GS chỉ là 5,76. Còn với nhóm ngành khoa học xã hội và nhân văn thì bình quân số bài ISI/Scopus của 237 người được công nhận chức danh PGS và GS chỉ là 0,19. Đó là chưa kể 7 GS và 48 PGS của nhóm ngành khoa học an ninh và khoa học quân sự không có bài ISI/Scopus nào.
Xét 2 ngành giáo dục học và tâm lí học là 2 ngành có ảnh hưởng lớn tới việc hoạch định chính sách giáo dục nước nhà thì thấy có quá ít công trình được công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín, mặc dù cơ hội để công bố (tức số lượng tạp chí quốc tế) là khá nhiều. Ngành giáo dục học có 272 tạp chí ISI, nhưng tất cả 34 PGS và GS được phong năm 2016 của ngành này gộp lại chỉ có 1 bài ISI/Scopus. Ngành tâm lí học có khoảng 540 tạp chí ISI, năm 2016 có 11 người được phong PGS và GS, nhưng tất cả gộp lại cũng chỉ có 1 bài ISI/Scopus. Như vậy, năm 2016, 2 ngành giáo dục học và tâm lí học có 3 người được phong GS và 42 được phong PGS nhưng cả 45 người ấy gộp lại chỉ có 2 bài báo ISI/Scopus! Số liệu này nói lên điều gì? Đa số các nhà khoa học trong 2 ngành tâm lí học và giáo dục học công tác ở đâu? Có lẽ, với vị thế ấy, họ có tác động không nhỏ trong việc đặt ra các tiêu chuẩn cho chức danh PGS và GS ở nước ta.
Nếu một hội đồng chức danh GS chỉ phong PGS và GS cho những người không có bài báo nào được đăng trên các tạp chí quốc tế uy tín thì có nên để hội đồng ấy tiếp tục đảm đương nhiệm vụ hay không? Câu hỏi lớn hơn là ngành ấy đã có đủ nhân lực để thành lập một hội đồng chức danh GS riêng hay chưa? Nếu chưa đủ mạnh để lập thành một hội đồng riêng thì nên nhập với ngành khác để thành lập chung một hội đồng chức danh GS.
Cần sự sòng phẳng
Thưa giáo sư, có ý kiến còn cho rằng khoa học xã hội và nhân văn có sứ mệnh, nhiệm vụ chính trị riêng, không thể bắt buộc có công bố quốc tế ngay mà chỉ khuyến khích. Quan điểm của giáo sư thì sao?
GS Hoàng Xuân Phú: Thực lòng tôi không muốn bàn nhiều về việc cần bao nhiêu bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế khi xét công nhận GS hay PGS vì điều này phụ thuộc đặc thù của từng ngành. Bản thân tôi làm việc trong lĩnh vực toán học nên tôi chỉ muốn thảo luận về tiêu chuẩn dành cho ngành toán. Còn ý kiến về mấy tiêu chuẩn chung cho mọi ngành thì tôi đã trình bày trong một văn bản góp ý gửi ban soạn thảo dự thảo quy định tiêu chuẩn GS, PGS rồi.
Tuy nhiên, nếu như thực sự có một nhà khoa học nào đó cho rằng khoa học xã hội và nhân văn có sứ mệnh, nhiệm vụ chính trị riêng, không thể bắt buộc có công bố quốc tế ngay mà chỉ khuyến khích thì tôi thấy không ổn. Những người có quan điểm như vậy hãy trả lời một cách sòng phẳng mấy câu hỏi sau: Họ đã hoàn thành những sứ mệnh hay nhiệm vụ chính trị gì? Họ đã giúp chế độ, giúp chính quyền tránh hay khắc phục những sai lầm chính trị nào?
Nếu chỉ là minh họa cho chính sách hay tuyên truyền cho chế độ, cho chính quyền thì chẳng cần đến các nhà khoa học mà chỉ cần huy động bộ máy tuyên truyền là đủ. Còn chức năng muôn thuở của các nhà khoa học là phát minh và phát hiện ra những cái mới. Vậy họ đã phát minh hay phát hiện ra những cái gì và thành tích ấy có đủ để lập luận rằng họ không cần công bố quốc tế hay không?
Những nhà khoa học thể hiện được mình đạt đẳng cấp quốc tế mới thực sự xứng đáng đứng ra đảm nhận sứ mệnh và nhiệm vụ chính trị, nhất là trong thời kì hội nhập quốc tế. Nếu không thì chỉ góp phần lái dân tộc vào con đường lầm lạc mà thôi.
Nhưng nhiều nhà khoa học cho rằng khoa học xã hội và nhân văn vì những lí do đặc thù nên khó đăng bài trên các tạp chí quốc tế?
Không phải ngành nào trong nhóm ngành khoa học xã hội cũng đều khó đăng bài trên tạp chí quốc tế. Hai ngành mà tôi dẫn số liệu ở trên là giáo dục học và tâm lí học đều là những ngành có tính quốc tế rất cao. Hoặc luật học, ai dám bảo nó không có tính quốc tế cao? Tôi lấy ví dụ đơn giản như đề tài nên hay không nên hiến định đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Nếu có bài báo khoa học nghiên cứu vấn đề ấy, dù thể hiện quan điểm ủng hộ hay phản đối, thì đều dễ được các tạp chí quốc tế nhận đăng. Thế giới cũng muốn hiểu thêm về Việt Nam chứ. Nếu tạp chí khoa học quốc tế không nhận đăng thì do bài viết không đạt tiêu chuẩn khoa học mà thôi. Hoặc ngôn ngữ học cũng là ngành có tính quốc tế cao. Vậy mà thành tích công bố quốc tế ở 2 ngành này của ta thế nào? Luật học có 141 tạp chí ISI, năm 2016 được phong 2 GS và 13 PGS; ngôn ngữ học có 199 tạp chí ISI, năm 2016 được phong 10 PGS. Nhưng tất cả 25 người được phong GS, PGS thuộc 2 ngành này không có một bài báo nào trong các tạp chí ISI/Scopus!
Quay trở lại câu chuyện "nhiệm vụ chính trị" mà chúng ta vừa nói ở trên. Theo tôi, nếu các nhà khoa học muốn thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị thì càng cần phải có công bố quốc tế vì việc khẳng định và nâng cao uy tín quốc tế của bản thân là nhiệm vụ tối thiểu của các nhà khoa học. Không thể nói rằng mình làm nhiệm vụ chính trị và đại diện cho đất nước mà lại để mặc cho uy tín của bản thân trên trường quốc tế ở tầm quá thấp. Hơn nữa, nếu xét từ góc độ nhiệm vụ chính trị thì rất cần có các công trình khoa học được công bố trên tạp chí quốc tế uy tín để phân tích, lí giải các chủ trương, đường lối, chính sách được ban hành.
Xin cảm ơn GS!
Q.H

MỘT NỖ LỰC ĐÁNG TRÂN TRỌNG

TRẦN ĐỨC VIÊN/ TS/ BVN 21-9-2017

Không đi thì không đến
Xếp hạng đại học (ĐH) là một công việc hết sức khó khăn, gai góc và phức tạp, đòi hỏi sự khách quan, nghiêm túc, công phu, thận trọng, dựa trên cơ sở dữ liệu đủ lớn, khả tín, minh bạch với một hệ thống tiêu chí cũng như trọng số của từng tiêu chí phải hết sức khoa học và thuyết phục. Trong bối cảnh Việt Nam, nơi hành vi của mỗi cá nhân và cộng đồng vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi triết lí sống "một trăm cái lí không bằng một tí cái tình" hay " xấu đều hơn tốt lỏi"… thì đây còn là một công việc tế nhị, nhạy cảm mà những người không đủ bản lĩnh và dũng khí sẽ không dám làm. Vì thế, việc Nhóm Xếp hạng ĐH Việt Nam (sau đây xin gọi tắt là "Nhóm") gồm TS Lưu Quang Hưng, TS Nguyễn Ngọc Anh, TS Giáp Văn Dương, TS Ngô Đức Thế, ThS Trần Thanh Thủy và ThS Nguyễn Thị Thu Huyền, mỗi người "một phương trời", cùng nhau tiến hành và công bố bảng xếp hạng mang tính tổng thể đầu tiên đối với 49 trường ĐH Việt Nam đã được đông đảo những người quan tâm đến chấn hưng giáo dục (GD) ĐH Việt Nam đón nhận một cách trân trọng. Đã có nhiều ý kiến bày tỏ lòng khâm phục sự nỗ lực, dám đối mặt với khó khăn và không cầu toàn của nhóm tác giả, tin tưởng vào các phương pháp định lượng được sử dụng dù còn nhiều tiêu chí và trọng số của các tiêu chí cần được thảo luận thêm. Đặc biệt, điều đáng hoan nghênh là Nhóm đã chú trọng đến chất lượng, nhất là chất lượng nghiên cứu khoa học (NCKH), cái quyết định danh tiếng và đẳng cấp của một trường ĐH.
Thực tế là, kết quả xếp hạng ĐH, dù do một tổ chức uy tín đến mấy công bố thì cũng không thể hoàn hảo bởi không có bảng xếp hạng nào phản ánh được tất cả các mặt và lĩnh vực hoạt động của một trường ĐH. Nhưng bất cứ bảng xếp hạng nào cũng đóng góp những giá trị nhất định và có sự tương thích nào đó với chất lượng đào tạo và NCKH của các trường nằm trong bảng xếp hạng, và vì thế, đó là một tài liệu tham khảo, còn mức độ quan trọng đến đâu thì phụ thuộc mục đích và quan điểm của người sử dụng. Các bảng xếp hạng này, không ít thì nhiều, đã góp phần vào việc thay đổi chính sách quốc gia, chiến lược cải thiện chất lượng và hiệu quả hoạt động của các trường ĐH theo hướng ngày một nhân văn và khai sáng hơn. Xếp hạng còn khuyến khích các trường minh bạch thông tin, giúp xã hội và nhà nước giám sát tốt hơn chất lượng hoạt động của các trường.
Vạn sự khởi đầu nan, không đi thì không đến, vì thế, với việc công bố báo cáo xếp hạng đầu tiên, Nhóm đã làm cho nhiều người - ít nhất là những bạn bè và đồng nghiệp trong giới học thuật của tôi - vui mừng, vì:
(1) Như vậy là chúng ta đã có một hệ thống xếp hạng ĐH riêng, do một nhóm học giả Việt Nam độc lập tiến hành, bảo đảm khách quan, minh bạch, có tham khảo và đối sánh kĩ càng với các bảng xếp hạng quốc tế nhưng không sao chép, rập khuôn, phù hợp điều kiện của đất nước;
(2) Trong khi các tổ chức và cơ quan có trách nhiệm vẫn đang loay hoay với việc thực hiện Nghị định số 73/2015/NĐ-CP ngày 8-9-2015 của Chính phủ về "phân tầng xếp hạng" đại học và câu chuyện ấy vẫn còn đang gây ra nhiều tranh cãi thì rất may "tự dưng" chúng ta lại có một bảng xếp hạng ĐH của Việt Nam, do một nhóm phi lợi ích, phi chính phủ, độc lập và không bị tác động của lợi ích nhóm nào, tiến hành;
(3) Công trình đó không xài một đồng tiền thuế nào của dân, Nhóm chỉ có 6 người, làm trong 3 năm;
(4) Kết quả xếp hạng khả tín vì cũng tương đồng với các công bố gần đây về xếp hạng ĐH Việt Nam của một số tổ chức xếp hạng quốc tế như Webometrics, Scientometrics;
(5) Chắc chắn phương pháp thu thập số liệu, tiêu chí và các trọng số trong bảng xếp hạng sẽ tiếp tục là đề tài tranh luận sôi nổi của những người quan tâm đến chất lượng GDĐH Việt Nam, và vì thế, tự nó tạo ra một diễn đàn sôi nổi và xây dựng về chất lượng GDĐH Việt Nam;
(6) Tạo ra văn hóa chất lượng trong đánh giá ĐH, hạn chế dần sự tù mù định tính chung chung, trường này thuộc top trên, trường kia thuộc top dưới như xã hội vẫn thường "xếp hạng";
(7) Rất có thể công bố này sẽ khiến các nhà làm chính sách, các trường ĐH phải xem lại công việc của mình, và xã hội cũng sẽ có những điều chỉnh thang bậc giá trị trong GDĐH theo hướng tiệm cận dần những chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Điều đó, không ít thì nhiều, đều có ích cho người học, cho xã hội...
Cú huých làm bừng tỉnh nhiều người
Điều quan trọng là kết quả xếp hạng lần đầu này đã như một "cú huých" làm bừng tỉnh không ít người.
Trong nhiều năm qua, các thang bậc giá trị của GDĐH trong xã hội phần nhiều được nhìn nhận cảm tính theo những thước đo của đám đông, không ít trong số đó là phi khoa học. Họ gọi trường X là trường top trên vì nhiều học sinh giỏi bậc THPT thi vào, điểm chuẩn đầu vào cao; họ coi trường Y là trường top dưới vì ít học sinh giỏi thi vào, thí sinh đa phần là con em nông dân, vùng sâu vùng xa, điểm chuẩn đầu vào thấp hơn. Thì ra trường thuộc top nào phụ thuộc điểm chuẩn, mà điểm chuẩn lại phụ thuộc việc sinh viên trường ấy ra trường dễ kiếm được việc làm ở các vị trí "thơm tho", nghĩa là lương cao hơn, nhàn hạ hơn, được làm việc trong phòng có máy lạnh, không phải đầu tắt mặt tối, dầm mưa dãi nắng, có nhiều cơ hội thăng tiến hơn... Họ không cần biết trường ĐH ấy đã có những công trình khoa học nào được ứng dụng thành công trong thực tiễn sản xuất và đời sống, có đóng góp đáng kể nào cho quốc kế dân sinh hay đã có cống hiến gì làm phong phú thêm kho tàng tri thức của dân tộc và của nhân loại.
Về đại thể, GDĐH có ba nhiệm vụ chủ yếu: (1) sáng tạo ra tri thức mới thông qua NCKH và phát triển công nghệ, (2) truyền bá những tri thức ấy và những tri thức kế thừa khác cho thế hệ đương thời và thế hệ sau thông qua đào tạo, và (3) thắp lên ngọn lửa đam mê sáng tạo, ý thức nghề nghiệp và trách nhiệm công dân trong lòng người học. Vì thế, để GDĐH không biến thành "phổ thông cấp 4" thì NCKH phải trở thành nhiệm vụ quan trọng nhất, ngang bằng (nếu không muốn nói là hơn) với nhiệm vụ giảng dạy, như các trường ĐH Nhật Bản và phương Tây đã làm, và sau đó một số nước đang phát triển khác đã khôn ngoan học theo. Vì vậy, nhiều người đánh giá cao bộ tiêu chí về NCKH chiếm 40% tổng số điểm xếp hạng của Nhóm.
"Cú huých" này sẽ làm các trường ĐH suy nghĩ nghiêm túc hơn về NCKH, cái làm nên "sức sống của trường ĐH" nhưng thời gian qua không được mấy trường dành cho sự quan tâm thích đáng. Trong GDĐH Việt Nam thì "vùng trũng" sâu nhất là NCKH; nó cần được "lấp đầy" trước hết để cùng với lực kéo của nhu cầu học tập của xã hội thì lực đẩy của NCKH trong các trường ĐH sẽ tạo ra những bước đột phá, đưa ĐH Việt Nam hội nhập sâu sắc và toàn diện hơn với bè bạn quốc tế theo những thước đo và thang bậc giá trị chung.
Trong một thế giới mở, cạnh tranh về GDĐH về thực chất là cạnh tranh về NCKH và năng lực đổi mới sáng tạo của các trường ĐH vì suy cho cùng, danh tiếng trường ĐH được xây dựng và khẳng định dựa trên chất lượng đào tạo, mà chất lượng đào tạo lại phụ thuộc chất lượng NCKH. Tác động vào "điểm nhấn" này sẽ khiến các nội hàm khác của GDĐH thay đổi theo.
Đôi điều góp ý
Nhiều ý kiến cho rằng khi đánh giá về NCKH, Nhóm lấy các công trình công bố trên hệ thống ISI và Scopus là đúng nhưng chưa đủ. Trong điều kiện cụ thể của đất nước, các tiêu chí về NCKH nên quan tâm nhiều hơn đến các phát minh, tiến bộ kĩ thuật, giải pháp hữu ích, đổi mới và sáng tạo công nghệ được áp dụng trong thực tiễn sản xuất và đời sống, phục vụ quốc kế dân sinh... Các công trình này cần có trọng số cao hơn các công bố quốc tế, ít nhất là trong giai đoạn hiện nay. Có lẽ các nhà khoa học Triều Tiên công bố quốc tế rất ít nhưng họ vẫn khiến cộng đồng khoa học quốc tế nể trọng bởi các cống hiến khoa học của họ cho đất nước mình. Hi vọng là cách tính này sẽ góp phần thúc đẩy hình thành thị trường khoa học và công nghệ còn đang rất yếu của chúng ta.
Nhóm cũng cần bổ sung tiêu chí về tiền ngân sách trên đầu giảng viên, trên một công bố quốc tế, một bản quyền công nghệ... Cùng trong hệ thống GDĐH quốc dân nhưng có trường được nhà nước đầu tư hàng ngàn tỉ đồng cho chi thường xuyên và NCKH, hỗ trợ đến hơn 10 triệu đồng/sinh viên/năm học trong khi có trường lại chỉ nhận được vài ba triệu đồng/sinh viên/năm học, và có những trường (ĐH tự chủ) không được nhận đồng nào hoặc được nhận rất ít sự hỗ trợ kinh phí của nhà nước. Họ phải tự lo mọi hoạt động, cố gắng dành dụm từng đồng cho NCKH. Như vậy, sự cạnh tranh thứ hạng ở đây rất không công bằng. Chúng ta có thể có bức tranh xếp hạng hoàn toàn khác, nhất là về NCKH, nếu nhà nước đầu tư cho các trường một cách bình đẳng, việc phân bổ kinh phí chỉ dựa trên KPIs (Key Performance Indicators) của các cơ sở GDĐH.
Cùng với xếp hạng theo trường, Nhóm cũng cần quan tâm đầy đủ hơn việc xếp hạng theo ngành hay nhóm ngành NCKH và đào tạo, như cách các tổ chức xếp hạng quốc tế đang làm. Một trường có thể xếp hạng 100 trong xếp hạng tổng thể nhưng lại đứng thứ nhất về lĩnh vực khoa học X, đứng thứ 50 về lĩnh vực khoa học Y… Làm sao để khi soi vào bảng xếp hạng, hầu hết các trường đều thấy mình trong đó, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Chúng tôi tin rằng trong các năm tiếp theo, Nhóm sẽ hoàn thiện thêm phương pháp nghiên cứu, bổ sung và chỉnh sửa các tiêu chí và trọng số của các tiêu chí, đồng thời kiên trì và dũng cảm giữ vững tính độc lập, khách quan, tự tin và cầu thị, từ đó giành được thêm niềm tin của xã hội.
T.Đ.V

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét