Thứ Bảy, 16 tháng 9, 2017

20170916. VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY

ĐIỂM BÁO MẠNG
VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY

TẠ NGỌC TẤN /TCCS 2-9-2017


Xây dựng Đảng về đạo đức: Tư duy mới trong xây dựng Đảng - Ảnh: vov.vn

Trong diễn văn đọc tại Lễ kỷ niệm lần thứ 30 ngày thành lập Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết một cách khái quát lịch sử vẻ vang của Đảng trong 30 năm đấu tranh, phấn đấu vì độc lập, tự do cho dân tộc, vì ấm no, hạnh phúc cho nhân dân: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh, là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no”. Tính “đạo đức” xuất phát từ bản chất của Đảng cũng được khẳng định ngay trong “Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam” do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo vào dịp Đại hội thành lập Đảng năm 1930: “Ai tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái đấu tranh và dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng thời được vào Đảng”(1). Theo văn kiện này, đảng viên là người tự nguyện tham gia đội ngũ của Đảng vì lý tưởng nhân văn cao cả, vì mục đích giành độc lập, tự do cho dân tộc, tiến tới xây dựng một chế độ tốt đẹp nhằm mang lại tiến bộ và hạnh phúc cho nhân dân. Vì lý tưởng ấy, người đảng viên “hăng hái đấu tranh, dám hy sinh” và hoàn toàn không mưu cầu lợi ích cho cá nhân. Chất lý tưởng ấy xuất phát từ lòng yêu nước, tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm công dân, lý tưởng phấn đấu vì chủ nghĩa cộng sản, trở thành nền tảng cho “đạo đức” của Đảng, tạo nên niềm tin của nhân dân với Đảng, tạo nên sức mạnh của Đảng.
Trong thời kỳ đấu tranh chống đế quốc, thực dân, phong kiến, lớp lớp đảng viên tiếp bước nhau, sẵn sàng chấp nhận gian khổ, hy sinh, gắn bó mật thiết, đồng cam cộng khổ với nhân dân mà chiến đấu. Đó là thể hiện sinh động nhất, sáng rõ nhất đạo đức cách mạng. Họ chính là những đại diện xứng đáng nhất, những tấm gương tiêu biểu nhất cho đạo đức của Đảng. Và chính chất đạo đức ấy làm cho “Đảng ta thật là vĩ đại”, làm cho các tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc từ khắp mọi miền đất nước đi theo Đảng với niềm tin son sắt, gọi Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng ta”. Tình yêu ấy, niềm tin ấy không thể chỉ tuyên truyền là có mà phải bắt nguồn từ chính đạo đức của cán bộ, đảng viên, từ sự thống nhất trung thực giữa lời nói và việc làm, sự hy sinh quên mình, sự đồng tâm nhất trí của toàn bộ đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng vì sự nghiệp cách mạng cao cả. Chất đạo đứcấy tạo nền tảng vững chắc làm nên trí tuệ, sức mạnh của Đảng, làm nên sự vĩ đại của Đảng, giúp Đảng tập hợp đông đảo nhân dân thành lực lượng cách mạng vô địch, lập nên những chiến công hiển hách, những thành tựu to lớn.
Vì ý nghĩa sống còn của phẩm chất đạo đức đối với Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt cho việc nhận thức đúng và thực hiện thường xuyên, bền bỉ việc giáo dục, xây dựng đạo đức của cán bộ, đảng viên trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, mọi thời kỳ lịch sử. Năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn thành tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” - tác phẩm quan trọng, có ý nghĩa chỉ đạo kịp thời, sâu sát, thiết thực đối với công tác tổ chức cán bộ, giáo dục, rèn luyện đảng viên, công tác xây dựng Đảng và phát triển các tổ chức cách mạng. Trong tác phẩm này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành phần III để nói về Tư cách và đạo đức cách mạng. Ngay mở đầu, Người viết: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(2). Người cũng chỉ ra một loạt bệnh đã phát sinh trong cán bộ, đảng viên. Đó là những bệnh trái ngược với đạo đức cách mạng, như tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ, hữu danh vô thực, quan liêu, bàn giấy, xa dân, ham danh vị, chủ quan, hình thức, ích kỷ, hủ hóa, hay nói chữ, lụp chụp cẩu thả,... Người cho rằng nguồn gốc chung của tất cả những thứ bệnh đó là do “chủ nghĩa cá nhân” mà ra: “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”(3). Muốn chữa tất cả những thứ bệnh nguy hiểm đó, trước hết, người cán bộ, đảng viên phải chữa được căn bệnh của mọi căn bệnh là chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ đảng viên muốn trở thành người cách mạng chân chính thì phải thực hiện “chí công, vô tư”, phải rèn luyện theo 5 đức tính tốt là Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm. Đó chính là đạo đức cách mạng, không phải vì danh vọng cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(4).
Vào dịp kỷ niệm thành lập Đảng năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Thêm một lần nữa, Người chỉ ra bản chất của những sai lầm, khuyết điểm, của tình trạng một số đảng viên thấp kém về đạo đức, phẩm chất chính là chủ nghĩa cá nhân. Nói cách khác, đó là những người mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Người yêu cầu: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật”(5). Yêu cầu ấy cũng chính là yêu cầu về chuẩn mực đạo đức đối với cán bộ, đảng viên của Đảng.
Đảng đã lãnh đạo nhân dân thực hiện công cuộc đổi mới thu được những “thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử”. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu to lớn không thể phủ nhận, thực tiễn công tác xây dựng Đảng cũng cho thấy vấn đề suy thoái về đạo đức của “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên” ngày càng trở nên bức xúc, nóng bỏng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII chỉ rõ: “... trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn”(6).
Nghị quyết số 12-NQ/TW, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” tiếp tục gióng lên tiếng chuông báo động đầy trách nhiệm về những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, trong đó đặc biệt là vấn đề suy thoái về đạo đức. Nghị quyết nhấn mạnh: “Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Những hạn chế, yếu kém trong xây dựng Đảng được chỉ ra cụ thể là: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”(7).
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (tháng 10-2016) tiếp tục nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng với thái độ nghiêm khắc, nhìn thẳng vào sự thật. Kiểm điểm lại tình hình thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII nhận định “đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị”, tuy nhiên “một số việc chưa đạt mục tiêu”. Tình hình đó dẫn đến thực tế là: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”(8). Có thể nói, chưa bao giờ công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là yêu cầu ngăn chặn, đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực trong cán bộ, đảng viên lại được Đảng đặt ra cấp bách và khẩn thiết như thế. Đó cũng là thể hiện cho một thái độ đúng đắn, nghiêm khắc, dám và biết nhìn thẳng vào sự thật, một tinh thần chiến đấu không khoan nhượng nhằm bảo vệ sự trong sạch của Đảng. Ở đây, một lần nữa, đạo đức lại được đặt ra như một vấn đề cơ bản của công tác xây dựng Đảng, nguồn gốc tạo nên sức mạnh của Đảng.
Để xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII chỉ ra 4 nhóm nhiệm vụ và giải pháp, bao gồm: 1- Về công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình; 2- Về cơ chế, chính sách; 3- Về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; 4- Về phát huy vai trò của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội(9). Đây là một hệ thống toàn diện các nhiệm vụ, giải pháp về giáo dục, rèn luyện, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, xây dựng cơ chế, chính sách nhằm làm rõ trách nhiệm của từng vị trí công tác, cơ chế vận hành của hệ thống Đảng, tăng cường công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng, giám sát của nhân dân và các đoàn thể xã hội. Riêng công tác xây dựng Đảng về đạo đức, để thực hiện theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII cần chú ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, cần nhận thức về sự thay đổi một cách căn bản môi trường xã hội, điều kiện sống và những yếu tố tác động vào quá trình hình thành, duy trì ổn định nhân cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên trong điều kiện hiện nay. Nếu như trước đây, trong thời kỳ cách mạng dân tộc, dân chủ, đấu tranh giải phóng đất nước, vào Đảng là chấp nhận hy sinh, gian khổ vì lý tưởng cách mạng, thì nay trong điều kiện Đảng cầm quyền, vào Đảng còn có cơ hội cho sự thăng tiến về địa vị xã hội. Nếu như trước đây, kẻ thù của dân tộc cũng như của mỗi cán bộ, đảng viên là đế quốc, thực dân xâm lược, rất dễ nhận diện, có chiến tuyến xác định rõ ràng, thì nay, kẻ thù của cán bộ, đảng viên là sự cám dỗ về quyền lực, lợi ích, những thứ không có hình hài cụ thể, không xác định về ranh giới, mức độ. Đặc biệt, nếu như trước đây, cán bộ, đảng viên với người dân có cùng một kẻ thù, có chung mục đích đánh giặc, cứu nước, vì thế có chung một chiến hào đấu tranh, thì nay, một bộ phận cán bộ, đảng viên là người quản lý, được ngân sách nhà nước bảo đảm cuộc sống và người dân là người bị quản lý, phải tự chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình. Mặt khác, về bản chất, cán bộ, đảng viên có chức, có quyền bên cạnh việc phải chịu sức ép rất nặng nề bởi những mối quan hệ vô cùng phức tạp của cơ chế kinh tế thị trường thì cũng luôn gắn liền với quyền lực và lợi ích.
Thứ hai, sự thay đổi về môi trường xã hội, điều kiện sống tất yếu dẫn đến sự lạc hậu, kém hiệu quả của một số nội dung, phương pháp cũ của công tác xây dựng Đảng về đạo đức, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, xem xét, xây dựng một cách đồng bộ những nội dung, phương pháp phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Cùng với nội dung giáo dục về nhận thức chính trị, lý tưởng sống, ý thức trách nhiệm của người cộng sản trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, rất cần thiết phải trang bị cho cán bộ, đảng viên những hiểu biết về môi trường xã hội, các quan hệ lợi ích trong nền kinh tế thị trường, những vấn đề chính trị, văn hóa có tính chất toàn cầu. Tạo điều kiện cho mỗi cán bộ, đảng viên có được tri thức toàn diện để từ đó xác định rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình, tự ý thức được những chuẩn mực đạo đức mà mình phải phấn đấu để đạt tới. Để đáp ứng yêu cầu đó, cần thiết phải hình thành định hướng chung về nội dung giáo dục đạo đức không chỉ trong nội bộ Đảng, mà còn trong toàn xã hội, trong đó rất quan trọng là phải bắt đầu từ nội dung, chương trình giáo dục phổ thông đến các phương tiện báo chí, truyền thông xã hội.
Thứ ba, thực thi đồng bộ các giải pháp về tổ chức, cán bộ trong Đảng, về kỷ luật, kỷ cương trong hệ thống chính trị, về kiểm tra, giám sát của nhân dân và các đoàn thể chính trị, xã hội. Đó chính là tạo lập một môi trường tích cực để nuôi dưỡng, bảo vệ các giá trị đạo đức trong Đảng, trong xã hội, chống lại những hành vi biểu hiện tiêu cực, quan liêu và tham nhũng. Vấn đề đầu tiên có ý nghĩa sống còn là tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành và sự tác động qua lại giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị với ý nghĩa vừa điều chỉnh hoạt động bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, vừa giám sát quyền lực trong bộ máy. Yêu cầu có tính nguyên tắc là xác định rõ ràng, chặt chẽ mục đích, yêu cầu, quyền hạn của từng bộ phận, cơ quan, từng cá nhân nắm giữ quyền lực; các cơ chế, điều kiện cho việc hoàn thành chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm pháp lý của mỗi vị trí công tác. Nếu không giải quyết tốt khâu quan trọng này thì không thể nói đến môi trường tích cực cho việc xây dựng và duy trì các chuẩn mực đạo đức. Sự hợp lý, khoa học về bộ máy, sự rõ ràng, minh bạch về quyền và trách nhiệm trong toàn bộ hệ thống chính trị là cơ sở quan trọng để đánh giá và hướng cán bộ, đảng viên đến những chuẩn mực đạo đức tích cực, hạn chế, ngăn ngừa phát sinh tiêu cực về đạo đức của cán bộ, đảng viên.
Thứ tư, việc xây dựng và thực hiện các chuẩn mực đạo đức trong xây dựng Đảng không thể tách rời các điều kiện về đánh giá, sử dụng, loại trừ các phần tử thoái hóa, biến chất ra khỏi đội ngũ của Đảng, về chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, đảng viên,... Việc đánh giá, sử dụng cán bộ, đảng viên không đúng dẫn đến sự mất đoàn kết nội bộ, giảm thiểu hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự mất lòng tin của dân đối với Đảng và chế độ. Việc để những phần tử cơ hội chui vào hệ thống chính trị và những phần tử thoái hóa, biến chất giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy quyền lực; chế độ đãi ngộ không tương xứng với trách nhiệm công việc và các điều kiện xã hội cũng là một trong những nguyên nhân đẩy cán bộ, đảng viên vào những hành vi tiêu cực, tham nhũng.
Thứ năm, xây dựng đạo đức không thể chỉ dựa vào tinh thần tự giác của cán bộ, đảng viên. Việc giáo dục, rèn luyện và thực hiện các chuẩn mực đạo đức trong xây dựng Đảng chỉ có hiệu quả khi thiết lập được chế độ “kỷ luật thép” trong Đảng và hệ thống chính trị. Chế độ “kỷ luật thép” ấy được xây dựng trên cơ sở ý thức đầy đủ về vai trò, vị trí của Đảng đối với dân tộc, nhân dân, vinh dự và trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên khi gánh vác các chức trách nhiệm vụ trong hệ thống quyền lực của Đảng và Nhà nước. Chế độ “kỷ luật thép” của Đảng phải bảo đảm vừa răn đe, đề phòng, hạn chế sự vi phạm kỷ luật, vừa xử lý nghiêm khắc những hành vi, hiện tượng vi phạm đạo đức của Đảng. Trong hòa bình xây dựng, dưới tác động của cơ chế thị trường, những cám dỗ lợi ích còn phức tạp, nguy hiểm hơn nên càng phải xây dựng và thực hiện chế độ “kỷ luật thép” của Đảng.
Thứ sáu, thực hiện dân chủ thực chất trong Đảng và trong xã hội. Đây là giải pháp và điều kiện không thể thiếu để giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Chế độ ta là chế độ dân chủ. Mọi quyền lực của chế độ đều thuộc về nhân dân. Đảng lãnh đạo nhân dân để thực hiện các mục tiêu cách mạng, nhưng nhân dân không chỉ là lực lượng của cách mạng, là mục đích phục vụ của Đảng, mà còn là cơ sở chính trị của Đảng, là yếu tố quan trọng không thể thiếu trong xây dựng Đảng nói chung, cũng như việc xây dựng Đảng về đạo đức nói riêng./.
--------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 5
(2), (3), (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 289, 295, 292
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 547
(6) Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 24
(7) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 22
(8) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 22
(9) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XIISđd, tr. 36 - 48
Tạ Ngọc TấnGS, TS, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
'KỶ LUẬT THÉP' CŨNG KHÔNG CỨU NỔI ĐẢNG CỘNG SẢN
TRUNG NGUYỄN/ BVN 16-9-2017

Lại thêm một bài xã luận có tựa “Vấn đề đạo đức trong xây dựng Đảng hiện nay” trên Tạp chí Cộng sản với nội dung kêu gọi các đảng viên cộng sản phải có “đạo đức”, phải học tập “tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh”, và thêm một cái là “kỷ luật thép”.
Mấy chục năm qua trên đất nước này, người dân như chúng tôi phải liên tục nghe các lãnh đạo Đảng Cộng sản rao giảng về đạo đức, vậy mà bây giờ Tạp chí Cộng sản cho rằng “Xây dựng Đảng về đạo đức” là “tư duy mới trong xây dựng Đảng”. Có lẽ tác giả bài xã luận quan trọng này của Đảng Cộng sản được đăng vào ngày 2/9 là… Việt kiều mới về nước hay người nước ngoài mới học tiếng Việt, nên không biết gì về chuyện chính trị trên đất nước này mấy chục năm qua?
Dù không phải là một giáo sư, tiến sỹ ngành xây dựng Đảng “hoành tráng” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng Cộng sản, tôi cũng xin góp ý vài lời với Hội đồng Lý luận Trung ương của Đảng Cộng sản nhằm xây dựng “Đảng ta” “trong sạch”, “vững mạnh”.

Chất keo gắn kết một đảng là tư tưởng, ý thức hệ, “kỷ luật thép” là cái theo sau

Một đảng chính trị được định nghĩa là một nhóm người có chung mục tiêu và quan điểm chính trị, tập hợp lại với nhau một cách có tổ chức, tìm cách ảnh hưởng tới chính sách công bằng cách đưa ứng cử viên của đảng vào các vị trí dân cử.
Điểm đầu tiên quan trọng nhất của một đảng chính trị là tập hợp những người có cùng chung tư tưởng chính trị. Tư tưởng chính trị chính là chất keo giữ các đảng viên trung thành với đảng, cũng như các đảng viên trung thành với nhau. Vậy thì cái tư tưởng của Đảng Cộng sản có còn phù hợp và đúng đắn hay không? Chúng ta thử khảo sát nhanh một vài điểm rất mâu thuẫn và vô lý trong tư tưởng, lý luận của Đảng Cộng sản ngay trong bài xã luận quan trọng 2/9 trên.
Thứ nhất, việc nói đến “đạo đức cách mạng” hay “tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” để thực hiện thành công chủ nghĩa cộng sản là chuyện mâu thuẫn. Chủ nghĩa cộng sản xuất phát từ quan niệm “duy vật”, “vật chất quyết định ý thức”. Ở đây nếu phải dựa vào “đạo đức” hay “tâm” của cán bộ cộng sản để xây dựng chủ nghĩa cộng sản là chuyện mâu thuẫn với luận điểm căn bản nhất trong lý luận duy vật. Những nhà lý luận Mác xít, những lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã “tự diễn biến, tự chuyển hóa” để trở thành “duy tâm”, hay nói dễ hiểu hơn là “chủ quan, duy ý chí”.
Thứ hai, tư tưởng của Hồ Chí Minh là “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, có nghĩa là cá nhân phải hy sinh cho một “nhân dân”, “tập thể” chung chung nào đó. Thế nhưng, “tập thể” nào cũng đều cấu thành từ những cá nhân, không có hai cá nhân nào giống nhau hoàn toàn và chỉ có cá nhân mới biết rõ điều gì làm họ hạnh phúc. Không có cá nhân thì không có tập thể. Không thể có chuyện một tập thể hạnh phúc nhưng các cá nhân trong tập thể đó lại bất hạnh vì phải “hy sinh” cho cái tập thể đó.
Tương tự, không thể nói cả dân tộc Việt Nam có độc lập, tự do khi từng cá nhân công dân Việt Nam còn chưa có quyền làm chủ đất nước. Công dân Việt Nam chưa có quyền trưng cầu dân ý, chưa có quyền phúc quyết hiến pháp, chưa có quyền tự do ứng cử, tự do bầu cử để bầu ra lãnh đạo quốc gia, chưa có quyền sở hữu đất đai, tài sản của mình.
Sự phát triển của các nước dân chủ, văn minh trên thế giới đều dựa trên sự tôn trọng cá nhân, tôn trọng quyền con người, không được phép nhân danh “tập thể”, “nhân dân”, hay “quốc gia” để chà đạp lên bất kỳ con người cá nhân nào. Nhiệm vụ của chính phủ là tạo điều kiện tối đa cho từng cá nhân, từng công dân có điều kiện tự nỗ lực để hoàn thành ước mơ, mục tiêu cuộc đời họ.
Ước mơ của những người muốn vào Đảng Cộng sản, theo như “quảng cáo” trong bài báo, là để “phục vụ nhân dân” chứ không phải để “làm quan phát tài”. Như vậy là việc các đảng viên có chức quyền được phục vụ nhân dân là hạnh phúc của họ chứ người dân Việt Nam chúng tôi hoàn toàn không cần các đảng viên đó phải đau khổ, phải “hy sinh quên mình” vì chúng tôi. Nếu họ không thích làm việc trong bộ máy nhà nước thì họ cứ làm những công việc đem lại hạnh phúc cho họ mà không vi phạm pháp luật là được. Việc quốc gia đại sự hãy để những người khác hoặc những đảng chính trị khác làm.
Thứ ba, việc đòi “quét sạch chủ nghĩa cá nhân” đi ngược với việc đòi “chuyên chính vô sản”, đòi độc quyền nhà nước. Đảng Cộng sản thực ra là một tập hợp những cá nhân theo chủ nghĩa cộng sản. Khi Đảng Cộng sản đòi “chuyên chính”, tức là “độc tài”, nghĩa là đã tự cho tập hợp các cá nhân trong đảng được đặc quyền đặc lợi là cai trị người dân mà không cần do dân bầu ra. Việc đòi “chuyên chính vô sản”, đòi “độc quyền nhà nước” chính là chủ nghĩa cá nhân ở mức độ cao nhất, kinh khủng nhất vì nó ảnh hưởng tai hại đến toàn thể người dân, vi phạm tới “công bằng xã hội” là mục tiêu trên “quảng cáo” của Đảng Cộng sản.
Còn rất nhiều điều mâu thuẫn, vô lý trong tư tưởng, lý luận, mục tiêu của Đảng Cộng sản. Ở đây tôi chỉ nêu ba điểm nổi bật. Chính vì tư tưởng, mục tiêu mâu thuẫn nhau, lời nói mâu thuẫn với việc làm nên việc người dân và đảng viên cộng sản không tin vào Đảng Cộng sản nữa là chuyện bình thường. “Chất keo” gắn kết các đảng viên với nhau là tư tưởng đã tan rã thì việc tăng cường “kỷ luật thép” hay “đạo đức cách mạng” là vô ích. Nếu các lãnh đạo Đảng Cộng sản tiếp tục bám vào tư tưởng, lý luận như hiện nay thì chuyện sụp đổ là không thể tránh khỏi.

clip_image002

Tác phẩm LNK Infomedis của điêu khắc gia Gintaras Karosas, làm từ 3000 cái ti vi cũ mà dân Lithuania mà phải nghe CS tuyên truyền dối trá và lừa bịp, vừa được khánh thành năm 2001, thì bức tượng của Lenin đã bị giật sập. Nguồn: internet

Pháp luật chuẩn mực cho cả quốc gia mới là giải pháp chứ không phải là “đạo đức”, “kỷ luật” cho riêng một đảng nào

Việc hô hào đạo đức hay kỷ luật Đảng cũng cho thấy một điều là hệ thống pháp luật hiện hành không áp dụng được vào thực tế, không áp dụng được cho các đảng viên cộng sản có chức có quyền. Đối với người dân thì Đảng Cộng sản áp dụng cái gọi là “pháp luật”, còn đối với các đảng viên cộng sản thì các lãnh đạo Đảng áp dụng cái gọi là “kỷ luật thép” trong Đảng.
Thật ra thì cuối cùng cái gọi là “pháp luật” hay “kỷ luật Đảng” đó cũng chỉ là do ý chí của các lãnh đạo Đảng Cộng sản muốn áp dụng đến đâu mà thôi. Ví dụ điển hình nhất là các đại án tham nhũng do Tổng Bí thư Đảng Cộng sản chỉ đạo trực tiếp. Nếu một quốc gia có pháp luật chuẩn mực thì thẩm phán chỉ việc xét xử theo luật chứ không cần chỉ đạo từ ai cả. Do đó, các lãnh đạo Đảng Cộng sản đang hết sức “duy tâm”, phản bội lại quan niệm “duy vật” của chủ nghĩa cộng sản.

Kinh tế thị trường không phải là thủ phạm, pháp luật tùy tiện mới là thủ phạm

Một điểm vô lý nữa trong luận điểm của các nhà lý luận cộng sản là đổ thừa việc đảng viên cộng sản tham nhũng, hủ bại là do “kinh tế thị trường”. Các quốc gia khác đều có kinh tế thị trường nhưng các đảng chính trị ở đó không hủ bại, tham nhũng tệ như Đảng Cộng sản Việt Nam. Tổ chức Minh bạch Quốc tế cho biết, chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam năm 2016 đứng thứ 113/176.
Các nước dân chủ, văn minh chống tham nhũng bằng cách có nhiều đảng chính trị để giám sát lẫn nhau, tạo thành hệ thống kiểm soát và cân bằng quyền lực. Thêm vào đó là có báo chí tự do để người dân có thể lên tiếng khi có tiêu cực xã hội, và tòa án độc lập để xét xử bất kỳ ai tham nhũng mà không phải e ngại “đánh chuột đừng để vỡ bình”. Ngoài ra còn nhiều hội đoàn, tổ chức xã hội dân sự để giám sát việc thực thi pháp luật của chính quyền.
Các lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam cũng biết vậy và hô hào “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” nhưng dân hoàn toàn không có quyền gì trên thực tế vì các quyền nào của dân cũng không được cụ thể qua các đạo luật. Rút cuộc, chủ trương, chính sách của giới lãnh đạo cộng sản nghe rất kêu trên lý thuyết nhưng không thể đưa vào cuộc sống vì không cụ thể được qua pháp luật chuẩn mực.
Cục trưởng Cục chống Tham nhũng Phạm Trọng Đạt từng thú nhận“Tham nhũng là những người có chức vụ quyền hạn, chống lại cơ chế xin cho. Chúng tôi chống lại có khi chết trước”. Ngay cả quan còn không dám chống tham nhũng thì người dân như chúng tôi chống tham nhũng làm sao?

Hãy “dân chủ thực chất” đi!

Do đó, để Đảng Cộng sản cũng như cả đất nước tránh sụp đổ chính là giải pháp thứ sáu trong bài viết:
“Thứ sáu, thực hiện dân chủ thực chất trong Đảng và trong xã hội. Đây là giải pháp và điều kiện không thể thiếu để giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Chế độ ta là chế độ dân chủ. Mọi quyền lực của chế độ đều thuộc về nhân dân”.
Khi tác giả bài báo phải kêu gọi thực hiện “dân chủ thực chất” có nghĩa là “dân chủ” từ trước tới nay ở Việt Nam là dân chủ hình thức, giả tạo. Điểm đầu tiên để bắt đầu một nền “dân chủ thực chất” chính là một bản hiến pháp chuẩn mực được toàn dân phúc quyết. Không làm được điều này thì mọi biện pháp, hô hào của giới lãnh đạo cộng sản chỉ là giả dối.
Lãnh đạo không chính trực thì tương lai đất nước tối đen như mực. “Dân quyền hiện thực, pháp quyền chuẩn mực, chính quyền chính trực” chính là giải pháp cho Việt Nam, giải pháp cho đoàn kết dân tộc, và cũng là giải pháp để cứu Đảng Cộng sản khỏi sụp đổ.
T.N.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét