Thứ Năm, 7 tháng 9, 2017

20170907. BÌNH LUẬN VỀ TUYÊN BỐ CỦA GIÁO SƯ TƯƠNG LAI

ĐIỂM BÁO MẠNG
TUYÊN BỐ DỨT BỎ MỌI LIÊN HỆ VỚI ĐẢNG NGUYỄN PHÚ TRỌNG THAO TÚNG ĐỂ TIẾP TỤC CHIẾN ĐẤU VỚI TƯ CÁCH ĐẢNG VIÊN ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM, ĐẢNG CỦA HỒ CHÍ MINH

TƯƠNG LAI/ BVN 2-9-2017
Hình ảnh có liên quan


Tôi là Tương Lai, vào Đảng Lao Động Việt Nam ngày 6.1.1959, đảng do Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, sau này đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam, hôm nay 2.9.2017 tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với Đảng của Nguyễn Phú Trọng đang thao túng, để tiếp tục chiến đấu với tư cách một đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam như ngày tuyên thệ đứng vào hàng ngũ Đảng của Hồ Chí Minh.
Chọn hôm nay, ngày Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố trước thế giới và với quốc dân đồng bào lý tưởng và mục tiêu chiến đấu nhằm xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thể hiện trong Hiến Pháp 1946để đưa ra tuyên bố này là nhằm khẳng định lý tưởng và mục tiêu nhất quán của tôi, không hề là một quyết định nhất thời bởi những nhân tố ngẫu nhiên.
Cách nay 15 năm, trong một tiểu luận chính trị “Chân lý là cụ thể”, đúc kết lại những bài viết của tôi trong vòng 10 năm trước, tôi đã chứng minh là không có cái gọi là “chủ nghĩa Mác Lênin”, mà đó chỉ là sản phẩm của Stalin được làm méo mó thêm qua lăng kính Mao-ít để du nhập vào Việt Nam mà xác định đó là “nền tảng tư tưởng”, là “kim chỉ nam”, để rồi ai có ý định nghiêm túc cần cẩn trọng tìm hiểu từ thực tiễn Việt Nam và thế giới, từ những thành tựu nghiên cứu của giới khoa học quốc tế có uy tín, thì đều bị bịt miệng và quy cho tội phản động, chống đảng.
Trong tiểu luận ấy, tôi đã nghiêm chỉnh và thẳng thắn đề nghị cần trở lại với tên Đảng là Đảng Lao Động Việt Nam, trở lại với tên nước là Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng cho lý luận phát triển của Việt Nam. Ở đó, tôi trình bày rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tích hợp và vận dụng nhuần nhuyễn những thành tựu của trí tuệ loài người, trong đó có Phật giáo, Khổng giáo từng hòa quyện với truyền thống dân tộc đã chìm sâu trong kết cấu hạ tầng tâm lý xã hội Việt Nam và chủ nghĩa Mác. Với Mác, Hồ Chí Minh đã thực hiện một tiếp biến, loại bỏ những sai lầm về lý thuyết, giữ lấy những giá trị bền vững qua kiểm nghiệm của thời gian, tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tinh hoa tư tưởng đó vào thực tiễn cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người của Việt Nam. Bằng cách đó, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ lịch sử giữa truyền thống và hiện đại trong thế kỷ XX. Tiểu luận ấy tôi đã gửi đến Hội đồng Lý luận TƯ và nhiều vị lãnh đạo song chỉ có hai người có phản hồi và trao đổi trực tiếp là Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Di bút của Đại tướng còn ghi rõ: “Chúc đc Tương Lai có những đóng góp mới vào lý luận của Đảng” Hànội ngày 27/9/2006. Võ Nguyên Giáp Đã ký”.
Kiên trì dấn thân vào cuộc đấu tranh trên bình diện tư tưởng và lý luận một cách công khai, tôi hy vọng bằng sự minh bạch đó, có thể góp phần nhỏ bé của mình cùng với những người khác làm thay đổi thực trạng của hệ tư tưởng giáo điều, bảo thủ đang dìm đất nước trong trì trệ lạc hậu, làm hao mòn sức sống của dân tộc trước một thế giới đang biến động từng ngày. Đấy là lý do để tôi nhẫn nhục tiếp tục ở lại trong Đảng cho dù biết rằng, những Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, với sự hậu thuẫn trực tiếp của nhà cầm quyền Bắc Kinh đang thao túng Đảng thì không còn gì là Đảng của Hồ Chí Minh nữa. Nhưng cũng lại có một thực tế oái oăm là, hiện nay chưa có một lực lượng chính trị nào đủ mạnh để có thể thay thế được đảng đang nắm quyền bằng hệ thống “chuyên chính vô sản” được cài cắm đến tận cơ sở.
Cho dù vậy, sự phân hóa trong nội bộ các cấp, đặc biệt là ở cấp cao nhất, các nhân tố cấp tiến chống lại sự trì trệ bảo thủ giáo điều cũng là một thực tế. Đó là một tất yếu phổ biến của mọi thực thể sống, luôn diễn ra “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi” mà Hồ Chí Minh đã viết trong Di chúc. Cái mới sẽ thắng là không gì cản được. Bằng sự đấu tranh của từng đảng viên có lương tri, sự quyết liệt của của cuộc đấu tranh đòi dân chủ, đòi quyền sống trong các tầng lớp nhân dân đang dâng lên ngày càng mạnh mẽ thì những gì đã cũ kỹ, hư hỏng trong bộ máy quyền lực duy trì chế độ toàn trị phản dân chủ sẽ bị lật nhào. Vấn đề chỉ còn là thời gian.
Thế nhưng thời gian không chờ đợi. Càng không suôn sẻ trong sự chờ đợi những gì mình mong muốn. Cho dù đã biết trước những trở ngại to lớn đang chờ đón, tôi cũng không lường trước những thủ đoạn bẩn thỉu mà người ta đã gây ra tầng tầng lớp lớp cho thiện chí phản biện hết sức trung thực và thẳng thắn một cách ôn hòa, không sa vào quá khích cực đoan mà tôi đã bền bỉ thực hiện trong nhiều năm qua. Từ những tham luận công khai trên diễn đàn của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam mà tôi là ủy viên TƯ suốt hơn 30 năm qua đến những bài viết trên các báo chính thống, những trang mục thường kỳ của một số báo ở trung ương và ở thành phố HCM, tham luận tại nhiểu hội thảo trong đó có Hội thảo “Về Phương pháp luận nghiên cứu chủ thuyết phát triển và tư tưởng Hồ Chí Minh” theo lời mời của Hội đồng lý luận TƯ ngày 6.4.2009, v.v. và nhiều hoạt động lý luận, khoa học khác, tôi đều nhất quán với nguyên tắc đó. Khi bị cấm không được xuất hiện trên các báo chính thống của nhà nước cũng trên nguyên tắc đó tôi viết bài đưa lên mạng trong mục “Mênh mông thế sự” và “Mênh mông thế sự để gió cuốn đi” nhằm chuyển tải những ý tưởng vừa mang tính phản biện, vừa diễn đạt chính kiến và cảm nhận của tôi về thời cuộc.
Cho đến bài “Ngọn lửa vẫy gọi” tôi viết để tưởng niệm Lưu Hiểu Ba, nhà văn Trung Quốc, giải Nobel Hòa Bình vừa qua đời, phải chăng đã động đến “thiên triều” nên đã có “chiếu chỉ” ban ra, lập tức sự cố nảy sinh? Có phải vì thế ma một kịch bản được dàn dựng lộ liễu và bẩn thỉu nhằm bôi nhọ tôi để bằng mọi cách phải “khai trừ” tôi ra khỏi đảng ngay để vừa lòng ai đó theo chỉ thị của cấp trên? Đây chỉ là giọt nước tràn ly. Trò hề này thật hài hước và nhục nhã, tuy bước đầu thất bại nhưng chắc chắn sẽ phải thực hiện trong thời gian tới như một số trường hợp họ đã làm trước đây.
Vì vậy sẽ là ngu ngốc nếu tôi lại tiếp tục nói nói cười cười với những rôbốt vô hồn vô cảm, vừa mới hôm qua tôi đã xúc động nói những lời cám ơn thật lòng vì đã thông cảm vởi bệnh tật đang hành hạ người đảng viên già có giấy miễn sinh hoạt đảng đã đến nhà để trao đổi nội dung viết kiểm điểm gửi cho chi ủy trình bày trước chi bộ chứ không phải trực tiếp đến, thì hôm sau trước toàn thể chi bộ, ông bí thư tội nghiệp đã lật lọng vu khống là tôi không chịu đến, chi bộ cứ việc biểu quyết.
Tôi sẽ không phải viết ra những bịa tạc vu khống khác từ những “cấp trên” đến “chỉ đạo” hội nghị chi bộ thực hiện kịch bản soạn sẵn từ bên trên đã bị mấy đảng viên phản đối, mà chỉ muốn nói rằng, những nhẫn nại nhằm thực hiện thiện chí của tôi đã trở nên quá vô nghĩa. Kể cả sự tự kiềm chế để vẫn viết “Bản trình bày” về nội dung “kiểm điểm” được cho là của cấp trên đưa ra đã tự vạch trần sự lố bịch và lộ liễu những sai lầm về đường lối đối nội và đối ngoại, và đến sự kiện này thì quá hèn hạ. ** Sẽ phung phí thời gian và sức lực để phải tiếp xúc với vô vàn những “rô bốt” đáng thương chỉ biết cúi đầu tuân phục. Đã đến lúc phải dứt bỏ mọi dính líu với mớ hỗn tạp này.
Tôi phải tìm một phương thức đấu tranh mới. Tôi sẽ chiến đấu trong tư thế, và chỉ bằng tư thế đó của một đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam của Hồ Chí Minh suốt mấy chục năm qua kể từ lúc vào Đảng cho đến những thời kỳ tha hóa ngày càng trầm trọng của một bộ phận chóp bu thao túng, làm băng hoại uy tín và tính chất trong sáng của Đảng, đặc biệt là từ đại hội X.
Tôi hiểu rõ tôi không hề đơn độc. Trong Đảng còn nhiều đảng viên giữ được lý tưởng và phẩm cách đảng viên Đảng của Hồ Chí Minh, họ đã và đang thầm lặng nung nấu ý chí chiến đấu và bằng những cách riêng của mỗi người đã, đang và sẽ đấu tranh làm cho Đảng trong sạch trở lại, xứng đáng với vai trò lịch sử mà Đảng của Hồ Chí Minh từng có để cùng dân tộc đi tới trong bối cảnh mới. Đương nhiên, trong bối cảnh mới ấy, mục tiêu và phương thức đấu tranh phải thích ứng với đòi hỏi mới của cuộc sống đang thay đổi từng giây từng phút để dẫn tới những đột phá.
Khát vọng xây dựng đất nước của lớp người đã ngoài 80 là những người lót đường như tôi sẽ được quyết định khi một thế hệ mới sẽ lớn lên...Khi những con người như thế xuất hiện, họ sẽ vứt bỏ tất cả những điều mà theo quan niệm hiện nay họ phải làm: họ sẽ tự biết cần phải làm như thế nào” như F. Engel đã tiên đoán. Những con người như thế đang xuất hiện, và ngày càng nhiều. Chính họ sẽ quyết định cần phải xây dựng một Đảng lãnh đạo thế nào để đưa đất nước vượt khỏi vũng lầy hiện nay, khiến cho dân tộc đang phải đắm chìm trong tăm tối bứt lên trong ánh sáng văn minh, ngẩng cao đầu đi tới như ông cha ta đã từng viết nên những trang sử chói lọi trong thời đại của các vị. Lớp trẻ ấy sẽ quyết định vận mệnh của đất nước, đưa dân tộc bứt lên cùng thế giới.
Với nhận thức đó, tôi tiếp tục dấn bước trong cảm hứng “Hành khúc” của nhà thơ Pháp từng giữ nhịp đập cho trái tim yêu nước trong tôi “Giữa mùa phản phúc. Tối đen tù ngục. Suối đã đục dòng. Chỉ lệ còn trong … Những gì ta yêu phải cứu thoát ra. Tự mình ta, tự mình ta”!
Ngày 2.9.2017

HÃY TÔN TRỌNG QUYẾT ĐỊNH CỦA GS TƯƠNG LAI

NGUYỄN QUANG A/ BVN 4-9-2017

Tôi không tán thành chủ trương quay lại Đảng Lao động và tư tưởng HCM của GS Tương Lại, nhưng tôi tôn trọng và hoan nghênh quyết định của ông (nhất là quyết định cắt đứt quan hệ với ĐCSVN).
1) những ai đấu tranh cho dân chủ, quyền con người nhất thiết phải hành xử như vậy (ngược lại thì có mâu thuẫn nội tại).
2) trong ĐCSVN còn có nhiều người nghĩ giống GS Tương Lai và nếu họ đều nghĩ và làm như ông thì sẽ có thể có 2 đảng (lao động và cộng sản) còn tốt hơn là chỉ có 1 đảng, chí ít cũng nên ủng hộ mầm mống này của đa nguyên chính trị.
3) Cuộc đấu tranh cho nhân quyền và dân chủ khó khăn, gian khổ và cần rất nhiều loại người (có thể rất khác về tư duy với bản thân chúng ta) tham gia; cần đến tình đoàn kết hơn là sự chia rẽ, dè bĩu lẫn nhau.
N.Q.A.

MỘT QUYẾT ĐỊNH ĐÚNG ĐẮN CỦA GIÁO SƯ TƯƠNG LAI

NGUYỄN ĐĂNG QUANG/ BVN 7-9-2017

Đúng ngày kỷ niệm lần thứ 72 Quốc khánh (2/9/1945-2/9/2017), giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, người có 58 năm tuổi Đảng, đã công bố quyết định chính trị rất quan trọng của ông, đó là “Tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng đang thao túng, để tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao động Việt Nam”. Quyết định này của GS Tương Lai đã và đang tạo nên nhiều ý kiến khác nhau cũng như sự đánh giá và bàn luận sôi nổi bên trong và bên ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN).
Chiều 2/9/2017, tôi tranh thủ đến thăm Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, người đầu tháng Mười tới sẽ bước sang tuổi thứ 102 (cụ sinh ngày 1/10/1916). Cụ vẫn khỏe và minh mẫn, song không còn nhanh nhẹn như cách đây 3 năm nữa.
Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đánh giá quyết định của GS Tương Lai là đúng đắn và đúng thời điểm. Cụ nói: “Quyết định chính trị là tùy theo quan điểm, nhận thức và hoàn cảnh của mỗi người. Tôi tôn trọng và tán thành quyết định của anh Tương Lai khi tuyên bố từ bỏ và đoạn tuyệt với ĐCSVN của Nguyễn Phú Trọng. Song tôi đặc biệt đánh giá cao việc anh ấy vẫn nguyện tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao động Việt Nam…”.
Một vị cựu Đại sứ khác, nguyên Ủy viên Trung ương ĐCSVN viết trong Email gửi GS Tương Lai, xin trích: “Tôi xúc động không thể không viết ngay mấy dòng vắn tắt gửi GS để bày tỏ sự đồng tình hoàn toàn của tôi đối với những điều GS trình bày trong 2 văn bản này (tức Tuyên bố ra Đảng và Bản tường trình của GS Tương Lai viết gửi Đảng ủy Phường Tân Phong, Quận 7, Tp HCM) và sự ngưỡng mộ của tôi đối với GS, người chiến sỹ cộng sản, người trí thức, người công dân chân chính và tài năng!”

clip_image002
Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh và GS Tương Lai (Ảnh chụp năm 2016)

Song cũng không ít ý kiến cho rằng GS Tương Lai chưa thể hiện thái độ dứt khoát với ĐCSVN khi ông chỉ tuyên bố “chấm dứt mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng thao túng” chứ không phải là từ bỏ ĐCSVN. Nói như vậy, theo tôi, không sai, nhưng có thể chưa thấy hàm ý trong Tuyên bố dứt bỏ đảng Nguyễn Phú Trọng thao túng của GS Tương Lai!
Tôi đồng tình với ý kiến của lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, việc từ bỏ ĐCSVN là tùy theo quan điểm, nhận thức và hoàn cảnh của mỗi người, không nên và không thể bắt mọi người ai ai cũng phải giống nhau. Không thể nói GS Tương Lai chưa rứt khoát với ĐCSVN, vì theo tôi, ở khía cạnh nào đó, ông còn thể hiện một thái độ mạnh mẽ hơn, đó là “dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng thao túng…”.
Tuyên bố như vậy, rõ ràng GS Tương Lai không chỉ khẳng định việc từ bỏ ĐCSVN mà còn nhấn mạnh, ĐCSVN hiện do Nguyễn Phú Trọng lũng đoạn nên ông càng kiên quyết từ bỏ nó! Theo tôi, đây còn có thể là chiến thuật, vì trong tuyên bố, ông nói từ bỏ ĐCSVN “để tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đàng Lao động Việt Nam” chứ không phải để nghỉ dưỡng! Cách đây hơn 1 tháng, ông nói với tôi và ông Lê Công Giàu khi chúng tôi đến thăm ông tại nhà riêng, càng ngày ông càng nung nấu với ý tưởng cần phải có thể chế đa nguyên, đường lối đa đảng mà khi gia nhập Đảng Lao động Việt Nam (ĐLĐVN) năm 1959 ông chưa nhận thức được. Nay, nếu ông tuyên bố khôi phục lại ĐLĐVN, tôi tin sẽ có hàng trăm ngàn đảng viên sẽ tuyên bố ly khai ĐCSVN để chuyển sang sinh hoạt ĐLĐVN. Vấn đề này, như mọi người đều biết, khi đổi tên đảng năm 1976, lãnh đạo đảng lúc đó không tổ chức lấy ý kiến đảng viên và thông báo trước trong đảng về việc đổi tên. Đây rõ ràng là việc làm vô nguyên tắc, rất phi dân chủ!
Vả lại, theo cách mà chính ông Nguyễn Phú Trọng nhiều lần đã nói, thì ĐCSVN hiện nay “có thế nào” nên mới có hiện tượng hàng loạt đảng viên công khai “từ đảng” hoặc lặng lẽ “thoái đảng”? Chỉ trong vòng 3-4 năm qua, nhiều đảng viên kỳ cựu ĐCSVN đã tuyên bố từ bỏ đảng, chẳng hạn như Luật gia Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc VN Tp. HCM, ông Võ Văn Thôn, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp Tp.HCM, GS Nguyễn Đình Cống, Nhà báo kỳ cựu Tống Văn Công, nguyên Tổng Biên tập báo Lao Đông v.v… và nay đến lượt Giáo sư Tương Lai!
Thiết nghĩ, Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN nên mở một cuộc họp chuyên đề về công tác tổ chức- xây dựng Đảng để mổ xẻ hiện tượng “từ đảng” và “thoái đảng”, xem nguyên do vì sao nó lại như “Hoa nở rộ giữa mùa Xuân” trong những năm qua như vậy, đồng thời xem xét lại năng lực, uy tín và những hệ lụy từ khi ông Nguyễn Phú Trọng đảm nhiệm chức Tổng Bí thư đến nay!

clip_image004
GS Tương Lai được các bạn trẻ công kênh lên cho cao để hô khẩu hiệu hướng thẳng vào tòa Tổng Lãnh sự quán TQ ở Sài Gòn trong cuộc biểu tình chống Trung Quốc ngày 11.5.2014

Theo tôi, điểm giống nhau và cũng là mẫu số chung của tất cả những ai công khai từ bỏ ĐCSVN trong thời gian vừa rồi cũng như của hàng trăm ngàn đảng viên đã lặng lẽ “thoái đảng” trong những năm qua (đặc biệt trong giai đoạn ông Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng làm Tổng Bí thư) là do họ đã chán chường và bất bình trước sự sa đọa, biến chất của Ban Lãnh đạo Đảng và bộ máy công quyền, họ không còn chút lòng tin nào vào ĐCSVN nữa, họ phẫn uất trước sự dung túng và bảo kê cho quốc nạn tham nhũng.
Trong số những người tuyên bố ly khai hoặc thoái đảng, rất nhiều người cho rằng việc du nhập Chủ Nghĩa Cộng Sản, thực chất là du nhập ý thức hệ độc tài kiểu Stalinist và Maoist cùng hệ thống “vô sản chuyên chính” nhằm duy trì một thể chế toàn trị phản dân chủ vào Việt Nam, điều này đã không chỉ là một sai lầm mà còn là một thảm họa cho dân tộc và đất nước!
Thực tế trên nửa thế kỷ qua, thể chế toàn trị, độc đảng, phản dân chủ đặt ý thức hệ lên trên Tổ quốc, đặt lợi ích của đảng, thực chất là lợi ích của một nhóm quyền lực chóp bu lên trên lợi ích dân tộc, dám ngang ngược đặt Cương lĩnh của ĐCSVN chỉ bao gồm 4 triệu đảng viên so với đại bộ phận 92 triệu dân, lên trên Hiến Pháp của toàn dân. Những sai lầm cơ bản và có hệ thống đó đã triệt tiêu mọi mầm mống dân chủ, tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, đoàn kết trong mọi tầng lớp nhân dân. Thực chất của cái gọi là “Nhà nước pháp quyền XHCN” chỉ là sự đánh tráo khái niệm, thực ra chỉ là đảng quyền, chứ không có nhà nước pháp quyền, không có tam quyền phân lập, một thành tựu của văn minh nhân loại! Mô hình này đã thảm bại hoàn toàn ở Liên Xô cũ và các nước XHCN ở Đông Âu, nay chỉ còn lạc lõng ở Bắc Triều Tiên, Cu Ba, Trung Quốc và Việt Nam.
Nói thêm về trường hợp lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh. Trong những năm qua, rất nhiều người muốn cụ tuyên bố ra khỏi ĐCSVN. Trong số những người này có đông đảo đồng đội, đồng chí, bạn bè thân thiết của cụ, và có khá nhiều nhân sĩ, trí thức trong và ngoài nước. Điều này khiến cụ rất phân vân. Cụ đã chuẩn bị cho mọi phương án cần thiết!
Nhưng sau khi lượng định tình hình và suy đi tính lại, cụ đã đi đến quyết định là phải ở lại trong Đảng để tiếp tục chiến đấu! Cụ nói, việc tuyên bố ra khỏi đảng đối với cụ không có gì là khó khăn, song cụ thấy việc ở lại là quan trọng và có tác dụng hơn!
Với cương vị của cụ, cụ có điều kiện lên tiếng vạch trần những tệ hại, ngăn chặn những sai lầm mà ĐCSVN đang lao vào, đấu tranh không khoan nhượng với những tội lỗi mà Ban Lãnh đạo ĐCSVN phạm phải, đặc biệt là đường lối lệ thuộc gần như hoàn toàn vào ĐCSTQ. Đây là điều vô cùng nguy hiểm cho dân tộc và đất nước! Cụ nói, có thể không ngăn chặn hết được những tồi tệ, nhưng chí ít cũng hạn chế được mức độ tác hại, không cho chúng lộng hành hơn nữa!
Cũng trên ý nghĩa đó xin trở lại với tuyên bố của GS Tương Lai. Tôi biết ông đã trăn trở rất nhiều khi công bố quyết định này. Với tất cả sự hiểu biết về ông, tôi cho rằng quyết định từ bỏ ĐCSVN mà ông nhấn mạnh trong tuyên bố ngày 2/9/2017 là rất đúng đắn và cần thiết, sẽ có tác dụng và gây ra sức ép đáng kể và không nhỏ trong nội bộ ĐCSVN, và góp phần từng bước đưa đến một thay đổi tích cực và mạnh mẽ trong sinh hoạt chính trị ở Việt Nam trong thời gian tới. Hà Nội, ngày 7/9/2017.
N.Đ.Q.
Tác giả gửi BVN

GIÁO SƯ TƯƠNG LAI ĐANG 'ĐI GIẬT LÙI ĐẾN TƯƠNG LAI'

LÊ PHÚ KHẢI/BVN 7-9-2017

Xét về lý thuyết thì như thế, nên tôi mượn cụm từ “đi giật lùi đến tương lai” của tác giả Nguyễn Trần Bạt để làm nhan đề cho bài viết này.
Giáo sư Tương Lai “quên” mất rằng, Đảng Cộng sản của ông Nguyễn Phú Trọng là con đẻ của Đảng Lao động của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Với triết thuyết chủ nghĩa Mác-Lênin, thể chế độc đảng, kinh tế tập trung quan liêu thì ắt sẽ dẫn đến một đảng như đảng của Nguyễn Phú Trọng, khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khi chưa có chính quyền, đó là chính quyền non trẻ, còn phe xã hội chủ nghĩa, tuy chọn nhầm đường, nhưng những người cộng sản Việt Nam đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh còn giữ được chính danh “trung với nước, hiếu với dân” nên đông đảo trí thức Việt Nam và quần chúng nhân dân đã đi theo đảng của lãnh tụ Hồ Chí Minh, trong đó có những trí thức tiêu biểu như giáo sư Tương Lai.
Nhưng bây giờ thì xã hội Việt Nam đã nát bét sau hơn 40 năm thống nhất đất nước dưới sự cai trị của đảng Nguyễn Phú Trọng. Vì thế những người tâm huyết như giáo sư Tương Lai đành phải đau xót chia tay với Đảng Cộng sản.
Ông Bùi Tín cho rằng, giáo sư Tương Lai bỏ đảng Nguyễn Phú Trọng để quay về với đảng của Hồ Chí Minh là “lẩm cẩm”! Nhưng tôi nghĩ, đất nước này đang cần những đảng viên “lẩm cẩm” như giáo sư Tương Lai! Vì, hàng trăm, hàng nghìn những đảng viên đương quyền hoặc đã nghỉ hưu ở Việt Nam hiện nay cũng nghĩ như ông Bùi Tín, thậm chí còn nghĩ sâu hơn... nhưng họ đều ngậm miệng ăn tiền, không dám hé răng nói một câu tử tế cho đất nước. Họ ngậm miệng để hưởng phú quý, mặc cho nhân dân điêu đứng lầm than, cho giặc Tàu bắn giết ngư dân ta trên Biển Đông. Họ vẫn đến dự các lễ lạt kỷ niệm này nọ và nhận bao thư... Tôi xem truyền hình, thấy họ xuất hiện mà đau đớn cho dân tộc này. Hãy lẩm cẩm như giáo sư Tương Lai đi, cho nhân dân được nhờ!
Là một trí thức có tên tuổi, tuyên bố bỏ đảng như giáo sư Tương Lai có sức lay động và ảnh hưởng, thôi thúc nhiều đảng viên đã suy nghĩ và phải tiếp tục suy nghĩ về thời vận đất nước để tiến tới hành động. Ý nghĩa biện chứng, tích cực, cụ thể của giáo sư Tương Lai trong tuyên bố bỏ Đảng của ông là ở chỗ đó. Vì thế, những người thiết tha bảo vệ đất nước, thiết tha muốn dân chủ hoá đất nước, trong đó có tôi, đã vui mừng đón nhận giáo sư Tương Lai. Xã hội bao giờ cũng phát triển theo quy luật tiệm tiến, đột phá chỉ là bất ngờ...
9/2017
L.P.K.


ĐỪNG HOÀI CÔNG TƯỚI NƯỚC LÊN  GỐC CÂY ĐÃ RÃ MỤC 

TRẦN TRUNG ĐẠO/ BVN 7-8-2017

clip_image001

Giáo sư Tương Lai, trong bài viết Vietnam’s Overdue Alliance With America đăng trong mục Ý Kiến của Nytimes.com và bản tiếng Việt Những Cơ Hội Bị Bỏ Lỡ cho Một Liên Minh Việt Mỹ do Liêm Nguyễn dịch đăng trên nhiều trang web tiếng Việt, đã lấy làm tiếc khi nhiều cơ hội đã bị bỏ qua cho một liên minh Việt Mỹ.
Lần đầu do cơ quan tình báo chiến lược Mỹ OSS (tiền thân của CIA) “giúp huấn luyện và thành lập đơn vị du kích Mỹ-Việt đầu tiên vào cuối năm 1944”. Và cơ hội khác khi TT Truman không phúc đáp các lá thư của Hồ Chí Minh bày tỏ lòng ngưỡng mộ của người Việt Nam” đối với “dân tộc Mỹ vì sự đấu tranh cho những lý tưởng cao đẹp của Công lý và Nhân đạo quốc tế, vì những thành tựu kỹ thuật hiện đại mà người Việt Nam cảm thấy bị lôi cuốn”.
Tôi không dám phê bình trình độ chính trị học của giáo sư Tương Lai nhưng sẽ ngạc nhiên nếu ông thật sự tin rằng nếu lúc đó TT Truman đáp ứng lời kêu gọi của Hồ Chí Minh và quân đội Mỹ, giống như OSS từng làm, yểm trợ Việt Nam để phục hồi nền độc lập, xây dựng đất nước thì Việt Nam đã là một quốc gia dân chủ, tự do chứ đâu phải bị nô lệ trong ý thức hệ cộng sản (CS) và bị Trung Cộng đè đầu cưỡi cổ như hiện nay.
Giáo sư Tương Lai bỏ qua mối quan hệ “tuy hai mà một” giữa Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Trung Quốc (CSTQ) như vô số tài liệu cho thấy và cũng không nhắc đến những khả năng gì sẽ xảy ra với liên minh Mỹ Việt sau khi CSTQ đã chiếm hết lục địa Trung Hoa năm 1949.
Quan điểm của giáo sư Tương Lai cũng có thể gây cho người đọc hiểu lầm rằng Hồ Chí Minh không hẳn là người CS và chỉ trở thành người CS khi không có chỗ dựa nào khác trong cuộc chiến chống thực dân Pháp mà quên đi sự kiện chính Hồ Chí Minh từ tháng 2 năm 1920 đã “vui mừng đến phát khóc” khi đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin.
Lý do TT Truman không đáp ứng thư của Hồ Chí Minh
Theo tài liệu lưu trữ trong văn khố Hoa Kỳ, tổng số gồm 11 lá thư Hồ Chí Minh gởi TT Truman, Ngoại trưởng James Byrnes và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Lá thư thứ nhất ký ngày 17 tháng 10 năm 1945 và lá cuối cùng vào ngày 28 tháng Hai năm 1946.
Ngày 12 tháng 9 năm 1946, George M. Abbott, lúc đó là Đệ nhất Tham Vụ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Paris, đã điện đàm với Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên quan tâm hàng đầu của Hoa Kỳ vẫn là gốc gác của họ Hồ. Theo báo cáo của George M. Abbott cho đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp, Hồ Chí Minh không thừa nhận ông ta là CS.
Không những thế, ông Hồ còn chỉ ra cho George M. Abbott thấy “không một người nào trong nội các của ông ta là CS”.
Trong thực tế, các chức vụ then chốt gồm Chủ tịch (Hồ Chí Minh), Bộ trưởng Quốc phòng (Võ Nguyên Giáp), Bộ trưởng Tài Chánh (Lê Văn Hiến), Bộ trưởng Tư Pháp (Vũ Đình Hòe) trong nội các liên hiệp kháng chiến đều do các đảng viên đảng CS hay đảng Dân chủ nắm giữ.
Khi George M. Abbott hỏi có hay không có một đảng CS tại Việt Nam, Hồ Chí Minh thừa nhận là trước đây có nhưng đã giải tán mấy tháng trước rồi. Dĩ nhiên, như viết trong báo cáo, George M. Abbott cũng biết những câu trả lời của Hồ Chí Minh chỉ là những câu nói dối.
Ngày 12 tháng Ba năm 1947, TT Harry Truman xin quốc hội chuẩn chi ngân sách 400 triệu Mỹ kim để viện trợ vũ khi cho chính phủ Cộng hòa Hy Lạp để đánh bại phiến loạn CS và để giúp hiện đại hóa quân đội Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ nhằm đối phó với đe dọa quân sự của Liên Xô.
Ngăn chận làn sóng CS trên phạm vi thế giới là trọng tâm của Chủ thuyết Truman (Truman Doctrine). Lẽ ra, những lá thư của Hồ Chí Minh là cơ hội hiếm hoi để Truman đóng nút sự bành trướng của chủ nghĩa CS ở Đông Nam Á qua ngả Trung Quốc. Nhưng không. TT Truman không đáp ứng vì chính phủ Mỹ biết rõ rằng Hồ Chí Minh và đảng CS Việt Nam là một bộ phận Đông Dương của đệ tam quốc tế CS chứ chẳng quốc gia dân tộc gì.
Với đảng CS, việc thay tên đổi họ, từ một người hay thậm chí cả đảng, theo nhu cầu chiến lược mỗi thời kỳ là chuyện bình thường.
Đảng CS tổ chức tinh vi và chặt chẽ đến mức dù dùng tên gì vẫn hoạt động thống nhất và tuân chỉ triệt để một cương lĩnh. Vào thời điểm 1946, trước khi CSTQ chiếm toàn lục địa Trung Hoa, nếu Mỹ viện trợ, Hồ Chí Minh sẽ nhận và nếu Mỹ lên tiếng phản đối Pháp, Hồ Chí Minh sẽ cám ơn nhưng chắc chắn không bao giờ có chuyện “giải tán đảng CS” hay thành thật từ bỏ đảng CS.
Niềm tin tuyệt đối vào chủ nghĩa CS đã đóng đinh vào nhận thức của các tầng lớp lãnh đạo CSVN. Cộng sản hóa Việt Nam là canh bạc của đời họ. Dòng lịch sử đầy tang thương của đất nước diễn ra từ đó đến nay qua các đợt khủng bố tiêu diệt các đảng phái quốc gia, Cải Cách Ruộng Đất, đày ải nhiều trăm ngàn công nhân viên chức VNCH, đưa đất nước vào ngõ tối độc tài lạc hậu đã cho thấy nhận định của chính phủ Truman về Hồ Chí Minh và đảng CSVN là đúng.
Năm 1954, vừa chiếm được nửa nước, chưa có một ngày ổn định và đời sống người dân miền Bắc còn quá sức nghèo, trung ương đảng CSVN đã nghĩ đến việc chiếm nửa nước còn lại. Có tổng tuyển cử? Tốt, đảng sẽ chiếm miền Nam mà không tốn nhiều xương máu. Không có tổng tuyển cử? Không sao, đảng vẫn chiếm miền Nam nhưng bằng súng đạn Nga, Tàu. Dù qua phương cách gian lận bầu cử, khủng bố cử tri hay phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” mục tiêu toàn trị vẫn không thay đổi. Sinh mạng của nhiều triệu người Việt, tương lai bao nhiêu thế hệ Việt Nam, viễn ảnh một Việt Nam nghèo nàn thua sút phần lớn nhân loại không nằm trên bàn tính của Bộ Chính trị Trung ương Đảng CSVN.
Trung Cộng muốn gì?
Hôm nay, hoàn cảnh chính trị thế giới đã thay đổi. Việt Nam đang đứng trước một đế quốc thực dân mới và lần này là chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng. Như người viết đã phân tích trong các bài trước, Trung Cộng muốn Việt Nam:
- Hoàn toàn lệ thuộc về cơ chế chính trị và tư tưởng.
- [Là] Một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng.
- Trung Cộng độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng Biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.
Nội dung của mật ước Thành Đô không được công bố, tuy nhiên, các diễn biến kinh tế, chính trị và quốc phòng cho thấy ba điểm nêu trên là ba yêu sách chính mà Trung Cộng đã đưa ra trong các phiên họp vào hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên.
Về mặt kinh tế chính trị: Khi thỏa hiệp bán nước Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung Cộng thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, Trung Cộng ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực. Ngoài ra, Trung Cộng còn ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Về mặt quốc phòng: Việt Nam theo đuổi một chính sách quốc phòng “ba không”: (1) không tham gia các liên minh quân sự(2) không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào(3) không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kiaĐây là một chính sách quốc phòng tự sát vì chỉ có lợi cho Trung Cộng. Việt Nam là một nước nhỏ, và cũng chính vì là một nước nhỏ, những người lãnh đạo lẽ ra phải biết từng bước hội nhập vào cộng đồng nhân loại, biết nâng cao vị thế quốc gia trong bang giao quốc tế, biết linh động trong việc mở rộng các mối quan hệ song phương và đa phương, gần và xa để tạo thế đứng thuận lợi trong hòa bình và chiến lược trong chiến tranh.
Trong Thế chiến thứ Hai, trong số 20 quốc gia châu Âu tuyên bố trung lập chỉ có 6 quốc gia là không bị lôi kéo vào chiến tranh. Sáu quốc gia này may mắn không phải nhờ Hitler tôn trọng lời tuyên bố mà chỉ vì không nằm trên trục tiến quân của các sư đoàn Panzer Đức, rất tốn kém để chinh phục như trường hợp Thụy Điển, hay vì vị thế chính trị có lợi cho khối trục mà không cần đánh chiếm như trường hợp Tây Ban Nha dưới chế độ độc tài Francisco Franco.
Để làm nhẹ áp lực Trung Cộng, Việt Nam cần có liên minh. Vâng, nhưng liên minh được với Mỹ trong vị trí tương xứng với Nam Hàn, Nhật Bản chỉ là giấc mơ ngày. Mỹ có quyền lợi ở vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có xung đột với Trung Cộng về ảnh hưởng kinh tế chính trị và cả quân sự trong vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có phê bình, lên án chính sách bá quyền Trung Cộng đối với các nước nhỏ trong vùng Nam Thái Bình Dương? Có. Tuy nhiên, với quan hệ kinh tế tài chánh quá lớn và vô cùng phức tạp giữa hai cường quốc này như hiện nay, ngoại trừ xung đột sâu sắc, trầm trọng và trực tiếp về quyền lợi của Mỹ trong khu vực, Mỹ sẽ không can thiệp vào các tranh chấp song phương giữa Trung Cộng và Việt Nam hay Trung Cộng và một quốc gia nào đó của ASEAN. Trung Cộng hiểu được điều đó nên theo đuổi chính sách gặm nhấm từng mảnh nhỏ tài nguyên của Việt Nam, bao vây kinh tế Việt Nam, và tránh né việc quốc tế hóa các xung đột với Việt Nam và các nước trong vùng.
Nỗi sợ lớn nhất của Trung Cộng
Như người viết đã phân tích trong bài Để thắng được Trung Cộngchính sách tuyên truyền thâm độc và bưng bít thông tin tuyệt đối tại Trung Cộng cho thấy mối lo sợ lớn nhất của lãnh đạo CSTQ là ánh sáng dân chủ. Trung Cộng không ngại mấy chiếc tàu ngầm kilo mà rất lo “sân sau” CSVN trở thành một nước dân chủ. Việt Nam có dân chủ trước Trung Cộng là cách tốt nhất để vô hiệu hóa sự lệ thuộc vào Trung Cộng về mặt cơ chế chính trị và tư tưởng. Độc lập chính trị là tiền đề dẫn đến độc lập chủ quyền lãnh thổ.
Với Trung Cộng, việc giải quyết xung đột lãnh thổ gắn liền với nhu cầu ổn định nội bộ. Theo nghiên cứu của M. Taylor Fravel trong tác phẩm Strong borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China‘s Territorial Disputes, trong thập niên 1960, lãnh đạo Trung Cộng nhân nhượng lãnh thổ với hàng loạt quốc gia nhỏ như Burma, Nepal, Mongolia, Bắc Hàn, Pakistan và Afghanistan chỉ vì họ cần tập trung vào việc ổn định vùng biên giới phía Bắc sau cuộc xâm lăng Tây Tạng và giải quyết nạn đói sau chính sách Bước tiến nhảy vọt đầy thảm họa của Mao.
Con đường giành lại được Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là con đường dài, đầy kiên nhẫn, khai thác mọi khó khăn, mọi nhược điểm của Trung Cộng, nhưng dù làm gì cũng phải bắt đầu từ độc lập về cơ chế chính trị. Không có con đường nào khác. Như người viết đã nhấn mạnh nhiều lần, một Việt Nam văn minh dân chủ với một nền kinh tế cường thịnh, một hệ thống khoa học kỹ thuật hiện đại là phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn chận không những Trung Cộng mà bất cứ một thế lực xâm lăng nào muốn thách thức đến chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.
Đừng hoài công tưới nước lên gốc cây rã mục
Ba mươi chín năm qua, không chỉ đất nước đứng trước ngã ba mà nhiều người Việt quan tâm cho đất nước cũng đang đứng trước ngã ba. Không ít người, ngoài miệng lớn tiếng phê bình đảng nhưng trong đáy lòng vẫn nghĩ chỉ có đảng CS mới thay đổi được hướng đi của đất nước. Vì thế họ mãi loay hoay, hy vọng, chờ đợi trong mỏi mòn một bình minh không bao giờ đến.
Thay vì tìm cách cứu đảng hãy chung lưng góp sức để đẩy mạnh cuộc cách mạng dân chủ được diễn ra và thành công trong hòa bình, thuận lợi, ít lãng phí tài nguyên dân tộc. Con đường dân chủ có thể làm cho một số người chưa quen cảm thấy bỡ ngỡ lúc ban đầu hay ngay cả gây ít nhiều đau nhức nhưng đó là con đường của thời đại. Hãy đi cùng dân tộc và thời đại. Ý thức hệ CS chưa bao giờ lỗi thời và lạc hậu hơn hôm nay. Đừng hoài công tưới nước vào một gốc cây đang rã mục mà hãy dành để tưới lên những mầm xanh hy vọng của tương lai đất nước.
T.T.Đ.
Nguồn: https://www.facebook.com/notes/tr%E1%BA%A7n-trung-%C4%91%E1%BA%A1o/b%C3%A0i-50-%C4%91%E1%BB%ABng-t%C6%B0%E1%BB%9Bi-n%C6%B0%E1%BB%9Bc-l%C3%AAn-g%E1%BB%91c-c%C3%A2y-r%C3%A3-m%E1%BB%A5c-ph%E1%BA%A3n-bi%E1%BB%87n-b%C3%A0i-vi%E1%BA%BFt-c%E1%BB%A7a-gs-t%C6%B0%C6%A1ng-lai/1669672683056711/

GS TƯƠNG LAI: MỘT NHÂN CÁCH, MỘT TẤM LÒNG VÀ Ý NGHĨ 'GIÁ NHƯ'

NGUYỄN TƯỜNG THỤY/ BVN 11-9-2017

clip_image002
(VNTB) Giáo sư Tương Lai chọn ngày ông Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để ra “Tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng đang thao túng, để tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao động Việt Nam”. Đồng thời, ông cũng công bố bản trình bày theo yêu cầu của cấp ủy đảng nơi ông sinh hoạt đảng.
Cảm nhận của tôi về Giáo sư Tương Lai là một trí thức giàu tâm huyết, rất nặng lòng với vận mệnh của đất nước, của dân tộc. Bản Tuyên bố và nhất là bản trình bày khá dài – có lẽ như thế mới tạm đủ để nói lên những suy tư, trăn trở của ông trước hiện tình đất nước. Ông rất thẳng thắn khi chỉ ra rằng “những Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, với sự hậu thuẫn trực tiếp của nhà cầm quyền Bắc Kinh đang thao túng Đảng thì không còn gì là Đảng của Hồ Chí Minh nữa”.
Ông cũng chẳng phải né tránh khi nhắc đến Nông Đức Mạnh, đến mối quan hệ gia đình đáng xấu hổ của ông ta với những lời kết án gay gắt: “Liệu có sự trơ tráo, nhẫn tâm nào hơn nữa không từ miệng một người đã từng 8 năm làm Chủ tịch Quốc hội, 8 năm làm Tổng Bí thư? Đấy là chưa cần nói đến nhân cách vô luân, cướp bồ của con trai, bị con gái gửi thư lên Bộ Chính trị và các cấp kiện vì bố đã chà đạp lên phong tục tập quán của dân tộc, dùng quyền Tổng Bí thư để đưa vợ vừa cưới nhằm thoát khỏi phá sản, chẳng những thế ả ta lại được “bầu” làm đại biểu Quốc hội”.
Những dòng viết của Giáo sư Tương Lai cho thấy khí phách và nhân cách của ông thật đáng trân trọng.
*
Tuy nhiên, trong Tuyên bố của ông, nếu không có mệnh đề thứ hai “để tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao động Việt Nam” hoặc thay mệnh đề thứ hai bằng “để tiếp tục chiến đấu cho tự do, dân chủ” thì có lẽ cũng chẳng có gì phải bàn cãi – đó là bản tuyên bố toàn vẹn. Vì vậy, nhiều người khen ngợi tuyên bố của ông, nhưng những người phản đối thì nhiều hơn. Họ không đồng ý với ông khi ông khẳng định tính đúng đắn của Đảng CSVN dưới sự dẫn dắt của ông Hồ Chí Minh trong giai đoạn còn mang tên Đảng Lao động Việt Nam. Ông tự hào và bằng lòng về những gì Đảng của ông Hồ Chí Minh đã làm được.
Thực ra thì giai đoạn mang tên Đảng cộng sản VN chỉ là bước tiếp nối logic của giai đoạn mang tên đảng Lao động, bởi cái nền tảng tư tưởng, nguyên lý vận hành của Đảng mà Đảng Cộng sản Đông Dương thiết lập ngay từ đầu. Cái tên dù là Lao động hay Cộng sản không quan trọng. Việc tan rã của hệ thống XNCN vào đầu thập niên 90 của thế kỷ trước cũng là một tất yếu chứ không như các nhà nghiên cứu Việt Nam chỉ ra do thiếu dân chủ, độc tài, do khủng hoảng kinh tế xã hội; còn thiếu dân chủ, độc tài, khủng hoảng từ đâu ra thì họ “không nhìn thấy”. Cũng giống như ông Nguyễn Phú Trọng đang hăng hái diệt tham nhũng mà không biết tham nhũng từ đâu ra. Điều đó có nghĩa là họ chỉ nhìn thấy cành, ngọn mà không biết đến gốc rễ của vấn đề. Một cây sâu từ gốc, không thể cứ cắt cành sâu đi là được. Điều này, chính ông Nguyễn Văn An nguyên Chủ tịch Quốc hội đã đề cập là “lỗi hệ thống” nhưng chỉ khẽ chạm đến rồi bỏ đấy. Cũng có thể họ biết nhưng giả vờ như không biết vì họ không muốn chặt cái gốc mà mình đang bám vào thân của nó.
Mặt khác, đường lối và tổ chức thực hiện của Đảng giai đoạn mang tên Đảng Lao động liệu có gì được coi là đúng đắn hay có phần còn tệ hơn giai đoạn sau này. Những sai lầm nối tiếp sai lầm như những vết chém vào lịch sử không bao giờ gột rửa được như Cải cách ruộng đất, vụ án Nhân văn giai phẩm, vụ án xét lại chống đảng, cuộc sống lầm than đói khát bởi sự áp đặt quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và đặc biệt là cuộc chiến tranh 1954-1975 gây nên bao tang tóc đau thương, kéo cả nước tụt hậu hàng trăm năm so với khu vực và thế giới.
*
Tôi có biết đến ý tưởng tách đảng cộng sản ra làm hai của Giáo sư Tương Lai và một bộ phận đảng viên cao tuổi để có cạnh tranh chính trị và trở lại tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nếu được như thế chắc chắn có rất nhiều người hoan nghênh, nó làm phân hóa và làm giảm đi sức mạnh độc tài của Đảng CSVN nhưng rõ ràng đây không phải là hình thái chính trị đa nguyên, không thể thoát khỏi độc tài, không có tam quyền phân lập hay nhà nước pháp quyền và vì vậy không thể có dân chủ. Nếu chỉ có hai đảng cộng sản mới và cũ với nhau thì bản chất nền chính trị vẫn là độc tài. Nên nhớ thời VNDCCH có hẳn ba đảng, nhưng đảng Dân chủ và đảng Xã hội chỉ là vật trang trí. Những bức điện mừng, những cuộc gặp gỡ giữa các đảng này, họ vẫn gọi nhau là đồng chí và hai đảng trang trí ấy vẫn xác định đảng mình dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam. Chế độ vẫn là độc tài, không khí sợ hãi lo âu bao trùm lên xã hội mà nhà văn Vũ Thư Hiên gọi là “đêm giữa ban ngày”. Sau khi đã hết sứ mệnh lịch sử thì Đảng CSVN cho hai đảng này giải thể cùng một lúc vào năm 1988. Tuy nhiên, bối cảnh chính trị và xu thế toàn cầu hiện nay đã khác rất nhiều so với thời kỳ tồn tại đảng Dân chủ và Đảng Xã hội. Vì vậy, rất có thể việc tách Đảng CSVN làm hai (hoặc hơn hai) là bước đột phá cho lộ trình tiến tới nền dân chủ đa nguyên.
*
Đảng CSVN dù như hiện nay hay trở về giai đoạn đầu không bao giờ có khả năng đưa đất nước phát triển. Nay Giáo sư Tương Lai viết những lời rất mặn mà ca ngợi Đảng của ông Hồ Chí Minh, đề cao cái tư tưởng khiên cưỡng là Tư tưởng Hồ Chí Minh và “đe” sẽ “tiếp tục chiến đấu với tư cách một đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam” làm nhiều người ngỡ ngàng. Có lẽ vì vậy nên Nhà báo Nguyễn Phú Khải mới chơi chữ “Giáo sư Tương Lai đang “đi giật lùi đến tương lai”. Còn Nhà báo lão thành Bùi Tín cho rằng  Giáo sư Tương Lai “ngoái cổ về quá khứ”, đã “lẩm cẩm rồi”. Ông phản ứng khá gay gắt về việc sùng bái Hồ Chí Minh và muốn khôi phục Đảng Lao động Việt Nam của Giáo sư Tương Lai.
Tù nhân Lương tâm Phạm Thanh Nghiên thì hài hước: “Chắc là ông Giáo sư chọn thời điểm này để ra tuyên bố cá nhân, tuyên bố chính trị với ý nghĩ việc ông làm sẽ như một cú đá vào lịch sử, một quả vả trời giáng vào giữa mặt ông Trọng và đồng bọn của ông… Nhưng nó làm tôi – một con bé từng làm nghề quét rác – không kìm được nụ cười nhạt và tiếng thở dài ngao ngán trước suy nghĩ này của ông Giáo sư nổi tiếng”.
Ngược lại, cũng có số ít hơn hoan nghênh hoặc ủng hộ Tuyên bố của Giáo sư Tương Lai. Luật sư Lê Công Định với cách nhìn tích cực hơn đặt câu hỏi: “Nếu hành động và suy nghĩ của giáo sư Tương Lai giúp hàng ngàn người cộng sản phản tỉnh rời bỏ hàng ngũ đảng cầm quyền để lập nên một đảng đối lập, khiến có thể làm suy yếu và phân liệt đảng độc tài hiện nay, tại sao chúng ta không ủng hộ dù không đồng tình?”. Trong khi nhà báo Bùi Tín cho rằng, đây là “một quyết định nửa vời đáng tiếc”, thì  cựu Đại tá công an Nguyễn Đăng Quang đánh giá đó là “một quyết định đúng đắn”. Ông cho rằng việc chưa dứt khoát với Đảng CSVN của Giáo sư Tương Lai có thể chỉ là “chiến thuật”. Nếu thế thì tôi yên tâm nhưng rồi lại tự đặt câu hỏi: nếu chỉ là chiến thuật thì tại sao Giáo sư Tương Lai lại nói về giai đoạn Đảng Lao động và ông Hồ Chí Minh với những lời tâm huyết đến như thế?
Tôi có cảm giác Giáo sư Tương Lai vẫn mang một mẫu trí thức xã hội chủ nghĩa. Tôi khác ông ở điểm là tôi không tin vào đảng cộng sản ở bất cứ thời điểm nào kể từ khi thành lập đến nay. Những cái được coi là thành công của họ thì cái giá phải trả quá đắt mà không mang lại những điều tốt đẹp cho đất nước, cho nhân dân.  Sự nhập khẩu chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam trong những năm 1925-1930 là một tai họa cho đất nước. Cho đến nay, không có một đảng cộng sản nào trên thế giới đưa đất nước đến tương lai tươi sáng cả và vì thế nó mới sụp đổ một cách có hệ thống. Ở các nước đã từng trải qua chế độ cộng sản, hai chữ cộng sản trở thành một nỗi ám ảnh, là ác mộng, còn ở nước ta, đó là sự lo sợ của những người không cộng sản.
*
Nhưng nói gì thì nói, tôi vẫn cảm phục lòng nhiệt huyết, thái độ thẳng thắn, tinh thần trách nhiệm với non sông đất nước của Giáo sư Tương Lai. Lòng yêu nước của ông thật dạt dào. Tôi đã theo dõi những phát biểu dõng dạc, hùng hồn và đầy phẫn nộ của ông khi phản đối Tập Cận Bình, khi vạch thái độ nhu nhược của lãnh đạo Việt Nam, hay đầy khát vọng dân chủ, tự do trong buổi lễ tưởng niệm Lưu Hiểu Ba do ông đứng ra tổ chức. Ông nói như muốn rút hết tim gan ra cho mọi người đều thấy. Trong khi giới trí thức VN hiện nay phần lớn nếu không háo danh, hám lợi thì cũng hèn yếu, cầu an mà có người làm và nói được như Giáo sư Tương Lai là một điều rất quý, đáng trân trọng. Nhưng dù sao, với tinh thần cầu toàn, tôi thấy tiêng tiếc với ý nghĩ “giá như…”.
N.T.T.
VNTB gửi BVN

TÂM TÌNH VỚI NHÀ BÁO ĐỘC LẬP PHẠM CHÍ DŨNG VỀ VIỆC GS. TƯƠNG LAI RA KHỎI ĐẢNG

NGUYỄN THỊ THANH BÌNH/ DLB/ BVN 10-9-2017

clip_image002
Ông Lê Hiếu Đằng (áo sậm, phải) – một người cộng sản đã tuyên bố từ bỏ đảng vào tháng 12 năm 2013
Nguyễn Thị Thanh BìnhThưa nhà báo, nhà văn, T.S kinh tế Phạm Chí Dũng, cho phép xin được “tra tấn” thêm một chuyên viên trả lời phỏng vấn rất tinh tế và thành thật như anh. Chắc anh đã nghe, đã thấy và cũng không lạ gì với tình trạng hỗn mang tranh sáng tranh tối của giới đấu tranh cho dân chủ tự do, và nhân quyền lúc này. Do đó hy vọng cuộc trò chuyện này được mở ra trong tinh thần xây dựng, có lý có tình hơn là sẵn sàng bôi bác, thành kiến và đào sâu thêm những hố thẳm chia rẽ, ngăn cách.
Thường thì khi đảng viên sắp hoặc đã về hưu trí, có chữ “nguyên” đi kèm đánh dấu mọi sự ngừng sinh hoạt, cũng có thể cả đảng phái của họ, thì những đảng viên ấy mới dám phản tỉnh bằng cách nộp đơn ra khỏi Đảng, vậy điều gì đã khiến họ phải “ngâm tôm” nỗi bứt rứt trăn trở của mình suốt năm tháng dài để cuối cùng mới dám đưa ra quyết định hẳn là rất nhiêu khê khó khăn ấy? Phải chăng đa phần chỉ vì sợ sẽ bị khai trừ sớm muộn trước sau gì, hoặc hứa hẹn gặp phải phiền toái nào đó nên đảng viên mới chọn cảnh “dứt áo ra đi” mà thôi, và khi ra đi thì liệu họ có còn điều gì để phải cảm thấy lấn cấn, ngoài những hệ lụy gia đình chăng?
Nhà báo Phạm Chí Dũng: Nếu tính từ năm 2013 trở lại đây, con số bỏ đảng là quá ít ỏi so với gần 4 triệu đảng viên đăng ký trên sổ sách của đảng. Tình hình này phản ánh tâm thế e ngại và sợ sệt vẫn bao phủ trong tuyệt đại đa số đảng viên, mặc dù theo tôi biết thì tâm lý đảng viên trong đảng đã quá chán ngán chế độ chính trị này, và hầu như mất hẳn niềm tin vào đảng.
Do bị gò bò bởi kỷ luật đảng và sợ ảnh hưởng đến vị thế chính trị lẫn công việc nên rất hiếm trường hợp đảng viên dám ra đảng trong lúc còn làm việc, mà chỉ đến khi nghỉ hưu mới có một ít người dám “xổ lồng”. Cho tới nay, đây vẫn là một tâm lý bao phủ lên 3,7 triệu đảng viên.
Nhưng có một thực tế là ngay cả một ít đảng viên hưu trí từ bỏ đảng lại không phải xuất phát từ thái độ dứt khoát chia tay ý thức hệ hoặc phản kháng với một đảng tham nhũng, mà do những người này đã có những hoạt động bị đảng quy kết là “đa nguyên”, thậm chí “ủng hộ các thế lực phản động”, nên cấp ủy đảng gây sức ép khai trừ họ. Để tránh bị “hạ nhục”, những đảng viên này đã chủ động tuyên bố ra đảng trước khi bị khai trừ.
Tuy nhiên, tình trạng thoái đảng lại rất lớn ở Việt Nam. Phần lớn những người thoái đảng thuộc về lớp cán bộ, công chức hưu trí. Họ âm thầm không nộp hồ sơ đảng từ nơi làm việc trước đó về nơi cư trú, và nếu sau một thời gian mà không thấy “nhắc nhở”, thì coi như không sinh hoạt đảng và cũng xem như đã “ra đảng”. Cũng có những đảng viên thoái đảng theo những cách khác như cố ý không sinh hoạt đảng dù có tên trong chi bộ địa phương, cố ý không đóng đảng phí, cố ý gây ra mâu thuẫn nội bộ để chi bộ bắt buộc phải khai trừ mình. Một số đảng viên khác, vì nguyện vọng đi định cư ở nước ngài cùng gia đình, đã đương nhiên đề nghị đảng xóa tên mình…
Năm 2013, một con số thống kê chính thức của một cơ quan đảng đã cho thấy có đến 40% đảng viên nằm trong những dạng thoái đảng khác nhau tại các địa phương. Cho tới nay, hẳn tỷ lệ này còn phải cao hơn, trong bối cảnh chính trị và xã hội nhiễu nhương hơn nhiều trước đây và còn chưa tới đáy.
Nếu như những năm trước, có những người muốn bỏ đảng nhưng vẫn lo sợ bị chính quyền cắt sổ hưu hoặc bị sách nhiễu bản thân và thân nhân, thì với một số trường hợp bỏ đảng từ năm 2013 đến nay, đặc biệt gần đây như ông Võ Văn Thôn – cựu giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM, ông Lê Văn Hòa – cựu chuyên viên Ban Nội chính Trung ương, Giáo sư Nguyễn Đình Cống, nhà báo Tống Văn Công – nguyên Tổng Biên tập báo Lao Động… cho thấy áp lực và thủ đoạn gây khó khăn của chính quyền và công an đối với họ và những người thân giảm hẳn. Thậm chí đã xuất hiện một số trường hợp cán bộ hưu trí, xuất thân từ lực lượng vũ trang như quân đội và công an, cũng muốn công khai bỏ đảng.
Hoàn toàn không thể có chuyện chính quyền cắt sổ hưu của người bỏ đảng, vì làm như vậy là vi phạm pháp luật.
Một nguy cơ khác đối với đảng cầm quyền là đang manh nha dấu hiệu một số cán bộ lão thành, trung cấp và cả cao cấp, muốn từ bỏ đảng CSVN để trở về… đảng Lao Động. Trường hợp này vừa xảy ra với giáo sư Tương Lai ở Sài Gòn. Nếu khuynh hướng này mở rộng trong thời gian tới, tương lai “tách đảng” là dễ thấy.
Nguyễn Thị Thanh Bình: Dường như anh có người bố đã có 65 tuổi Đảng, và khi anh chia sẻ bức tâm thư đoạn lìa “ly dị” Đảng, thì ba anh có tỏ ra thông cảm cho một đứa con vốn có cá tính mạnh và độc lập tư duy như anh chăng? Thật ra anh đã phải thuyết phục gia đình như thế nào để được tôn trọng tự do cá nhân và sự dũng cảm của anh, cũng như thấy quyết định của anh là một quyết định đứng đắn hợp thời đã dám buông bỏ, thoát ra khỏi những cũi lồng để được bay bổng tự do?
Nhà báo Phạm Chí Dũng: Thật ra, tôi đã không hề hỏi ý kiến ba tôi về việc tôi công khai tuyên bố từ bỏ đảng vào tháng 12 năm 2013, vì tôi không muốn bị phân tâm bởi sự tác động của gia đình.
Việc từ bỏ đảng của tôi hoàn toàn không dễ dàng: từ năm 2003 khi nhận thấy càng đấu tranh thì tham nhũng càng nhiều, tôi bắt đầu nhận ra nếu chỉ có một đảng thì triển vọng chống tham nhũng sẽ là vô phương. Tôi bắt đầu nghĩ đến nhiều hơn một đảng để có được cơ chế kiểm soát chéo quyền lực như ở phương Tây, và cũng bắt đầu nghĩ đến việc đến một lúc nào đó sẽ ra đảng.
Nhiều đảng viên vẫn cho rằng ở lại trong đảng thì có điều kiện đấu tranh hơn là ra đảng. Nhưng tôi lại nhận ra một bài học đắt giá là chính đảng CS cũng luôn tuyên truyền và thuyết mị như thế để mọi người khỏi ra đảng, trong khi thực tế từ trước đến nay việc đấu tranh hiệu quả chống tiêu cực trong đảng là vô cùng hiếm hoi, mà bằng chứng rất rõ là toàn bộ những đảng viên trí thức, cựu quan chức trong nhóm 72 trước đây và nhóm 61 sau này đã không nhận được bất kỳ một hồi âm nào từ phía đảng và chính quyền sau khi họ gửi đi nhiều bản kiến nghị đầy tâm huyết.
Phải mất 10 năm tôi mới có được quyết định của mình. Tôi không cho đó là một sự dũng cảm của bản thân, mà chỉ đơn giản là khi tôi thấy ông Lê Hiếu Đằng – mà tôi xem như một người anh – quyết định viết thư bỏ đảng trên giường bệnh, tôi nghĩ rằng nếu lúc đó mà tôi không thể quyết định bỏ đảng thì e rằng sau đó có thể bị nhụt chí và chẳng biết bao giờ mới có đủ quyết tâm.
Vậy là ngay đêm hôm sau khi ông Lê Hiếu Đằng ra đảng, tôi viết tâm thư từ bỏ đảng và công bố luôn trên mạng xã hội để chặn đường lùi của mình, và sang ngày hôm sau mới nộp đơn ra khỏi đảng cho chi bộ như một thủ tục cần có. Sau đó cũng buồn một thời gian, nhưng lại nhẹ lòng vì mình không còn nằm trong một chính đảng không đi cùng được với nhân dân. Phải ra đảng, rồi muốn ra sao thì ra…
Nguyễn Thị Thanh Bình: Về việc chọn một ngày đặc biệt như ngày “Quốc Khánh 2/9” để xin ra khỏi “Đảng Nguyễn Phú Trọng” đang thao túng, nhưng vẫn muốn “chiến đấu” trong vai trò một đảng viên cũ của Đảng Lao Động, GS. Tương Lai là một khuôn mặt trí thức nổi bật của XHCN mới đây nhất vẫn một mực nêu cao “Tư tưởng HCM”, vậy liệu anh có thấy mình ủng hộ sự chọn lựa này, hay ít nhất là tôn trọng, đồng cảm với việc GS. Tương Lai đã chặt đứt tư duy “còn Đảng còn mình” với Đảng CSVN hay “Đảng Nguyễn Phú Trọng”, cách gọi muốn nhấn mạnh của GS. chăng? Liệu như thế có đồng nghĩa là GS. Tương Lai cho rằng Đảng của đời này (Nguyễn Phú Trọng) khác với Đảng của đời xưa (Hồ Chí Minh) và dĩ nhiên đảng của những thế hệ trước, thế hệ của chính GS. đã có mặt tham dự đóng góp là tốt, và đáng ca ngợi trường tồn, và đó là điều vị GS. này có quyền núp bóng hãnh tiến, nhất là khi phải đối diện với “Đảng Nguyễn Phú Trọng” đương thời thì than ôi chỉ thấy rặc những tham vọng quyền lực, giáo điều không thể chấp nhận được, nên phải nói lời chia tay, và như thế liệu có điều gì lợn cợn, lập lờ và điều gì bất ổn dưới cái nhìn dứt khoát của nguyên là đảng viên CS như anh?
Nhà báo Phạm Chí Dũng: Theo những tin tức mà tôi được biết trong mấy năm qua, việc đưa đảng Cộng sản VN trở lại tên đảng Lao Động là tâm tư của một bộ phận nhỏ đảng viên, chủ yếu là đảng viên hưu trí. Kể cả đổi tên nước, từ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong thâm tâm, những đảng viên này có phần tin rằng nếu trở lại quá khứ dù chỉ với tên gọi như thế, đảng cầm quyền ở Việt Nam có thể tự thanh lọc mình và gần dân, vì dân hơn.
Từ năm 2014, khi cuộc xung đột trong nội bộ đảng CSVN trở nên công khai và dữ dội, sử dụng mạng xã hội để bôi xấu và tấn công nhau, có những dấu hiệu một lực lượng trong đảng có thể đã muốn ngả về khuynh hướng “tách đảng”, tức tách đảng CS làm hai – một phần là đảng CS, còn phần kia trở về đảng Lao Động. Nhưng cần chú ý, “tách đảng” và “đa đảng” là hai việc khác nhau nhiều về bản chất. Với động cơ tiếp tục duy trì quyền lực và lợi ích nhóm của những lực lượng trong nội bộ đảng, “tách đảng” chỉ là một hình thức “đảng trong đảng”, mà về thực chất vẫn là cuộc chơi tham tàn của các nhóm xuất thân từ đảng CS, chưa hẳn chấp nhận đa nguyên chính trị và vẫn không có vai trò của nhân dân trong đó.
Tôi tôn trọng suy nghĩ và cách hiểu của những đảng viên hưu trí muốn trở về tên đảng Lao Động. Tuy nhiên, cần nói thẳng là cho dù có gắn tên Lao Động hay những cái tên khác cho đảng mà không thật sự cải cách theo hướng bỏ điều 4 hiến pháp về độc đảng, tam quyền phân lập một cách thực chất và công nhận xã hội dân sự – tức những quyền căn bản của nhân dân đã được hiến định – thì cũng sẽ chỉ là động tác “thay áo” để mị dân mà thôi. Có khi lại kéo dài thêm một thời kỳ đau khổ mới cho con dân nước Việt, vốn trước đó đã quá khốn khổ.
Nguyễn Thị Thanh Bình: Trong bức tâm thư ra khỏi Đảng vốn được nhiều người và dư luận tâm đắc của anh mới đó cũng đã gần 4 năm rồi, anh đã viết không kém những bài diễn văn hùng hồn, và mãnh liệt nhất của một giai đoạn lịch sử có những đảng viên trí thức phản tỉnh: “Tôi tự thấy Đảng CS không còn đại diện và phục vụ cho quyền lợi cho đại đa số nhân dân và điều đó đi ngược với tôn chỉ mục tiêu ban đầu của Đảng, cùng lời thề của tôi khi vào Đảng. Do vậy, tôi không còn phù hợp với vai trò và nghĩa vụ một đảng viên trong Đảng CS.” Và câu kết luận rất đánh động lòng người: “Không nhằm mục đích chống Đảng, tôi thành tâm cho rằng thái độ từ bỏ Đảng CS là một trong những con đường ngắn nhất để gần gũi với nhân dân và quyền lợi người nghèo. Trong tận cùng tâm thức, một công dân tốt có ý nghĩa hơn nhiều so với một đảng viên tồi.” Tâm đắc ở đây đồng nghĩa với sự ủng hộ hết mình, và cảm phục tấm lòng cùng ý chí sâu sắc của anh. Vậy thì qua bản “Tuyên bố” của G.S Tương Lai, anh có thể chia sẻ là anh tán thành với G.S điều gì và không thể đồng cảm điều gì? Nhất là tôi hơi thắc mắc một điều là không phải chính ông Hồ Chí Minh cũng đã thú nhận với đảng viên kỳ cựu là ông Nguyễn Văn Trấn: “Không, tôi chẳng có tư tưởng gì, ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê”. Không lẽ GS. Tương Lai không thấy cả thế giới đã rũ bỏ thứ chủ thuyết lỗi thời Mác-Lê này hay chính ông một lần nữa phải tự đánh lừa mình có một “hệ tư tưởng”, một chủ thuyết giả tưởng như thế làm kim chỉ nam để giữ sự tồn tại trong một chế độ chuyên chính, hay chỉ là những mâu thuẫn đối kháng nội tâm nào đó thật không dễ để giải thích? Chúng ta cũng đã có dịp nghe khá nhiều bình luận và chỉ trích trên những trang cá nhân Facebook, cũng như báo chí truyền thông với những bài viết thẳng thắn của TS Hà Sĩ Phu, TS Nguyễn Quang A, cựu TNLT Phạm Thanh Nghiên…. Ước gì có thêm một cái nhìn lắng đọng, phân tích cặn kẽ chân tình đến từ một nhà báo độc lập, đối lập như anh. Và điều này hy vọng sẽ được GS. Tương Lai đón nhận lên tiếng phản hồi trong tinh thần “dân chủ đa nguyên” trong nay mai.
Nhà báo Phạm Chí Dũng: Tôi tôn trọng quan điểm của giáo sư Tương Lai, nhưng tôi thấy khó chia sẻ suy nghĩ trở về “đảng Hồ Chí Minh” của ông. Câu chuyện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã là quá khứ của hơn bảy chục năm trước, cùng sự khác biệt rất lớn về bối cảnh kinh tế, xã hội, chính trị, quốc tế. Không có gì bảo đảm là nếu đảng CS chịu lấy lại tên đảng Lao Động thì tình hình đất nước sẽ khả quan hơn. Cũng chưa có bất kỳ cơ sở nào để nhìn ra một sự “thành tâm” của giới chóp bu trong đảng CS nếu họ muốn “thay áo”. Tất cả chỉ tính toán cho quyền lực cá nhân và lợi ích nhóm, lo tranh giành đấu đá, tham nhũng và “ăn của dân không chừa thứ gì”.
Vào năm 2014 và 2015, không ít đảng viên và cả người thuộc giới đấu tranh dân chủ nhân quyền ở Việt Nam đã từng kỳ vọng vào Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng như một “Gorbachev Việt Nam”. Nhưng rốt cuộc ngoài vài lời nói ve vuốt mơ hồ về dân chủ và tinh thần “thoát Trung”, ông Dũng đã không thể hiện bất cứ hành động nào để ít ra cũng cho thấy ông ta quan tâm đến tuyệt đại đa số người dân Việt đang ngụp lặn trong vũng bùn quan chức. Ngược lại là đằng khác, chế độ Nguyễn Tấn Dũng bị rất nhiều người xem là một chế độ tham nhũng và phá chưa từng có trong toàn bộ lịch sử của triều đại cộng sản ở Việt Nam. Giả dụ sắp tới Nguyễn Tấn Dũng có đứng ra thành lập hoặc hậu thuẫn để thành lập đảng Lao Động thì hành động này cũng chỉ là hình ảnh “bình mới rượu cũ” mà thôi.
Vì thế, tôi nghĩ rằng giáo sư Tương Lai nên dứt khoát tuyên bố từ bỏ đảng CS chứ không chỉ cắt đứt liên hệ với “đảng Nguyễn Phú Trọng thao túng”, trước khi đảng này có thể làm điều gì đó xúc phạm ông. Còn ở thêm trong đảng ngày nào, còn phải mang danh nghĩa đảng viên của một đảng mà đã từ lâu không còn của dân nhưng vẫn ăn thuế của dân, điều được gọi là lòng tự trọng và liêm sỉ của mỗi chúng ta đều đáng bị người dân đánh giá thấp hơn thế.
Một khả năng có lẽ duy nhất mà tôi thấy có ý nghĩa là nếu giáo sư Tương Lai và những người như ông khởi động một phong trào trở về tên đảng Lao Động, việc này có thể lôi kéo một số đảng viên đảng CS “tự chuyển hóa”, làm tiền đề cho việc tách đảng CS, trước khi dẫn đến đa đảng một cách thực chất. Hành động này sẽ được nhiều đảng viên, cựu quan chức và kể cả quan chức đương nhiệm ủng hộ theo nhận thức “có còn hơn không”. Tuy nhiên, làm thế nào để khi trở về tên đảng Lao Động mà không bị các lực lượng và các nhóm lợi ích trong đảng CS lợi dụng thì lại là một vấn đề rất khó khăn, mà về điều đó thì tôi e rằng có thể sẽ không được kiểm soát bởi giáo sư Tương Lai hay những người như ông.
Sau cùng, tôi muốn nói về Tương Lai. Đất nước này, xã hội này đang tràn ngập những chỉ dấu bất ổn và chuẩn bị biến động như thời chỉ vài ba năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1990. Khi đó, đảng Cộng sản Liên Xô còn đến 20 triệu đảng viên kia mà! Và cả 5 triệu quân nhân lẫn 3 triệu công an! Nhưng tất cả đều bất động trước một biến đổi mang tính quy luật của lịch sử. Việt Nam cũng đang và sẽ như vậy chỉ trong ít năm nữa thôi, bất chấp số đảng viên được xem là “trung thành” còn tới gần 4 triệu người. Và cũng chỉ trong ít năm nữa thôi, tôi tin rằng sẽ có nhiều hơn hẳn đảng viên không vì phải chịu sức ép khai trừ mà sẽ hoàn toàn chủ động chia tay với đảng, chia tay với một chính đảng phi nhân bản để kiếm tìm một bến bờ mới hứa hẹn nhân văn hơn rất nhiều. Dù là để đến được bến bờ đó, xã hội và chính trị Việt Nam có thể phải trải qua một thời gian đầy biến động và hỗn loạn như thời hậu Xô viết vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Tôi nghĩ rằng cần chờ đợi thêm, nhưng là chờ đợi trong tâm thế chủ động. Sau SUY tất phải VONG, rồi mới PHỤC được. Mỗi người trong chúng ta vẫn có thời gian cho những lựa chọn chính trị của mình.
Trân trọng cảm ơn thời giờ quý báu, chịu khó soi rọi kỹ lưỡng những góc khuất của lòng mình và xã hội cho độc giả khắp nơi của nhà báo, nhà văn Phạm Chí Dũng.
7/9/2017
N.T.T.B. – P.C.D.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét