Thứ Ba, 26 tháng 4, 2022

20220427. NGUY CƠ 'LOAY HOAY' TRONG BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH

 ĐIỂM BÁO MẠNG


NGUY CƠ 'LOAY HOAY' TRONG BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH

LAN ANH/ TVN 20-4-2022

Trong báo cáo mới đây của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế mà định chế này đã phải điều chỉnh giảm mạnh các chỉ tiêu dự báo về tăng trưởng.

Đầu tháng 4, WB dự báo tăng trưởng của Việt Nam chỉ còn 5,3% năm nay, theo kịch bản cơ bản, và thậm chí còn xấu hơn nữa - 4,4%. Hai mốc này đều thấp hơn nhiều so với dự báo 6,5% mà WB đưa ra vào tháng 10/2021.

Định chế này giải thích, lý do điều chỉnh giảm mạnh dự báo tăng trưởng là do những khó khăn mà Việt Nam gặp phải khi đối phó với biến chủng Omicron, dẫn tới số lượng các ca nhiễm Covid mới tăng rất cao. Bên cạnh đó, nền kinh tế cũng chịu tác động lớn bởi việc nhập khẩu dầu với giá trị lên tới 3% GDP và tăng giá các loại nguyên vật liệu nhập khẩu như sắt, thép...

Bên cạnh đó, ngoài Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), một số định chế tài chính quốc tế cũng công bố hạ mức tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2022 dưới nhiều tác động.


Mô hình tăng trưởng kéo dài đến hiện nay khiến kinh tế Việt Nam “loay hoay trong bẫy thu nhập trung bình”. Ảnh: TTXVN

Như vậy, tốc độ tăng trưởng dự báo năm nay lại tiếp tục hụt hơi so với chỉ tiêu tăng trưởng khoảng 6-6,5% của Quốc hội và 2022 là năm thứ ba liên tiếp chứng kiến tăng trưởng chậm lại đáng kể. 

Thực tế này rõ ràng đặt ra yêu cầu và áp lực chưa từng có đối với việc hoàn thành mục tiêu nhiệm kỳ 2021-2025 và chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2021-2030.

Xu hướng tăng trưởng giảm dần

Theo tính toán của chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Cung, với tốc độ tăng trưởng GDP 2,5% năm 2021, để đạt mục tiêu tối thiểu của nhiệm kỳ là 6,5%, thì con số trung bình hàng năm của 4 năm còn lại phải là hơn 7,5%. Tuy vậy, cho đến nay, dự báo lạc quan nhất cho năm 2022 cũng chỉ là 6,6%.

Ông phân tích, diễn biến tăng trưởng kinh tế trong hơn 30 năm qua, trong đó có 3 kỳ khủng hoảng, cho thấy: Mức giảm sâu nhất của kỳ khủng hoảng lần thứ nhất (1999-1999) là 4,47%; tiếp sau đó, tăng trưởng phục hồi 6,79% (tức là 2,32 điểm %).
 
Mức giảm sâu nhất của kỳ khủng hoảng thứ 2 (2008-2011) là 5,4%, và năm tiếp theo đó phục hồi mức 6,42% (chỉ tăng hơn 1 điểm %).

Các cuộc khủng 2008-2010 do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu kết hợp với các yếu kém nội tại về cơ cấu; cầu bên ngoài suy giảm, nhưng cầu tiêu dùng nội địa không suy giảm nghiêm trọng như khủng hoảng do đại dịch lần này gây ra. Hơn nữa, cầu bên ngoài suy giảm nhưng tốc độ tăng xuất nhập khẩu những năm đó cũng ở mức rất cao 2 con số.

Nền kinh tế cũng chịu tác động lớn bởi việc nhập khẩu dầu với giá trị lên tới 3% GDP và tăng giá các loại nguyên vật liệu nhập khẩu. Ảnh: TTXVN

Ông Cung tổng kết, diễn biến của 3 kỳ chiến lược cho thấy xu hướng tăng trưởng kinh tế nước ta giảm dần là rất rõ nét. Cứ 10 năm, tăng trưởng trung bình hàng năm giảm từ 0,5-1 điểm %; Từ 2004 đến nay, chưa năm nào đạt mức 7,5%.

Thực tế tăng trưởng trong hơn 30 năm qua cho thấy năm nay, khả năng phục hồi tăng trưởng có thể chỉ ở mức 4-5%; là mức rất thấp so với mục tiêu nhiệm kỳ.

“Các phân tích trên đây cho thấy yêu cầu và áp lực đổi mới, hành động nhanh, mạnh chưa từng có đã trở thành mệnh lệnh không thể chần chừ để có thể đạt mục tiêu nhiệm kỳ 2021-2025. Nếu không, tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm của nhiệm kỳ này chỉ ở mức khoảng 5%”.

Bên cạnh đó, TS Đặng Kim Sơn cũng cảnh báo về triển vọng kinh tế không như dự báo. Cuốn sách mới ra mắt “Đổi mới mô hình tăng trưởng - Khát vọng về một Việt Nam thịnh vượng, sánh vai thế giới” do ông chủ biên cho biết hàng loạt kịch bản.

Nếu tăng trưởng 6%/năm thì đến năm 2030, Việt Nam mới gần thành nước có thu nhập trung bình cao, mục tiêu này có thể phải chậm lại 1 năm (so với Nghị quyết Đại hội 13) và đến năm 2045 cũng khó đạt mục tiêu trở thành nước thu nhập cao của Đại hội 13 đề ra mà sẽ chậm 6-7 năm nữa.

Nếu tăng 7%/năm, Việt Nam có thể trở thành nước có thu nhập trung bình cao sớm hơn năm 2030 nhưng đến năm 2045, mục tiêu đạt mức thu nhập cao vẫn có thể bị chậm lại 1-2 năm. Mức tăng trưởng 7% gần như đáp ứng được 2 mục tiêu phát triển của Đại hội 13.

Nếu tăng 8%/năm, Việt Nam sẽ về sớm hơn mục tiêu trở thành nước thu nhập trung bình cao 3-4 vào năm 2030 và sớm hơn 2-3 năm so với mục tiêu trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045.

TS Sơn cho rằng, mô hình tăng trưởng kéo dài đến hiện nay khiến kinh tế Việt Nam “loay hoay trong bẫy thu nhập trung bình”. Cơ hội bứt phá, vượt lên trên là khá hiện thực nếu chúng ta kiên quyết chuyển sang mô hình tăng trưởng mới.

Tái cơ cấu nền kinh tế đã từng được đặt ra 10 năm qua, từ Đại hội 11 năm 2011, nhưng chưa có bước chuyển căn bản.

VIỆT NAM HỤT HƠI NĂNG SUẤT, 'ANH CẢ ĐỎ' CẦN TĂNG TỐC

LAN ANH/ TVN 21-4-2022

Câu hỏi mà Việt Nam phải đối mặt hiện nay là làm thế nào để trở thành nền kinh tế có thu nhập cao thông qua tăng năng suất, đồng thời bảo vệ tài nguyên của Việt Nam và thế giới.

Đây là mệnh đề mà Phó chủ tịch Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới (WB) Manuela V. Ferro đặt ra cho Việt Nam trong bài viết “Để thịnh vượng, Việt Nam cần tăng hiệu suất”. Bà đưa ra đáp án: “Để Việt Nam đạt được kết quả chuyển đổi như mong muốn, việc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch sang tăng trưởng dựa vào năng suất có ý nghĩa vô cùng quan trọng”.

Lời giải về tăng năng suất không phải xa lạ với Việt Nam vì nhiều tổ chức quốc tế và các nhà kinh tế trong nước đã từng đưa ra phân tích, đánh giá trong suốt nhiều năm qua.

Nguy cơ tụt hậu trong cuộc đua đường trường

Thách thức về năng suất tăng chậm, khoảng cách về năng suất so với các nước trong khu vực tiếp tục nới rộng dẫn đến nguy cơ Việt Nam sẽ tụt hậu xa hơn trong cuộc đua đường trường về năng suất và tăng trưởng kinh tế.

Một nghiên cứu mới đây của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết, năng suất lao động (NSLĐ) của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực.
 
Tính theo PPP 2011, NSLĐ năm 2018 đạt 11.142 USD, chỉ bằng 7,3% mức năng suất của Singapore, 19% của Malaysia, 37% của Thái Lan, 44,8% của Indonesia và 55,9% của Philippines. Tính chung giai đoạn 10 năm 2008-2017, NSLĐ theo sức mua tương đương năm 2011 của Việt Nam tăng trung bình 4%/năm.
 
Điều này cho thấy, với biên độ tăng trưởng  NSLĐ của các ngành và nền kinh tế chỉ dao động trong ngưỡng 4% như hiện nay, Việt Nam sẽ bị tụt hậu xa hơn về năng suất so với các quốc gia trong khu vực, thậm chí nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình là khá lớn. Theo tính toán, để bắt kịp NSLĐ và thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam cần tăng trưởng NSLĐ liên tục với tốc độ 6,3-7,3%/năm.

Năng suất lao động của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực.

 Ảnh: TTXVN

Trong khi đó, WB tính toán rằng, Hàn Quốc sau khi đạt được mức thu nhập bình quân đầu người như ở Việt Nam hiện nay vào năm 1972 đã có thể tăng gấp đôi thu nhập bình quân đầu người chỉ sau 10 năm và nhân lên gấp 5 lần sau 20 năm.

Thành tựu nhanh chóng như vậy là kết quả của sự kết hợp việc tăng đầu tư vào nguồn lực vật chất và nhân lực, và trên hết là nâng cao hiệu quả hoạt động, thể hiện bằng mức đóng góp ngày càng lớn của năng suất (được đo bằng TFP) vào GDP, từ mức 16% trong thập niên 1970 lên 43% thập niên 1980 và 56% thập niên 2000. Do đó, có thể lập luận rằng Hàn Quốc đã thành công trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế có thu nhập trung bình sang thu nhập cao nhờ quản lý hiệu quả hơn các nguồn lực hiện có thay vì chỉ tích lũy thêm tài nguyên.

Tăng trưởng ở doanh nghiệp nhà nước

Trong khi đó, ở Việt Nam có rất nhiều lĩnh vực có thể tăng năng suất, làm nền kinh tế tăng trưởng cao hơn, hiệu quả hơn mà khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một ví dụ.

Khu vực này năm 2021 có tổng tài sản khoảng 4 triệu tỷ đồng; quy mô tài sản bình quân của 1 DN khoảng 4.100 tỷ đồng, cao gấp 10 lần DN có vốn đầu tư nước ngoài và gấp 109 lần DN tư nhân trong nước.

Khu vực DNNN chỉ cần tăng trưởng 10% đã giúp nền kinh tế tăng trưởng mang tính bứt phá. Ảnh: Lê Anh Dũng

Hiệu quả hoạt động của DNNN chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ. Khu vực DNNN tiếp tục có xu hướng giảm dần quy mô và tỷ lệ đóng góp ở tất cả các chỉ tiêu về hiệu quả trong giai đoạn 2016-2021. Các DNNN nhìn chung đang có chỉ số nợ cao nhất trong các loại hình DN; chỉ hoạt động hiệu quả ở rất ít ngành, lĩnh vực có lợi thế tự nhiên như khai thác khoáng sản, dầu khí hoặc viễn thông, tài chính - ngân hàng.

DNNN tuy nắm giữ nguồn lực lớn của nền kinh tế, nhưng không có các dự án đầu tư phát triển quy mô đủ lớn tạo động lực bứt phá, sức lan tỏa, hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và của khu vực DN Việt Nam.

Trong giai đoạn 2016-2020, rất ít dự án, công trình mới có quy mô lớn của DNNN được khởi công; các DNNN chỉ tiếp tục thực hiện các dự án dở dang hoặc xử lý các dự án không hiệu quả từ giai đoạn trước.

Tính riêng đối với 19 tập đoàn, tổng công ty thuộc Ủy ban quản lý vốn nhà nước và tập đoàn Viettel, nơi nắm giữ đến gần 90% nguồn lực của khu vực DNNN, chỉ triển khai thực hiện 3 dự án đầu tư nhóm A, trong đó có 2 dự án chuyển tiếp từ năm 2015 trở về trước và 1 dự án khởi công mới năm 2016.

Việc không tạo ra được năng lực tăng thêm này sẽ dẫn đến trong 5 năm tới, đóng góp của khu vực DNNN đối với nền kinh tế sẽ rất hạn chế khi tỷ trọng đóng góp hiện nay của DNNN vào GDP đang là khoảng 29%.

Các chuyên gia kinh tế cho rằng, với tổng tài sản khoảng 4 triệu tỷ đồng, khu vực DNNN chỉ cần tăng trưởng 10% đã giúp nền kinh tế tăng trưởng mang tính bứt phá. Vậy mà nhiều năm nay, khu vực kinh tế này không làm được.

Đó là chưa kể đến rất nhiều khu vực khác như đất đai và đầu tư công đang còn rất nhiều dư địa cho cải thiện năng suất và thúc đẩy phát triển.

Gần đây, NSLĐ của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm. Theo CIEM, năm 2016 NSLĐ tăng 5,3% so với năm trước; năm 2017 tăng 6%; năm 2018 tăng 5,55%; 2019 tăng 6,28%; 2020 tăng khoảng 1,5 lần so với năm 2015. Mức tăng toàn xã hội bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 5,8%/năm, cao hơn so với mức 4,3%/năm của giai đoạn 2011-2015.

Tuy vậy, mức tăng này là chưa đủ để giúp đất nước vượt lên, và gợi ý của WB một lần nữa là rất đúng để cải cách.


Lan Anh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét