Thứ Ba, 5 tháng 4, 2022

20220406. CÔNG TÁC CÁN BỘ CỦA MỘT THỜI

 ĐIỂM BÁO MẠNG

TÔI TRƯỞNG THÀNH NHỜ CÔNG TÁC CÁN BỘ CHUẨN

LÊ DOÃN HỢP/ TVN 4-4-2022

Ban Tuyên huấn Sư đoàn 

Tết Canh Tuất năm 1970, Sư đoàn 5 của chúng tôi đang đứng chân ở rừng Phước Long (nay là Bình Phước). Tết đến xuân về trong cái nóng của miền Đông Nam Bộ. Anh em chúng tôi đều nhớ nhà, nhớ mưa xuân trên đất Bắc. Tức cảnh tôi viết mấy vần thơ để đăng trên báo tường của đơn vị.

Nguyên Bộ trưởng: Tôi trưởng thành nhờ công tác cán bộ chuẩn
Chiến sĩ trẻ Lê Doãn Hợp (đứng thứ hai, từ phải qua) cùng cán bộ, nhân viên đội Tuyên truyền, Ban Tuyên huấn Sư đoàn 5, mùa mưa năm 1971

Sau tết, Trưởng Ban Tuyên huấn (BTH) Sư đoàn, Thiếu tá Tạ Chấn, đến làm việc với Tiểu đoàn. Trong lúc chờ ăn trưa, thủ trưởng Tạ Chấn lướt qua tờ báo tường. Ông dừng lại khá lâu đọc hai bài thơ của tôi. Đầu giờ chiều, ông nói với chính trị viên Tiểu đoàn Lê Đình Hưng: “Gọi cậu Hợp lên mình gặp mấy phút”.

Nghe nói lên gặp thủ trưởng Sư đoàn, tôi vừa sợ, vừa lo. Sợ vì không biết có việc gì, lo vì không biết ăn nói thế nào. Đúng giờ hẹn, tôi thập thò trước cửa hầm. Thấy tôi, thủ trưởng gọi to “Cậu vào đi”. Tôi vào và ngồi đối diện với ông. Trước mặt tôi là một ông “quan sư đoàn” người nhỏ nhắn, da trắng, râu quai nón, mắt sáng long lanh. Thủ trưởng chủ động bắt tay tôi và hỏi tôi 3 câu.

“Câu quê tỉnh nào?”. Tôi trả lời: “Thưa thủ trưởng, em quê Nghệ An”. Ông nói ngay quê Bác Hồ và quê của Tướng Chu Huy Mân dày dạn trận mạc (sau này tôi mới biết một thời ông làm cán bộ dưới quyền Tướng Chu Huy Mân).

“Cậu học lớp mấy?”. Tôi xin thưa: “Em đang học dở cấp 3 thì xung phong đi bộ đội”. Thủ trưởng lại nói: “Thanh niên quê hương Xô Viết là thế”.

“Cha mẹ cậu làm gì?”. Tôi đáp: “Bố em làm Giám đốc nhà máy nước Vinh. Mẹ em làm phó chủ tịch Hội phụ nữ xã”. Thủ trưởng lại nói thêm “Gia đình cán bộ đảng viên”. Ông giở sổ tay ghi chép mấy chữ rồi gấp lại, chia tay tôi và dặn: “Chúc cậu rèn luyện khoẻ để chiến đấu và phục vụ chiến đấu tốt”.

Khoảng 3 tháng sau, chính trị viên Tiểu đoàn gọi tôi đến thông báo: “Hợp có quyết định điều động về công tác ở BTH Sư đoàn rồi. Anh chúc mừng Hợp. Nhớ làm việc tốt. Lên cao đừng quên anh em nhé”.

Thế là từ tháng 5/1970, tôi về công tác tại BTH, phòng Chính trị, Sư đoàn 5, Quân Giải phóng miền Đông Nam Bộ cho đến ngày thống nhất. 

Về Thành uỷ Vinh 

Tháng 8/1989, tôi đi học lớp Quản lý đô thị ở Liên Xô về nước. Sở Xây dựng Nghệ Tĩnh xin tôi, tôi cũng xin tỉnh cho trở về Sở Xây dựng, nơi tôi đã cống hiến hết mình sau 13 năm rời quân ngũ.

Một hôm, tôi được mời lên gặp Bí thư Tỉnh uỷ Nguyễn Bá. Bí thư nghiêm nghị nói: “Căn cứ quá trình công tác và các kiến thức đã được đào tạo, đồng chí Hợp có thể đảm nhận một số công tác chuyên môn ở các sở ban ngành cấp tỉnh. Nhưng lúc này cần ưu tiên cho công tác Đảng. Đảng rất cần những cán bộ trẻ có tâm, có tầm, có tín nhiệm và thực tiễn để làm tròn vai trò lãnh đạo toàn diện.

Mặt khác, Ban thường vụ Tỉnh uỷ đã ban hành nghị quyết xây dựng TP Vinh thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá... của Nghệ Tĩnh và vùng Bắc Trung Bộ. Đồng chí Hợp vừa được đào tạo kiến thức quản lý đô thị ở Liên Xô về. Vì thế Ban thường vụ dự kiến phân công đồng chí về Vinh chuẩn bị cho ĐH 17 của Đảng bộ thành phố để làm Phó bí thư thường trực Thành uỷ”.

Nguyên Bộ trưởng: Tôi trưởng thành nhờ công tác cán bộ chuẩn
Ông Lê Doãn Hợp thăm công ty liên doanh mía đường khi ông làm Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An

Tại ĐH 17, tôi được bầu vào Ban thường vụ và làm Phó bí thư thường trực Thành uỷ Vinh.

Tôi đã ở vị trí này 5 năm từ 1989 - 1994, thời đó là tròn 2 nhiệm kỳ ĐH. Đó cũng là thời gian tôi đã cống hiến quyết liệt. Chức danh này cho tôi rất nhiều bài học và kinh nghiệm thực tiễn quý giá để tôi hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao phó sau này. 

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Nghệ An

Đầu năm 1994, chuẩn bị cho ĐH giữa nhiệm kỳ Đảng bộ tỉnh Nghệ An, Phó bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh  Phạm Xuân Tùy mời tôi lên trao đổi:

“Hợp làm Phó bí thư Vinh 2 nhiệm kỳ rồi. Dấu ấn và kết quả đã rõ. Bây giờ ở tỉnh rất cần những cán bộ trẻ, được đào tạo cơ bản, kinh qua thực tiễn phong phú để tạo nguồn cán bộ cho tỉnh.

Tỉnh uỷ đang rất cần người làm Trưởng BTG. Chiếc ghế này hơi 'nóng' vì nếu có năng lực thì sẽ khẳng định rất nhanh, nhưng nếu chưa đủ tầm thì cũng sẽ bộc lộ cái yếu rất mau, nên nhiều người ngại. Anh thấy Hợp là người nói hay, viết tốt, năng lực khái quát tổng hợp nhanh, nếu làm Trưởng BTG sẽ có rất nhiều lợi thế. Mặt khác Hợp học kinh tế cả đại học và và trên đại học, lúc này làm công tác tư tưởng mà có kiến thức kinh tế là rất cần, cần cho Tỉnh uỷ và cả UBND Tỉnh nữa. Hãy tự tin nhận nhiệm vụ mới đi. Anh tin là Hợp sẽ hoàn thành tốt và có triển vọng phát triển cao hơn”.

Thấy Chủ tịch Phạm Xuân Tùy trao đổi chân chất và rất thật lòng như một người anh, tôi không biết nói gì thêm, ngoài việc nhận nhiệm vụ mới và quyết tâm phấn đấu để sớm khẳng định mình qua thực tiễn, đáp ứng đúng lòng mong đợi của các thế hệ đàn anh.

Tháng 4/1994, tại ĐH giữa nhiệm kỳ của Đảng bộ Nghệ An, tôi được bầu vào Ban Thường vụ để làm Trưởng BTG Tỉnh uỷ.

Tôi làm Trưởng BTG Tỉnh uỷ Nghệ An tròn 30 tháng, thời gian không dài nhưng đã để lại nhiều dấu ấn tốt về công tác tư tưởng phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội, tôn vinh văn hoá, khôi phục và phát huy các giá trị truyền thống của quê hương Xô Viết. 

Ra Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương 

Để chuẩn bị cho ĐH 10 của Đảng (tháng 1/2006), từ tháng 5/2005, anh Nguyễn Khoa Điềm - ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương (TTVH TƯ) 2 lần đi từ Hà Nội vào Vinh, thuyết phục tôi ra nhận nhiệm vụ Phó trưởng Ban. 

Nguyên Bộ trưởng: Tôi trưởng thành nhờ công tác cán bộ chuẩn
Ông Lê Doãn Hợp tặng nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cuốn sách "Ký ức người lính" 

Anh nhỏ nhẹ nói: “Anh Hợp làm việc tại Nghệ An đã khá lâu. Ban TTVH TƯ đang rất cần những người trải qua thực tiễn từ quân đội về địa phương, từ chiến tranh sang hoà bình, kinh qua địa phương dày dạn phong phú, có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để tham mưu về công tác TTVH cho TƯ trong tình hình mới. Hồi còn học ở Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc, tôi biết anh Hợp là người nói và viết khá tốt, rất cần cho công tác tuyên giáo hiện nay. Mong anh Hợp nhận lời”.

Tôi tìm cách “câu giờ” chưa trả lời ngay, xin anh Điềm cho thêm thời gian suy ngẫm.

Lần thứ 3 anh Điềm lại vào Vinh. Thực tế tôi đang muốn ở lại Nghệ An. Tôi nhận thức rằng, làm ở địa phương với hai chức danh chủ chốt là Chủ tịch tỉnh và Bí thư Tỉnh uỷ nếu đang làm tốt, rất cần quỹ thời gian 2-3 nhiệm kỳ mới đủ thời gian cần thiết để làm được những gì mình mong, tạo dựng được những dấu ấn cần thiết và có thành quả đủ rõ cho sự phát triển của tỉnh nhà, trên 3 mặt quan trọng nhất là kinh tế, xây dựng Đảng và cải cách hành chính.

Nhưng để anh Nguyễn Khoa Điềm vào nhiều lần, tôi cũng nể trọng. Mặt khác, anh em trong Ban thường vụ Tỉnh uỷ đều biết TƯ đang xin, mà tôi chưa chịu đi cũng không tạo sớm chỗ trống cho nhiều anh em có cơ hội trưởng thành. Trước sức ép tế nhị và nhạy cảm từ hai phía đó, tôi nhận lời.

Ra Ban TTVH TƯ, tôi được Trưởng Ban Nguyễn Khoa Điềm giao nhiệm vụ Phó trưởng ban phụ trách 3 công việc chính: Phụ trách công tác truyền thông, báo cáo viên và tuyên truyền miệng toàn quốc; Thường trực của Ban về chuyên đề làm điểm: “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Trước mắt tập trung chỉ đạo điểm ở tỉnh Khánh Hoà, chuẩn bị để nếu ĐH 10 thông qua, sẽ phát động phong trào lớn trong Đảng là “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Trong thời gian 4 tháng sau ĐH, khi đồng chí Nguyễn Khoa Điềm được nghỉ hưu, Ban Tổ chức phân công đồng chí Tô Huy Rứa về làm Trưởng Ban. Đồng chí và lãnh đạo Ban phân công tôi làm Phó trưởng Ban thường trực từ tháng 2-6/2006. 

Về Bộ Văn hóa Thông tin  

Tháng 4/2014, sau khi đã nghỉ hưu, nhân dịp vào TP.HCM công tác, tôi tranh thủ ghé thăm nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải ở Củ Chi. Ông gọi xe sân gôn chở tôi đi xem khu rừng tự trồng cạnh nhà, trong đó có 100 cây lát hoa mà Lâm nghiệp Nghệ An tặng Thủ tướng trồng từ khi cây còn nhỏ, giờ đã lên cao rất đẹp. Ông giữ tôi ở lại ăn cơm.

Sau bữa cơm thân mật, đột nhiên ông hỏi: “Hợp có biết ai giới thiệu Hợp làm Bộ trưởng VHTT không?”. Tôi thưa: “Làm sao em biết được”. 

Nguyên Thủ tướng chậm rãi kể: “Sau ĐH 10 của Đảng, ông Sáu Dân (cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt) mời anh sang nhà riêng ở Sài Gòn tâm sự. Ông nói, trong BCH TƯ vừa bầu, có một người làm được Bộ trưởng VHTT, đó là đồng chí Lê Doãn Hợp.

Cậu này quê Nghệ An, có phông văn hoá và cách mạng rất quý. Có năng khiếu viết, nói khá tốt, biết làm thơ, lại là người đi vào chiến trường khá sớm, chiến đấu lăn lộn trên đất miền Đông và miền Tây Nam Bộ nhiều năm.

Cậu ấy tham gia nhiều chiến dịch lớn từ năm 1968, đến chiến dịch Hồ Chí Minh rồi làm quân quản Sài Gòn, nên rất am hiểu văn hoá Nam Bộ; Từng làm cán bộ Tuyên huấn Sư đoàn 5, Quân Giải phóng Miền nên được tiếp cận sâu và rộng với bộ đội người miền Bắc. Đó là người am hiểu văn hoá đủ cả 3 miền Bắc Trung Nam, nếu làm Bộ trưởng VHTT sẽ rất phù hợp. Tiếp thu ý kiến rất sâu sát của anh Sáu Dân, anh và Ban cán sự Đảng nhất trí chọn Hợp để trình Bộ Chính trị và Quốc hội đưa em về làm Bộ trưởng VHTT”.

Suốt quá trình công tác, nhiều lần ông Võ Văn Kiệt ra Hà Nội, mời tôi sang trò chuyện thời cuộc và công việc. Nhưng cố Thủ tướng chưa bao giờ nói với tôi rằng “Anh là người giới thiệu Hợp làm Bộ trưởng VHTT”. Mãi sau này tôi mới biết qua lời kể của nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải.

Tôi kể lại những chuyện này, nhằm chuyển đến các bạn đọc một thông điệp, trước đây các cụ tiến cử cán bộ vô tư, trong sáng, khách quan, trách nhiệm. Chỉ mong công tác cán bộ của Đảng ta kế thừa truyền thống của các thế hệ đi trước để chọn cán bộ đúng và chuẩn. Đó là mong muốn chính đáng, cần thiết của Đảng, nhân dân trong công tác cán bộ, vì sự nghiệp đổi mới đất nước thành công và hội nhập quốc tế thắng lợi.

Lê Doãn Hợp  

NGUYÊN BT NỘI VỤ ĐỖ QUANG TRUNG CHIA SẺ VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ: TÔI TỪNG ĐƯỢC BỐ TRÍ VÀI CHỖ NHƯNG TỪ CHỐI HẾT

THU HẰNG, HIỀN ANH/ TVN 18-12-2020

Từng giữ chức Bộ trưởng - Trưởng Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (12/1996 - 8/2002) và Bộ trưởng Nội vụ (8/2002 - 2007), ông Đỗ Quang Trung chia sẻ trăn trở về công tác tổ chức cán bộ xưa và nay. 

Cứ bổ nhiệm người thân quen, người nhà là hỏng hết

Thời ông làm Bộ trưởng, ông có gặp và nghe đến chuyện chạy chức chạy quyền mỗi dịp Đại hội Đảng đến gần?

Đó là câu chuyện thời nào cũng có nhưng lúc đó mức độ ít hơn vì điều kiện kinh tế khác mỗi thời mỗi khác. Lúc tôi làm cũng là giai đoạn nước ta bước vào cơ chế thị trường như mới ở giai đoạn đầu; kể cả khi tôi làm ở chính quyền địa phương cũng ở cuối thời kỳ bao cấp, đầu thời kỳ kinh tế thị trường thành ra điều kiện khác.

Nguyên Bộ trưởng Nội vụ: Tôi từng được bố trí vài chỗ nhưng từ chối hết
Nguyên Bộ trưởng Nội vụ Đỗ Quang Trung: Cán bộ phải qua rèn luyện, thử thách, còn cứ bổ nhiệm người thân quen, người nhà là hỏng hết. Ảnh: Vân Anh

Ngay cuối nhiệm kỳ Chính phủ mà tôi tham gia thì kinh tế có bước phát triển rồi nhưng quy mô vẫn còn nhỏ.Thời đó cũng làm gì có nhiều dự án như bây giờ. Chính vì vậy, thử thách của cơ chế mới, của thị trường đối với đội ngũ cán bộ, công chức ở giai đoạn đó còn mức độ. Còn nói thời trước cán bộ tốt hơn thì khó lắm! 

Ông có suy nghĩ gì về hiện tượng đề bạt, bổ nhiệm  thần tốc, lách quy định người thân, người nhà vào các vị trí lãnh đạo ở vài địa phương thời gian qua?

Thời tôi làm Bộ trưởng không thấy tình trạng này nổi cộm như bây giờ. Hầu như không có hiện tượng chạy chức chạy quyền, bổ nhiệm người nhà.

Lúc tôi làm bí thư huyện Móng Cái (Quảng Ninh năm 1979 - 1980), rồi làm Chủ tịch tỉnh toàn do tổ chức phân công, chả phải chạy gì cả. Nói thật ra thời ấy mình phải làm vì nhiệm vụ chứ có mấy người muốn ra đấy.

Còn chuyện bổ nhiệm thần tốc, bổ nhiệm người nhà thì rất không được, phải lên án, xử lý và kiểm soát mới giữ được công tác cán bộ cho đúng. Cán bộ phải qua rèn luyện, thử thách, còn cứ bổ nhiệm người thân quen, người nhà là hỏng hết. Chuyện này trước sau gì cũng bộc lộ ngay mà còn khổ cả anh cán bộ được bổ nhiệm nữa.

Dư luận, xã hội có nhiều câu người ta nói “đỏ nhưng mà chưa chín” là thế. Thời gian vừa rồi có chuyện bổ nhiệm người nhà, từ địa phương đến trung ương dư luận đều biết cả.

Hay thời đó, làm cán bộ, công chức nhà nước không có sức “hấp dẫn” hơn bây giờ?

Thời đó làm cán bộ còn khổ sở là đằng khác. Ví dụ làm lãnh đạo ở Quảng Ninh đi từ nhà tôi xuống nơi làm việc đi mất 2 ngày, khó khăn lắm. Điều kiện không phải dễ dàng như bây giờ, cũng không có gì cám dỗ nhiều. 

Nhiều vụ án bây giờ xử, có những anh em cán bộ cấp huyện, cấp tỉnh, cấp bộ chi tiêu mất mát tài sản nhà nước nói thật tôi ngồi nghĩ không thể nào ra, không biết lấy đâu ra tiền mà nhiều thế.

Cán bộ 'ăn xổi ở thì' rất nguy hiểm

Vậy thời đó, tình trạng cán bộ, lãnh đạo tỉnh này, bộ kia bị kỷ luật có nhiều như bây giờ? Ông suy nghĩ gì mỗi khi nghe tin cán bộ bị kỷ luật?

Việc xử lý kỷ luật cán bộ thì thời điểm nào cũng có, chỉ là mức độ ít nhiều khác nhau. Thời đó cũng có đồng chí Bộ trưởng bị kỷ luật, Bộ trưởng phải ra tòa nhưng không nhiều như bây giờ. Ví dụ như ông Vũ Ngọc Hải Bộ trưởng Năng lượng chủ yếu là về trách nhiệm. 

Nếu nói về tâm trạng của người làm công tác tổ chức bộ máy thì ai cũng rất buồn trước việc hàng loạt cán bộ bị xử lý kỷ luật. Việc xử lý như thế là rất tốt và rất đúng nhưng lại buồn.

Buồn vì cán bộ của mình đã không biết giữ gìn, trước những cám dỗ vật chất đã không vượt qua được, trong bộ máy có chuyện như vậy, để lại dư luận không tốt.

Sáng nay tôi đi tập thể thao gặp mấy anh bạn tâm sự vừa buồn vừa tiếc những cán bộ được chọn lựa nhưng lại không giữ được mình. Nhưng phải nhìn nhận trong nhiệm kỳ này, chúng ta đã làm được nhiều việc rất lớn, trong đó có việc làm trong sạch bộ máy. 

Bằng kinh nghiệm làm công tác tổ chức, cán bộ lâu năm, theo ông làm sao, cơ chế nào để không mất cán bộ đau lòng như Tổng bí thư vẫn thường nói?

Từ trước đến nay đã có rất nhiều nghị quyết của TƯ, văn bản pháp luật về việc này rồi. Gần đây, chuẩn bị Đại hội 13, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều văn bản, quy định để xây dựng đội ngũ, bộ máy vững mạnh, trong sạch. Nếu ai cũng thực hiện tốt các quy định này thì tôi nghĩ hiếm có chuyện cán bộ bị xử lý kỷ luật. 

Tuy nhiên, quy định như thế đấy nhưng quan trọng là sự rèn luyện của mỗi con người và phải có giám sát quyền lực. Nghị quyết TƯ 3 khóa 8 có một câu “phát huy tốt hơn, nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân" trong xây dựng bộ máy và giám sát đội ngũ cán bộ công chức.

Một anh cán bộ có bệnh tật gì người dân xung quanh biết hết. Cho nên bản thân người cán bộ phải rèn luyện. Nếu như người dân biết sợ luật pháp thì cán bộ phải biết sợ hơn. Còn cán bộ mà không sợ luật pháp, không sợ gì cả, làm bất biến, “ăn xổi ở thì” rất nguy hiểm. Cán bộ phải trưởng thành trong tập thể, từ trong một phong trào và phải có quá trình rèn luyện.

Làm gì cũng đòi hỏi phải tâm huyết với công việc

Công tác cán bộ ở thời ông làm có thực hiện các quy trình, thủ tục, quy hoạch như hiện nay?

Lúc tôi làm đến vị trí này vì trí kia, tôi không nghĩ thế đâu. Thời đó cũng có quy hoạch nhưng không tuyệt đối. Tôi cũng được bác nọ, bác kia gặp đề nghị bố trí vài chỗ nhưng tôi đều từ chối. Nếu đồng ý, có khi tôi làm Bộ trưởng trước đó 5, 6 năm. 

Lúc ở huyện, tổ chức phân công tôi làm bí thư tôi cũng từ chối vì mới làm phó bí thư và còn trẻ lắm. Khi đó tôi 35 tuổi đã làm bí thư huyện, 40 tuổi làm chủ tịch tỉnh. Thời kỳ vất vả, ít người chịu về làm cán bộ lãnh đạo nên chuyện từ chối chức nọ, chức kia là rất bình thường. Thời điểm đó là thế.

Nguyên Bộ trưởng Nội vụ: Tôi từng được bố trí vài chỗ nhưng từ chối hết
Nguyên Bộ trưởng Đỗ Quang Trung tại cuộc gặp mặt truyền thống 75 năm thành lập Bộ Nội vụ, tháng 8/2020

Khi tôi đang làm ở Tổng cục Du lịch, bác Võ Văn Kiệt gặp bảo tôi về làm tổ chức cán bộ. Tôi từ chối vì “có làm tổ chức bao giờ đâu”. Bác Kiệt mới thuyết phục “thế anh làm ở Tổng cục Du lịch, lãnh đạo ở Quảng Ninh không phải làm tổ chức à?”. 

Tất nhiên khi tổ chức quyết định mình có quyền nêu nguyện vọng, còn tổ chức quyết định đưa đi đâu là chuyện khác. Đến lúc tổ chức điều lên Trung ương thật ra là tôi không thể từ chối được thôi. 

Thủ tướng Võ Văn Kiệt thuyết phục tôi từ Quảng Ninh về Tổng cục Du lịch. Làm việc với bác Kiệt thích lắm, ông rất sâu sắc và tâm huyết. Tôi học ở ông từ tâm huyết với công việc, từ suy nghĩ, tác phong lắng nghe, tác phong quan sát. 

Nếu được là Bộ trưởng Nội vụ vào lúc này, ông sẽ làm gì trước tiên trong công tác cán bộ?

Giả định như thế thì khó lắm. Công việc bây giờ nhiều hơn, phức tạp hơn nhưng những nguyên lý cơ bản mà nghị quyết Đảng, quy định pháp luật Nhà nước hay là kinh nghiệm của các tiền bối để lại vẫn còn nguyên giá trị. Vấn đề là có làm đúng như thế không.

Cách đây mấy chục năm, chưa giải phóng miền Nam, thời kỳ bác Lê Duẩn, Lê Đức Thọ đã có nghị quyết về xây dựng Đảng, các bác làm quyết liệt lắm. Bài học về xây dựng Đảng, xây dựng bộ máy, xây dựng chính quyền đến bây giờ vẫn còn nguyên giá trị.

Đến sau này, bác Đỗ Mười, bác Lê Khả Phiêu đều quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Đến thời kỳ Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng càng được chú trọng. Công tác nội vụ cũng vậy thôi.

Nếu được chọn lại, ông vẫn chọn đoạn đường gian nan, nhưng đầy vinh quang là người đứng đầu Bộ Nội vụ?

Nếu được chọn, mình không thể nói là người đứng đầu, nhưng làm về tổ chức bộ máy thì tôi vẫn thấy thích thú dù thật sự khó. 


'NGƯỜI LÃNH ĐẠO BIẾT NGHE LỜI THẲNG KHÔNG CÓ NHIỀU'

NGÔ TƯỜNG ANH/ NĐT/TVN 24-3-2015

-“Nói thật những gì mình biết, còn có được nghe hay không, được thực hiện hay không thì tùy duyên. Trung ngôn thường nghịch nhĩ. Người lãnh đạo biết nghe lời thẳng không có nhiều”, ông Sơn nói về nguyên tắc hành động của nhóm Thứ Sáu.

“Kẻ sĩ” là chữ ông Hai Chí (Võ Trần Chí, cố Bí thư Thành ủy TP.HCM), nhận xét về các thành viên nhóm Thứ Sáu, trong đó có chuyên viên kinh tế Huỳnh Bửu Sơn.

'Người lãnh đạo biết nghe lời thẳng không có nhiều”

Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt dự sinh nhật lần thứ 15 của nhóm Thứ Sáu. Luật gia Nguyễn Ngọc Bích (ngồi), cùng ông Phan Chánh Dưỡng (đứng bìa trái), ông Huỳnh Bửu Sơn (bìa phải). Ảnh T.L 

Trước sự kiện lịch sử 30.4.1975 chừng tuần lễ, một người bạn nói với ông Sơn rằng “tình hình rất nghiêm trọng, nếu mày muốn đi thì đi cùng tao, nhưng chỉ mình mày thôi vì chỉ còn hai chỗ”. Gia đình giữ chân ông ở lại. Cha mẹ. Anh em. Vợ trẻ. Con thơ. Thâm tâm, ông chỉ mong không có đổ máu như những tin đồn. Rồi mọi việc sẽ trở lại bình thường. Chiến tranh kết thúc. Lẽ tự nhiên, đất nước vào cuộc kiến thiết. “Tôi sẵn sàng là một bàn tay nhỏ nhoi của hàng chục triệu cánh tay Việt Nam làm việc đó”, ông Sơn hồi tưởng. Chung tay góp sức không dễ. Ðấy là một quá trình bền bỉ, đòi hỏi sự kham nhẫn.

Sau khi được tạm cho về trong đợt cải tạo tập trung  vào cuối tháng 5.1975, ông quay lại nhiệm sở là ngân hàng Quốc gia Việt Nam và được học tập cải tạo ngắn hạn tại đó. Lương 63 đồng. Cuộc sống thiếu thốn. Tù túng. Ði làm cũng như không. Ông không được giao việc. Ngày trôi tuột qua ngày. Vô nghĩa. Ðầu giờ sáng, ông ghé chỗ làm ký tên điểm danh rồi bỏ ra sân quần vợt. Ðánh tới trưa. Có khi thông sang chiều. Như tự thiêu đốt mình. Mưa cũng không bỏ. Tháng ngày dầm dãi khiến ông đổ bệnh. Trận cúm “rút” của ông 13kg.

“Tôi đánh giá cao những ý kiến đóng góp của anh em về nhiều lãnh vực trong suốt những năm qua, không phải vì tất cả ý kiến đó đều mới mẻ, đứng đắn, khả thi. Có ý kiến, xét trên quan điểm tổng thể tầm quốc gia, chưa thực sự phù hợp với điều kiện, tình hình nước ta... nhưng tất cả đều xuất phát từ mong mỏi khát khao đưa đất nước vượt lên. Hơn nữa, đều là kết quả của công trình lao động trí tuệ công quả, trong khi cuộc sống và công việc thường nhật của anh em còn không ít khó khăn” (trích thư cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi nhóm Thứ Sáu ngày 1.11.2001).

Thứ Sáu thực ra không phải tên nhóm. Tiền thân của nó là nhóm nghiên cứu chuyên đề quận 5 của công ty Cholimex, chủ yếu là trí thức từng làm việc dưới chế độ cũ. Sau này mở rộng ra không phân biệt trí thức cũ mới gì hết, rồi thường họp vào chiều thứ sáu hằng tuần nên “chết“ tên luôn. Không giấy phép. Không tổ chức. Không nội quy. Không trụ sở. Không ai lãnh đạo ai. Không hưởng lương. Không ràng buộc - ai đến thì đến, ai đi thì đi. Những cái không mang lại nhiều cái có. Có anh em. Có gặp gỡ hằng tuần. Có bàn bạc về những vấn đề của đất nước. Có cùng tâm tư, băn khoăn, trăn trở, lo âu cho vận mệnh và tương lai đất nước. “Chúng tôi mỗi người mỗi ý, cãi nhau không khác gì Ðào Cốc Lục Tiên, sáu anh em ngộ nghĩnh, trong Tiếu ngạo giang hồ của Kim Dung” - ông Sơn nói về “chỗ dựa tinh thần”. Tư tưởng tự do bay nhảy. Chẳng ai độc quyền chân lý. Nhờ vậy, tri thức lan tỏa, thẩm thấu. Ông Phan Chánh Dưỡng thừa nhận nhóm Thứ Sáu là “trường kinh tế học đặc biệt nhất”, nơi ông tiếp cận những khái niệm đầu tiên về kinh tế. Văn phòng của Cholimex - công ty mà ông Dưỡng được bổ nhiệm làm phó giám đốc - cũng chính là cái nôi quần anh náu mình. Bữa xôm, hơn hai chục người tham gia, không đủ ghế ngồi. Thỉnh thoảng, một số chức sắc cũng ghé lại, như ông Hai Chí, ông Trần Bạch Ðằng, ông Năm Nghị (Phạm Chánh Trực), ông Tư Sang (Trương Tấn Sang), ông Ba Châu (Lữ Minh Châu - nguyên tổng giám đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam)... Lúc quạnh, chỉ vài ba người. “Nhớ nhất là anh Phan Tường Vân, tiến sĩ kinh tế, đạp xe lọc cọc mười mấy cây số, đội mưa đến họp mà cả phòng chỉ có anh, anh Lâm Võ Hoàng và tôi. Tội chị bếp Cholimex nấu bữa cơm thịnh soạn cho mười mấy người”, ông Sơn kể.

Cố giáo sư Ðặng Phong, tác giả cuốn Tư duy kinh tế Việt Nam: 1975-1989 dùng từ “vỡ trận” khi đề cập đến cuộc cải cách giá - lương - tiền năm 1985. Nền kinh tế rơi vào vòng xoáy hỗn loạn. Sang năm 1986, lạm phát ba con số (774%). Kinh tế chỉ huy bất lực mở ra cơ hội cho trí thức cất lên tiếng nói. Lãnh đạo thành ủy đề nghị nhóm Thứ Sáu góp ý giải pháp. Nhóm nghiên cứu được thành lập. Ông Sơn làm chủ nhiệm đề tài. Tháng 3.1987, cùng với hai thành viên khác của nhóm là Phan Chánh Dưỡng và Trần Bá Tước, ông Sơn bay ra Hà Nội, trình bày đề cương khắc phục những hậu quả nặng nề từ cuộc cải cách giá - lương - tiền. Ðấy cũng là lần đầu tiên ông Sơn diện kiến ông Sáu Dân (cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt), lúc ấy giữ cương vị phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Sau phần mở đầu không thật sự trôi chảy vì xúc động, ông lấy lại bình tĩnh, đầu óc sáng suốt, trình bày mạch lạc. Dồn. Nén. Nổ. Xả. Như muốn trút hết những nỗi niềm tâm sự tích chứa bấy lâu. Bài thuyết trình nhận được sự đồng cảm của nhiều chuyên viên Bắc hà. Ông nói trúng những điều họ nghĩ. Chỉ có điều họ chưa mạnh dạn nói ra. Rủi ro “chệch hướng” có lẽ đã đi vào tiềm thức.


'Người lãnh đạo biết nghe lời thẳng không có nhiều”
'Người lãnh đạo biết nghe lời thẳng không có nhiều”

Lần thứ hai trở lại Hà Nội, ông Sơn mang theo bản dự thảo pháp lệnh Ngân hàng, làm cơ sở để hai nhóm chuyên gia nghiên cứu, thảo luận. Nhóm một do ông Phan Văn Tiệm, chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước chủ trì. Nhóm hai là ngân hàng Nhà nước, phụ trách là ông Cao Sĩ Kiêm. Bản dự thảo được lấy ý kiến của nhiều ngành, nhiều giới, có cả sự tham vấn của ngân hàng nước ngoài và quỹ Tiền tệ Quốc tế trước khi ban hành.

Hai pháp lệnh là văn bản pháp quy, tạo xung lực quyết định cho sự phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam từ đó đến nay. Xây dựng hệ thống ngân hàng hai cấp. Ngân hàng Nhà nước sử dụng công cụ dự trữ tối thiểu bắt buộc và tái chiết khấu để điều chỉnh khối tiền tệ thay cho biện pháp quản lý tiền mặt thô sơ và cứng nhắc trước đây. Mở rộng hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần, cho phép chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động. Tổ chức thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Tổ chức thanh tra ngân hàng, phát triển hợp tác xã tín dụng. Thay đổi danh xưng người đứng đầu ngân hàng Nhà nước và mạnh dạn thành lập hội đồng quản trị ngân hàng Nhà nước. Những đổi mới pháp lý có ý nghĩa đột phá mạnh mẽ tạo nên những thay đổi tiến bộ cho ngành ngân hàng Việt Nam, tương hợp với hệ thống ngân hàng trên toàn thế giới.

So với bản dự thảo ban đầu, nội dung pháp lệnh rất khác, cả từ ngữ, lẫn nội dung cho phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ông Sơn thừa nhận nội dung văn bản pháp luật này chưa đáp ứng được kỳ vọng của đông đảo chuyên gia ngân hàng cũng như cá nhân ông. Ngân hàng Nhà nước cần được giao quyền chủ động nhiều hơn trong việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ, nhưng phải giảm bớt can thiệp vào tổ chức nhân sự và điều hành vào các ngân hàng quốc doanh, điều kiện quan trọng để xây dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa hai khối quốc doanh và thương mại cổ phần... thậm chí nên đổi tên thành ngân hàng Trung ương Việt Nam, hay ngân hàng Quốc gia Việt Nam nhằm khẳng định vị trí của nó đối với nền kinh tế. Một người bạn thâm giao nhiều năm sát cánh cùng ông Sơn là chuyên gia kinh tế Lâm Võ Hoàng tự trào rằng những người soạn thảo mong ước sinh ra đứa con thông minh, lớn lên làm kỹ sư, bác sĩ. Mộng chưa thành. Tạm hài lòng vì dù sao cũng đẻ được đứa con trai nối dõi.

'Người lãnh đạo biết nghe lời thẳng không có nhiều”

'Người lãnh đạo biết nghe lời thẳng không có nhiều”

Thời bao cấp trước Ðổi mới: xếp hàng, chợ trời, tem phiếu...  Ảnh T.L

Là người chấp bút dự thảo ban đầu nhưng với ông Sơn, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt mới chính là cha đẻ của hai pháp lệnh ngân hàng đầu tiên. “Không có ông sẽ không có đổi mới ngân hàng, không có pháp lệnh”, ông khẳng định.

Ông Sơn không quá lời. Thiếu sự tiếp sức của cánh tay quyền lực, kẻ sĩ cũng đành thúc thủ. Nhìn lại lịch sử xã hội phong kiến, cơ hội để người hiền thi thố là khi gặp được minh quân. Ðêm trước Ðổi mới, nền kinh tế bên bờ vực sụp đổ đặt những nhà lãnh đạo đất nước vào tình thế buộc phải lựa chọn. Bắt trúng bệnh. Kê sẵn toa. “Nói thật những gì mình biết, còn có được nghe hay không, được thực hiện hay không thì tùy duyên. Trung ngôn thường nghịch nhĩ. Người lãnh đạo biết nghe lời thẳng không có nhiều”, ông Sơn nói về nguyên tắc hành động của nhóm Thứ Sáu.

Giai đoạn 1987-1997 là khoảng thời gian ông Sơn sung sức nhất, đóng góp được nhiều nhất. Ðây cũng chính là thập niên ông Sáu Dân giữ trọng trách, từ Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến Thủ tướng. Ông Sơn cũng là thành viên tổ tư vấn của người đứng đầu Chính phủ về cải cách hành chính và cải cách kinh tế. Nhà báo Trần Trọng Thức nhận xét: “Sơn làm việc như xả thân”. Trong bài giới thiệu tập sách 25 năm theo dòng kinh tế Việt Nam, ông Thức ghi lại lời bộc bạch của tác giả: “Tôi bị ông thu hút bởi đức độ, một trái tim bao dung nhân hậu, lòng yêu nước yêu dân sâu đậm và một sự minh triết đáng kinh ngạc”.

Ba thập niên kể từ cuộc Ðổi mới lần thứ nhất, đâu đó đã có ý kiến đòi hỏi một cuộc Ðổi mới lần hai. Những trục trặc của nền kinh tế phơi lộ dần kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008. Huỳnh Bửu Sơn vẫn không nguôi trăn trở về thời cuộc, nhưng dường như chỉ có thân hữu ở một vài tòa soạn thuyết phục được ông viết bài. Tâm thế rất khác so với cái thời “có nhu cầu phải viết thì viết, giống như con gà mắc đẻ thì phải đẻ trứng. Ðẻ được trứng là tốt rồi, còn đẻ ở đâu cũng không hay. Trứng đẻ ra bị mai một trong bờ bụi hay được mang đi ấp, bỏ vào nồi luộc ăn cũng chẳng màng hay tiếc gì”, ông Sơn mượn lời một người bạn.

Ngô Tường Anh (theo Người Đô thị)

*Tiêu đề bài viết do Tuần Việt Nam đặt lạ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét