Thứ Tư, 12 tháng 11, 2014

20141112. SAI LẦM TRONG GIẢI THÍCH TỪ NGỮ HÁN VIÊT CỦA PGS.TS NGUYỄN CÔNG LÝ

ĐIỂM BÁO MẠNG
NHỮNG SAI LẦM CỦA PGS. TS NGUYỄN CÔNG LÝ TRONG SÁCH
"GIẢI THÍCH TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG SÁCH GIÁO KHOA..." (KỲ II)
Bài của HOÀNG TUẤN CÔNG/ Tuấn Công thư phòng/Quechoa 10/11/2014
***
PGS.TS Nguyễn Công Lý cho biết:“Khi giải nghĩa từ, chủ yếu chúng tôi dựa vào Hán Việt từ điển của học giả Đào Duy Anh, Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do GS. Hoàng Phê chủ biên và Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm ngôn ngữ và Văn hoá Việt Nam-Bộ Giáo dục và Đạo tạo do GS. Nguyễn Như Ý chủ biên”.
Theo đó, chúng tôi tưởng (và lẽ thường) thầy Lý sẽ làm như sau:
-Tham khảo cách giải nghĩa trong 3 cuốn Từ điển, tổng hợp thành cách giải nghĩa chính xác, dễ hiểu nhất, phù hợp với trình độ, khả năng tiếp thu của giáo viên, học sinh.
-Ngoài tham khảo 3 cuốn Từ điển, bằng kiến thức ngôn ngữ, văn hóa lịch sử, phương pháp sư phạm và kiến văn của mình, thầy Lý sẽ cập nhật, bổ sung thêm thông tin, đưa ra cách giải nghĩa chính xác, đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học của giáo viên, học sinh.
-Cuối cùng, (ít nhất) Thầy cũng tham khảo rồi “chọn” (chép lại) một trong ba cách giải nghĩa chính xác, phù hợp nhất của 3 cuốn Từ điển.
Nhưng, có lẽ thầy Lý cho rằng, đã là từ “Hán Việt” thì phải căn cứ vào “Hán Việt từ điển” tham khảo mới chính xác.  Bởi vậy, Thầy cứ “Đào Duy Anh” mà chép [1] Mà từ điển của cụ Đào Duy Anh thì sao? Đây là cuốn Hán Việt từ điển giản yếu thuộc diện cổ xưa nhất ở Việt Nam. Cổ tới mức nào? Sách biên soạn xong 1931, xuất bản lần đầu 1932, (trước cả cuốn Hán Việt tự điển-Thiều Chửu xuất bản sau đó 10 năm-1942) tái bản nhiều lần, không sửa chữa bổ sung. Bởi vậy, Từ điển này không chỉ thiếu nhiều từ, tự (như chúng tôi đã chỉ ra trong kỳ I bài viết) mà cách hiểu, cách dùng từ Hán Việt nói riêng và từ ngữ tiếng Việt nói chung thời điểm đầu thế kỷ XX so với bây giờ đã khác đi nhiều.  Chúng ta có thể dẫn một số từ trong sách do NXB Trường-Thi ấn hành năm 1957 (tại Sài Gòn) và bản do NXB Khoa học xã hội-tái bản năm 2000 làm ví dụ:
-Vần B, mục từ “Bảo Đại” vẫn còn nguyên nghĩa: “Hiệu vua nước ta hiện nay (1924-)”.
-Vần K, từ “Khốn nạn” giải nghĩa Khó khăn, lúng túng” (nghĩa từ Hán Việt đầu thế kỷ XX về trước). Trong khi từ này ngày nay được hiểu: “hèn mạt, không có chút nhân cách, đáng khinh bỉ,  nguyền rủa”(Từ điển tiếng Việt).
-Từ “bảo dưỡng” cụ Đào Duy Anh hướng dẫn xem từ: “bảo dục” nghĩa là: “giữ gìn nuôi nấng”. Trong khi "bảo dưỡng", “Từ điển tiếng Việt” giải nghĩa phù hợp với cách hiểu ngày nay: “đgt-trông nom, giữ gìn, sửa chữa [thiết bị, cầu đường,v.v...] khi cần thiết, giữ ở trạng thái có thể sử dụng bình thường”. (theo tôi, Từ điển tiếng Việt nên bổ sung ý: bảo dưỡng để giữ cho thiết bị có độ bền sử dụng lâu dài)
v.v...
Nhiều từ, cách giải nghĩa của cụ Đào Duy Anh chỉ mang tính chấtđối dịch, dùng từ Hán Việt này để giải thích từ Hán Việt khác, nên rất khó hiểu, đặc biệt là đối với giáo viên và học sinh Trung học cơ sở. (Trong phần Phàm Lệ, chính cụ Đào Duy Anh đã thừa nhận: “Có khi vì vụ giản tiện hoặc vì tình thế không thể tránh được, mà trong phần giải thích phải dùng đến từ-ngữ Hán-văn hoặc phải mượn một từ-ngữ đồng nghĩa mà giải-thích một từ-ngữ khác...”)
Như vậy, với giáo viên và các em học sinh, người biên soạn không nên sao chép nguyên xi cách giải nghĩa của cụ Đào Duy Anh, mà tùy từng trường hợp có thể lựa chọn hoặc đưa ra cách diễn đạt, giải thích phù hợp, dễ hiểu hơn. Tuy nhiên, “giải thích từ ngữ Hán Việt trong sách giáo khoa” của thầy Lý thực chất là chép lại cách giải nghĩa cách đây gần 1 thế kỷ. Bởi vậy, đôi khi giống như thầy Lý làm sách cho những người “muôn năm cũ” dùng vậy. Một vài so sánh, ví dụ:
-Cụ Đào Duy Anh (Đào Duy Anh): “Hoài cổ: nhớ việc đời xưa”.
-Thầy Nguyễn Công Lý (Nguyễn Công Lý): "Hoài cổ: nhớ việc đời xưa.”
          Nghĩa Hán-Việt của “hoài” trong “hoài cổ” không phải là “nhớ”chung chung mà là “nhớ tiếc”. Từ điển tiếng Việt” (TĐTV) - sách nằm trong danh mục tham khảo của thầy Lý giải nghĩa cụ thể, sát đúng hơn: “hoài cổnhớ tiếc cái đã thuộc về một thời xa xưa. Người già thường hay hoài cổ”; và Đại từ điển tiếng Việt”-Nguyễn Như Ý (ĐTĐTV): “hoài cổ đgt. Luyến tiếc, tưởng nhớ cái thuộc về thời xưa cũ: Bài thơ phảng phất tâm trạng hoài cổ”. Thế nhưng, một trong hai cách giải nghĩa chính xác này đã không được thầy Lý sử dụng.
-Đào Duy Anh: “Tử nạn-Vì quốc gia có hoạn nạn mà chết
-Nguyễn Công Lý: “Tử nạn: chết do giặc giã, loạn lạc"
          Đây là nghĩa từ dùng của người Tàu (xưa, nay) và “người Ta” hồi đầu thế kỷ XX. Ví dụ: “Việt Nam tự điển” (Khai trí Tiến đức-Hà Nội): “Tử nạn: Chết vì nạn nước-Trong khi kinh thành thất thủ, nhiều người tử nạn.” Có lẽ thầy Lý căn cứ vào “Hán Việt từ điển” và “giải thích” “rõ” hơn: “vì quốc gia có hoạn nạn mà chết” thành “chết do giặc giã, loạn lạc”, nhưng không tránh khỏi phiến diện, thiếu chính xác. Trong khi nếu theo cách giải nghĩa của “ĐTĐTV”: “tử nạn đgt. Chết do giặc giã, loạn lạc. (cũ); tử nạn đgt. Chết vì tai nạn. (mới); hoặc Từ điển tiếng Việt"Tử nạn: 1.Chết do chiến tranh-nhiều dân thường tử nạn trong cuộc chiến. (Đồng nghĩa: thiệt mạng). 2.Chết do tai nạn-12 học sinh đã tử nạn trong vụ đắm đò”, sẽ chính xác, đầy đủ hơn. (Ví dụ của TĐTV nghe “ghê” quá !)
          -Đào Duy Anh: “Cầu toàn trách bị: Cầu cho được toàn, trách cho được đủ, cố ý bắt buộc người khó làm xong”.
          -Nguyễn Công Lý: “Cầu toàn trách bị: Cầu cho được toàn, trách cho được đủ. Ý nói: cố ý bắt buộc người khác làm xong”.
Đây lại là một câu thành ngữ được “Hán Việt từ điển” giải nghĩa đơn giản theo kiểu “đối dịch”. (trường hợp này cụ Đào Duy Anh gọi là:“vì vụ giản tiện hoặc vì tình thế không thể tránh được, mà trong phần giải thích phải dùng đến từ-ngữ Hán-văn hoặc phải mượn một từ-ngữ đồng nghĩa mà giải-thích một từ-ngữ khác...”). Chữ “trách” 責 có nghĩa là yêu cầu, đòi hỏi, đã không được cụ Đào giải nghĩa, đến lượt thầy Lý tiếp tục để nguyên. Bởi vậy “trách cho được đủ” trở nên rất khó hiểu với giáo viên và học sinh. Mặt khác, nguyên văn cụ Đào Duy Anh viết: “..., cố ý bắt buộc người khó làm xong (rechercher la perfection)”, khi chép lại, không biết do thầy Lý nghĩ cụ Đào viết sai nên sửa chữ “khó” thành chữ “khác” (hay do chép sai, in sai ?). Thế là ý cụ Đào: Ai đó cố ý đưa ra yêu cầu khắt khe, mọi thứ phải thật hoàn hảo để gây khó khăn, khiến cho người khác khó thực hiện, khó làm cho xong, thầy Lý lại biến thành: “...cố ý bắt buộc người khác làm xong (!)
Về câu “Cầu toàn trách bị” “Từ điển tiếng Việt” giải nghĩa dễ hiểu hơn: “Cầu toànđòi hỏi hoàn toàn tốt, hoàn toàn trọn vẹn, theo ý muốn chủ quan của mình. Cầu toàn trách bị [cũ] như cầu toàn [nhưng nghĩa mạnh  hơn]”.
-Đào Duy Anh: “Phỏng vấn 訪問: Hỏi thăm”.
-Nguyễn Công Lý: “Phỏng vấn: Hỏi thăm để nắm tình hình, nắm vấn đề”.
Đây cũng là cách hiểu, cách dùng từ của người Tàu (xưa, nay) và người Ta cách nay gần thế kỷ. Thế nên “Từ điển Việt-Hán” (phục vụ cho người học tiếng Trung Quốc-NXB Giáo dục-2002-GS Đinh Gia Khánh hiệu đính) viết: “Thăm hỏi: 訪問 (phỏng vấn-HTC phiên âm);thăm nghèo hỏi khổ 訪貧問苦 (phỏng bần, vấn khổ-HTC phiên âm).Thăm viếng: 探 訪, 拜訪, 訪問 (thám phỏng, bái phỏng, phỏng vấn-HTC phiên âm).
Trong khi “Từ điển tiếng Việt” giải nghĩa: “phỏng vấn: Hỏi ý kiến một nhân vật nào đó để công bố trước dư luận. phỏng vấn vị thứ trưởng; phỏng vấn trực tiếp trên truyền hình”; và “Đại từ điển tiếng Việt”: “phỏng vấn đgt. Hỏi ý kiến một nhân vật nào về một vấn đề được nhiều người quan tâm để công bố lên đài báo: phỏng vấn Thủ tướng chính phủ về chính sách đối ngoại, đối nội của chính phủ ~ trả lời phỏng vấn của các nhà báo.” Đây mới chính là “giải thích từ ngữ Hán Việt” cho thầy cô giáo và các em học sinh nói riêng và người Việt hiện nay nói chung. Còn cách giải nghĩa của thầy Lý nên dành cho người học Hán ngữ hiện đại, muốn “bút đàm” với người Tàu hoặc người Việt hồi đầu thế kỷ XX.
Thầy Lý là người đương thời, hàng ngày đọc sách báo, nghe đài, tiếp xúc với mọi người, dĩ nhiên thừa biết nghĩa những từ Hán Việt chúng tôi vừa dẫn trên đây không còn (hoặc rất ít) được dùng, được hiểu trong thực tế. Có người sẽ nói, đó là Thầy giải nghĩa từ Hán Việt trong sách, chứ không phải từ Hán Việt dùng trong thực tế đời sống. Tuy nhiên, những từ trên đây thuộc diện được thầy Lý “mở rộng vốn từ Hán Việt”. Mặt khác, “Lời nói đầu”, thầy Lý đưa ra một số nguyên tắc dạy, học từ Hán Việt, trong đó đặc biệt nhấn mạnh “Nguyên tắc thực hành”: “Trong giờ dạy từ ngữ nói chung, dạy từ Hán Việt nói riêng, giáo viên phải vận dụng nguyên tắc thực hành thường xuyên qua những bài tập nói, tập viết trình bày suy nghĩ,v.v...Gắn với đời sống là yêu cầu quan trọng nhất của việc dạy từ ngữ, bởi nó giúp cho các em mở rộng vốn từ...” Rồi: “Khi giảng dạy, giáo viên cần có hệ thống bài tập tích cực hóa vốn từ, nhằm làm giàu vốn từ cho học sinh và giúp các em kỹ năng sử dụng từ đúng, chính xác, hợp văn cảnh...
Vậy, liệu các em có thể đem nghĩa của những từ Hán Việt được dùng cách nay gần thế kỷ mà thầy Lý “giải thích” để thực hành, áp dụng trong cách nói, cách viết ngày nay được không? Sao Thầy không lựa chọn cách “giải thích” có cả nghĩa  và nghĩa mới giống như từ điển để giáo viên và học sinh tham khảo?
-Đào Duy Anh: “Minh khí  器-Những đồ giấy người ta đốt cho người chết”.
-Nguyễn Công Lý: “Minh khíNhững đồ giấy (vàng mã) để đốt cho người chết” (tr.52)
Thầy Lý đã chép lại cách giải nghĩa thiếu chính xác và không đầy đủ của cụ Đào Duy Anh. Bởi “minh khí” không chỉ là “đồ giấy”, (thầy Lý chú thêm “vàng mã”) mà còn làm bằng rất nhiều chất liệu khác; không chỉ “đốt cho người chết” mà còn tùy táng, (chôn theo người chết).
 Tham khảo: Nếu đồ tùy táng gọi chung tất cả các vật dụng chôn theo người chết (kể cả đồ thực dụng hàng ngày) thì đồ “minh khí” lại chỉ riêng những vật dụng mang tính tượng trưng, (được làm riêng với kích thước nhỏ hơn bình thường) chôn theo, hoặc dùng lửa "hóa" (để) người chết mang theo “sử dụng” ở thế giới bên kia (minh khí 冥器:minh 冥 = cõi âm phủ; khí 器 = khí cụ, đồ dùng). Do quan niệm “trần sao âm vậy” nên đồ "minh khí" rất phong phú. Người sống dùng thứ gì, người chết có “minh khí” như vậy. Riêng thời đồ Đồng có loại “minh khí” rất nổi tiếng là trống đồng minh khí, đường kính mặt chỉ độ 20cm, chiều cao 16-17 cm (có trống chỉ nhỏ bằng cái chén, cốc hay ngón chân cái). Các nhà khảo cổ học còn tìm thấy nhiều đồ minh khí khác, từ bát đĩa, nồi niêu, đến nhà cửa, binh khí, cung tên, giáo mác... bằng đủ mọi chất liệu như: gốm, đất nung, sắt, đồng...
Trống minh khí- Ảnh do TS Khảo cổ học Nguyễn Văn Đoàn -PGĐ Bảo tàng Lịch sử,
gửi Tuấn Côngthư phòng
Vậy, với những từ Hán Việt không có trong từ điển của cụ Đào Duy Anh, thầy Lý tham khảo hai cuốn từ điển tiếng Việt còn lại thế nào? Chúng tôi thấy, thầy Lý vẫn với cách làm là chép lại sách này thì bỏ sách kia, không cần biết sách nào có lý hơn sách nào; hoặc đã chính xác hay chưa. Ví dụ:Theo chúng tôi, từ “minh khí”, thầy Lý nên tham khảo và chép lấy cách giải nghĩa của “Từ điển tiếng Việt”: “minh khí: vật dụng thu nhỏ tượng trưng cho đồ dùng hàng ngày, người xưa thường chôn theo trong mộ người chết”, thay vì theo “Hán Việt từ điển”. (Dĩ nhiên, cũng không nên theo Đại từ điển tiếng Việt: “minh khí dt. Đồ dùng trong việc tang lễ: chuẩn bị minh khí để đưa đám”, vì cách giải nghĩa này chưa chính xác, thiếu cụ thể).
-"Đại từ điển tiếng Việt": “sinh ngữ dt. Tiếng nói hiện đang được dùng của nhân dân một nước; trái với tử ngữThế giới có hàng nghìn sinh ngữ”.
-"Từ điển tiếng Việt": “sinh ngữ d 1- ngôn ngữ đang được dùng hiện nay; phân biệt với tử ngữ. 2 [cũ] ngoại ngữ, về mặt là ngôn ngữ đang được học tập, sử dụng. giờ học sinh ngữ. giỏi sinh ngữ”.
-Nguyễn Công Lý: “Sinh ngữ: Tiếng nói hiện đang được dùng của nhân dân, một nước (trái với Tử ngữ: tiếng nói đã chết, không còn dùng nữa) (tr.57)
Ngữ hay ngôn ngữ nghĩa là nói, tiếng nói. Nhưng tiếng nói có khi lại không đồng nghĩa với ngôn ngữ. (Cũng như vĩ đại nghĩa là to lớn, nhưng to lớn không có nghĩa là vĩ đại). Trường hợp "sinh ngữ", Từ điển tiếng Việt” giải nghĩa chuẩnđầy đủ hơn, nhưng không được Thầy sử dụng.
Có những từ, "Từ điển tiếng Việt" giải nghĩa chưa chuẩn, đáng lẽ thầy Lý phải phát hiện ra và bổ sung, điều chỉnh rồi mới đưa vào sách của mình. Tuy nhiên, Thầy cũng cứ thế chép lại. Ví dụ “Điền dã”,nghĩa 2. “Từ điển tiếng Việt” giải nghĩa: “Vùng xa thành phố, là nơi tiến hành những cuộc điều tra, khảo sát trong nghiên cứu khoa học. đi điền dã; tư liệu điều tra điền dã”.
Cách giải nghĩa này máy móc. Bởi “điền dã” nghĩa là nơi đồng ruộng, thôn dã, nhưng thuật ngữ “điền dã” lại được hiểu là những cuộcđiều tra, khảo sát, thu thập số liệu từ thực tế, thực địa (không phải từ sách vở, tài liệu). Và địa bàn “điền dã” có thể diễn ra ngay tại thành phố, không dứt khoát phải “vùng xa thành phố”. Ví dụ khi nghiên cứu về các di tích, danh thắng ở Hà Nội, việc khảo sát, tìm hiểu, thu thập số liệu, diễn ra ngay ở khu vực hồ Hoàn Kiếm vẫn được gọi là “điền dã” như thường. (PGS.TS Nguyễn Công Lý hướng dẫn luận văn, luận án nhiều, chắc hẳn hiểu rõ điều này)
Thế nhưng, thầy Lý cứ thế chép lại:Điền dã: 2.Vùng xa thành phố, và là nơi tiến hành tại chỗ những cuộc điều tra, khảo sát khoa học”
v.v...
Ngoài ra, nhiều mục từ, tự, thầy Nguyễn Công Lý cứ “tiện tay” chép liền liền theo từ điển của cụ Đào Duy Anh mà không quan tâm nó có ích gì đối với giáo viên và học sinh hay không. Thầy cũng không so sánh, tham khảo xem sách nào đúng, sách nào chưa đúng, hay diễn đạt lại cho dễ hiểu hơn. Ví dụ, ngoài từ “cận” 近 nghĩa là “gần”, thầy Lý liệt kê một loạt “Từ đồng âm khác nghĩa” (chính xác phải gọi là yếu tố Hán Việt (chữ Hán) đồng âm, khác nghĩa. Có lẽ muốn cho ngắn gọn nên thầy Lý gọi là “từ” cả) như: “cận 饉-mất mùa, đói không có rau ăn; cận覲-yết kiến người trêncận 槿-một loài cây...”. Từ “ái” nghĩa là yêu, Thầy còn kể đến: “ái  -mây đen, mây mù”...“tiếu” 笑 ngoài nghĩa “cười”,Thầy còn kể: “tiếu 峭-Dáng núi cao lởm chởm; Nghiêm khắc”; “tiếu 肖-giống nhau, như nhau”. Cũng xin nhắc lại: nhiều mục từ, yếu tố Hán Việt có từ, tự đồng âm rất thông dụng, nhưng thầy Lý lại kết luận không có (như chúng tôi đã nói trong kỳ I).
Sách của thầy Lý có tên “Giải thích từ ngữ Hán Việt...”. Nghĩa là Thầy sẽ không dừng lại cách “giải nghĩa” ngắn gọn của Từ điển mà sẽ “giải thích”giảng giải kỹ lắm. Tuy nhiên, thực tế lại hoàn toàn ngược lại. Sách của Thầy chỉ nặng về liệt kê, sao chép theo “Hán Việt từ điển”giản yếu của cụ Đào Duy Anh là chính, và loại bỏ hoàn toàn bước phân loại từ Hán Việt, trích dẫn, ví dụ mà các nhà biên soạn từ điển tiếng Việt đã dày công đưa vào minh họa. Ví dụ:
-“Từ điển tiếng Việt”: “Vệ quốc đgt bảo vệ tổ quốc. chiến tranh vệ quốc; d [kng] vệ quốc quân [nói tắt] gia nhập vệ quốc”.
-Sách của thầy Lý: “Vệ quốc-bảo vệ giữ gìn tổ quốc”
-“Từ điển tiếng Việt”: “tâm can d tim và gan, được coi là biểu tượng của những tình cảm sâu kín tận đáy lòng của con người, nói chung-thấu hiểu tâm can; bày tỏ tâm can”.
-Sách của thầy Lý: “tâm can-Tim và gan”.
...,v.v...
 Giá như thầy Lý bớt những mục từ và yếu tố Hán Việt không cần thiết, để giải thích kỹ hơn và lấy (hoặc giữ lại) ví dụ cách dùng những từ Hán Việt ấy cho giáo viên và học sinh sẽ tốt hơn nhiều (thầy Lý làm công tác giảng dạy, tất sẽ hiểu phương pháp sư phạm quan trọng tới mức nào)
Chỉ chừng ấy dẫn chứng cũng đủ thấy phần lớn các từ, ngữ Hán Việt trong 3 cuốn sách “Hán Việt từ điển”; Từ điển tiếng Việt; Đại từ điển tiếng Việt dường như chưa hề “đi qua” tư duy, nghiền ngẫm, chắt lọc để trở thành kiến thức nhuần nhuyễn của thầy Lý, mà “chạy” thẳng tuột vào sách “Giải thích từ ngữ Hán Việt...”. Bởi thế món "ăn dặm"“từ và ngữ Hán Việt trong sách giáo khoa...” của thầy Lý chẳng những nhiều “hạt sạn” mà kiến thức hãy còn rất sống sượng. Nếu thầy và trò cứ theo cách “Giải nghĩa từ ngữ Hán Việt” của thầy Lý mà thi đua “dạy tốt học tốt” thì “bổ dưỡng” chưa thấy đâu, nhưng kiến thức ngày càng bị còi đi mà thôi... [2]
Đến đây, hẳn độc giả sẽ đặt dấu hỏi: vậy, thầy Lý không có chút gì gọi là kiến thức của riêng mình để "trình làng" hay sao? Thưa rằng có. Vì bài đã dài nên chúng tôi xin được nói đến trong phần III, cũng là phần cuối loạt bài “Những sai lầm của PGS.TS Nguyễn Công Lý trong sách “Giải nghĩa từ và ngữ Hán Việt trong sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở”
 HTC/10/11/2014
Chú thích:
[1]-Sau khi đăng kỳ I: Những sai lầm của PGS.TS Nguyễn Công Lý trong sách “Giải thích từ ngữ Hán Việt... có độc giả góp ý với chúng tôi, nên dùng từ “sai sót”, dùng “sai lầm” nghe “nặng nề” quá. Còn nhớ tháng 9/2013, chúng tôi gửi bài Những sai sót của Nguyễn Đức Dương trong từ điển tục ngữ Việt” cho Tạp chí Văn hóa dân gian-Viện nghiên cứu Văn hóa-Viện KHXH Việt Nam. Chúng tôi dùng từ “sai sót” vì “đề phòng” sách báo, tạp chí xuất bản ngại đụng chạm, “kiêng” những từ chỉ đích danh, nêu đúng bản chất vấn đề. Tuy nhiên, Ban biên tập Tạp chí này đã đề nghị sửa “sai sót” thành “sai lầm” bởi (theo BBT) xét thấy vấn đề không chỉ dừng ở mức độ “sai sót” thường gặp (có vẻ “không khí” trao đổi học thuật ngày càng được cởi mở hơn?) Với sách “Giải thích từ ngữ Hán Việt trong sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở”, theo chúng tôi thầy Lý sai về phương pháp luận, kéo theo hàng loạt cái sai mang tính hệ thống khác. Bởi vậy, chúng tôi xin được giữ nguyên từ “sai lầm” thay vì “sai sót” mà độc giả đề nghị.
[2]-Lưu ý độc giả, cuốn sách này PGS.TS Nguyễn Công Lý biên soạn dành cho đối tượng là giáo viên  học sinh trung học cơ sở. Bởi vậy, nếu giáo viên căn cứ vào sách để tham khảo giảng dạy, cái sai, cái thiếu chính xác sẽ được truyền đạt theo cấp số nhân.

VỀ BÀI VIẾT TRÚC PHONG"BIỆN HỘ" CHO THẦY HỌC PGS.TS NGUYỄN CÔNG LÝ
Bài của HOÀNG TUẤN CÔNG/ Blog TC thư phòng/ Quechoa 14/11/2014
Ngay sau khi đăng kỳ II bài viết"Những sai lầm của PGS.TS Nguyễn Công Lý trong sách "Giải thích từ ngữ Hán Việt trong sách giáo khoa..."(10/11/2014) một độc giả của Tuấn Công thư phòng gửi cho chúng tôi đường link bài viết của Trúc Phong-học trò PGS.TS Nguyễn Công Lý, tiêu đề: "Về những sai lầm của PGS.TS Nguyễn Công Lý | Trúc Phong" và đề nghị chúng tôi cho biết ý kiến.
Bài của Trúc Phong trêntrucphongpnk.blogspot.com đã đăng cách đây hơn 1 tháng (30/9/2014)-tức sau khi chúng tôi đăng kỳ I (6/9/2014) gần 1 tháng. Quả tình, nếu không được dẫn link, chúng tôi cũng không biết có một bài viết như vậy.
Trúc Phong cho biết, ông là “một biên tập viên chuyên nghiệp” (...) "cần trao đổi với người viết bài này" (tức bài của tôi-Hoàng Tuấn Công) và "nói trước là tôi đang biện hộ cho thầy tôi đấy!"
Vậy, Trúc Phong “biện hộ” cho thầy mình thế nào?
Ý Trúc Phong cho rằng chúng tôi đã “đánh tráo khái niệm”, mà ông lại “là người không thích đánh tráo khái niệm (...) Cãi nhau ầm ĩ khi các khái niệm bị hiểu lộn xộn thì "ông nói gà, bà nói vịt", không hay cho lắm”.Thế nên Trúc Phong đã mất công giảng giải lại cho chúng tôi và bạn đọc biết thế nào là từ, thế nào là tự, thế nào là từ Hán Việttừ đồng âm khác nghĩa...
Trúc Phong “biện hộ” cho thầy học của mình ở hai điểm chính:
1-Chỉ ra“Những nhận định sai lầm trong bài viết” (của tôi-HTC)
2-Lý giải tại sao thầy Lý “lại dùng "từ điển" của Đào Duy Anh thay vì "tự điển" của Thiều Chửu, hoặc "từ điển" của Trần Văn Chánh...” (vì trong kỳ I, chúng tôi đặt câu hỏi, tại sao giải nghĩa hàng trăm, hàng ngàn yếu tố Hán Việt và từ Hán Việt mà thầy Lý lại chỉ căn cứ vào mỗi cuốn từ điển Hán Việt của cụ Đào Duy Anh, dẫn đến những sai sót không đáng có)
1-Về “Những nhận định sai lầm trong bài viết”, Trúc Phong viết:
“Thứ nhất, người viết dường như đã quên mất rằng, không phải mọi "chữ Hán" đều là "từ Hán Việt"... (HTC gạch chân).
Đúng vậy, “không phải mọi "chữ Hán" đều là "từ Hán Việt", chúng tôi hiểu. (Trúc Phong phân tích khá công phu, nhưng tôi xin không trích lại. Độc giả có thể theo link đầu bài viết này để tham khảo).
 Tuy nhiên, nếu Trúc Phong đọc kỹ bài viết, thậm chí chỉ cần đọc kỹ đoạn tôi trích dẫn dưới đây(*) sẽ thấy, đối tượng “giải thích” và “mở rộng” của thầy Lý không chỉ là “từ Hán Việt” mà còn có “yếu tố Hán Việt”.(xin xem ảnh “Bảng kê các yếu tố Hán Việt...” trong sách của thầy Lý) Mà “yếu tố Hán Việt” là gì? Nó chính là tự (chữ Hán), bộ phận cấu tạo nên từ Hán Việt đó thôi. Ví dụ chữ kiên 堅 = bền chặt, là yếu tố Hán Việt để tạo nên các từ như: kiên cố, kiên định, kiên quyết...Chẳng lẽ Trúc Phong giảng giải cho chúng tôi nghe về từ và tự khác nhau thế nào mà lại không hiểu điều đó? Vậy, chỉ có thể giải thích là ông đã không đọc kỹ bài viết của chúng tôi.
(*)-Trong bài kỳ I, chúng tôi viết: sách “Giải nghĩa từ ngữ Hán Việt...” thầy Lý chủ trương cung cấp vốn từ của 220 yếu tố Hán Việt có trong sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở, “Đồng thời tài liệu cũng mở rộng, cung cấp thêm một số từ Hán Việt thường gặp mà sách giáo khoa không nêu và cung cấp các từ đồng âm củacác yếu tố Hán Việt (nếu có)” (trích Lời nói đầu- HTC nhấn mạnh) là việc làm rất cần thiết. Rất tiếc thực tế lại không giống nhưng những gì Thầy nói”. (tức có những từ và yếu tố Hán Việt đồng âm, nhưng thầy Lý thấy trong “Hán Việt từ điển” của Đào Duy Anh không có, thầy sẽ kết luận là không có)
Như vậy, về điểm “Thứ nhất”, chúng tôi không hề “quên mất rằng, không phải mọi "chữ Hán" đều là "từ Hán Việt", cũng không “nhận định sai lầm” cho thầy Lý như Trúc Phong nhận xét.
2.Trúc Phong viết: Thứ hai, người viết mải mê tìm những lỗi sai trong cuốn sách mà quên mất rằng, nên cần một cái nhìn rõ ràng hơn về quan điểm của người viết”, và cho rằng: “cái lỗi lớn nhất trong cuốn sách của thầy tôi - PGS Nguyễn Công Lý - chính là: Thay vì khẳng định rõ ràng các khái niệm lớn như ở phần trên để tránh hiểu lầm, lại tiến vào nội dung quá nhanh (không rõ là do tôi không biết, hay là bản thân cuốn sách không có mục này)”.
Từ đó, Trúc Phong khẳng định:
 “Mặc dù tôi cũng không tin rằng, trong tất cả các cuốn sách giáo khoa ngữ văn, không có cuốn nào có chữ "tiền" nghĩa là tiền bạc, hay "phú" nghĩa là cấp cho, và "bạch" nghĩa là lụa (một sai lầm thực sự đáng trách đối với 1 người nổi tiếng tỉ mỉ như Nguyễn Công Lý), nhưng "hạt sạn" trong sách không nhiều như bài viết nêu ra đâu! Cười! Hơn 1 nửa trong số đó là sai lầm của bài viết tôi đã trình bày ở trên, một số ít các trường hợp còn lại nằm trong mâu thuẫn về khái niệm giữa tác giả bài viết và tác giả cuốn sách: Thế nào là từ "đồng âm khác nghĩa"?
Như vậy, Trúc Phong cho rằng, đối tượng của sách là “từ” nên thầy Lý không ghi nhận “tự” là đúng. Và ông kết luận những: "hạt sạn" trong sách không nhiều như bài viết nêu ra đâu! (...) Hơn 1 nửa trong số đó là sai lầm của bài viết” (tức sai lầm của chúng tôi)
Dĩ nhiên, đó là những nhận định sai của Trúc Phong, vì ngay từ đầu ông đã không hiểu “yếu tố Hán Việt” chính là đơn vị “tự” (chữ). Nhớ lại, trong bài kì I, chúng tôi đã viết như sau: “Ở mục từ "đường" 堂 thầy Lý kể thêm một số "Từ đồng âm khác nghĩa" như: "đường -Tiếng trống; đường -Bờ đê, cái ao hình vuông...". Những yếu tố Hán Việt này rất hiếm xuất hiện trong từ ngữ văn chương hoặc lời ăn tiếng nói hàng ngày. Tuy nhiên thầy Lý vẫn ghi nhận chúng trong mục "Từ đồng âm khác nghĩa", lý gì lại bỏ qua những yếu tố Hán Việt đồng âm khác nghĩa rành rành khác mà chúng tôi đã nêu?"
Về điều này, chính Trúc Phong cũng phải thừa nhận: “Tác giả cuốn sách (tức GS.TS Nguyễn Công Lý-HTC) cũng "nhập nhằng" ra trò khi lôi "đường" nghĩa là nhà chính ra làm "từ đồng âm khác nghĩa" với "đường" - Tiếng trống...”
Điều mà Trúc Phong gọi là “nhập nhằng” thực ra là do lỗi của PGS.TS Nguyễn Công Lý. Vì với đề mục “Từ đồng âm khác nghĩa”, lẽ ra thầy Lý phải viết đầy đủ: Từ và yếu tố Hán Việt đồng âm, khác nghĩa.Nhưng, có lẽ do muốn ngắn gọn nên hai khái niệm từ  yếu tố Hán Việt, thầy Lý gọi chung là “từ” cả. Chúng tôi không vì thế mà “bắt lỗi” thầy Lý không phân biệt được từ và tự. Bởi trong “Lời nói đầu” thầy Lý đã phân biệt rạch ròi và xác định rõ sẽ thu nhận, giải thích cả từ và tự(yếu tố Hán Việt) đồng âm khác nghĩa.
Trong bài kỳ I, chúng tôi viết: “Với yêu cầu giải nghĩa 220 yếu tố Hán Việt có trong sách Ngữ văn các lớp 6,7,8,9 và mấy ngàn từ ngữ của các yếu tố Hán Việt mở rộng có liên quan, mà thầy Nguyễn Công Lý chỉ dựa vào 3 đầu sách trên làm tài liệu tham khảo kể ra hơi ít.Thậm chí là quá ít để Thầy vận dụng một phương pháp biên soạn có thể nói rất “ngây thơ” và “dại dột”. Đó là: căn cứ vào "Hán Việt từ điển" của Đào Duy Anh để khẳng định với"các thầy giáo, cô giáo và các em học sinh" từ và yếu tố Hán Việt A hoặc B nào đó  hay không có “từ đồng âm khác nghĩa”.
Về điều này, một mặt Trúc Phong thừa nhận: “ngay cả khi người viết là một người có uy tín như thầy tôi - PGS.TS. Nguyễn Công Lý cũng không đủ căn cứ để mô tả hàng trăm từ Hán Việt như vậy.”
Tuy nhiên, theo Trúc Phong, thầy Lý có cái lý của mình. Bởi Thầy chỉ giải nghĩa từ Hán Việt nên “tác giả cuốn sách lại dùng "từ điển" của Đào Duy Anh thay vì "tự điển" của Thiều Chửu, hoặc "tự điển" của Trần Văn Chánh...” là đúng. Theo Trúc Phong: “Nguyên nhân có thể đoán ra được là: Trong số ba cuốn "điển" trên, chỉ có đúng một mình cuốn của Đào Duy Anh là mô tả "từ Hán Việt" thay vì là "chữ Hán...".
Và ông kết luận: “Thiết nghĩ, lý do chỉ chọn cuốn sách này cũng đã quá rõ ràng rồi! (Nếu người đọc còn thắc mắc, xin xem khái niệm thứ 2 trong bài viết này-tức khái niệm về từ Hán Việt-HTC)
Trúc Phong phân tích thêm: “Tự điển Thiều Chửu là một cuốn tự điển phổ thông và có nội dung khá đầy đủ, nhưng vì là "tự điển" nó không phân biệt cho người sử dụng, đâu là "chữ Hán", đâu là "chữ Hán trong từ Hán Việt". Trong khi đó, mục từ kiểu như thế này trong từ điển của Trần Văn Chánh lại nằm trong phần "tự" chứ không phải "từ". Nếu cần, "Từ điển Hán Việt từ nguyên" của Bửu Kế có lẽ là một cuốn sách đáng để tham khảo trong trường hợp này”.
Thiết nghĩ, chúng tôi không cần nói gì thêm, mà chỉ đề nghị Trúc Phong đọc kỹ lại bài viết của chúng tôi. Đó đã là câu trả lời rồi.
 Tuy nhiên, chúng tôi muốn lưu ý: có lẽ ông Trúc Phong đã quan niệm quá máy móc về cách dùng “từ điển” và “tự điển”. Bởi trong “từ điển” không chỉ có “từ” mà (dĩ nhiên) còn có “tự” (vì tự là yếu tố Hán Việtcấu tạo nên từ- thường được nhà biên soạn nêu ra và giải nghĩa chung ở đầu mỗi mục từ). Trong “tự điển” cũng không chỉ có “tự” mà còn có cả“từ” (các ví dụ, trích dẫn về từngữ của nhà biên soạn. Ví dụ, chữnguyên 元 = mới, đầu, Thiều Chửu đã liệt kê và giảng tới 18 từ, ngữ có chữ nguyên như: nguyên niên, kỷ nguyên, nguyên nguyệt, nguyên nhật, nguyên lão, trạng nguyên, nguyên thủ...). Bởi vậy, ngay cả với sách chỉ giải nghĩa từ Hán Việt, nếu tham khảo tự điển cũng sẽ rất bổ ích và không bao giờ là thừa(*) Vì “tự” cấu tạo nên “từ”. Hiểu đúng, hiểu sâu về nghĩa của “tự” sẽ góp phần hiểu chính xác, hiểu sâu về nghĩa của “từ”. Huống chi, mục đích sách của thầy Lý là mở rộng cả vốn từ Hán Việtlẫn yếu tố Hán Việt (tự) cho giáo viên và học sinh. Vậy, việc tham khảo thêm “Hán Việt tự điển” của Thiều Chửu hay “Tự điển Hán Việt” của Trần Văn Chánh sao có thể gọi là không cần thiết?
(*)Xin đưa ra một ví dụ: Chữ “tải”, “Hán Việt từ điển” của Đào Duy Anh chỉ đưa ra hai âm đọc là tái  tải, với 4 nghĩa: âm “tải”: chở đồ hàng bằng xe thuyền hoặc lừa, ngựa; âm “tái”: Chở xe; Chịu người ta giao cho; Mới bắt đầu; Đặt việc. Trong khi “Hán Việt tự điển” của Thiều Chửu ghi nhận 3 âm đọc: tái, tại, tải, và giảng tới 9 nghĩa; “Tự điển Hán Việt” của Trần Văn Chánh giảng 13 nghĩa. Riêng tự điển của Thiều Chửu giảng một nghĩa rất quan trọng mà sách của Đào Duy Anh và Trần Văn Chánh không có, đó là “Tải Năm, nhà Hạ  gọi là tuế. Nhà Thương  gọi là tự . Nhà Chu  gọi là niên . Nhà Ðường, nhà Ngô  gọi là tải . Chính GS Nguyễn Lân trong “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam”, vì tham khảo “Hán Việt từ điển”giản-yếu của cụ Đào Duy Anh, mục chữ “tải” thấy chỉ giảng duy nhất một nghĩa là: “chở đồ hàng bằng xe thuyền hoặc lừa, ngựa”, nên mới giảng sai chữ “tải” trong câu thành ngữ gốc Hán “Thiên tải nhất thì” “tải: nghĩa đen là chở đi”, trong khi “tải” này nghĩa là “năm” (Ngàn năm mới có một lần) như Thiều Chửu đã giảng.
Sở dĩ người ta phải sử dụng rất nhiều từ điển, tự điển cũng vì lẽ đó. Cuốn này bổ khuyết cho cuốn kia. Không có cuốn từ điển, hay tự điển nào đầy đủ hết tất cả, hoặc có thể thay thế cho tất cả các cuốn khác. Đôi khi, những từ, tự cần tìm lại không nằm trong những cuốn từ điển, tự điển tên tuổi. Trong khi, như chúng tôi đã nói trong bài kỳ I, không ai hạn chế số lượng sách tham khảo của thầy Lý.
Trúc Phong khuyên thầy mình: “...Vậy nên, có chăng là nên thêm 1 vài cuốn từ điển khác kiểu như Khang Hi, hay từ điển Hán Việt từ nguyên gì đấy! Nó làm cuốn sách chính xác hơn”.
Nhưng, Trúc Phong vừa “biện hộ” việc thầy Lý không sử dụng “tự điển” của Thiều Chửu và Trần Văn Chánh để tham khảo giải nghĩa từ là đúng, sao cuối cùng lại khuyên thầy Lý nên sử dụng “Khang Hy tự điển”? Căn cứ nguyên văn câu của Trúc Phong tôi trích dẫn trên, hình như ông cũng không rõ Khang Hy từ điển hay Khang Hy tự điển?
 Cũng cần nói thêm “Từ điển Hán Việt từ nguyên” của Bửu Kế thiên về nguồn gốc, nghĩa gốc, nghĩa cổ của từ, đâu phải là một lựa chọn hoàn hảo và phù hợp với yêu cầu mở rộng vốn từ Hán Việt ở cấp Trung học cơ sở? [1]
Tôi nghĩ, Trúc Phong là người khác quan và trung thực, nặng tình thầy trò đáng trân trọng. Ông đã không đứng ngoài cuộc khi thấy có người nói “oan” cho thầy mình. Tuy nhiên, như Trúc Phong đã thừa nhận: "cũng không rõ lắm về cuốn sách" của thầy mình-PGS.TS Nguyễn Công Lý; lại không đọc kỹ bài viết của chúng tôi, dẫn đến thực tế ngoài ý muốn: “biện hộ” lại trở thành “ngụy biện” !Điều này rõ ràng không có lợi. Với Hoàng Tuấn Công: độc giả (và ngay cả Trúc Phong) ngỡ rằng tôi cố tình “đánh tráo khái niệm” nói sai cho thầy Lý. Với Trúc Phong: những người đọc kỹ và hiểu rõ hai bài viết sẽ hiểu lầm ông vì tình riêng mà thiên vị thầy học PGS.TS Nguyễn Công Lý, “...ra dáng một người không có chút tinh thần khoa học nào nữa rồi!” (chữ của Trúc Phong). Dù đầu bài viết, ông đã dẫn trước câu nói của Aristotle:"Tôi yêu thầy tôi, nhưng tôi còn yêu chân lý hơn". Phần độc giả, nhiều người sẽ thấy bị “nhiễu” thông tin, không biết ai đúng, ai sai. Cuối cùng, thầy Nguyễn Công Lý nếu biết, dẫu cảm kích về tình thầy trò, chắc cũng không dám nhận lời "biện hộ" của học trò Trúc Phong.
Bởi vậy, chúng tôi xin có đôi lời, gọi là phân trần với Trúc Phong và bạn đọc. Để hiểu rõ hơn vấn đề, Trúc Phong và độc giả có thể xem lại Kỳ IKỳ II  và đón xem Kỳ III-cũng là kỳ cuối của loạt bài “Những sai lầm trong sách “Giải thích từ, ngữ Hán Việt...” của PGS.TS Nguyễn Công Lý”.
Cảm ơn anh Trần Phi Điệp (tranphidiep@gmail.com - người gửi link bài viết "Về những sai lầm của PGS.TS Nguyễn Công Lý của Trúc Phong" cho tôi) cùng độc giả đã quan tâm tới chuyện chữ nghĩa của Tuấn Công thư phòng.
 HTC/Thanh Hóa/12/11/2014

Chú thích:


[1]-Cách lựa chọn tài liệu tham khảo của PGS.TS Nguyễn Công Lý có khá nhiều vấn đề, bởi nó không chỉ thiếu mà còn lạc hậu. Ngoài cuốn từ điển cổ của cụ Đào Duy Anh, nhiều từ, ngữ Hán Việt không còn phù hợp với nghĩa tiếng Việt hiện đại  như chúng tôi đã nói, cách lựa chọn hai cuốn Từ điển tiếng Việt còn lại cũng có điều cần nói. Ví dụ: Sách"Giải thích từ ngữ Hán Việt..." xuất bản năm 2011, thế nhưng, thầy Lý lại chọn "Từ điển tiếng Việt" (Hoàng Phê chủ biên) bản xuất bản 1994 (trước đó tới 20 năm) và "Đại từ điển tiếng Việt" (Nguyễn Như Ý chủ biên) xuất bản 1999 (trước đó 15 năm). Hình như thầy Lý không biết rằng, "Từ điển tiếng Việt" được Trung tâm từ điển học-Vietlex (do Hoàng Phê sáng lập) đã tái bản, sửa chữa bổ sung rất nhiều từ ngữ. Bởi vậy, ngay cả với một cuốn từ điển cùng tác giả, việc tìm hiểu quá trình biên soạn, tái bản để cập nhật thông tin cũng là điều rất cần thiết đối với người sử dụng. Với một công việc quan trọng như của thầy Lý, điều này càng không thể xem nhẹ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét