Thứ Hai, 26 tháng 9, 2022

20220927. BÀN VỀ THAY ĐỔI TƯ DUY VÀ HỆ QUY CHIẾU

 ĐIỂM BÁO MẠNG

THAY ĐỔI TƯ DUY VÀ HỆ QUY CHIẾU ĐỂ PHÁT TRIỂN

NGUYỄN QUANG DY/BVN/TD 25-9-2022


Gần đây cụm từ “diễn biến khó lường” được nhắc tới nhiều trong các lĩnh vực quan hệ quốc tế cũng như chính trị quốc gia. Không chỉ người dân mà giới nghiên cứu cũng dễ nhầm lẫn và phân hóa, làm cho việc dự báo càng khó hơn. Trong khi thông tin quá nhiều và quá nhanh thì năng lực lý giải và hóa giải các thách thức mới còn quá yếu và quá chậm.

*

Có ba nguyên nhân chính. Một là trong “thế giới phẳng” còn gồ ghề, sự bất cập ngày càng lớn (bigger gaps) và các biến số lấn át hằng số. Trong khi công nghệ mới và bối cảnh mới làm chu kỳ, tần suất, tính chất các sự kiện biến đổi chóng mặt (như đoàn tàu siêu tốc) thì việc thay đổi tư duy và hệ quy chiếu của người Việt quá chậm (như chiếc xe bò).

Hai là internet và mạng xã hội (như facebook, youtube, twitter, tiktok) là những biến số đang làm đảo lộn trật tự truyền thông. Theo Yuval Harari, khi thế giới bước vào giai đoạn “hậu sự thật” (post truth), thì hiện tượng “tin vịt” (fake news) và “nửa sự thật” (half truth) ngày càng nhiều trên thế giới mạng, làm người ta càng dễ ngộ nhận và nhầm lẫn.

Ba là tại các nước chuyển đổi (transitional) như Việt Nam, trong khi cổ vũ cho “chuyển đổi số” và “kinh tế trí thức”, nhiều người vẫn bám vào chủ nghĩa đặc thù (exceptionmalism) và tiệm tiến (gradualism) để trì hoãn quá trình đổi mới. Trong khi đó, thay đổi tư duy và hệ quy chiếu là điều kiện tiên quyết để tháo gỡ các nút thắt cổ chai (bottlenecks).

Câu chuyện thứ nhất: Việt Nam đổi mới thế nào

Việt Nam đã đổi mới “vòng một” thành công từ năm 1986, chuyển đổi nền kinh tế “tập trung” (centralized) và “bao cấp” (subsidized) thành kinh tế thị trường, nhưng còn bất cập vì vẫn giữ cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nay động lực đổi mới đã hết đà, cần phải đổi mới “vòng hai”, không chỉ về kinh tế mà còn về thể chế chính trị.

Báo cáo “Việt Nam 2035” do Bộ KHĐT và World Bank soạn thảo (2016) là kế hoạch đổi mới toàn diện gồm bốn trụ cột, trong đó có thể chế chính trị. Nhưng đến nay kế hoạch đó vẫn chưa triển khai, các rào cản (constrainsts) và nút thắt (bottlenecks) chưa được tháo gỡ. Đổi mới kinh tế tuy khó, nhưng không khó bằng đổi mới hệ thống chính trị.

Tại sao đổi mới “vòng một” thành công? Lý do chính là rất quyết liệt do tình thế cấp bách như đứng trước vực thẳm, không có lựa chọn nào khác. Khẩu hiệu lúc đó là “đổi mới hay là chết” và “hãy tự cứu mình trước khi trời cứu”. Năm 1986, Việt Nam phải chống Trung Quốc, nhưng không thể dựa được vào Liên Xô-Đông Âu, đang bị suy sụp.

Câu chuyện thứ hai: Thay đổi cách quản trị

Trong nhiều thập niên của thế kỷ 20, lý thuyết “quản trị sự thay đổi” (change management) của John Kotter đã được giảng dạy trong hầu hết các trường quản trị kinh doanh ở Mỹ và nhiều nước khác. Nay nó vẫn còn hữu ích, nhưng không đủ. Thế kỷ 21 biến động khó lường, đòi hỏi phải đổi mới tư duy và hệ quy chiếu để đối phó với thách thức mới.

Trong cuốn sách “Tương lai của Quản trị” (The Future of Management, 2007) Gary Hamel (Harvard Business School) lập luận rằng cách quản trị cũ đã chết (management is dead), cần phải “thay đổi quản trị” (management change). Khác với John Kotter đề xuất “quản trị sự thay đổi”, Gary Hamel đề xuất “thay đổi quản trị” (triệt để hơn).

Gần đây, tranh cử tổng thống Mỹ (2020) và bạo loạn 6/1 tại Capitol đã làm bộc lộ những lỗ hổng và phân hóa khó lường trong xã hội Mỹ. Đại dịch Corona và cuộc chiến tranh Ukraine làm bộc lộ những bất cập và góc khuất về tư duy và hệ quy chiếu. Vì vậy, các nước muốn đối phó với các thách thức mới, phải thay đổi tư duy và hệ quy chiếu.

Câu chuyện thứ ba: Nhiệm vụ bất khả thi

Trong một lần trao đổi với các chuyên gia tư vấn về đổi mới quản trị doanh nghiệp để vượt qua khủng hoảng (2008), tôi đã đề xuất phải “thay đổi tư duy và hệ quy chiếu” (mindset change and paradigm shift) như điều kiện tiên quyết. Một chuyên gia nước ngoài nói điều đó đúng nhưng “bất khả thi” (mission impossible) vì “đó là việc của chúa trời!”

Tôi suy nghĩ mãi về điều đó: Họ chỉ đúng một phần: Việc thay đổi tư duy và hệ quy chiếu đúng là khó như lên trời thuyết phục Ngọc Hoàng. Các chuyên gia nước ngoài như lính đánh thuê chuyên nghiệp, có thể giúp mình nhưng không làm thay mình được. Đổi mới thể chế không phải chuyện sống còn của họ, nhưng là chuyện sống còn của mình.

Lần trước, khủng hoảng tài chính tuy có tác động đến Việt Nam, nhưng còn hạn chế vì kinh tế Việt Nam lúc đó chưa thực sự hội nhập và chưa phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu như bây giờ. Lần này, khủng hoảng hay suy thoái kinh tế sau đại dịch, với sự đứt gãy chuỗi cung ứng, sẽ tác động đến kinh tế Việt Nam nhiều hơn, với hệ lụy khó lường.

Câu chuyện thứ tư: Quản trị sự bất cập

Gần đây, có chuyên gia tư vấn đã đề xuất một khóa học mới về “quản trị sự bất cập” (gaps management). Khác với môn “quản trị khủng hoảng” (crisis management) và “quản trị sự hỗn loạn” (chaos management), “quản trị sự bất cập” nhằm tìm sự “đồng thuận về tầm nhìn” (shared vision), dựa trên thay đổi tư duy (mindset change) và chuyển đổi mô hình (paradigm shift). Điều đó không chỉ cần cho doanh nghiệp mà còn cần cho các quốc gia.

Triết gia Eric Hoffer (1902-1983) từng nói, “những người có học thường được trang bị kiến thức để sống trong một thế giới không còn tồn tại”. Trong diễn văn khai giảng Harvard (2009), bà Chủ tịch Drew Gilpin Faust đã nhấn mạnh rằng “phải làm đảo lộn các định kiến, làm cho giới trẻ lạc hướng và giúp họ tìm cách định hướng lại mình” (to unsettle presumptions, to disorient young people and to help them find ways to reorient themselves).

Peter Drucker đã cảnh báo (2009), nếu không đổi mới, “ba mươi năm nữa các trường đại học lớn sẽ trở thành phế tích... Chúng ta đã bắt đầu triển khai các bài giảng và lớp học bên ngoài khuôn viên đại học qua vệ tinh hay video hai chiều với chi phí thấp”. (Thirty years from now the big university campuses will be relics... We are beginning to deliver more lectures and classes off campus via satellite or two-way video at a fraction of the cost).

Câu chuyện thứ năm: Người Việt mới

Trong một bài viết gần đây (Người Việt Mới, Lê Kiên Thành, 13/1/2022) tác giả đề cập đến một vấn đề nhức nhối hiện nay. Việt Nam tuy đã thống nhất (1976) nhưng vẫn bị phân hóa thành Bắc-Nam, hay “bên thắng cuộc” và “bên thua cuộc”. Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói, “kết cục năm 1975 làm hàng triệu người vui và hàng triệu người buồn”.

Tuy Mỹ và Việt Nam đã trở thành “đối tác toàn diện” (thực chất là chiến lược), nhưng người Việt vẫn chưa chịu hòa giải với nhau. Nay trong cùng “bên thắng cuộc”, người Việt lại phân hóa thành “người Việt mới” và “người Việt cũ”. Một đất nước tuy đã thoát khỏi chiến tranh và nội chiến, nhưng muốn phát triển, phải hòa giải và hòa hợp dân tộc.

Nay xã hội Việt Nam phân hóa thành thiểu số đặc quyền đặc lợi (người Việt Mới), gồm các nhóm lợi ích thân hữu nhiều tài sản (the haves), và đa số nghèo vì bị bần cùng hóa (người Việt cũ) không có tài sản (the haves not) bị gạt ra ngoải lề. Nói cách khác, “người Việt mới” đang khống chế đoàn tàu quốc gia và bẻ ghi chạy theo hướng khác.

Câu chuyện thứ sáu: Chuyến tàu cuối cùng

Gần đây, tôi có dự một seminar mà khách mời là Giáo sư Trần Văn Thọ (Waseda University). Ông Thọ giới thiệu một cuốn sách mới về sự phát triển thần kỳ của Nhật. Các chuyên gia kinh tế và quan chức Việt Nam đều biết bài học của Nhật và hiểu rằng Việt Nam có thể học hỏi để phát triển theo mô hình đó, nhưng Việt Nam “không chịu phát triển”.

Năm 2022 là năm bước ngoặt đối với Việt Nam cũng như thế giới. Nếu không kịp thời đổi mới tư duy và hệ quy chiếu để thoát hiểm và “biến nguy thành cơ”, Việt Nam có thể lỡ nốt chuyến tàu hội nhập của “kỷ nguyên công nghệ số”. Đó có thể là chuyến tàu cuối cùng. Tâm trạng thỏa mãn và an toàn (comfort zone) là một cái bẫy cản trở phát triển.

Trong khi bảo tồn văn hóa truyền thống, Việt Nam cần thay đổi tư duy và hệ quy chiếu theo hướng phi truyền thống (unconventional). Sau đại dịch và khủng hoảng Ukraine, thế giới phẳng còn gồ ghề sẽ biến đổi khó lường, đòi hỏi các nước không chỉ ứng dụng công nghệ mới mà còn phải liên kết với nhau để đối phó với các thách thức bất thường.

Câu chuyện thứ bảy: Phần nổi của tảng băng chìm

Phát biểu tại Đại hội Đảng XII (22/1/2016), cựu Bộ trưởng MPI Bùi Quang Vinh nói: “Một hệ thống chính trị phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hoá trước đây, nay không còn phù hợp với nền kinh tế thị trường, thậm chí còn là rào cản, trở ngại cho phát triển. Vì vậy, việc đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với nền kinh tế là một yêu cầu hết sức cấp bách”.

Việt Nam tuy đổi mới “vòng một” thành công, nhưng vẫn “kiên trì định hướng XHCN”, nên chưa thể đổi mới “vòng hai”, để cải tổ hệ thống chính trị. Việt Nam tuy có cơ hội để phát triển, nhưng vẫn có nguy cơ tụt hậu so với các nước khu vực. Bình luận về “định hướng XHCN”, ông Bùi Quang Vinh có lần đã nói thẳng: “CNXH có đâu mà đi tìm!”.

Theo số liệu chính thức (2016 đến nay) cả nước có 87.000 cán bộ, đảng viên bị kỷ luật (cách chức, khai trừ Đảng, khởi tố), trong đó có 2 ủy viên Bộ Chính trị, 21 ủy viên/cựu ủy viên TƯ Đảng, và 23 tướng lĩnh. Đó là con số báo động. Nhưng các đại án như Việt Á, Cục Lãnh sự, Tân Hoàng Minh, FLC và AIC, chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm”.

*

Trong bối cảnh hiện nay, Hội nghị TƯ 6 (10/2022) là một dịp tốt để Việt Nam sắp xếp lại nhân sự lãnh đạo, cũng như tháo gỡ những nút thắt cho phát triển, trong đó đổi mới tư duy và hệ quy chiếu là điều kiện tiên quyết. Từ nay đến trước Đại hội XIV (dự kiến vào tháng 1/2026) là “giai đoạn bản lề” để Việt Nam đổi mới “vòng hai” trước khi quá muộn.

22/9/2022

N.Q.D.

Tác giả gửi BVN

ĐỒNG PHỤC TƯ DUY

NGUYỄN THỊ THANH LƯU/ TVN 23-9-2022

Một giáo sư nước ngoài giảng dạy tại một đại học tiêu chuẩn quốc tế ở Việt Nam phàn nàn với tôi rằng, anh rất thất vọng với bài thi cuối kì của sinh viên.

Theo lời anh, không ít bài thi đã sao chép vô tội vạ sách vở và các nguồn tư liệu mở trên Internet mà không hề có bất kì ghi chú dẫn nguồn nào cả. Có những bài hầu như chỉ là cắt ghép lộn xộn những đoạn văn dài từ nhiều nguồn khác nhau, mà nếu có sử dụng ngoặc kép đúng luật thì cả bài sẽ chi chít ngoặc kép.

Học thuộc lòng thì không gọi là sao chép!

“Nếu cứ thẳng thắn mà chấm điểm thì tất cả những bài thi đó đều đáng đánh trượt”, anh nói. Nhưng đó là năm đầu tiên anh dạy sinh viên Việt Nam nên để cẩn thận, anh dành thời gian nói chuyện với từng sinh viên trước khi hạ bút cho điểm.

Điều khiến anh ngạc nhiên là tất cả sinh viên không nhìn ra lỗi sai của họ. Một sinh viên thậm chí còn lí luận rằng bạn ấy không sao chép, bạn ấy đã dành thời gian chăm chỉ học thuộc lòng tất cả những câu chữ kia để đưa vào bài thi và như thế thì không gọi là sao chép!


Văn mẫu bán chạy như tôm tươi không chỉ vì học trò lười tư duy mua sách để học thuộc... Ảnh minh họa

“Có điều gì đó bất bình thường với tư duy của những sinh viên này”, vị giáo sư nhận xét. “Tư duy văn mẫu”, tôi trả lời. Hôm đó, tuy không có ý định bào chữa cho các bạn sinh viên cùng bài thi mắc lỗi nặng của họ, tôi đã giải thích về lối học sáo mòn từ hàng chục năm nay ở các cấp phổ thông của học sinh Việt Nam. Đó là học theo văn mẫu, chép từng câu từng chữ của thầy và học thuộc lòng để đi thi. Xét cho cùng, lỗi không phải ở họ, lỗi là ở cách dạy và học sai lầm được dung dưỡng quá lâu trong nền giáo dục Việt Nam.

Ai đã từng trải môi trường học đường Việt Nam hẳn chẳng xa lạ gì với văn mẫu và nhan nhản sách tham khảo văn mẫu các cấp với đủ thể loại đề bài khác nhau. Rất nhiều học sinh bị phụ thuộc vào văn mẫu và càng phụ thuộc vào đó, họ càng chán ghét môn văn bởi áp lực học thuộc những bài văn dài như sớ.

Văn mẫu bán chạy như tôm tươi không chỉ vì học trò lười tư duy mua sách để học thuộc mà còn vì chính các thầy cô giáo cũng dễ dãi bằng lòng với câu chữ xuôi tai, cách hành văn sạch sẽ mà thực chất là chữ nghĩa được sản xuất hàng loạt trong các cuốn văn mẫu.

Văn mẫu đã đồng phục hoá tư duy của học sinh từ lúc nào không hay bằng sự hời hợt chấp nhận, thậm chí đồng loã tiếp tay của những người đứng trên bục giảng chỉ quen dạy theo lối mòn để giúp học sinh đi thi ăn điểm nhờ viết đúng barem. Rồi cũng chính lối học và dạy bằng văn mẫu này phát sinh nhiều hệ luỵ nực cười khác trong học đường như học tủ, đoán đề thi. Cứ thế, việc học văn nói riêng và học các môn xã hội nói chung trở thành cái vòng luẩn quẩn đầy rẫy bất cập.

Tê liệt năng lực sáng tạo

Thật đáng buồn là thực trạng “tư duy văn mẫu” lại không còn là điều “bất bình thường” như cách một người ngoài cuộc nhìn ra. Trái lại, nó tràn lan và phổ biến đến độ đã nghiễm nhiên trở thành chuyện thường tình.

Sự bình thường hoá cách học lỗi lầm này gây ra những điểm mù trong nhận thức của học sinh, khiến họ mất khả năng phân biệt đâu là kiến thức phổ thông, đâu là sáng tạo cần có khi viết bài. Văn mẫu cũng gây tê liệt rồi dần dà giết chết năng lực sáng tạo của học sinh - điều lẽ ra cần được khuyến khích và chăm bẵm để phát triển trong quá trình học tập.

Tệ hại hơn nữa là lối học bằng văn mẫu bóp méo hoàn toàn khái niệm học hành, khiến nhiều học sinh chăm chỉ tự biến mình thành con vẹt thay vì hướng sự chăm chỉ đó vào việc thực hành những kĩ năng đúng. Và họ nhầm tưởng đọc vẹt tức là học. Tai hại thay!

Tất nhiên là vị giáo sư người nước ngoài kia sửng sốt khi nghe tôi nói tỉnh bơ về sự hiện diện của các cuốn văn mẫu trong môi trường học đường Việt Nam. Tôi không chắc lần đó, nhờ “bào chữa” của tôi, các sinh viên của anh có được nương tay chút nào không, nhưng tôi hoàn toàn cảm thông với nỗi kinh ngạc của anh - người đến Việt Nam để giảng dạy sinh viên đại học lại bỗng phải gánh thêm một công việc hết sức nặng nề. Đó là chữa lỗi tư duy văn mẫu - hậu quả của cách học trong những năm phổ thông.

Mới đây, được biết Bộ Giáo dục đã lên tiếng yêu cầu ngăn chặn tình trạng học thuộc và chép văn mẫu. Tôi sẽ chia sẻ tin vui này đến người bạn để anh có thêm kiên nhẫn đứng trên bục giảng ở Việt Nam.

TS Nguyễn Thị Thanh Lưu


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét