Thứ Tư, 24 tháng 11, 2021

20211125. BÀN VỀ KHẨU HIỆU 'TIÊN HỌC LỄ, HẬU HỌC VĂN'

 ĐIỂM BÁO MẠNG  

GIÁO SƯ TRẦN NGỌC THÊM ĐỀ XUẤT BỎ KHẨU HIỆU

 'TIÊN HỌC LỄ, HẬU HỌC VĂN'

PHẠM MAI/ Vietnamplus 22-11-2021


Giáo sư Trần Ngọc Thêm. (Ảnh: TTXVN)

Tính thụ động trong giáo dục Việt Nam thể hiện đậm đặc qua khái niệm “trồng người,” tính phục tùng “tiên học lễ, hậu học văn” kiềm chế con người sáng tạo. Vì thế không nên tiếp tục sử dụng rộng rãi các quan điểm này.

Đây là đề nghị của giáo sư Trần Ngọc Thêm, giáo sư đầu ngành của cả nước về văn hóa học, đặc biệt chuyên sâu về văn hóa Việt Nam, tại Hội thảo giáo dục 2021 với chủ đề “Văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo.” Hội thảo do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội tổ chức ngày 21/11.

“Bắt bệnh” giáo dục Việt Nam

Theo giáo sư Trần Ngọc Thêm, xã hội truyền thống của Việt Nam là "xã hội âm tính," ưa ổn định nên mục tiêu đào tạo là xây dựng mẫu người thừa hành với căn bệnh thụ động, khép kín, với thói cào bằng, đố kỵ và thói dựa dẫm ỷ lại.

Cụ thể, trong điều tra về triết lý giáo dục của ông cùng nhóm nghiên cứu trong năm 2020, bệnh thụ động chiếm ở vị trí thứ 4, thói cào bằng đố kỵ ở vị trí thứ 6, thói dựa dẫm ỷ lại đứng vị trí số 8 trong các tật xấu của người Việt.

Phẩm chất thường đánh giá cao trong văn hóa Việt Nam không phải là tính tiên phong hay sự tự tin mà là sự khiêm tốn và khiêm tốn theo cách hiểu không phải là đánh giá đúng mình mà là nhún nhường, hạ thấp mình.

Trong giáo dục, tính thụ động thể hiện ở mọi nơi: Con cái thụ động trong quan hệ với cha mẹ, người học trong quan hệ với người dạy và người dạy thụ động trong quan hệ với nhà trường, nhà trường thụ động trong quan hệ với bộ máy cấp trên.

“Tính thụ động của người Việt hội tụ đậm đặc trong giáo dục qua khái niệm ‘trồng người.’ Cách nói này cứ đến 20/11 lại được vang lên rất nhiều lần. Chúng tôi đề xuất không nghĩ và nói ‘trồng người,’ giáo sư Trần Ngọc Thêm nói.

Ông cho rằng trong suốt cuộc đời mình, Bác Hồ chỉ nói từ “trồng người” duy nhất một lần trong một cuộc nói chuyện với giáo viên: “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người,” và đây là ý Bác mượn của Quản Trọng, một Tể tướng nước Tề thời Xuân Thu.

“Do chúng ta gắn bó với nghề trồng lúa nước nên chúng ta thích hình ảnh này chứ đây không phải là hình ảnh thường trực trong tư duy của Bác Hồ,” giáo sư Trần Ngọc Thêm phân tích.


Giáo sư Trần Ngọc Thêm cho rằng giáo dục phải hướng đến đào tạo con người chủ động, sáng tạo, trung thực. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Theo ông, sáng tạo thuộc về tài năng trong khi xã hội Việt Nam truyền thống hướng đến ổn định nên không hướng đến tài năng mà đề cao chữ lễ, “tiên học lễ hậu học văn,” đề cao sự phục tùng. “Bác không nhắc đến chữ ‘lễ’ trong cuộc đời của mình, Bác càng không nhắc đến ‘tiên học lễ hậu học văn’ một lần nào. Bác thường đặt tài trước đức: ‘tìm người tài đức.’ Lênin thì nói thẳng rằng: Đối với chúng ta, một chuyên gia thạo công việc của mình thì 10 lần quý hơn người đảng viên cộng sản huyênh hoang,” giáo sư Thêm viện dẫn.

["Cần làm giàu thêm cho học sinh lòng xót thương, đồng cảm và chia sẻ"]

Cũng theo giáo sư Trần Ngọc Thêm, để có con người sáng tạo thì cần đề cao tính dân chủ trong giáo dục, coi trọng bản lĩnh. Tuy nhiên, ‘bệnh’ thiếu bản lĩnh đứng vị trí số 3 trong cuộc điều tra của nhóm nghiên cứu. Cách quản lý giáo dục hiện nay vô tình khuyến khích cho việc học thuộc lòng như sách giáo khoa ngắn gọn, học theo văn mẫu, chấm thi theo đáp án khiến học sinh, sinh viên không được nói khác với những gì mình đã học.

Nghiên cứu cũng chỉ ra “bệnh” thành tích, “bệnh” phong trào, “bệnh” đối phó là những “bệnh nặng” của giáo dục. Ba căn “bệnh” này dẫn đến “bệnh” giả dối. Cụ thể, trong cuộc điều tra về triết lý giáo dục năm 2020, có 77,4% người được hỏi thừa nhận bệnh giả dối đứng vị trí số 1 trong số 15 tật xấu, 73,8% thừa nhận gian lận trong giáo dục đứng vị trí số 3 trong 13 nhược điểm của giáo dục Việt Nam.

Phải thay đổi triết lý giáo dục

Giáo sư Trần Ngọc Thêm cho rằng để đổi mới giáo dục thì chìa khóa là triết lý giáo dục, trọng tâm trong triết lý giáo dục là sứ mệnh và mục tiêu. Sứ mệnh của xã hội Việt Nam hiện nay là xây dựng một xã hội phát triển và mục tiêu cuối cùng là cần có con người sáng tạo. Vì vậy, triết lý giáo dục là phải thay đổi từ hướng đến xã hội ổn định sang hướng đến xã hội phát triển.

Sứ mệnh này được cụ thể hóa bằng 6 mục tiêu mà ông cùng nhóm nghiên cứu đã đề xuất trong đề tài nghiên cứu cấp nhà nước về triết lý giáo dục vừa được nghiệm thu, đó là học để làm việc, học để sáng tạo, học trung thực, học làm người, học chung sống và học để tổ chức; trong đó học để sáng tạo là mục tiêu cao nhất. Để có con người sáng tạo thì trước hết phải có con người chủ động và con người trung thực. Để có con người chủ động thì cần loại trừ tính thụ động ở người dưới và tính áp đặt ở người trên.

Ông kiến nghị cần thay đổi quan niệm và không sử dụng những biểu đạt mang tính thụ động như con ngoan trò giỏi trong cách hiểu là dễ bảo, vâng lời; phải giải thích cho xã hội hiểu “trồng người” không nằm trong triết lý giáo dục của Hồ Chí Minh; không sử dụng hình ảnh “cánh tay phải” khi nói về thanh niên.

“Trong quan điểm của Hồ Chủ tịch, thanh niên là người chủ tương lai của đất nước. Người chủ không phải là cánh tay mà là khối óc. Để có con người chủ động thì điều quan trọng là thanh niên phải tự tin, phải rèn luyện tư duy phản biện, phải có bản lĩnh để nghĩ khác, nói khác với số đông. Điều này là rất quan trọng vì hiện nay chúng ta vẫn thường đi theo số đông, tâm lý số đông chi phối. Phải rèn luyện phong cách làm việc có kế hoạch và khoa học. Tôi cũng đề nghị Trung ương Đoàn nên thay huy hiệu đoàn. Hiện nay, ngoài Việt Nam, trên thế giới chỉ có Canada là sử dụng cánh tay trong huy hiệu đoàn,” giáo sư Trần Ngọc Thêm nói.

Ông cũng đề xuất không dùng khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” vì không thể hiện được tính dân chủ trong giáo dục. Giáo dục phải khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo; chống học thuộc lòng; thay đổi quan niệm về sách giáo khoa; không ra đề thi kèm đáp án; giáo dục cá nhân hóa…

Để có con người trung thực, ngành giáo dục phải dạy và học trung thực, xây dựng liêm chính học thuật, chống bệnh thành tích, bệnh phong trào, bệnh đối phó.

“Mắt xích trung tâm trong toàn bộ quá trình này là triết lý giáo dục. Cốt lõi triết lý giáo dục trong nghĩa hẹp là phải tập trung ba phẩm chất: sáng tạo, chủ động và trung thực. Trọng tâm của triết lý này trong giai đoạn trước mắt là chủ trương học thật, thi thật, nhân tài thật như Thủ tướng đã phát động,” giáo sư Trần Ngọc Thêm nói./.

Phạm Mai (Vietnam+)
TÔI ỦNG HỘ ÔNG TRẦN NGỌC THÊM
CHU MỘNG LONG/ TD 23-11-2021

Nguyên Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ có lần đề xuất bỏ khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn”, nhưng nhiều trí thức và dư luận kêu làng. Ông Nhạ không đủ kiến thức và bản lĩnh để bảo vệ quan điểm.

Lỗi cũng bởi một phần ông Nhạ có nhiều phát ngôn tuỳ tiện, như chuyện giáo viên hầu rượu quan “chỉ là vui vẻ tí”, sinh viên không được bán dâm quá bốn lần, học phí thấp thì khó đòi hỏi chất lượng cao… Đến khi ông nói đúng thì bị phản ứng như khi ông nói sai.

Còn ông Trần Ngọc Thêm do ba phải trong vụ án đạo văn của Nguyễn Đức Tồn nên mất uy tín, chứ tôi thì vẫn cho ông là người thông minh, hiểu biết và rất tiến bộ. Nhất là các quan điểm về giáo dục. Tôi từng thích ông khi dám phản biện cái gọi là “con ngoan, trò giỏi”. Ngoan để dễ dạy bảo, dễ sai khiến, biến trẻ em thành công cụ? Tôi từng đặt câu hỏi, rằng mỗi cháu ở mầm non bị cô giáo “đặt đâu ngồi đó” rồi phát cho cái phiếu “bé ngoan Bác Hồ”, vậy Bác Hồ có thuộc loại ngoan như vậy không? Nếu ngoan kiểu đó thì sao Bác lại phải đi làm cách mạng giải phóng dân tộc và đòi hỏi tự do?

Xem giáo dục là “trồng người” như “trồng cây”, đúng là tư duy lợi ích của nông nghiệp. Quản Trọng khi dùng khái niệm này để khuyên vua Tề sử dụng nhân tài như một thứ công cụ phục tùng cho lợi ích bá quyền của nước Tề. Còn “Lễ” thì rõ ràng là tư duy đặc sệt của Nho giáo. Gốc Khổng Tử lấy phép tắc nhà Chu làm khuôn mẫu để quy tất cả các chư hầu về phục tùng vô điều kiện Thiên triều; từ đó thiết lập quan hệ tôn ti, kẻ dưới hầu hạ bề trên như những kẻ nô lệ.

Đó là chưa nói Lễ hiện nay còn biến thái sang điếu đóm, quà cáp – một thứ nhân cách đê tiện: luồn cúi, nịnh bợ, hối lộ.

Ai cũng thấy khẩu hiệu “Tiên học lễ hậu học văn” hoàn toàn mâu thuẫn đến đá lộn với khẩu hiệu: “Lấy học sinh làm trung tâm”, “Tất cả vì tương lai con em chúng ta”, “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”, nhưng vẫn giả câm giả điếc, thậm chí ủng hộ cái thứ Lễ đặc sệt Nho giáo. Vì sao? Vì cái thứ Lễ ấy mang lại lợi ích ích kỷ của người lớn hơn là lợi ích của trẻ em.

Tâm lý người Việt cố hữu đến mức ai cũng muốn có kẻ hầu hạ, điếu đóm cho mình, nên nói đến Lễ là yêu như yêu vàng và khư khư giữ lấy như bảo vật quốc gia.

Đổi mới giáo dục mà không triệt để, nửa dơi nửa chuột, đổi mới một hồi vẫn quay về thời trung cổ thì là nền giáo dục phản động!

Nhiều người ném gạch đá vào đầu Trần Ngọc Thêm dữ dội. Bài này tôi hứng một phần cho ông Thêm. Hoan hô ông Thêm!

Chu Mộng Long'

'TIÊN HỌC LỄ, HẬU HỌC VĂN' : VĂN HÓA DÂN TỘC SAO LẠI ĐỀ XUẤT BỎ ?

THANH HÙNG/ VNN 25-11-2021

Nhiều nhà sư phạm phản ứng trước đề xuất bỏ khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn" của GS Trần Ngọc Thêm. Bởi đây không đơn thuần là một triết lý về giáo dục mà còn là nét văn hóa đẹp của dân tộc.

Đề xuất cần chấm dứt sử dụng khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn" được GS Trần Ngọc Thêm nêu trong tham luận phát biểu tại Hội thảo giáo dục 2021 với chủ đề “Văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo” do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội tổ chức ngày 21/11.

Cụ thể, GS Thêm đề xuất cần chấm dứt sử dụng khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn" để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo,... Chừng nào còn đề cao chữ "Lễ" để ràng buộc người học, còn đề cao quá mức vai trò của người thầy, của đáp án thì tư duy phản biện sẽ không thể phát triển, không thể có xã hội phát triển.

GS Thêm là tác giả của nhiều công trình, cuốn sách nghiên cứu về văn hóa và hệ giá trị Việt Nam. Trong đó, cuốn sách "Cơ sở văn hóa Việt Nam" của ông là giáo trình cơ bản với rất nhiều thế hệ sinh viên theo học các ngành khoa học xã hội.


Ảnh minh họa: Thanh Hùng

Ông Nguyễn Quang Tùng, Hiệu trưởng Trường THCS và THPT M.V. Lômônôxốp (Hà Nội) cho rằng Khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn" đã hoàn thành sứ mệnh trong giai đoạn phát triển của đất nước, của ngành giáo dục. Và giờ, cần cân nhắc kỹ khi sử dụng trong các nhà trường bởi một vài lý do.

“Ngôn từ của khẩu hiệu hay triết lý cần hiện đại, đơn giản và bớt nho giáo hơn để học sinh dễ dàng hiểu được. Để phân tích kỹ khẩu hiệu trên cần có nền tảng kiến thức nho giáo ở mức khá cao mới có thể truyền đạt đến cho học sinh hiểu được. Tôi tin rằng, sẽ có nhiều học sinh hiểu chữ "Văn" trong khẩu hiệu trên là môn "Ngữ văn" hiện nay.

Giáo dục đổi mới, cần những tư duy và cách truyền kiến thức cho học sinh một cách sáng tạo, đa dạng hơn. Không nhất thiết là đầu tiên khi học tập là cứ phải học "Lễ". Khi học sinh có nền tảng văn hoá, tri thức thì chữ "Lễ" đương nhiên sẽ được thực hiện ở "mức độ vận dụng và vận dụng cao.

Thế giới vận động từng ngày, các triết lý giáo dục, các khẩu hiệu cũng phải thay đổi. Với những năng lực, phẩm chất cần đạt của học sinh do Bộ GD-ĐT hướng tới, nếu học sinh được học tập một cách nghiêm túc, sáng tạo bởi những phương pháp hiện đại thì theo tôi cũng không cần phải "Tiên học lễ" nữa”.

Ông Tùng cho hay, thực tế, trường mình cũng đã không treo khẩu hiệu này từ lâu.

“Việc bỏ khẩu hiệu này chỉ là giúp giáo viên không bị gò bó trong tư duy giáo dục cũ và hướng tới phương pháp giảng dạy hiện đại hơn, nhờ đó học sinh được rèn thêm tư duy phản biện và khi không bị gò bó quá trong khuôn phép, học sinh mới sáng tạo được”, ông Tùng nêu quan điểm.

'Tiên học lễ, hậu học văn': Văn hóa của dân tộc, sao lại đề xuất bỏ?
Ảnh minh họa: Thanh Hùng

Dù vậy, không nhiều ý kiến đồng tình với GS Trần Ngọc Thêm.

Một hiệu trưởng từng nhiều năm du học nước ngoài cho rằng: “Thực ra “Tiên học lễ, hậu học văn” không đơn thuần là một triết lý về giáo dục mà là một nét văn hóa của dân tộc. Việc này xuất phát trong từng gia đình Việt Nam, răn dạy từ khi đứa trẻ ở trong gia đình, chứ không phải chỉ ở trường học mới học, mới áp dụng. “Lễ” ở đây không phải chỉ là lễ nghĩa của người có vị thế thấp hơn với người có vị thế cao hơn, mà còn bao hàm cả đạo đức trong đó nữa. Đạo đức thì có giá trị phổ quát, bao gồm cả văn hóa của người Việt Nam trong đó”.

Theo vị hiệu trưởng này, ở nước ngoài, dù người ta không dùng khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” song ở trường cũng đề cao việc dạy dỗ về đạo đức như phải là một người trung thực, có kỷ luật, chấp hành luật pháp,...

“Ý của GS Thêm có thể cũng muốn nói đến việc cần phá vỡ truyền thống để thúc đẩy giáo dục phát triển. Nhưng dù muốn thúc đẩy phát triển ra sao đi chăng nữa, có những cái căn cốt của văn hóa, phổ quát chung của toàn thế giới thì không thể bỏ đi được”. 

Bà Cao Tố Nga, Hiệu trưởng Trường THPT Ngô Quyền (Hải Phòng) cũng đồng tình với quan điểm này: chữ "Lễ" không phải chỉ đối với người thầy, mà là học những lễ nghĩa chung, đề cao giáo dục đạo đức ứng xử trong xã hội,...

“Tôi nghĩ nếu đề xuất chấm dứt thì có phần hơi cực đoan. Bởi chữ Lễ ngày nay cũng không bó buộc theo quan niệm Nho giáo như ngày xưa nữa và cũng không đề cao quá mức vai trò của người thầy. Song sự tôn kính, tôn trọng và việc người thầy có tiếng nói với học trò vẫn rất cần thiết”, bà Nga nói.

Ngoài ra, 2 vị hiệu trưởng cũng nhận định, “Tiên học lễ, hậu học văn” cũng không hề làm mất đi tính phản biện hay sáng tạo của học sinh. 

PGS.TS Trần Thành Nam, Chủ nhiệm khoa Các Khoa học Giáo dục – Trường ĐH Giáo dục (ĐH Quốc gia Hà Nội) cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, người thầy không chỉ là người truyền tải nội dung tri thức, mà quan trọng hơn khi trở thành nhà giáo dục, người truyền cảm hứng, gieo khát vọng cho học trò. 

“Tôi nghĩ “Lễ” là điều cần có nhưng cái phương thức để thể hiện các quy tắc ứng xử đó có thể sẽ khác đi. Nếu chỉ vì nghĩ câu khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” tập trung quá nhiều vào người thầy và giờ muốn tập trung vào học trò thì bỏ khẩu hiệu này đi thì tôi cho là hơi khiên cưỡng. Ở trong môi trường trường học, vẫn phải có những quy tắc, nguyên tắc ứng xử cho phù hợp với văn hóa Việt Nam. Cách thức có thể khác nhưng tôi nghĩ vẫn cần có khuôn khổ, tôn trọng người thầy. Ngoài ra, nhiệm vụ giáo dục không phải chỉ hình thành về mặt học thức mà còn cả nhân cách cho trẻ. Muốn hình thành nhân cách thì trẻ cũng cần phải biết kính trên nhường dưới, ứng xử đúng mực theo văn hóa, truyền thống,...”.

Vì thế, theo ông Nam không cần thiết phải bỏ khẩu hiệu mà giờ đây, điều quan trọng là người thầy cần bỏ tư tưởng là bề trên “cao vời vợi”, "là độc tôn đại diện cho tri thức”.

Thanh Hùng

BỎ 'TIÊN HỌC LỄ' THÌ ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI SẼ RA SAO ?

NGUYỄN VĂN NGHỆ/TD 24-11-2021

Giải phóng miền Nam, “giải phóng” luôn cả “Tiên học lễ” ra khỏi học đường

Trước ngày 30/04/1975 tất cả các phòng học của Trường Tiểu học Công lập, cũng như Tư thục, thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa đều treo câu “Tiên học lễ, hậu học văn”. Lễ và Văn là nền tảng đào tạo nên một con người tốt cho xã hội. Sách Luận ngữ có viết: “Bác ngã dĩ văn, ước ngã dĩ lễ” (dùng văn chương mở rộng kiến thức của ta, dùng lễ để ước thúc hành vi bản thân ta).

Còn ở miền Bắc Việt Nam thì sao? Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã ghi lại: “Thế hệ tôi, sinh trưởng ở miền Bắc, đi học trường phổ thông 10 năm (từ lớp 1 đến lớp 10) vào những năm 1954-1964, thì khẩu hiệu ‘tiên học lễ, hậu học văn’ hầu như không để lại ký ức gì. Là vì ở miền Bắc thời đó, những gì được xem như gắn với ‘tư tưởng phong kiến’ đều bị coi là lạc hậu, cần tránh xa, cần chống lại; mà ‘tiên học lễ, hậu học văn’ thì rõ ràng là tư tưởng của Nho giáo, là thuộc hệ tư tưởng phong kiến rồi! Cho nên dễ hiểu là không hề thấy khẩu hiệu ‘tiên học lễ, hậu học văn’ xuất hiện trong khuôn viên bất cứ ngôi trường nào trên miền Bắc thời gian ấy; cũng hầu như không có giáo viên hay cán bộ nào trong ngành giáo dục thời ấy dám nói đến khẩu hiệu đó trước các đám đông”

Giữa đám người “có miệng ăn mà không có miệng nói” thì vào năm 1973, nhà giáo Nguyễn Lân (1906-2003) viết bài “Có nên vận dụng phương châm ‘tiên học lễ hậu học văn’ trong việc giáo dục thế hệ trẻ của ta ngày nay không?” [Bài đăng tạp chí “Văn hóa nghệ thuật” ở Hà Nội, số 31, tháng 7/1973] mà động cơ viết bài này, theo lời của chính tác giả Nguyễn Lân, là do thực tế “một số trẻ em không ngoan, trong nhà thì bướng bỉnh với cha mẹ, ra đường thì hỗn láo với mọi người, đến trường thì xấc xược với thầy giáo” (Trích bài báo đã dẫn).

Ngay sau khi bài báo xuất hiện, trên báo “Tiền phong” của Trung ương Đoàn (số 2351, ra ngày 16/08/1973) có bài báo dài của tác giả Thanh Bình, nhan đề “Quét sạch những tàn dư tệ hại của Khổng giáo”, với những kết luận chém đinh chặt sắt: “…chúng ta không thể dung hòa được với Khổng giáo và hệ tư tưởng phản động và bảo thủ của nó”… “Chúng ta phải kiên trì đấu tranh để quét sạch nó ra khỏi mọi lãnh vực của đời sống xã hội như quét sạch những đống rác bẩn vậy!”

Tiếp theo bài báo này, báo “Tiền phong” còn định ra cả một loạt bài khác nữa để công kích sự đề xuất kể trên của nhà giáo Nguyễn Lân, nhưng ông Phạm Văn Đồng đã can thiệp dừng lại.

Sau khi cộng sản vào “giải phóng” miền Nam câu khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” cũng được đảng “giải phóng” khỏi các trường học ở miền Nam Việt Nam và học sinh buộc phải học “đạo đức cách mạng” (Không có đạo đức nhân bản, con người ta dễ trở thành những kẻ máu lạnh, chỉ biết dùng thủ đoạn lao vào cắn xé nhau, lừa bịp nhau để tranh đoạt vật chất và quyền lực (…). Đạo đức cách mạng có phần giống đạo đức nhân bản, thí dụ chống tham nhũng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, nhưng cũng có phần mâu thuẫn với nó, thí dụ lòng căm thù và tiêu diệt những người của giai cấp đối kháng, đàn áp người bất đồng chính kiến).

Mãi đến những năm cuối của thập niên 80 và đầu những năm của thập niên 90 của thế kỷ trước mới thấy xuất hiện lại trong tất cả các trường học trên cả hai miền Nam và Bắc của đất nước ta. Biển hiệu “Tiên học lễ hậu học văn” được ngành giáo dục cho sơn phết thật to được treo ở mặt trước của mỗi trường học, nhưng dường như câu khẩu hiệu ấy chỉ là câu sáo rỗng vô hồn, được viết ra bởi quán tính mà thôi!

Bổng dưng vào năm 2014 Trường Trung học cơ sở Tô Hoàng (Hà Nội) đã đi tiên phong bỏ biển hiệu “Tiên học lễ hậu học văn”. Bài viết: “Đại học, học… đại và yêu nước có học” được đăng trên báo VietNamNet ngày 18/5/2014 đã đăng tải sự kiện ấy: “Không chỉ tổ chức chào cờ, xếp nghi thức, Trường Trung học cơ sở Tô Hoàng ở Hà Nội đã có cách biểu thị tinh thần tự tôn dân tộc “dài hơi” khi thể hiện tư tưởng thoát khỏi cái bóng ám ảnh của Khổng giáo trong trường học. Từ năm học này, trường đã thay biển hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” (của Khổng tử), bằng các câu của người Việt (‘Hiền tài là nguyên khí của quốc gia’) và UNESCO (‘Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình’)”

Giữa các quốc gia trên thế giới luôn có sự tiếp thu văn hóa lẫn nhau, không phân biệt Tây hoặc Tàu. Văn hóa hay chúng ta tiếp thu, văn hóa không hợp với thuần phong mỹ tục thì chúng ta chối từ. Để có câu nói “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” cụ Thân Nhân Trung cũng phải trải qua con đường “Tiên học lễ, hậu học văn” mới đúc kết nên câu nói ấy. Một quốc gia mà không có “Lễ” thì kẻ hiền tài sẽ không được trọng dụng và những kẻ trình độ “a, bờ, cờ” sẽ làm lãnh đạo!

Lễ là để cho con người ngày càng có văn hóa hơn

Để trở thành một con người có văn hóa, thì phải có “Lễ”. Sách Quản tử viết: “Lễ, nghĩa, liêm, sỉ thị vi tứ duy” (Lễ, nghĩa, liêm, sỉ là bốn giềng mối chính) và Lễ đứng đầu trong bốn giềng mối ấy. Không có Lễ sẽ trở nên vô thần, phủ nhận thần thánh: “Dân chi sở do sinh, lễ vi đại. Phi lễ vô dĩ tiết sự thiên địa chi thần dã…” (Trong những cái của dân cậy mà sinh hoạt thì lễ là to hơn cả. Không có lễ thì không thể thờ thần của trời đất cho có thứ bậc… Lễ ký: Ai Công vấn XXVII).

Lễ không chỉ gói gọn trong lễ nghi, lễ nghĩa mà còn là tôn ti trật tự… và cả luật pháp nữa. Lễ là cốt để giữ chừng mực cho sự hành vi của người ta: “Đạo đức nhân nghĩa, phi lễ bất thành; giáo huấn chính tục, phi lễ bất bị; phân tranh biện tụng, phi lễ bất quyết; quân thần, thượng hạ, phụ tử, huynh đệ, phi lễ bất định; hoạn học sự sư, phi lễ bất thân; ban triều, trị quân, lỵ quan, hành pháp, phi lễ uy nghiêm bất hành; đảo từ, tế tự, cung cấp quỷ thần, phi lễ bất thành, bất trang thị dĩ quân tử cung kính tổn tiết, thoái nhượng dĩ minh lễ”

(Đạo đức nhân nghĩa, không có lễ không thành; dạy bảo sửa đổi phong tục, không có lễ không đủ; xử việc phân tranh kiện tụng, không có lễ không quyết; vua tôi, trên dưới, cha con, anh em, không có lễ không định; học làm quan, thờ thầy, không có lễ không thân; xếp đặt vị thứ trong triều, cai trị quân lính, đi làm quan, thi hành pháp lệnh, không có lễ, không uy nghiêm; cầu khẩn, tế tự, cung cấp quỷ thần, không có lễ không thành kính, không trang chính. Bởi thế cho nên quân tử dung mạo phải cung, trong bụng phải kính, giữ gìn pháp độ, thoái nhượng để làm sáng rõ lễ – Lễ ký: Khúc lễ thượng).

Lễ khiến cho hành vi của người ta hợp với đạo Trung dung: “Cung nhi vô lễ tắc lao; thận nhi vô lễ tắc tỷ; dũng nhi vô lễ tắc loạn; trực nhi vô lễ tắc giảo” (Cung kính mà không có lễ thì phiền; cẩn thận mà không có lễ thành ra sợ hãi; dũng mà không có lễ thì loạn;trực mà không có lễ thành ra vội vã – Luận ngữ: Thái Bá VIII, 2).

Để cho người ta khỏi làm điều bậy bạ thì phải có Lễ: “Lễ giả, nhânnhân chi tình nhi vi chi tiết văn, dĩ vi dân phường giả dã”. (Lễ là nhân cái thường tình của người ta mà đặt ra tiết độ; văn vẻ, để làm cái ngăn giữ cho dân – Lễ ký: Phường ký, XXX).

“Nhìn tổng quát lại đất nước ta có bao giờ được thế này không?”

Vào tháng 11/2016 tại thôn Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu: “Có lẽ nhìn lại chưa bao giờ quê hương ta đẹp như thế này, chưa bao giờ quê hương ta có đời sống văn hóa, kinh tế phát triển, xã hội ổn định…”, nhưng rồi sau đó ông lại nêu ra: “Mặc dù bây giờ ra đường lắm chuyện khó chịu, nghe báo chí nói rất nhiều chuyện tiêu cực hàng ngày, rất là bực mình. Tệ tham nhũng, cán bộ hư hỏng có cả nhưng nhìn tổng quát lại đất nước ta có bao giờ được thế này không?”

Trên khắp nước Việt Nam hiện nay, từ thành phố đến làng quê, đâu đâu cũng bắt gặp cổng chào ghi: “Tổ dân phố văn hóa”; “Làng (thôn) văn hóa”, đi đến đâu cũng nghe cái từ “văn hóa” nào là “văn hóa ứng xử”; “văn hóa ẩm thực”; “văn hóa phong bì”; “văn hóa từ chức”… Ấy vậy mà ngay trong môi trường giáo dục, tỷ lệ nói dối của học sinh tăng dần theo tuổi.

Tại hội thảo “Thực trạng văn hóa học đường và nhu cầu giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học” tổ chức ngày 24/09/2013, GS-TSKH Trần Ngọc Thêm, Giám đốc Trung tâm Lý luận và Ứng dụng (ĐHQGTPHCM.) đã đưa ra một kết quả điều tra: Tỷ lệ nói dối cha mẹ ở học sinh cấp Tiểu học là 22%; cấp Trung học cơ sở là 50%; sinh viên là 80%.

Trong môi trường giáo dục mà còn như thế, hỏi thử ngoài xã hội sẽ như thế nào? Ngay tại thủ đô Hà Nội “nạn mất dạy” đang trong tình trạng báo động, “một bộ phận các bạn trẻ là học sinh trung học, các ca sĩ, người dẫn chương trình…có những lời nói thô tục, những ứng xử không có văn hóa nơi công cộng làm ảnh hưởng đến nếp sống văn minh của thành phố”.

UBND Thành phố Hà Nội có công văn số 3802/VP-VX do Phó Chủ tịch Thành phố Hà Nội Lê Hồng Sơn chỉ đạo gửi đến Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp cùng Sở Giáo dục và Đào tạo, UBND quận, huyện, thị xã kiểm tra, xem xét có biện pháp xử lí‎ cụ thể, nhằm hạn chế cao nhất những hành vi thiếu văn hóa trong nhà trường và ngoài xã hội. Trước đó nhiều tờ báo và trang tin đã có phản ánh về nạn “mất dạy” tràn lan ở Thành phố Hà Nội, trái tim, Thủ đô của cả nước khiến dư luận bất xúc.

Hàng loạt tiêu cực xảy ra trong xã hội khiến bà Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan phải lên tiếng: “Sáng nay tôi xem truyền hình biết tin một số cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại một số xã ở Hà Tĩnh biển thủ tiền của người nghèo, đau lòng quá. Tôi nghĩ bảo hiểm y tế có những mảng tối cần phải chỉ ra. Ví như chuyện những người có thẻ bảo hiểm y tế không được đối xử công bằng như những người có tiền. Địa phương muốn giữ người có bảo hiểm không muốn chuyển lên tuyến trên dẫn đến bệnh thêm trầm trọng. Rồi chuyện chi trả chậm, bớt xén. Vậy khắc phục tình trạng này thế nào?”

Bà Phó Chủ tịch nước còn tiết lộ: “Đến tiền của các cháu dân tộc thiểu số mà hiệu trưởng cùng với một số cán bộ còn biển thủ đến gần 3 tỷ, vừa rồi mới khởi tố. Cái liều vacxin tiêm cho một cháu lại san ra tiêm cho hai cháu ngay tại Hà Nội… Tôi càng đi càng thấy buồn, “ăn” của dân không từ một cái gì”.

Vụ học sinh Trần Chí Kiên lớp 2A4 trường Tiểu học Nam Trung Yên (Cầu Giấy- Hà Nội) bị xe ô tô chở bà Tạ Thị Bích Ngọc – Hiệu trưởng của trường – đâm gãy chân đã biến thành chuyện học sinh này tự ngã và bị gãy chân, bởi lẽ 100% con người ở ngôi trường này đều xác nhận vào thời điểm em Kiên gãy chân không có xe ô tô vào trường. “Những thầy cô quay lưng lại với lại với sự thật, quay lung lại với tai nạn thương tâm của chính học trò mình, những thầy cô có nhiệm vụ trồng người mà “làm chứng dối” như vậy sẽ cảm giác như thế nào khi đứng trên bục giảng nói về sự thật thà về đạo đức công dân?”.

Trước đó tại trường Tiểu học Nguyễn Khả Trạc (Cầu Giấy – Hà Nội), bà Tạ Thị Bích Ngọc đã phạm một lỗi rất xấu về đạo đức là đã “lập quỹ đen từ tiền cắt bớt khẩu phần ăn của 400 học sinh”. Vụ việc đã có kết luận từ Thanh tra cũng như Ủy ban Nhân dân quận Cầu Giấy, nhưng thay vì bị kỷ luật lại được chuyển sang một trường khác làm hiệu trưởng thì rõ ràng cái tư cách, cái tác phong đó của cô Tạ Thị Bích Ngọc không chỉ là riêng của cô. Phải có nhiều người ‘đồng cảm’ với cô, chống lưng cho cô thì cô mới có cái quyền tiếp tục ngồi cao gây ra cái sự kiện náo loạn nhân tâm tại trường tiểu học Nam Trung Yên! Cô mới có đủ thế lực tiếp tục tại vị cho tới ngày 21.2.2017, mấy tuần lễ sau sự kiện đó! Ngoài ra, cái tác phong đó của cô, trong đời thường không ai trong số các lãnh đạo của cô nhận ra sao? Tại sao cô vẫn được thăng tiến trong ngành? Phải chăng chính sách nhân sự của ngành, chính sách đề bạt của ngành không xem đạo đức đương sự là tiêu chuẩn quan trọng?”

Hoặc như vụ bà Phạm Thị Minh Hiếu – Phó Giám đốc sở Tư Pháp tỉnh Bình Thuận- bẻ cành hoa anh đào để chụp hình bất chấp sự can ngăn của người dân tại khu vực hồ Tuyền Lâm – Đà Lạt. Bà đã cật vấn người can ngăn: “Em là ai mà có quyền nói chị vậy? Em là chủ ở đây à? Em cho chị xem giấy tờ…”

Ngoài ra còn “lắm chuyện khó chịu”; “nhiều chuyện tiêu cực hàng ngày” được bao che và chỉ một phần rất nhỏ các vụ việc trên được phanh phui trên các phương tiện thông tin “lề phải”. Và “có lẽ nhìn lại chưa bao giờ quê hương ta đẹp như thế này!”.

Bà Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan trong góp ý dự thảo văn kiện tại Quốc hội sáng ngày 23/10/2015 đã nói: “Tại sao có tình trạng trên nói dưới không nghe, nói một đằng, làm một nẻo, đảng viên không thực hiện nhiệm vụ của mình hoặc thực hiện nhiệm vụ với tính chất rất hình thức, sử dụng không hết giờ làm việc, công suất làm việc cống hiến rất hạn chế”.

Bà Nguyễn Thị Doan nêu câu hỏi “Tại sao?” .Tất cả cũng bởi “vô lễ”mà ra! Xã hội mà “vô lễ” thì “trên không ra trên, dưới không ra dưới”.

Người xưa nói: “Bất học lễ vô dĩ lập”. (Không học lễ thì không nên người được). Hoặc: “Bất tri lễ vô dĩ lập”. (Không biết lễ thì không nên người được). Người có văn hóa “thật sự” sống theo phương châm: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động”. (Không phải lễ thì chớ trông, không phải lễ thì chớ nghe, không phải lễ thì chớ nói, không phải lễ thì chớ làm- Luận ngữ: Nhan Uyên, XII).

Sao bây giờ không ai sợ pháp luật, sợ bị trừng trị nữa?”

Cũng tại phiên họp cho ý kiến về báo cáo giám sát việc thực hiện chính sách bảo hiểm y tế giai đoạn 2009-2012 ngày 11/09/2013, bà Nguyễn Thị Doan phát biểu: “Sao giờ không ai sợ pháp luật, sợ trừng trị nữa? Mỗi ngày người ta ‘ăn’ từng tí của dân, từ liều vacxin con con đến tiền chữa bảo hiểm…”.

Pháp luật chỉ để trị cái đã rồi, còn lễ thì ngăn cấm được việc chưa xảy ra: “Phàm nhân chi tri, năng kiến dĩ nhiên, bất kiến tương nhiên. Lễ giả cấm ư tương nhiên chi tiền, nhi pháp giả cấm ư dĩ nhiên chi hậu… Lễ vân, lễ vân, quí tuyệt ác ư vị mạnh, nhi khởi kính ư di diểu, sử dân nhật tỉ thiện viễn tội nhi bất tự tri dã”.

(Phàm cái biết của người ta chỉ biết được cái đã có rồi, không biết được cái sắp có. Lễ là để cấm trước cái sắp có, pháp luật là để cấm sau cái đã có rồi…Lễ vậy, lễ vậy, lễ quí là dứt được điều ác từ lúc chưa nảy mầm ra, dấy lòng kính ở chỗ người ta không trông thấy, để cho dân ngày ngày đến gần điều thiện, xa điều tội, mà tự mình không biết – Đại Đái Lễ ký: Lễ tế).

Thánh nhân chỉ trọng lễ chứ không trọng hình luật bởi vì tác dụng của lễ thật là quảng đại, thật là tinh vi. Hồ Thích đã nói trong sách Trung Quốc triết học sử rằng: “Trong cái nghĩa rộng chữ lễ có hàm cái tính chất pháp luật, nhưng lễ thì thiên trọng về cái quy củ tích cực, mà pháp luật thì thiên trọng về cái cấm chế tiêu cực. Lễ thì dạy người ta nên làm điều gì và không nên làm điều gì; pháp luật thì cấm không cho làm những việc gì, hễ làm thì phải tội. Người làm điều trái lễ thì chỉ bị người quân tử chỉ nghị chê cười, chứ người làm trái pháp luật thì có hình pháp xét xử”. [Trần Trọng Kim, Nho giáo – Quyển thượng, in lần thứ 4, trang 155, Nxb Tân Việt – Sài Gòn]

Bỏ “tiên học lễ” là một sai lầm lớn

Cô giáo Nguyễn Thị Thuận – Hiệu trưởng Trường Trung học cơ sở Tô Hoàng (từ năm 2008) – cho biết khi trường quyết định bỏ khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn”: “Ở mình có những cái đã quá lâu, quá cũ nhưng nhiều người vẫn ngại thay đổi khi đã cần phải thay đổi”. Đừng chê “tiên học lễ” là “cái đã quá lâu, quá cũ”, bởi vì sự giáo hóa của lễ rất tinh vi và có hiệu quả rất sâu xa: “Lễ chi giáo hóa dã vi, kỳ chỉ tà dã ư vị hình, sử nhân nhật tỉ thiện, viễn tội, nhi bất tự tri dã” (Sự giáo hóa của lễ rất cơ mầu, ngăn cấm điều bậy lúc chưa hình ra, khiến người ta ngày ngày đến gần điều thiện, tránh xa điều tội, mà tự mình không biết – Lễ ký: Kinh giải, XXVI).

Hiện nay tình trạng đạo đức của công chức Nhà nước ngày càng xuống cấp, Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng có nhận định: “Bây giờ đạo lý xã hội suy đồi, cái đúng cái sai không phân biệt được. Ở Việt Nam bây giờ, ngay trên các phương tiện truyền thông đại chúng và quan niệm xã hội rất lệch lạc nên cái đúng cái sai người ta không hiểu được. Điều này rất đáng buồn. Những người biết cái đúng và muốn tuyên truyền thì có khi nhà nước không cho làm. Những xã hội dân sự muốn truyền bá cái đúng thì lại không được nhân rộng, phổ biến, cho nên những điều không đúng có dịp sinh sôi nảy nở. Nói cho cùng người ta gọi nhà dột từ nóc dột xuống là như thế”.(Xem “Công chức bẻ hoa chụp ảnh: Nhà dột từ nóc?

Đạo đức xã hội hiện nay được Giáo sư – Tiến sư Nguyễn Thế Hùng kết luận là “dột từ nóc dột xuống”, ấy vậy mà nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân lại đề xuất: “Khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn”- vốn có xuất xứ từ Khổng tử- càng nên được chúng ta sớm chấm dứt sử dụng trong hiện tại, để từ nay chỉ được nên ghi nhận như một trong những thứ ta đã vay mượn, thời quá khứ xa xưa”.

Sao lại có chuyện phân biệt câu nói ấy “vốn có xuất xứ từ Khổng tử”? Nếu là một câu nói hay, có thể áp dụng vào đời sống của quốc gia, của dân tộc thì chúng ta ngại gì phân biệt “xuất xứ”! Không biết nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân có bao giờ nghe những cụm từ như “giao thoa văn hóa”; “tiếp thu văn hóa”; “tiếp biến văn hóa”… hay chưa mà lại có đề xuất ấu trĩ như vậy?

“Tiên học lễ” tuy nó quá cũ nhưng nó như một bờ đê ngăn cản “những điều không đúng” trong xã hội: “Phù lễ cấm loạn chi lễ do sinh, do phường chỉ thủy chi tự lai dã”. (Lễ là cấm loạn sinh ra, như bờ đê giữ nước không đến vậy – Lễ ký: Kinh giải, XXVI). Will Durant có nhận xét về tác hại của việc phá bỏ đạo đức xưa: “Người nào cho những bờ đê cũ là vô ích và phá bỏ đi thì một ngày kia sẽ bị tai hại của nạn lụt lội” – [Will Durant, Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nxb Văn hóa Thông tin, tr.342]. Dùng “Lễ” để “ước thúc hành vi của bản thân ta” (Ước ngã dĩ lễ). Người giàu sang biết lễ thì không dâm tàn, không kiêu căng; người bần tiện biết lễ thì không nản chí, không làm bậy; người lãnh đạo có biết lễ thì mới biết trọng dụng hiền tài, biết trị nước, an dân.

Nguyễn Văn Nghệ, Diên Khánh – Khánh Hòa

THẾ NÀO LÀ 'TIÊN HỌC LỄ, HẬU HỌC VĂN'
HÀ SĨ PHU/ TD 30-11-2021

Về đề tài nên giữ hay nên bỏ khẩu hiệu “Tiên học Lễ, hậu học Văn” xin được góp với các Cụ mấy ý chắc còn thô lậu (Vì tôi đang bệnh):

– Muốn thảo luận, trước hết ta phải cùng hiểu nội hàm của 2 chữ LỄ và VĂN. Đây là 2 từ cổ mà thường bị hiểu theo nghĩa nôm na ngày nay, LỄ thì toàn nghĩa phản cảm (lễ phép, lễ bái, cúng lễ, lễ tiết, lễ hội…), toàn là sự phục tùng cung kính của kẻ dưới với người trên. VĂN thì văn chương thơ phú… rông dài. Thế thì khẩu hiệu này chỉ đáng vứt đi cho rảnh.

– Nhưng theo lời giảng mà tôi học được ở chữ Nho thuở bé thì LỄ là tất cả những quy phạm khuyên con ngưới cần đối xử với nhau và với mọi công việc trong xã hội sao cho đúng nhất, tốt nhất. Tất nhiên cái tốt cái đúng của ngày xưa thì không thể toàn vẹn và hiện đại như ngày nay, nhưng cái đúng trong đó vẫn là cơ bản. Không phải cứ cổ là trọng nam khinh nữ mà các Cụ rất trọng tấm gương “phu phụ tương kính như tân” (vợ chồng biết kính trọng nhau như khách). Các Cụ đã khuyên “bất xỉ hạ vấn” (đừng xấu hổ khi học hỏi những người dưới mình). “Dân vi quý, Xã tắc thứ chi, quân vị khinh” (Dân mới quý, rồi đến đất nước, còn vua thì bình thường thôi). Nho giáo vào Việt Nam đã nhuốm thuần phong mỹ tục của nước Việt chứ không dập khuôn như Tàu. Chữ VĂN thì không phải chỉ là Văn chương thơ phú rông dài mà là tất cả những điều, những tri thức học được từ sách vở, từ sự giảng dạy của người thầy.

– Tóm lại, theo điều tôi lĩnh hội được thì tinh thần toát lên từ lời răn “Tiên học Lễ hậu học Văn” là hãy dạy cho học sinh biết làm Người trước đã, rồi mới đến chuyện dạy học sinh mọi kiến thức sách vởGiáo dục trước hết là dạy làm Người, rồi mới đến dạy mọi tri thức. Đã làm Người thì trước hết phải biết tự khẳng định mình, biết mình “đã đứng trong trời đất” thì phải ứng xử với mọi người, mọi việc ra sao cho xứng đáng? Nghĩa là phải chủ động và đóng góp cái đặc hiệu của cá nhân mình! Phương châm Giáo dục tích cực quý giá như vậy thiết tưởng còn phải giữ đến muôn đời.

– Tuy vậy, vì 2 chữ LỄ và VĂN có nguồn gốc chữ cổ, có lẽ nên để trong dấu ngoặc kép, và cần được giảng giải cho đúng cái nghĩa tượng trưng bao quát của nó như trên đã trình bày chăng?

– Nhưng theo tác giả Hiếu Chân thì “Trở ngại lớn nhất trên con đường phát triển của đất nước và xã hội Việt Nam chính là đảng Cộng Sản chứ không phải cái khẩu hiệu “Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn”, và do đó cái cần phải bãi bỏ càng sớm càng tốt là chế độ độc tài toàn trị mà đảng này áp đặt lên toàn bộ đất nước chứ không chỉ bãi bỏ câu khẩu hiệu vốn dĩ đã bị xếp xó và thay bằng “5 điều bác Hồ dạy” từ sau ngày miền Nam thất thủ”.

Đúng là trong một chế độ toàn trị hà khắc thì quyền làm một con người tự do, chủ động là rất khó. Nhưng nếu chờ thanh toán xong chế độ ấy mới cải tiến được phương châm giáo dục thì biết đến bao giờ, chịu bó tay chăng?

Theo tôi, hiện nay, tuy gặp khó khăn như vậy, nhưng những nhà giáo dục có tâm huyết với đất nước vẫn có thể thực hiện khẩu hiệu chân chính “Tiên học LỄ”, dạy làm Người hiệu quả trong một chừng mức nào đó. Bởi vì thời thế đã có chút đổi khác. Thời Cộng sản toàn trị còn hưng thịnh, người ta mị dân và ép tất cả phải nhất nhất phải nghe theo. Nhưng sang giai đoạn thoái trào này, sự cai trị đã phân hóa theo hai đầu: một mặt không mị dân nữa mà trừng trị thẳng cánh cho biết tay, nhưng mặt khác họ vẫn phải âm thầm khôn ngoan, chấp nhận những lẽ phải của công lý chung trong nhân loại, để gỡ thế bị cô lập và tẩy chay.

Những cố gắng chân chính nếu biết khéo léo vẫn có cơ thực hiện, cứ thế “tích thiểu thành đại” cụm dần nhau lại sẽ đẩy nhanh Dân tộc thoát khỏi mối đại họa này. Lương tâm toàn Dân tộc sẽ thắng, kể cả những người Cộng sản.

H.S.P. (30-11-2021)

VỀ CÁCH HIỂU  HAI CHỮ 'TRỒNG NGƯỜI' CỦA GIÁ SƯ TRẦN NGỌC THÊM

HOÀNG TUẤN CÔNG/ BVN 30-11-2021

Ảnh: GS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM (Nguồn báo Lao Động)

Nêu lý do “cần chấm dứt sử dụng khái niệm “trồng người” để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo”, GS. Trần Ngọc Thêm cho rằng, chữ “trồng” trong “trồng người” mang ý nghĩa áp đặt của giáo dục thời phong kiến, “con người được coi như cái cây”.

Cụ thể, sau khi trích dẫn lời Quản Trọng: “Kế một năm chi bằng trồng lúa, kế mười năm chi bằng trồng cây, kế trọn đời chi bằng trồng người. Trồng một gặt một ấy là lúa. Trồng một gặt mười ấy là cây. Trồng một gặt trăm ấy là người”, GS. Trần Ngọc Thêm phê phán:

“Vào thời phong kiến xưa thì cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều coi con người là đối tượng cần được giáo hoá; con người được coi như cái cây, hoàn toàn lệ thuộc vào môi trường một cách thụ động: Trồng ở đất này thì cho trái ngọt nhưng trồng sang đất khác có thể lại cho trái chua”.

Đồng thời GS. Trần Ngọc Thêm lý giải:

“Là một dân tộc làm nông nghiệp, khi gặp hình ảnh “trồng người” do Bác nói ra, ai cũng cảm thấy thân thiết gần gũi đến mức dễ dàng chấp nhận và say mê sử dụng nó một cách hoàn toàn tự nhiên.[…] Nhưng con người không phải là cái cây […] do đó, tôi cho rằng không có lí do để duy trì hình ảnh này.”(báo Lao Động – 26/11/2021)

Theo GS.TSKH Trần Ngọc Thêm, cần thay đổi quan niệm về “trồng người”, về “Tiên học lễ, hậu học văn” để đào tạo ra con người toàn diện, chủ động, khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo. Ảnh: Hải Nguyễn

Cũng như với câu "Tiên học lễ, hậu học văn", ở đây tôi không bàn chuyện bỏ hay không bỏ, “chấm dứt” hay không “chấm dứt” sử dụng khái niệm “trồng người”. Chỉ xin trao đổi về cách GS. Trần Ngọc Thêm hiểu hai chữ “trồng người”, cũng như ý nghĩa câu nói “Thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân” của Quản Trọng:

1-“THỤ NHÂN” 樹人 (TRỒNG NGƯỜI):

Câu nói của Quản Trọng (nguyên văn chữ Hán): “一年之計, 莫如樹穀 ; 十年之計,莫如樹木; 終身之計,莫如樹人.”. Phiên âm: “Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc; thập niên chi kế, mạc như thụ mộc; chung thân chi kế, mạc như thụ nhân.”.

Ở đây, Quản Trọng đặt các sự vật hiện tượng bên cạnh nhau để tạo liên tưởng, so sánh với cấp độ tăng dần, đối lập nhau, vừa có tính chất cân xứng, tương đồng, lại vừa mang tính chất bất cân xứng, dị biệt. Mặc khác, ông đã chơi chữ “thụ” 樹 trong “thụ cốc” 樹穀, “thụ mộc” 樹木, với “thụ” 樹 trong “thụ nhân” 樹人. Cùng là chữ “thụ” 樹, nhưng “thụ” trong “thụ cốc” 樹穀, “thụ mộc” 樹木 có nghĩa là TRỒNG TRỌT, còn “thụ” 樹 trong “thụ nhân” 樹人 lại có nghĩa là BỒI DƯỠNG, DẠY DỖ:

- “Hán ngữ đại từ điển” giảng nghĩa 2 của “thụ” là “trồng trọt”, “vun xới” (chủng thực; tài chủng - 種植;栽種); giảng nghĩa thứ 3 của “thụ” là “bồi dưỡng, dạy dỗ” (bồi dưỡng, tạo tựu - 培養, 造就), đồng thời hướng dẫn xem hai chữ “thụ nhân” 樹人.

- Mục “thụ nhân” 樹人, từ điển này giảng là “giáo dục, đào tạo nhân tài” (bồi dưỡng tạo tựu nhân tài - 培養造就人材), rồi trích câu nói của Quản Trọng “… chung thân chi kế, mạc như thụ nhân”, làm ví dụ.

Như vậy, khái niệm “trồng người” ở đây được đối dịch từ hai chữ “thụ nhân”. Và hai chữ “thụ nhân” có thể dịch vừa sát vừa rõ nghĩa là “giáo dục, đào tạo nhân tài”, “bồi dưỡng nhân tài” (Từ điển của Nguyễn Quốc Hùng dịch là “nuôi dưỡng nhân tài”). Theo đây, lời của Quản Trọng có thể được diễn đạt là: “Kế một năm chi bằng trồng lúa, kế mười năm chi bằng trồng cây, kế trọn đời chi bằng ĐÀO TẠO/BỒI DƯỠNG NHÂN TÀI...”.

Tuy nhiên, thành ngữ tục ngữ hay khẩu hiệu muốn truyền bá, lưu hành rộng rãi, tất phải ngắn gọn súc tích. Thế nên, lời Quản Trọng về sau được cô đọng thành: “Thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân”. Việc đối dịch “bách niên thụ nhân” thành “trăm năm trồng người”, giữ lại cách chơi chữ trong nguyên văn chữ Hán, lại đảm bảo ngắn gọn. Và “trồng người” không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp “đào tạo nhân tài”, mà là sự nghiệp giáo dục đào tạo trong nhà trường nói chung.

2- TRỒNG CÂY - TRỒNG NGƯỜI:

Vì sao Quản Trọng liên tưởng việc trồng cây với giáo dục con người? Ấy là bởi sự vun xới, chăm sóc bảo vệ sớm hôm, từ lúc cây còn là cái mầm bé tí ti, cho đến khi thu hoạch là cả một quá trình công phu vất vả sớm hôm, chẳng khác nào việc dạy dỗ, đào tạo nuôi nấng một con người từ bé đến lúc thành tài.

Mặt khác, “thụ cốc” (trồng lúa) được Quản Trọng so sánh với “thụ mộc” (trồng cây); rồi “thụ cốc”, “thụ mộc”, lại được đặt cạnh “thụ nhân” (trồng người), mục đích để so sánh các loại “thụ” (trồng) và “hoạch” (gặt hái thành quả) khác biệt nhau đến mức nào.

Với trồng lúa, phương thức canh tác không phù hợp thì sẽ thất bát. Nhưng thất bát hay bội thu, thì cũng chỉ sau một vài vụ là có thể rút kinh nghiệm. Với trồng cây thì sự tổn thất về thời gian, tiền bạc sẽ lớn hơn trồng lúa rất nhiều. Ấy vậy nhưng trồng lúa, trồng cây cũng không bằng trồng người. Giáo dục con người, bồi dưỡng nhân tài là kế chung thân (một đời), bách niên (lâu dài). Nếu giáo dục đúng thì lợi ích sẽ gấp trăm gấp bội lần. Nhưng nếu phương pháp sai lầm, thất bại thì cũng di hại đến nhiều đời.

3- “TRÁI NGỌT”–“TRÁI CHUA”:

Chuyện “ở đất này thì cho trái ngọt nhưng trồng sang đất khác có thể lại cho trái chua” trong trồng cây - trồng người cũng không phải do “phong kiến” coi con người “như cái cây, hoàn toàn lệ thuộc vào môi trường một cách thụ động” như GS. Trần Ngọc Thêm suy diễn rồi quy kết.

Ở thời nào, với bất cứ nền giáo dục nào, môi trường giáo dục cũng ảnh hưởng, thậm chí là quyết định đến tài năng nhân cách của con người. Một học sinh có năng khiếu âm nhạc ở đất nước này có khi chỉ là nhạc công đám cưới, nhưng nếu được đào tạo bởi một quốc gia khác thì lại trở thành thiên tài âm nhạc. Đó là một thực tế.

Để cây “trái chua” thành “trái ngọt”, người ta cải tạo thổ nhưỡng, thay đổi phương thức canh tác, cũng như để đào tạo bồi dưỡng con người, phải chú ý đến môi trường, phương pháp giáo dục vậy.

Những điểm tương đồng và dị biệt giữa trồng lúa - trồng cây - trồng người cho thấy triết lý giáo dục của Quản Trọng rất sâu sắc, tiến bộ.

4- KẾT LUẬN:

- Thông điệp cốt lõi trong lời nói của Quản Trọng là: 1.Giáo dục, đào tạo nhân tài là kế sách quan trọng và lâu dài; 2.Đầu tư cho giáo dục tuy lâu dài, khó khăn nhưng lợi ích thu được thì vô cùng to lớn.

- Hai chữ “thụ nhân” 樹人 (trồng người) không liên quan “khái niệm hội tụ ở mức độ rất đậm đặc tính thụ động của người Việt Nam”; không hề nói lên cái ý chế độ phong kiến coi con người “như cái cây, hoàn toàn lệ thuộc vào môi trường một cách thụ động” như cách hiểu của GS. Trần Ngọc Thêm. Việc GS. TSKH. Trần Ngọc Thêm hiểu về hai chữ “thụ nhân” – trồng người méo mó, hoàn toàn suy diễn, nông cạn.

H.T.C.

Nguồn: FB Hoàng Tuấn Công


CHÚNG TA CÓ CẦN 'TIÊN HỌC LỄ, HẬU HỌC

 VĂN' HAY KHÔNG ?

ĐÀO TĂNG DỰC/ TD 29-11-2021


I. Dẫn nhập:

Theo trang mạng BaoQuocTe.VN ngày 24-11-2021:

“Tại hội thảo Giáo dục Việt Nam chủ đề ‘Văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục đào tạo’ do Ủy ban Văn hóa, giáo dục của Quốc hội tổ chức vừa qua, GS Trần Ngọc Thêm (Trường ĐH Khoa học xã hội & nhân văn – ĐH Quốc gia TP. Hồ Chí Minh) trình bày quan điểm trên trong tham luận: ‘Xây dựng Văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo’.

Ông khẳng định, sáng tạo thuộc về tài năng trong khi xã hội Việt Nam truyền thống hướng đến ổn định nên không hướng đến tài năng mà đề cao chữ Lễ, ‘tiên học lễ hậu học văn’, đề cao sự phục tùng. Trong khi đó, để có con người sáng tạo, cần thực hiện dân chủ trong giáo dục, cần thay đổi quan niệm về người thầy từ việc truyền thụ kiến thức sang việc hướng dẫn người học sáng tạo và tự chịu trách nhiệm về sự sáng tạo của mình.

GS Trần Ngọc Thêm kiến nghị: ‘Cần chấm dứt sử dụng khẩu hiệu ‘Tiên học lễ, hậu học văn’ để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo’.

‘Chừng nào còn đề cao chữ Lễ để ràng buộc người học, còn đề cao quá mức vai trò của người thầy, của đáp án thì tư duy phản biện sẽ không thể phát triển, không thể có xã hội phát triển’, ông Thêm nhấn mạnh”.

Câu thành ngữ “Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn” là một khái niệm giáo dục truyền thống lâu đời của dân tộc Việt nói riêng và của nền văn hóa Đông Á nói chung, bao gồm những quốc gia chịu ảnh hưởng của Nho Giáo như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.

Trong một nền dân chủ chân chính, sự phản biện dĩ nhiên rất quan trọng và đúng như GS Trần Ngọc Thêm quan niệm là cần thiết cho sự tiến bộ.

II. Tại sao GS Thêm đề xuất như trên:

Khi GS Thêm đề xuất như trên, chúng ta không ngạc nhiên vì ông là một nhà trí thức Cộng Sản và người cộng sản thuần túy, chủ trương tiêu diệt tất cả các tư tưởng “suy đồi” tiền cộng sản. Tại Âu châu thì các tư tưởng Thiên Chúa Giáo, tại Á Đông thì các tư tưởng Nho Giáo, vì các hệ tư tưởng này là nguyên nhân lẫn hậu quả của nhiều thế hệ nhân loại “đồi trụy”, trước khi ánh sáng huy hoàng của tư tưởng Mác Lê được khai sinh.

Tuy nhiên, câu “Tiên Học Lễ, Hậu học Văn” từ từ được phục hoạt dưới chế độ cộng sản vì sau nhiều thập niên thất bại, hàng ngũ đảng viên thoái hóa.

Đề xuất của GS Thêm chỉ là phản ứng mang tính bản năng của một bệnh nhân hấp hối trước khi trút hơi thở cuối cùng.

Tuy nhiên một vấn đề quan trọng đã được đặt ra. Chúng ta cần trả lời nghiêm chỉnh. Muốn thế, chúng ta cần nhận diện chính xác vị trí của chữ “Lễ” và chữ “Văn” trong nền văn hóa Nho Giáo.

III. Phân tích các khái niệm nền tảng

Vì sự quan trọng của chữ “Lễ”, chúng ta sẽ giải thích chữ này thật chi tiết sau. Bây giờ phải hiểu ngắn gọn chữ “Văn” trước. Chữ Văn không có nghĩa thuần túy là văn chương, mà bao gồm sự trau dồi trí tuệ, hầu người quân tử có thể trị quốc bình thiên hạ. Chữ Văn này đồng nghĩa với chữ Trí trong Ngũ Thường như sẽ giải thích sau.

Chữ Lễ là một trong Ngũ Thường tức năm đức tính trọng yếu của người Quân Tử là: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí và Tín.

1. Ý nghĩa chữ Nhân (Humanity hay Love):

Một cách tổng quát thì Nhân có nghĩa là lòng nhân ái, thương yêu đồng loại. Chữ Nhân cũng bao gồm một quan niệm nền tảng của Nho Giáo về con người (Nhân) như là “linh ư vạn vật” tức có vị trí vượt lên trên muôn loài trong hoàn vũ.

Ở điểm nền tảng này thì Nho Giáo hoàn toàn tương đồng với Thiên Chúa Giáo bao gồm mọi hệ phái từ Tin Lành đến Công Giáo và Chính Thống Giáo. Các tôn giáo Tây Phương quan niệm lòng nhân ái (love) cũng giả định con người có vị trí vượt trội trên muôn ngàn sinh vật khác vì được Thượng Đế tạo ra theo hình tượng của Ngài.

2. Ý nghĩa chữ Nghĩa (proper conduct):

Chữ Nghĩa là một sự thể hiện trực tiếp của chữ Nhân qua phương thức hành xử của người quân tử. Tóm lại, trong hành động của mình, người quân tử sẽ không bao giờ hành xử đi ngược với lòng Nhân Ái, thể hiện qua luân thường đạo lý trong xã hội.

3. Ý nghĩa chữ Trí (Knowledge hay Wisdom):

Chữ Trí được khai triển rõ rệt hơn trong câu châm ngôn “Thành ý chính tâm, cách vật trí tri, tu thân tề gia, trị quốc bình thiên hạ”. Nho Giáo không phải thuần là một tôn giáo căn bản trên niềm tin đơn thuần mà có một cơ sở tư tưởng sâu xa. Câu này có nghĩa là muốn nhận thức các hiện tượng trong vũ trụ khách quan thì tâm phải chính và ý phải thành, có nghĩa là phải thành thật với chính mình.

TBT Nguyễn Phú Trọng và Tô Lâm dĩ nhiên không thỏa mãn được đòi hỏi đầu tiên này vì ông Trọng biết là Xã Hội Chủ Nghĩa là vô vọng mà vẫn hô hào xây dựng XHCN cho dân Việt. Còn ông Lâm thì miệng hô hào cần kiệm liêm chính nhưng cũng chính cái miệng đó “đớp” thịt bò dát vàng không do dự.

Chỉ sau khi thành ý chính tâm mới thực sự có khả năng phân tích sự kiện (cách vật) và đạt đến sự hiểu biết trí tuệ chân chính (trí tri). Sau cùng trên nền tảng trí tuệ chân chính đó mới kiện toàn bản thân, gia đình êm ấm và dấn thân vì quốc gia dân tộc (tề gia, trị quốc, bình thiên hạ) được.

4. Ý nghĩa chữ Tín (Trust hay honour):

Chữ Tín một cách nôm na là giữ lời hứa. Tuy nhiên nền tảng của nó cũng là Nhân, Nghĩa, Trí và Lễ. Đơn giản mà nói chúng ta phải giữ chữ Tín không những vì lòng nhân với đối tượng mà cũng vì chữ Tín hợp với luân thường đạo lý, vì một người có trí tuệ biết được hậu quả lâu dài của sự bội tín và vì chữ Lễ như sẽ giải thích ở đoạn sau không cho phép chúng ta làm điều thất tín.

Dĩ nhiên chữ Tín cũng giả định sự kính trọng của người quân tử đối với nhân phẩm của mọi người.

Nói cho cùng thì cả 5 khái niệm trong Ngũ Thường đều bao gồm lẫn nhau, bổ sung cho nhau, tương sinh và tương tùy.

5. Ý nghĩa chữ Lễ (Civility hay respect):

Chữ Lễ theo Wikipedia là “Lễ bao gồm việc thờ cúng, lễ bái thánh thần, trời Phật và cả những quy định có tính chất pháp luật, những phong tục, tập quán và kỷ luật tinh thần của cá nhân”.

Tuy nhiên theo quan điểm của tôi, định nghĩa như thế là chỉ định nghĩa về các hình thức khác nhau của Lễ. Tinh thần của chữ Lễ nằm nơi sự “kính trọng nhân phẩm của từng cá nhân thành phần nhân loại” (respect for each member of the human family) đối tượng của chúng ta vì tất cả mọi thành phần của nhân loại đều là “linh ư vạn vật”. Chính vì thế, khi chữ Lễ được áp dụng triệt để thì không những con kính trọng cha, vợ kính trọng chồng, trò kính trọng thầy, dân kính trọng vua, trẻ kính trọng già, mà các mệnh đề ngược lại cũng đúng y chang.

Khi hiểu được như thế, chúng ta mới ý thức rằng, sự “tương kính” (mutual respect) giữa các cá nhân không những là nền tảng của chữ Lễ, mà còn là nền tảng của cả 4 ý niệm còn lại trong Ngũ Thường là Nhân, Nghĩa, Trí và Tín nữa.

Khi suy nghĩ sâu xa, chúng ta mới ý thức được vai trò nền tảng của khái niệm “tương kính” (mutual respect) xuyên thấu cả 5 ý niệm nền tảng của Ngũ Thường.

Nếu chữ Nhân được hiểu là lòng nhân ái, sự thương yêu là đứng đầu và nền tảng của Ngũ Thường, thì chúng ta sẽ đi đến các kết luận vững chãi như sau:

a. Cha mẹ không thể yêu thương con cái thật sự nếu không “tương kính” tức tôn trọng nhân phẩm của con mình và ngược lại.

b. Chồng không thể thương yêu vợ nếu không tôn trọng nhân phẩm của vợ và ngược lại.

c. Thầy không thể thương yêu trò nếu không tôn trọng nhân phẩm của trò và ngược lại

d. Vua không thể thương yêu dân nếu không tôn trọng nhân phẩm của dân và ngược lại.

e. Già không thể yêu thương trẻ nếu không tôn trọng nhân phẩm của trẻ và ngược lại.

Rộng hơn nữa: Trên bình diện trị quốc bình thiên hạ thì một chính quyền không thể thương yêu nhân dân nếu không tôn trọng nhân phẩm của người dân.

IV. Nếu sự tương kính (mutual respect) là trọng yếu thì chính quyền yêu dân phải tôn trọng những gì nơi nhân dân?

Câu hỏi quan trọng kế tiếp của chúng ta là: nếu sự tôn trọng nhân phẩm của người dân là nền tảng nghệ thuật trị quốc bình thiên hạ, thì chính quyền phải tôn trọng điều gì nơi nhân dân?

Nơi đây, các tư tưởng gia Tây Âu và Đông Phương lại gặp nhau một lần nữa vì sự tương đồng giữa 2 khái niệm nền tảng của Nho Giáo và Thiên Chúa Giáo. Đó là các khái niệm “Nhân Trị” và “Nhân Quyền”. Tuy có những dị biệt hình thức vì hoàn cảnh xã hội, thể chế chính trị và đà tiến hóa khác nhau, nhưng tựu trung cũng phát xuất từ sự tôn vinh con người như sinh vật vượt trội trên muôn loài trong hoàn vũ.

Thật vậy, vì con người là trọng tâm vũ trụ, từ đông sang tây, nếu thật sự yêu dân, một chính quyền phải tôn trọng bật nhất, 2 điều thiết yếu của con người: đó là mạng sống và trí tuệ của người dân.

Một bên là thể xác. Một bên là tinh thần.

Bản tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của LHQ năm 1948 chi tiết hóa cụ thể cả 2 điều nêu trên.

Ngoài những vi phạm trắng trợn về thể xác nhân dân Việt Nam, đảng CSVN còn trắng trợn khinh thường trí tuệ và sự thông minh của cả dân tộc qua trò đảng cử dân bầu cố hữu, sau cuộc cướp chính quyền xảo trá năm 1945.

Nếu giả tỷ Lê Nin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh đều chấp nhận mệnh đề của Nho Giáo là “tiên học lễ, hậu học văn” thì đã không có những thảm sát hằng trăm triệu người tại Liên Xô, Trung Quốc dưới bàn tay các đảng CS liên hệ và hằng triệu người đã không bỏ mạng tại Việt Nam vì Cuộc Cải Cách Ruộng Đất từ thập niên 50, cuộc di cư vĩ đại vào Nam 1954, cuộc vượt biên vĩ đại 1975 và các trại tập trung cải tạo cùng thời.

Dĩ nhiên nếu mệnh đề của Nho Giáo này được chấp nhận thì đảng CSVN đã không tiếp tục bám víu trò đảng cử dân bầu thô bỉ này đến tận hôm nay.

Thêm vào đó, tại Đông Á, Nho Giáo không phải là hệ tư tưởng thống trị tuyệt đối. Một luồng tư tưởng khác cũng ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội. Thật vậy trong tư tưởng Phật Gia, khái niệm tình thương không còn giới hạn nơi nhân loại mà bao gồm lòng từ bi lân mẫn cho mọi chúng sinh trong hoàn vũ. Lòng tương kính nêu trên, theo nhà Phật, còn phải nới rộng để bao trùm mọi chúng sinh trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới và bao gồm cả 2 hình thức sống thấp hơn nhân loại lẫn cao hơn nhân loại.

Sự tôn trọng phẩm giá của từng chúng sinh càng rõ rệt hơn khi Phật Gia quan niệm mọi chúng sinh đều có Phật tính và cũng sẽ đạt đến chánh đẳng chánh giác trong tương lai.

Cũng vì quan điểm Từ Bi vô lượng của Chư Phật và sự Tôn Kính Phật Tính trong bản chất của từng chúng sinh trong hoàn vũ, Phật Giáo trong bản chất là phản đề hùng mạnh nhất bác bỏ chủ nghĩa Mác Lê.

Chính vì thế, khi GS Thêm đề xuất hủy bỏ câu châm ngôn “Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn” là ông chủ trương phục hồi lại quan điểm Mác Lê nguyên thủy. Hậu quả là đảng CSVN hoàn toàn danh chánh ngôn thuận, theo lý luận Mác Lê, có thể tiếp tục trị quốc bình thiên hạ mà không cần tôn trọng thể xác và trí tuệ của nhân dân.

Dĩ nhiên điều này hoàn toàn vi phạm những khái niệm nhân ái của người Tây Phương trong Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, lẫn cốt lũy các tôn giáo truyền thống của nhân dân Việt Nam.

Đề xuất của GS Thêm chỉ là tiếng kêu gào vô vọng của một trí thức cộng sản thuần túy trong một thế giới không còn chỗ đứng cho độc tài đảng trị.

Đào Tăng Dực

TRAO ĐỔI THÊM VỚI GS TRẦN NGỌC THÊM

NGUYỄN ĐÌNH CỐNG/ TD 29-11-2021

Đây là trao đổi về câu này của GS Trần Ngọc Thêm: “Cần chấm dứt sử dụng khẩu hiệu ‘Tiên học lễ, hậu học văn’ để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo. Chống việc nhồi nhét kiến thức, chống việc học thuộc lòng…”

Về “Tiên học lễ…” tôi đã viết bài hưởng ứng. Nay viết thêm trao đổi về cụm từ “Chống việc học thuộc lòng”. Xin nói ngay là tôi không tán thành cách viết như vậy.

Học thuộc lòng có hai dạng. Một là học thuộc, có thể viết lại, đọc lại nguyên văn nhưng không hiểu nội dung, không nắm được bản chất. Kiểu này được gọi là học vẹt (hoặc học gạo), do việc dạy nhồi nhét tạo ra. Đây là cách học, cách dạy cần phải chống.

Hai là học thuộc lòng những áng văn thơ hay, thuộc lòng những định nghĩa, định lý, định luật. Sau khi đã hiểu kỹ bản chất, việc học thuộc lòng các định nghĩa, định luật, định lý là rất cần thiết. Sau khi đọc và hiểu một bài thơ hay, một đoạn văn hay (kể cả khi chưa hiểu một vài chi tiết trong đó), một câu danh ngôn mà thuộc lòng được thì rất tốt, rất đáng khuyến khích. Không nên chống lại việc học thuộc lòng những thứ đó.

Như vậy nên viết rõ chống học vẹt, không nên viết ‘chống học thuộc lòng’.

Tôi đoán rằng thâm tâm GS Thêm chống lại việc học vẹt chứ không phải chống lại việc ‘học thuộc lòng’ nói chung, bao gồm cả việc học thuộc các định nghĩa, định luật. Khi nghĩ đến việc chống học vẹt mà viết thành chống học thuộc lòng là cách diễn đạt hơi vội vàng, chưa được thật chặt chẽ, có thể làm cho một số người hiểu nhầm.

Hồi còn ở tiểu học (trước 1950) tôi rất thích khi được học thuộc lòng những áng văn hay, những bài thơ hay. Tôi còn dùng cách học thuộc lòng để luyện trí nhớ. Thế mà chưa có ai bảo rằng tôi học vẹt. Vì vậy, khi nghe ai nói chống học thuộc lòng thì tôi cảm thấy áy náy, cứ muốn viết vài điều bênh vực việc học thuộc lòng.

Năm 2020, kỷ niệm 200 năm ngày mất của Nguyễn Du, Hội Kiều học kết hợp với chính quyền Hà Tĩnh tổ chức cuộc thi đọc thuộc toàn bộ Truyện Kiều. Trong cuộc thi ấy có cả giáo sư toán học, là Việt kiều ở Đức về dự và đạt giải cao, có người không những đọc thuộc toàn bộ Truyện Kiều từ đầu đến cuối, mà còn đọc ngược nhiều đoạn.

Đành rằng ngày nay có nhiều phương tiện ghi nhớ rất hiệu quả, rất tiện lợi, nhưng không phải vì thế mà người ta không cần rèn luyện trí nhớ. Một trong những cách luyện trí nhớ là học thuộc lòng. Vậy xin thu hẹp lại là chống học vẹt, học thuộc mà không hiểu, chứ đừng chống toàn bộ việc học thuộc lòng, oan cho nó.

'TIÊN HỌC LỄ, HẬU HỌC VĂN': ĐẠO LÝ HAY

 TIÊU CỰC ?

TRẦN KHIÊM ĐOÀN/ TD 29-11-2021

Mấy hôm nay đọc báo trên các mạng lưới trực tuyến xã hội tiếng Việt, người Việt khắp nơi trong cũng như ngoài nước, được nghe một nguồn dư luận mới xôn xao về việc nên giữ hay bỏ một câu khẩu hiệu đã trở thành quá quen thuộc trong tất cả các hệ thống trường học Việt Nam từ xưa tới nay. Đó là câu châm ngôn “tiên học lễ, hậu học văn” thường được dán ngay trên tường trước mặt học sinh trong lớp học.

Vì đã quá quen thuộc và mặc nhiên được coi đây là một đạo lý đương nhiên kết hợp giữa tinh thần tôn sư trọng đạo và rèn luyện nhân cách nên qua nhiều thế hệ, câu khẩu hiệu này đã trở thành một lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà nghiêm cẩn chuyên chở giá trị nhân văn đào tạo thế hệ trẻ. Đây không phải là một câu khẩu hiệu thời trang để trang trí lớp học mà là một châm ngôn rèn luyện nhân cách trong đời sống học trò. Bởi vậy, chẳng có thầy giáo hay học sinh nào còn bận tâm đặt câu hỏi là nên hay không nên treo câu khẩu hiệu mang nội dung “nguyên lý giáo dục” hay đạo lý trồng người nầy. (Chữ Lễ trong bài này xin được viết hoa khi nhấn mạnh đó là tiêu đề của toàn bài và viết thường khi hiểu theo nghĩa quy ước).

Bối cảnh làm nền cho cuộc… đảo chánh khẩu hiệu nầy được giới truyền thông đưa tin như sau:

Tại hội thảo Giáo dục Việt Nam chủ đề “Văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục đào tạo” do Ủy ban Văn hóa, giáo dục của Quốc hội tổ chức ngày 21/11, GS Trần Ngọc Thêm trình bày quan điểm trên trong tham luận: “Xây dựng Văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo”.

GS Trần Ngọc Thêm kiến nghị: “Cần chấm dứt sử dụng khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo”.

“Chừng nào còn đề cao chữ Lễ để ràng buộc người học, còn đề cao quá mức vai trò của người thầy, của đáp án thì tư duy phản biện sẽ không thể phát triển, không thể có xã hội phát triển”, ông nhấn mạnh thêm.

– Trước đó, năm 2016, tại hội thảo “Xây dựng môi trường văn hóa trường học” do Bộ GD-ĐT tổ chức, nhiều đại biểu cho rằng, hệ thống khẩu hiệu trường học đã đáp ứng đúng tôn chỉ mục đích. Tuy nhiên, việc treo khẩu hiệu còn bất cập, mỗi nơi làm một phách và chưa phù hợp nên kiến nghị xem lại khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” ở trường tiểu học. (Tin Mới)

Là một thầy giáo xuất thân được đào tạo dạy môn Việt Văn cấp 3 từ trường Văn Khoa và Sư Phạm Huế (1966-1970) nhưng vì hoàn cảnh và thời thế tôi phải dạy học tại nhiều trường, phụ trách các môn học khác nhau và phục vụ nhiều nơi với hoàn cảnh khác nhau như: Việt Nam trước và sau 1975, Phi Luật Tân, Mỹ. Mãi cho đến khi đứng trên bục giảng của nhà trường Mỹ, nhìn sinh viên vừa vào lớp miệng vừa bỏm bẻm nhai kẹo cao su hay ngồi gác chân lên ghế trong lớp, tôi mới nhận ra cái đạo lý lớp học phải như thế nào mới phải “đạo” bởi tôi vốn đã coi cái trật tự truyền thừa “tiên học lễ, hâu học văn” là nề nếp mặc nhiên trong văn hóa học đường Việt Nam.

Truyền thống văn hóa và giáo dục Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm và lâu đời về khái niệm chữ Lễ của văn hóa Trung Quốc. Trong Ngũ Kinh có Lễ Kinh và vai trò của Lễ được đức Khổng Tử xác định: “Không học Lễ thì không biết cách đi đứng ứng xử ở đời.” Và năm đức tính căn bản làm người là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín thì Lễ đứng giữa để làm trung gian, bởi vì nhân không trí là tốt mã, thương hại; nghĩa không tín là tuỳ hứng, giang hồ. Cho nên khái niệm cổ điển về Lễ là sự phân định vai trò và cương lĩnh rõ ràng: Hai nước giữ lễ là không xâm hại nhau, hai nhà giữ lễ là không gây phiền oán cho nhau, hai người giữ lễ là tôn trọng lẫn nhau và thầy trò giữ lễ là làm tốt vị trí của mình. Lễ tự nguyên nghĩa là luân thường đạo lý, là trật tự xã hội, là tôn trọng lẫn nhau. Ý nghĩa của chữ Lễ trong quá trình truyền thừa và ứng dụng vào văn hóa giáo dục Việt Nam là tôn sư trọng đạo, học trò xem thầy như cha và thầy xem trò như đứa con tinh thần kế thừa và phát huy tâm nguyện cùng lý tưởng giúp đời và giữ đạo làm người nghiêm cẩn của mình để sống, ứng xử hay có khi chỉ trong mơ ước. Với một khái niệm về Lễ như thế thì bất cứ một nền giáo dục hay một xã hội nào đều ứng hợp với vai trò giáo dục là nhằm đào tạo thế hệ tương lai tài năng và đạo hạnh.

Tuy nhiên, xã hội Việt Nam từ xưa đến nay đã vô tình hay cố ý diễn dịch ý nghĩa của nội hàm chữ Lễ một cách cực đoan và phiến diện trong nhiều trường hợp giáo dục bị biến thành phương tiện đầy khắt khe, áp bức để phục vụ cho tinh thần bảo thủ, quyền lực tôn giáo, giai cấp thống trị đè đầu cỡi cổ dân lành, hay thủ đoạn chính trị… Do đó, đã có nhiều trường hợp cái “Lễ” đã bị lạm dụng khi các thầy đồ, thầy giáo, cô giáo, cơ sở giáo dục… sử dụng hình thức “lễ trị” bằng roi vọt, bạo lực, uy quyền… để đánh đập, mạ lỵ, trừng phạt, vùi dập học sinh một cách thô bạo và… vô lễ! Và hệ quả đương nhiên, với phản ứng tâm lý và thể lý phản hồi có điều kiện, học sinh bị tha hóa vì sợ hãi, căm tức hay chán ngán môi trường học tập với thầy giáo đã hành hạ mình dẫn đến tình trạng cũng đành, thụ động và “thủ tiêu phản biện” như ý kiến của GS.TSKH Trần Ngọc Thêm. Tuy nhiên, đây không phải là trường hợp phổ biến mà chỉ là khía cạnh cực đoan trong truyền thống giáo dục Việt Nam. Riêng về mặt tâm lý tương tác với xã hội, một học sinh hay sinh viên thiếu khả năng phản biện không phải vì “giữ lễ” hay bị ép lễ mà thường là do thiếu thông tin, thiếu kiến thức và thiếu không khí hay môi trường thích hợp.

Thật ra, câu “Tiên học lễ, hậu học văn” tuy là một câu văn Hán Việt nhưng thường được xem như đã trở thành thuần Việt vì văn phong nhẹ nhàng, ngữ điệu cân đối và nội dung rất dễ hiểu về tinh thần đạo lý và trật tự xã hội rất dễ ứng dụng cho mọi người thuộc mọi trình độ, kể cả hai thế hệ thầy và trò. Đã nhiều lần tôi vừa nhớ, vừa trân trọng cái câu khẩu hiệu đơn giản và nhỏ nhắn nhưng đầy ý nghĩa nầy khi bước vào dạy lớp học Mỹ chẳng thấy ai đứng dậy hay biểu hiện cử chỉ chào kính nào hoặc nhìn thái độ có vẻ thiếu cung kính khi hỏi hay phát biểu với thầy giáo. “Tiên không học lễ rồi chăng?” Tôi tự hỏi. Nhưng càng đi sâu vào khái niệm của “cái Lễ” tôi càng nhận thấy rõ ràng rằng, nội dung của Lễ nếu được hiểu theo một nghĩa tích cực hơn thì học trò, sinh viên Mỹ còn trọng Lễ hơn cả Việt Nam vì trong quá trình học tập rất ít nói dối, hiếm khi gian lận hay ích kỷ và thủ lợi như sinh viên của nhiều nước châu Á xem Lễ như một chiêu thức đóng kịch giả vờ làm vui lòng thầy giáo, miễn sao có lợi cho cá nhân mình.

“Cần chấm dứt sử dụng khẩu hiệu ‘Tiên học lễ, hậu học văn’ để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo”! Đọc câu nầy của GS. Trần Ngọc Thêm, tôi thật tình chưa hiểu hết tôn ý của GS. Cái gọi là “tư duy phản biện” sao lại bị cột trói vào một trật tự tinh thần và phẩm chất đạo lý của một con đường khiêm cung, quang minh chính đạo như Lễ (lễ độ, lễ phép, lễ nghi, lễ giáo, lễ bái…). Muốn khai mở tư duy phản biện thì chỉ cần ba yếu tố chính là kiến thức vững vàng, phương pháp luận chặt chẽ và khung cảnh thích hợp. Cả một nền triết lý Đông phương, kiến thức khoa học kỹ thuật và phương tiện truyền thông hiện đại là cốt lõi của tư duy phản biện. Lễ không đóng vai trò chướng ngại hay tiêu cực nào cho mọi hình thức phản biện. Không có một thầy giáo nghiêm túc nào lại cấm đoán học sinh mình nêu ý kiến phản biện; nếu không muốn nói là còn hài lòng, ngầm sung sướng vì sự thông minh, lập luận rạch ròi của học sinh mình trong phản biện cả. Thêm nữa, khi nói đến cụm từ “giải phóng sức sáng tạo” thì phải tìm tới những trở ngại kìm hãm sức sáng tạo. Đó là do sự thiếu khả năng, thiếu nhân tài, thiếu điều kiện, thiếu hoàn cảnh… chứ hoàn toàn không do một hình thức “Lễ” nào tác động để làm mất đi khả năng sáng tạo cả. Muốn “giải phóng sức sáng tạo” thì phải cần quy tụ nhân tài, tôn trọng tự do, đánh giá công minh và đãi ngộ xứng đáng là bốn “tiêu chuẩn vàng” của tinh thần phát huy sáng tạo Đông cũng như Tây. “Lễ” chẳng đóng một vai trò nào mang tính quyết định chung cuộc trong sáng tạo nghệ thuật, khoa học và nhân văn cả. Do vậy, kiến nghị của GS về việc cần chấm dứt việc sử dụng một câu TÂM NGÔN hay ho như thế thì rất mong GS định tâm suy nghĩ và cân nhắc cẩn trọng hơn; cũng như cần uốn lưỡi nhiều lần trước khi phát biểu.

Nhà trường Mỹ cũng có các câu khẩu hiệu được sử dụng luân lưu trong hệ thống trường học cả nước nhưng hẩu hiệu trong nhà trường Mỹ thường không nhắc nhở về phương thức và thái độ học tập mà nói về ý nghĩa và mục đích của quá trình học tập. Sau đây là một dẫn chứng về 200 câu khẩu hiệu trong nhà trường Mỹ đủ các cấp học (https://sloganshub.org/school-slogans/). Có thể nói là gần như không có một câu nói lên một nhân vật thần thánh nào khác hơn là chính bản thân người học trò phải chủ động và chịu trách nhiệm cho hướng đi và mục đích mình vươn tới. Nếu có chăng một vài câu nói về “lễ” thì cũng đề ra phong cách ứng xử do chính bản thân người học trò chủ động như “Hãy kính trọng người khác để được người khác kính trọng” (Respect others and they’ll respect you). Trong lúc đó thì cách thủ lễ của Việt Nam ta là cần phải làm theo lời khuyên và đương nhiên chấp nhận giá trị của các bậc cao nhân tiền bối.

Thử khách quan để đưa ra một vài nét so sánh về khái niệm, nội dung và tác dụng của cái “đức” và “lễ” theo hai khuynh hướng:

– Việt Nam: Thầy giáo và xã hội chủ động dạy dỗ học trò và con em phải làm những điều hay lẽ phải đã được quy định.

– Mỹ: Thầy giáo và xã hội chỉ đóng vai trò trình bày, giới thiệu hệ thống giá trị đạo lý để cho học trò và con em tự quyết định có nên áp dụng những nguyên tắc và giá trị đó cho mình hay không.

Như thế, dẫu là trong bối cảnh văn hóa của Mỹ, Việt Nam hay bất cứ quốc gia, xã hội nào thì đức hạnh vẫn được bảo vệ và tôn trọng. Tiêu chí của hệ thống giá trị và đức hạnh tuy không giống nhau nhưng vẫn có điểm chung, đó là trật tự xã hội và cung cách đối tác hay ứng xử với nhau. Đó chính là cái Lễ đã trở thành cái biết, cái học đầu tiên cần phải có. Hình thức và phương tiện ứng dụng cái Lễ trong môi trường giáo dục cần phải có sự mềm dẽo, thích ứng tùy theo thời đại, văn hóa xã hội và đáp ứng được nhu cầu cụ thể.

Kẻ đang viết những dòng nầy rất chia sẻ thiện ý và công tâm của GS. Trần Ngọc Thêm cũng như lời phản biện rất thuyết phục của PGS.TS Trần Xuân Nhĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ GD-ĐT khi ông cho rằng: “… với mỗi một con người, ‘đức’ là cái gốc cơ bản . Ở đây có thể hiểu “lễ” tức là đức hạnh. Trong cuộc sống hay ở gia đình , cơ quan, nhà trường… đức rất quan trọng.”

Nay giữa hai khuynh hướng trái chiều là nên bỏ hay nên giữ câu châm ngôn “Tiên học lễ, hậu học văn” trong môi trường giáo dục, tuy mới nghe qua thì đây chỉ mới là một hoặc vài ba ý kiến chống hay thuận theo quan điểm cá nhân; nhưng đứng trên bình diện giáo dục và luân lý đạo đức của một xã hội, một quốc gia thì đây cũng có thể coi như một bước đột phá của những nhà giáo, trí thức dân tộc trước những thách thức của thời đại mới. Sự xét lại để điều chỉnh cập nhật những giá trị tinh thần và đạo đức “xưa bày nay làm” trong nhiều lĩnh vực mà đặc biệt trong môi trường và nhu cầu cải cách giáo dục là những đóng góp cần thiết trước muôn vàn chướng ngại đang diễn ra trước mắt. Tuy nhiên, việc kiến nghị hủy bỏ câu “Tiên học lễ, hậu học văn” thì hoàn toàn không nên thực hiện vì nó vừa thiếu cơ sở về đạo đức cũng như lý luận; vừa không thuyết phục trên căn bản nguyên lý giáo dục và đạo lý dân tộc.

Trong mọi công cuộc cải cách và đổi mới cần xác định một cách khách quan và khoa học rằng, không hề có một nguyên nhân đơn lẻ nào có đủ tầm vóc quyết định huống hồ đây chỉ là một câu nói mang tính tục ngữ, châm ngôn lâu đời chứ không phải là khẩu hiệu nhất thời. Học lễ trước để chuẩn bị những điều kiện sẵn sàng cho bước học văn tiếp theo là một trình tự diễn tiến rất “lôgich” không bao giờ lỗi thời hay phai cũ.

Sacramento Thanksgiving 2021

Trần Kiêm Đoàn, Ph.D., MSW


NHO GIÁO VÀ CHỮ 'LỄ' CÓ TRÓI BUỘC

 CON NGƯỜI ?

NGUYỄN VĂN NGHỆ/ TD 29-11-2021

Năm 2016 GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm khẳng định: “Giáo dục hỏng chính là do triết lý giáo dục sai lầm”. Ông phân tích: “Chính là do ảnh hưởng của triết lý giáo dục con ngoan trò giỏi mà chúng ta đã khôi phục khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” ở khắp nơi, cứ tưởng rằng xã hội lộn xộn thì chỉ cần gò trẻ em vào lễ là xong. Nề nếp do lễ mang lại ở đâu chưa thấy, trong khi ai cũng biết rằng, Nho giáo và chữ Lễ trói buộc con người, không cho sáng tạo thì rất rõ. Không sáng tạo làm sao có phát triển?

Ngày 21/11/2021 tại Hội thảo giáo dục chủ đề “Văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới Giáo dục – Đào tạo” do Ủy Ban Văn hóa Giáo dục của Quốc hội tổ chức, ông Trần Ngọc Thêm đã đề nghị “Cần chấm dứt sử dụng khẩu hiệu ‘Tiên học lễ. hậu học văn’ để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo”.

Nho giáo và chữ Lễ có trói buộc con người, không cho sáng tạo như nhận định của ông Trần Ngọc Thêm không?

Tác dụng của Lễ trong cuộc sống

Ý nghĩa của chữ “Lễ” rất là rộng, không chỉ gói gọn trong lễ nghi, lễ giáo. Nếu ai đã đọc qua phần khái quát chữ Lễ trong tác phẩm Nho giáo của cụ Trần Trọng Kim thì mới thấy chữ Lễ rất là thâm thúy. Lễ đã làm cho tất cả sinh hoạt trong xã hội đều có quy củ: “Đạo đức nhân nghĩa, không có lễ không thành; dạy bảo, sửa đổi phong tục, không có lễ không đủ; xử việc phân tranh kiện tụng, không có lễ không quyết; vua tôi, trên dưới,cha con, anh em, không có lễ không định; học làm quan, thờ thầy, không có lễ không thân; xếp đặt thứ vị trong triều, cai trị quân lính, đi làm quan, thi hành pháp lệnh không có lễ không uy nghiêm; cầu khấn tế tự, cung cấp quỷ thần, không có lễ không thành kính, không trang chính. Bởi thế cho nên quân tử dung mạo phải cung, trong bụng phải kính, giữ gìn pháp độ, thoái nhượng, để làm sáng rõ lễ”. (Lễ ký: Khúc lễ thượng).

Lễ khiến cho sự hành vi của con người có chừng mực, để lúc nào cũng hợp với đạo trung: “Cung kính mà không có lễ thì phiền, cẩn thận mà không có lễ thành ra sợ hãi, dũng mà không lễ thì loạn, trực mà không có lễ thành ra vội vã”. (Luận ngữ: Thái Bá, XIII).

Nếu không có lễ, lấy gì mà phân biệt nghĩa vua tôi, trên dưới cho có đạo lý? “Trong những cái của dân cậy mà sinh hoạt thì lễ là to hơn cả. Không có lễ thì không phân biệt ngôi vua tôi, trên dưới , lớn bé; không có lễ thì không có thể phân biệt cái lòng thân của trai gái, cha con, anh em, sự giao tiếp về hôn nhân về người thân hay người sơ”. (Lễ ký: Ai công vấn, XXVII).

Những cái tình của con người thì ẩn khuất ở trong lòng không sao biết được, chỉ có Lễ mới ngăn giữ mà thôi:  “Cái đại dục của người ta là ở việc ăn uống, trai gái, bao giờ cũng có, cái đại ố của người ta là ở sự chết mất, nghèo khổ , bao giờ cũng có. Cho nên dục, ố là cái mối lớn của tâm vậy, người ta giấu kín cái tâm không thể dò xét được; cái hay cái dở đều ở trong tâm, không hiển hiện ra ngoài. Nếu muốn tóm lại làm một để biết cho cùng mà bỏ Lễ (xả lễ) thì lấy gì mà biết được”. (Lễ ký: Lễ vận, IX).

Lễ giống như con đê ngăn lũ: “Phù lễ cấm loạn chi sở do sinh, do phường chỉ thủy chi tự lai dã”. (Lễ là sự cấm loạn sinh ra, như đường đê giữ nước không đến vậy – Lễ ký: Kinh giải, XXVI).

Tác dụng của lễ thật là quảng đại, thật là tinh vi, đủ chứng là tâm lý học của Nho giáo sâu xa vô cùng. Tác phẩm “Trung Quốc triết học sử” ghi lời nhận xét của Hồ Thích: “Trong cái nghĩa rộng chữ Lễ có hàm cái tính chất pháp luật, nhưng lễ thì thiên trọng về cái quy củ tích cực, mà pháp luật thì thiên trọng về cái cấm chế tiêu cực. Lễ thì dạy người ta nên làm điều gì và không nên làm điều gì; pháp luật thì cấm không cho làm những việc gì, hễ làm thì phải tội. Người làm điều trái Lễ thì chỉ bị người quân tử chỉ nghị chê cười, chứ người làm trái pháp luật thì có hình pháp xét xử”.

Dùng Lễ có lợi hơn là có thể ngăn cấm được việc chưa xảy ra, mà dùng pháp luật thì chỉ để trị cái việc đã có rồi, bởi vậy thánh nhân chỉ trọng Lễ, chứ không trọng hình: “Phàm cái biết của người ta chỉ biết được cái đã có rồi, không biết được cái sắp có. Lễ là để cấm trước cái sắp có, pháp luật là để cấm sau cái đã có rồi… Lễ vậy, lễ vậy, lễ quý là dứt được điều ác từ lúc chưa nảy mầm ra, dấy lòng kính ở chỗ người ta không trông thấy, để cho dân ngày ngày đến gần điều thiện, xa điều tội, mà tự mình không biết”. (Đại đái Lễ ký: Lễ tế).

Người xưa dùng đức trị, Lễ trị chứ không muốn dùng pháp chế: “Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ. Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách”. (Nếu nhà cầm quyền chuyên dùng pháp chế, cấm lệnh mà dẫn dắt dân chúng, chuyên dùng hình phạt mà trị dân, thì dân sợ mà chẳng dám phạm phép thôi, chớ họ chẳng biết hổ ngươi. Vậy muốn dẫn dắt dân chúng, nhà cầm quyền phải dùng đức hạnh, muốn trị dân, nhà cầm quyền phải dùng Lễ tiết, thì chẳng những dân biết hổ ngươi, họ lại còn cảm hóa và trở nên tốt lành – Luận ngữ: Vi chính, II)

Nho giáo và chữ Lễ không hề trói buộc con người

Ông Trần Ngọc Thêm bảo: “Trong khi ai cũng biết rằng, Nho giáo và chữ Lễ trói buộc con người…” có vẻ như võ đoán. Theo tôi không phải “ai cũng biết rằng…”, chỉ có những người nghiên cứu Nho giáo một cách hời hợt và bị ảnh hưởng cách giáo dục theo đường lối cộng sản mới có kết luận về Nho giáo như vậy.

Nhiều người nghiên cứu về Nho giáo một cách hời hợt bảo rằng: Người Âu Mỹ nào có “tiên học lễ” mà vẫn văn minh! Xin thưa là quốc gia, dân tộc nào cũng đều có hấp thụ chữ Lễ cả, nhưng cách thể hiện Lễ thì mỗi nơi mỗi khác. Nếu không có Lễ thì làm sao trong quốc gia của họ lại có tôn ti trật tự được?

Có những học thuyết mới ra đời chỉ mươi năm mà đã bộc lộ những sai lầm một cách rõ rệt, huống chi học thuyết Nho giáo xuất hiện đã hơn hai ngàn năm thì làm sao tránh khỏi những khiếm khuyết! Khi tiếp thu văn hóa, ta đón nhận những cái tinh hoa, còn những gì lạc hậu, lỗi thời thì ta loại bỏ. Nhà nghiên cứu Will Durant đã nhận xét về Nho giáo: “Không nên trách Khổng tử về tất cả những nhược điểm ấy. Không ai lại đòi một triết gia phải suy tư cho hai chục thế kỷ. Trong một đời người làm sao có thể tìm được con đường đưa tới tri thức cho hết thảy các đời sau. Mà rất ít người làm nhiệm vụ ấy một cách đầy đủ như Khổng tử. Càng hiểu rõ ông, chúng ta càng ngạc nhiên rằng chỉ có một phần nhỏ trong đạo của ông là không hợp với khoa học, với những sự biến đổi do thời gian. Khi ta nhận thấy rằng ngay ở thời đại chúng ta, ông vẫn còn là người chỉ đường chắc chắn cho chúng ta, thì chúng ta quên những lời đôi khi hơi nhàm của ông và đức độ quá hoàn toàn của ông làm cho ta có lúc chịu không nổi”.

Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, cựu Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội đã luyến tiếc cho truyền thống Nho giáo đã “bị đứt gãy” ở Việt Nam: “Với đội ngũ hành chính – công vụ ở các nước Đông Bắc Á, tôi thấy truyền thống Nho giáo sâu xa đã giữ gìn được sự liêm sỉ đích thực.

Ở các nước ấy truyền thống Nho giáo liền mạch, chứ không bị đứt gãy như ở Việt Nam. Thời phong kiến xưa, ở Việt Nam ta từng có những ông quan sn sàng xây dựng kênh rạch tưới tiêu xuyên qua đất của mình. Có liêm chính, có tinh thần phụng sự quốc gia, những người này sẳn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích quốc gia, chứ tuyệt đối không nắn chỉnh kênh rạch thành một đường cong mềm mại.

Tất nhiên vào những thời suy, quan lại phong kiến tha hóa, xấu xa không phải là không có, nhưng vào những thời thịnh, số lượng quan thanh liêm là rất nhiều. Sự thịnh trị có được chính là nhờ vào đội ngũ quan lại thanh liêm như vậy.

  Bây giờ chúng ta phải tìm cách khơi gợi, nuôi dưỡng trở lại cái tinh thần bị đứt gãy ấy. Lương bổng là cần, nhưng lương bổng chỉ là một nửa của vấn đề. Một nửa còn lại chính là tinh thần, đạo đức, cốt cách và sự liêm sỉ”.

Cách nhận định về Nho giáo của ông Trần Ngọc Thêm rất là hời hợt. Trong tác phẩm “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của ông có 13 trang viết về Nho giáo và Văn hóa Việt Nam, ông đã đưa ra nhiều dẫn chứng sai lạc về Nho giáo. Ông đã cố ca ngợi ông Hồ Chí Minh: Chính vì đặt nước lên trên mà một người xuất thân từ dòng dõi Nho gia như Hồ Chí Minh dám đi ngược lại giáo huấn của Nho giáo: Dám bỏ lại cha già để đi tìm đường cứu nước tại trời Tây xa xôi (theo Nho giáo thì “phụ mẫu tại bất viễn du” – cha mẹ còn, con không được đi xa).

Cách giải thích như vậy chúng tôi gọi là giải thích theo kiểu “tắc tử”, “nửa vời”. Nho giáo nào cấm khi cha mẹ còn, con không được đi xa. Sách Luận ngữ, ở thiên Lý nhân ghi rõ ràng: “Phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu phương”. (Trong khi cha mẹ còn sanh tiền, phận làm con chớ có đi chơi xa, như có đi chơi xa thì thưa trước cho cha mẹ biết để cha mẹ an tâm).

Trong câu ấy gồm hai vế, nhưng ông Trần Ngọc Thêm chỉ lấy vế đầu giải thích để đạt được mục đích là cố ca ngợi ông Hồ Chí Minh, để rồi quy kết “Nho giáo và chữ Lễ trói buộc con người”!

Ông Trần Ngọc Thêm nghiên cứu về Nho giáo một cách hời hợt “Khẩu hiệu ‘Tiên học lễ, hậu học văn’ là sản phẩm của nền giáo dục Nho giáo, phục vụ cho mục tiêu đào tạo người thừa hành, coi việc đòi hỏi người dưới phải phục tùng và giữ “lễ” với người trên là yêu cầu số 1”. Có phải “Tiên học lễ đòi hỏi quan hệ một chiều” không?

Vua Định công nước Lỗ hỏi Khổng tử: “Vua khiến bề tôi, bề tôi thờ vua phải như thế nào?” Khổng tử đáp: “Vua lấy Lễ mà đãi bề tôi, bề tôi lấy trung mà thờ vua” – (Luận ngữ: Bát dật, 19). Hoặc Mạnh tử bảo với Tề Tuyên vương: “Vua xem bề tôi như tay chân, thì bề tôi xem vua như bụng như lòng. Vua xem bề tôi như chó ngựa, thì bề tôi xem vua như người lạ trong nước. Vua xem bề tôi như đất như cỏ, thì bề tôi xem vua như giặc như thù”. (Mạnh tử: Ly lâu, Chương cú hạ 3). Như vậy quan hệ về Lễ trong Nho giáo là quan hệ hai chiều chứ không phải như nhận định của ông Trần Ngọc Thêm!

Do nghiên cứu hời hợt nên ông Trần Ngọc Thêm khẳng định: “Chừng nào còn đề cao chữ ‘Lễ’ thì người học còn bị trói buộc trong quan hệ kính trọng một chiều. chấm dứt sử dụng khẩu hiệu ‘Tiên học lễ, hậu học văn’ sẽ là điều kiện cần để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo”.

Tác giả Lê Học Lãnh Vân không quan niệm như ông Trần Ngọc Thêm: “Tư duy phản biện không bị trói buộc bởi quan niệm ‘Tiên học lễ’. Nó bị trói buộc bởi cả một cách tổ chức xã hội, trong đó ngôn luận không được tự do. Khi không có tự do báo chí, thì rõ ràng không có tự do ngôn luận. Khi luật pháp có thể bỏ tù người dân vì ý nghĩ trong đầu của họ thì rõ ràng không có tự do tư tưởng rồi”. Tự do sẽ là chìa khóa cho sự Khai phóng!

Hậu quả của việc bỏ cũ theo mới ở Việt Nam hiện nay

Trong thời gian trước đây, những ai sinh ra và lớn lên được giáo dục dưới mái trường xã hội chủ nghĩa đều bị nhồi nhét tư tưởng cho rằng “Nho giáo là bảo thủ lỗi thời và kiềm hãm sự phát triển của xã hội”. Khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” là “tàn dư tệ hại của Khổng giáo” cho nên “chúng ta không thể dung hòa được với Khổng giáo và hệ tư tưởng phản động và bảo thủ của nó” và “chúng ta phải kiên trì đấu tranh để quét sạch nó ra khỏi mọi lãnh vực của đời sống xã hội như quét sạch những đống rác bẩn vậy!

Dân tộc Việt Nam đã trải qua một thời gian dài chịu ảnh hưởng Nho giáo. Khi những người cộng sản Việt Nam nắm chính quyền ở miền Bắc thì quyết tâm phá bỏ nền văn hóa cũ để xây dựng một nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa. Về đạo đức chỉ dạy “đạo đức cách mạng”. Riêng ở Miền Nam, vào năm 1958, Tổng thống Ngô Đình Diệm ra lệnh thành lập Hội Khổng học trên tất cả các tỉnh thành để tiếp tục duy trì quảng bá đạo đức cương thường của tổ tiên. Về triết lý giáo dục dựa trên nền tảng: Nhân bản – Dân tộc – Khai phóng.

Việc bỏ cũ theo mới được cụ Trần Trọng Kim nhận xét trong “lời phát đoan” của tác phẩm Nho giáo: “Xét ra cho kỹ, sự bỏ cũ theo mới của ta hiện thời bây giờ không phải là không cần cấp, nhưng vì người mình nông nổi, không suy nghĩ cho chín, chưa gì đã đem phá hoại cả đi, thành thử cái xấu, cái dở của mình thì vị tất đã bỏ đi được, mà lại làm hỏng mất cái phần tinh túy đã giữ cho xã hội của ta được vững bền hàng mấy nghìn năm nay. Phàm người ta muốn bỏ cái cũ đã hẩm nát, tất là phải có cái mới tốt hơn, đẹp hơn để thay vào. Nay ta chưa có cái mới mà đã vội vàng bỏ cái cũ đi, thành ra đổ nát cả, mà không có cái gì thay vào được. Ấy là cái tình trạng nước ta ngày nay là thế, khác nào như chiếc thuyền đi ra giữa biển, đánh mất địa bàn chỉ nam, không biết phương hướng nào mà đi cho phải đường, cứ lênh đênh mãi, không khéo lại bị sóng gió va vào đá vỡ tan mất cả. Đó là điều ta nên biết để tìm cách mà chữa lại được chút nào chăng”.

Chính do những người cộng sản chủ trương đoạn tuyệt với nền luân lý đạo đức duy lý nhã nhặn mà tổ tiên ta đã hấp thụ qua biết bao nhiêu thế hệ, để chạy theo học thuyết duy lý hung hăng của Đức, Nga mà hậu quả theo kết quả điều tra ở Việt Nam vào năm 2006 cho thấy: Tỷ lệ nói dối cha mẹ ở học sinh cấp Tiểu học là 22%, cấp Trung học Cơ sở là 50%, cấp Trung học Phổ thông là 64%, Sinh viên là 80%.

Chữ Lễ không hề trói buộc con người như lập luận của ông Trần Ngọc Thêm. Người Việt Nam ai cũng sợ mang tiếng là “đồ vô lễ”. Con người mà “vô lễ” thì sẽ không từ bỏ bất cứ hành động gian ác nào.

Để ngày càng hoàn thiện trên con đường đạo đức, mỗi người phải luôn tu thân tức là “khắc kỷ phục lễ” (chế thắng lòng tư dục của mình và theo về lễ tiết – Luận ngữ: Nhan Uyên, XII), phải “ước ngã dĩ lễ” (dùng lễ tiết mà ước thúc thân tâm ta – Luận ngữ: Tử Hãn, IX). Tu thân không miễn trừ một ai (Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân nhất thị giai dĩ tu thân vi bản). Sau khi đã “khắc kỷ phục lễ” thì mọi người sẽ: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động” (không phải lễ thì chớ trông, không phải lễ thì chớ nghe, không phải lễ thì chớ làm – Luận ngữ: Nhan Uyên, XII).

Người giàu sang biết Lễ thì không dâm tàn, không kiêu căng; người bần tiện biết Lễ thì không nản chí, không làm bậy; cán bộ, viên chức mà biết Lễ thì biết cách lo cho dân, cho nước.

Nếu như cán bộ quan chức trong bộ máy đảng và chính quyền nước ta hiện nay biết “khắc kỷ phục lễ”, biết “ước ngã dĩ lễ” thì đâu đến nỗi bà cựu Phó Chủ tịch Nguyễn Thị Doan phải thốt lên trước bàn dân thiên hạ: “Cái liều vacxin tiêm cho một cháu lại san ra tiêm cho hai cháu ngay tại Hà Nội. Tôi càng đi càng thấy buồn, ăn của dân không từ một cái gì”. Nói theo ngôn ngữ dân gian thì quan tham “ăn tận đáy quần chúng”.

Những gì là tinh hoa văn hóa của nhân loại (không cần phân biệt là “sản phẩm của Nho giáo” hoặc Phật giáo hoặc Ki tô giáo…) thì chúng ta sẵn sàng tiếp nhận để làm cho nền văn hóa của dân tộc ta ngày càng thêm phong phú!

Nguyễn Văn Nghệ, Diên Khánh – Khánh Hòa

'TIÊN HỌC LỄ, HẬU HỌC VĂN'-TRAO ĐỔI Ý

 KIẾN VỚI TIÊN SINH NGUYỄN VĂN NGHỆ

NGUYỄN ĐÌNH CỐNG/ TD 1-12-2021

GS Trần Ngọc Thêm viết: “Cần chấm dứt sử dụng khẩu hiệu ‘Tiên học Lễ, hậu học Văn’ để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo...” Theo tôi, viết như thế không sai, nhưng chỉ đúng một phần. Không phải toàn bộ Lễ cản trở tư duy phản biện mà chỉ một phần nào đó của Lễ có tác dụng cản trở hành động phản biện của người dưới đối với người trên (bị cho là vô lễ vì dám cãi lại, dám phản bác). Còn để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo thì cần chống lại lực cản lớn gấp hàng ngàn, hàng vạn lần cái điều do một phần của lễ giáo. Lực cản này nhiều người thấy rõ, đã viết nhiều nơi, gần đây được Hiếu Chân vạch ra (bài “Nói thêm về điều ông Thêm không dám”), Hà Sĩ Phu nhắc lại (bài “Thế nào là Tiên học Lễ hậu học Văn”) và một vài tác giả khác đề cập đến.

Tuy nêu nhận xét như trên, nhưng tôi hưởng ứng việc bỏ “khẩu hiệu Tiên học lễ…” như đã giải thích trong bài “Hưởng ứng GS Trần Ngọc Thêm bỏ khẩu hiệu Tiên học lễ”. Đó là bỏ khẩu hiệu chứ không bỏ việc học Lễ, bỏ là bỏ việc học Lễ được đặt lên hàng đầu khi mà trong nội dung của Lễ có những phần không còn thích hợp. Điều cần thiết trước tiên là đề cao đạo nghĩa làm người, là học làm người lương thiện, người tử tế. Trong con người đó thì Lễ chỉ chiếm phần nhỏ và nặng về hình thức, còn có nhiều thứ khác quan trọng hơn. Ông cha ta đề cao việc học Lễ là đúng, là phù hợp với thời trước, còn ngày nay nếu đề lên cao quá việc học Lễ (Tiên học..) thì bên cạnh cái lợi còn gặp phải cái hại, trong khi vẫn có thể và nên dùng biện pháp khác có hiệu quả hơn là dùng khẩu hiệu để thực hành đạo đức.

Đã có nhiều tác giả viết bài bênh vực cho Lễ, trong đó tôi thấy các bài của tiên sinh Nguyễn Văn Nghệ là đáng quan tâm. Tiên sinh đã dẫn ra rất nhiều câu để chứng minh cho sự cần thiết của Lễ. Nếu chỉ đọc những câu lấy từ các sách kinh điển của Đạo Nho như Luận Ngữ, Lễ Ký, Mạnh Tử thì tiên sinh hoàn toàn đúng. Nhưng xin nhớ rằng “Tận tín thư bất như vô thư” (Quá tin vào sách thì thà không có sách). Ngoài những câu đã được tiên sinh trích dẫn tôi xin bổ sung vài câu liên quan về thực hành lễ, ví như câu “ Tư bất xuất kỳ vị…Bất tại kỳ vị bất mưu kỳ chính…” Tuy vậy, ngoài sách kinh điển ra hãy dùng cuộc sống và các trường phái khác để đối chiếu, để kiểm chứng.

Theo sách vở cũng như theo sự trình bày của tiên sinh thì Lễ rất quan trọng vì nó làm cho mọi sinh hoạt có quy củ, cũng giống như hiện tại người ta nói về luật pháp, tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm, điều lệ, nội quy v.v…Tất cả những thứ đó là rất cần thiết, nhưng chưa phải là bản chất, nó chỉ thể hiện ra bên ngoài dưới cài vỏ hình thức. Bản chất là tinh thần chứa bên trong. Đó là đạo lý, công lý, là sự nghiêm khắc kết hợp với nhân đạo, bao dung, là tôn trọng nhân quyền và dân chủ. Với đạo Phật, đó là “TÂM”. Với đạo làm người thì đó là lòng trung thực, tình yêu thương và tôn trọng đồng loại, là đức tính tự tin, tự lập, tự trọng, là đức liêm chính.Trong nội dung của Lễ không có những thứ này. Nếu ở một nơi nào đó có ai ghép những đức tính vừa nêu vào với Lễ thì phải chăng đó là sự gán ghép khập khiễng.

Với trẻ khi chưa có trí khôn, chưa có nhận thức thì có thể dạy vài điều về lễ phép một cách hình thức, máy móc như chào hỏi, thưa gửi. Nhưng với trẻ đã có trí khôn thì phải quan tâm nhiều hơn đến đạo lý. Khi xem Lễ là những bông hoa đẹp trên thân cây thì đạo lý là gốc rễ. Hãy chăm lo cho gốc rễ bền vững rồi sau mới chăm cho hoa lá.

Trong đời tôi đã từng gặp những nhà giáo dục rất biết chăm lo đến dạy đạo nghĩa, trên cơ sở đó mới dạy về Lễ. Cách giáo dục như vậy tạo nên những con người có phẩm chất cao. Ngược lại những bậc bề trên nặng về dạy Lễ mà không chú ý đúng mức đến đạo lý thì dễ phạm phải những lệch lạc, tạo nên những đứa trẻ thụ động hoặc đa nhân cách. Tạo nên trẻ theo kiểu con ngoan, trò ngoan, chỉ biết thụ động vâng lới, không biết suy nghĩ linh hoạt khi người giáo dục còn giữ được nhân cách để làm gương và trẻ là những đứa yếu bản lĩnh. Tạo nên trẻ đa nhân cách khi chúng là những đứa có bản lĩnh mà người giáo dục lại không thực hiện được “thân giáo”, không nêu được gương tốt cho trẻ. Phải chăng đó là những kẻ “xảo ngôn lệnh sắc” (nói hay, mặc đẹp), những kẻ đạo đức giả. Tôi đã biết những đứa trẻ rất lễ phép trước mặt cha mẹ, ông bà, nhưng lại là tay trộm cắp siêu hạng. Tôi đã chứng kiến những người rất lễ phép với cấp trên ở trước mặt nhưng sau lưng thì chửi rủa thậm tệ. Tôi cũng biết nhiều trường hợp người ta dựa vào sự kiên định theo chủ nghĩa mà đàn áp tàn khốc những người bất đồng chính kiến, những người làm phản biện, họ cho như thế là thực hành lễ giáo của họ. Chắc rằng tiên sinh Nguyễn Văn Nghệ và nhiều người khác cũng biết những chuyện tương tự.

Tôi đã đọc ở đâu đó ý sau: Giữa vợ-chồng, cha mẹ-con cài , thầy-trò… nếu không có Lễ, không giữ được Lễ thì không thể có sự yêu thương, kính trọng cần thiết. Tôi nghĩ ngược lại hoàn toàn. Chính là tại vì giữa họ thiếu tình yêu thương, thiếu sự kính trọng mới để xảy ra sự thiếu Lễ. Phải chăng đã có ai đó nhầm lẫn giữa nguyên nhân và kết quả.

Theo Lão Tử thì quan trọng nhất là Đạo, mất Đạo mới cần đến Đức, sau Đức là Nhân, sau Nhân là Nghĩa, sau Nghĩa mới đến Lễ. Thế mà đề lên hàng đầu việc học Lễ thì Đạo, Đức, Nhân, Nghĩa đặt vào đâu. Học Lễ, hành Lễ xin cứ học, cứ hành, chỉ đừng nêu thành khẩu hiệu và đặt nó lên hàng đầu. Ở các nước người ta vẫn thực hành việc giao tiếp có văn hóa, người ta tôn trọng tự do và sự khác biệt, nhưng không nêu ra khẩu hiệu Tiên học cái này, hậu học cái kia. Phải chăng đó là một kiểu “Vô Vi”.

Xã hội VN trong thời gian qua có sự xuống cấp của đạo đức. Một số người hy vọng đề cao việc học Lễ thì sẽ cứu vãn được tình thế vì vậy mà ủng hộ hết lòng khẩu hiệu Tiên học Lễ. Nguyên nhân cơ bản làm xuống cấp đạo đức nằm ở nơi khác chứ không nằm ở nơi không dùng khẩu hiệu Tiên học Lễ. Vì thế mà dù cho đề lên rất cao, hô rát cả họng hàng ngày câu khẩu hiệu đó nhưng không tìm đúng nguyên nhân cơ bản để khắc phục thì vẫn phải nhìn đạo đức tiếp tục xuống cấp hơn nữa. Phải chăng nguyên nhân cơ bản làm xuống cấp đạo đức cũng trùng với nguyên nhân hạn chế sự phản biện và sáng tạo đã viết ở trên.

Những bài viết của ông Nguyễn Văn Nghệ tỏ rõ sự học vấn uyên thâm, lòng thiết tha mong mỏi chấn hưng đạo đức. Tôi xin gọi là tiên sinh để thể hiện lòng kính trọng, đoán rằng ông lớn tuổi hơn tôi. Nhưng nếu không lớn tuổi hơn mà có học vần uyên thâm thì cũng đáng được gọi là tiên sinh trước khi có thể trở thành bằng hữu.

Có vài lời trao đổi, mong thể hiện được lòng chân thành. Tiên sinh có lời gì trao đổi xin gửi cho ndcong37@gmail.com (37 là năm sinh).

N.Đ.C.

Tác giả gửi BVN


AI HỌC 'TIÊN HỌC LỄ, HẬU HỌC VĂN' ?

TRẦN THANH MINH/ TD 1-12-2021

Việc GS Trần Ngọc Thêm đề xuất: “Cần chấm dứt sử dụng khẩu hiệu ‘Tiên học lễ, hậu học văn’…” đã thu hút được nhiều người quan tâm và cũng đã có nhiều bài viết phản biện, cũng như “hưởng ứng” rất sắc sảo trên báo Tiếng Dân. Dù sau đó, thầy cũng đã lý giải trên báo chí rằng “Tôi đề xuất bỏ cách nói ‘tiên học lễ’ chứ không phải bỏ học lễ”. (*)

Đọc các bài phản biện hay “hưởng ứng” với đề xuất trên, tôi nhận thấy rằng mọi ý kiến đưa ra vẫn dựa trên những góc nhìn xoay quanh các trục khái niệm: “Lễ” – “Văn” và “Tiên” – “Hậu” mà chưa thấy đề cập đến “Học” trong câu “Tiên HỌC Lễ, hậu HỌC Văn”.

Theo tôi, để hiểu câu “Tiên học lễ, hậu học văn”, không thể chỉ xoay quanh các trục “Tiên – Lễ”, “Hậu – Văn”. Việc này chỉ dẫn đến việc tầm chương trích cú, mà rõ ràng điều này là chưa đủ. Nó không dành không gian cho việc tự đối thoại của người học mà cũng chính là người dùng. Ví như, anh tân binh mới nhập ngũ, hay người cha dạy đứa con thơ 2 tuổi sẽ hiểu câu này ra sao.

Nếu đề nghị các bạn học sinh lớp 9 làm một bài nghị luận về câu này và không kèm một yêu cầu nào khác, thì cách hiểu “Lễ” là lễ phép và “Văn” là chữ nghĩa có lẽ là không hiếm. Khi đó, việc trách cứ không biết “Lễ” mà các cụ Đồ xưa đã hiểu, thì thật có vấn đề khi đã đánh đồng điều các em hiểu và điều các em phải hiểu trong bối cảnh “xưa”.

Như tôi biết, “Học” ngoài cái nghĩa bị động là bắt chước, thì còn là việc nghiên cứu mà biết tới giường mối ngọn ngành. (**) Cái giường mối ngọn ngành ấy phải chăng là chỉ cốt làm sao nguyên bản, còn cái bối cảnh được “học” và được sử dụng bởi người học thì bị bỏ qua.

Việc cắt nghĩa “Tiên – Lễ” và “Hâu – Văn” ra khỏi bối cảnh dụng nghĩa của nó, đẩy việc “Học” vào thế bị động, đồng thời nâng các trục khái niệm trên lên tầm chân lý mang tính phổ quát hay kiểu cân đo lợi – hại để rồi phán xét là nên bỏ hay không, hay một cách ít nhiều mang tính nước đôi là bỏ “khẩu hiệu”. Theo tôi, đó là một việc làm chưa phù hợp.

Vì vậy, thay vì đặt vấn đề bỏ hay không bỏ “Tiên học lễ, hậu học văn” mà tôi tin vấn đề đã được nêu ra từ rất lâu, cách đây cả mấy chục năm trước, thì có nên tự hỏi là: Ai “HỌC” “Tiên học lễ, hậu học văn”?

Nếu người học và người dạy vẫn với cái tâm thế thời xa xưa ấy thì xin các vị hãy dâng sớ cất “Tiên học lễ, hậu học văn” vào hòm niêm phong cẩn mật. Còn nếu người học và người dạy ở tâm thức tự do, khai phóng, “tự học” và tôn trọng việc “tự học” của người học, thì việc này xem ra là thừa.

Chính người “HỌC” sẽ quyết định lấy cách hiểu và cách dùng câu “Tiên học Lễ, hậu học Văn” mà không cần phải một quyết định từ một ý chí nào đó của ngày hôm nay.

Hãy đào tạo những con người “Học” thật sự, đủ bản lĩnh để chịu trách nhiệm trước việc “HỌC” của chính mình trước khi xếp xó một tri thức nào đó là giải pháp mà theo tôi là tốt hơn nhiều so việc bỏ hay không bỏ khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn”.

Trần Thanh Minh, 33 tuổi, kỹ sư kỹ thuật điện.

______

Tài liệu có trích dẫn:

 (*) https://nld.com.vn/giao-duc-khoa-hoc/gs-tran-ngoc-them-nhieu-nguoi-hieu-sai-y-toi-noi-20211128105628572.htm

(**) https://hvdic.thivien.net/whv/%E5%AD%B8

MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ CÂU 'TIÊN HỌC LỄ, HẬU HỌC VĂN'

HOÀNG KIM/ BVN 1-12-2021

Câu “Tiên học lễ, hậu học văn” không rõ ai nói và nói từ bao giờ, tác giả Nguyễn Hoàng Lan xếp câu “tiên học lễ, hậu học văn” vào tục ngữ Việt Nam (Tục Ngữ Việt Nam nhà xuất bản thanh niên). Cho nên, không hề có căn cứ nào để khẳng định chữ Lễ trong tiên học lễ là kinh lễ của Khổng Tử.

Lần đầu tiên câu “tiên học lễ, hậu học văn” được giải thích rõ ràng ở trong lời đề tựa của cuốn Sơ học độc bản do Quan chánh Đốc học Bắc Kỳ Pe'ralle ký tên năm 1915:

"Mục đích của những người làm sách này là cốt để khai tâm tính các con trước khi luyện trí: "Tiên học lễ, hậu học văn". Nghĩ như thế thật là rất phải vì biết ăn ở cho phải đạo là điều trước hết. Học giỏi là điều nên khen, nhưng học giỏi lại có nết na mới thực đáng khen hơn, mà vừa được mọi người quí mến."

Câu trên nếu ta bỏ “Tiên học lễ, hậu học văn” sẽ trở thành: “Mục đích của những người làm sách này là cốt để khai tâm tính các con trước khi luyện trí. Nghĩ như thế thật là rất phải vì biết ăn ở cho phải đạo là điều trước hết. Học giỏi là điều nên khen, nhưng học giỏi lại có nết na mới thực đáng khen hơn, mà vừa được mọi người quí mến.”. Thì nghĩa không đổi nhưng không có gì là lễ mễ cả.

Như vậy "Tiên học lễ, hậu học văn" là phương châm của các nhà làm sách giáo khoa tiểu học thời xưa có nghĩa là: Khai tâm tính trước khi luyện trí.

Khai tâm tính là dạy cho học sinh biết ăn ở phải đạo và có nết na. Nên có thể hiểu “Tiên học lễ, hậu học văn” có nghĩa là dạy cho học sinh tiểu học cách làm người trước khi dạy các môn luyện trí.

Phương châm khai tâm tính trước khi luyện trí ( tiên học lễ, hậu học văn) này được nhóm tác giả Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận triệt để áp dụng khi soạn Quốc Văn Giáo Khoa Thư.

Lời tựa cho lớp đồng ấu viết: “Trong sách có ba chương. Chương thứ nhất nói về bổn phận của đứa trẻ trong gia đình; chương thứ nhì nói về bổn phận của đứa trẻ ở học đường; chương thứ ba nói về những tính tốt, tính xấu của đứa trẻ”.

Tiên học lễ, hậu học văn không phải là một khẩu hiệu, nó là phương châm giáo dục của các nhà soạn sách giáo khoa tiểu học thời bấy giờ, vậy muốn xét lại phương châm này thì phải dựa vào Quốc Văn Giáo Khoa Thư, xem coi sách có dạy học sinh biết ăn ở cho phải đạo và có nết na trước khi dạy luyện trí hay không.

Vì thế, nếu đem câu “Tiên học lễ, hậu học văn” ra ngoài phương châm soạn sách giáo khoa cho học sinh tiểu học, rồi tranh luận “tiên học lễ, hậu học văn” như là một khẩu hiệu, như là một câu tục ngữ là điều vô căn cứ, còn chụp mũ lễ mễ cho câu “tiên học lễ, học học văn” là điều hết sức vô duyên.

Hiểu “Tiên học lễ, hậu học văn” là “ khai tâm tính trước khi luyện trí” thì không cần gì phải chấm dứt sử dụng khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo như GS-TS Trần Ngọc Thêm đề nghị cả.

Phương châm giáo dục có thể thay đổi theo thời gian, nên, nếu thấy học sinh tiểu học bây giờ thay đổi nhiều so với ngày xưa thì dùng phương châm khác để thay cho “tiên học lễ, hậu học văn”.

Thí dụ: Nếu muốn dạy luyện trí trước khai tâm thì cứ đề ra phương châm “luyện trí trước khai tâm”. Nếu muốn dạy cùng lúc thì đề ra “luyện trí và khai tâm đồng thời”… Nhưng điều lưu ý là phương châm mới phải được đưa vào sách giáo khoa dạy cho học sinh tiểu học chứ không phải chỉ là những khẩu hiệu dán trên tường.

Hiện nay phương châm giáo dục học sinh tiểu học là gì? Dạy cái gì trước cái gì sau? Xóa bỏ phương châm “tiên học lễ, hậu học văn” mà không có phương châm thay thế có thể khiến cho những nhà soạn sách giáo khoa tiểu học lạc lối rồi dạy cho học sinh tiểu học: “"Núi cao, sông hãy còn dài/Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen" thì hỏng cả nền giáo dục.

H.K.

Tác giả gửi BVN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét