Thứ Ba, 23 tháng 11, 2021

20211124. PHẢN BIỆN KHÔNG PHẢI LÀ 'MẠ THỦ'

 ĐIỂM BÁO MẠNG  

NGUYỄN ĐÌNH BIN-MỘT ĐẢNG VIÊN MÀ TÔI QUÝ TRỌNG

MẠC VĂN TRANG/ TD 14-11-2021


Ông Nguyễn Đình Bin trong lễ trao tặng huy hiệu 50 tuổi đảng. Ảnh Kim Dung


Anh Nguyễn Đình Bin sinh 1944, tại Kim Thành, Hải Dương, đồng hương với tôi, nhưng chưa gặp nhau ngoài đời, mà mới quen nhau trên FB chừng 2 năm nay. Tôi rất quý trọng Anh, vì anh từng trải từ cậu bé nhà quê nghèo đói, học giỏi, hiền lành vươn lên, đảm nhiệm nhiều trọng trách; từng là UVTW Đảng, Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao, nhưng qua FB thấy anh là người thật chân thành, giản dị, “dân dã”, bộc lộ quan điểm của mình một cách thẳng thắn, chân thực, không e ngại.

Nhiều quan chức mà tôi biết, họ cũng nghĩ như như anh Bin, như tôi, nhưng chỉ nói chuyện lúc “trà, rượu” với nhau, chứ không dám công khai trên mạng xã hội. Anh Bin thì cứ tự do suy nghĩ và biểu đạt đúng ý mình. Tất nhiên là nhà ngoại giao chuyên nghiệp hơn 50 năm, cách thể hiện của anh rất chừng mực, tinh tế…

Anh Bin rất nhất quán: Cái gì cũ cần trân trọng thì rất trân trọng; cái gì cần thay đổi thì đòi hỏi thay đổi; cái gì mới mẻ cần đón nhận thì hoan nghênh…

Những đảng viên như anh thực sự mới là người trung thành với lý tưởng cách mạng mà mình theo đuổi: Yêu nước, thương dân, đấu tranh vì một xã hội tiến bộ, vượt qua rào cản của ý thức hệ, không bị trói buộc vào lợi ích phe nhóm. Mong sao có nhiều đảng viên như vậy.

Nhân đây xin giới thiệu tâm sự của anh khi nhận Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, với “mong muốn ngày càng mãnh liệt, cháy bỏng là Đảng phải thực hiện ĐỔI MỚI VỀ CHÍNH TRỊ”…

***

NHẬN HUY HIỆU 60 NĂM TUỔI ĐẢNG

Sáu thập kỷ trước, khi tuyên thệ đứng trong đội ngũ chiến đấu của Đảng Lao động Việt Nam, tôi không hề nghĩ sẽ có ngày như hôm nay.

Mười năm qua, ba lần tôi nhận Huy hiệu tuổi Đảng đều với cảm xúc vui, buồn lẫn lộn. Vui vì tự thấy đã luôn phấn đấu thực hiện đúng lời tuyên thệ, kể cả sau khi đã nghỉ hưu. Buồn vì thực trạng của Đảng và của đất nước. Niềm vui thì vẫn vậy. Nỗi buồn thì ngày một lớn hơn, lan tỏa, bao trùm, sâu đậm, thấm thía, day dứt, lấn át hẳn niềm vui!

Tại các lễ trang trọng nhận Huy hiệu 50 năm và 55 năm, ở đảng bộ Bộ Ngoại giao, nơi tôi đã gắn bó, chiến đấu trên nửa thế kỷ, được phát biểu, tôi đều bầy tỏ cả niềm vui và nỗi buồn ấy; đồng thời nói lên mong muốn ngày càng mãnh liệt, cháy bỏng là Đảng phải thực hiện đổi mới về chính trị.

Huy hiệu 60 năm lần này tôi nhận tại Đảng bộ quận Nam Từ Liêm, Hà Nội. Do đại dịch cúm Tàu, Quận ủy không tổ chức lễ mà ủy quyền cho Đảng ủy phường Mỹ Đình 1 đến trao tại nhà, nên tôi không có cơ hội phát biểu tương tự.

Vậy, xin chia sẻ lại những suy tư cốt lõi tôi đã phát biểu hai lần trước, mà lần này càng cháy bỏng, mãnh liệt hơn trong tôi.

Sau đây là trích phát biểu khi nhận Huy hiệu 55 năm:

“… Cũng tại hội trường thân quen này, tôi đã được nhận tấm Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng… Hôm đó, tôi đã xúc động bầy tỏ lời tri ân vô hạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã giáo dục, rèn luyện tôi, từ con một người Cha thợ mỏ và một người Mẹ bần nông, sinh trưởng ở nông thôn, thủa thiếu thời lam lũ, mò cua móc ốc, chân lấm tay bùn, không được đào tạo gì về ngoại giao, trở thành một cán bộ, một lãnh đạo chủ chốt của ngành ta, đã làm tròn các trách nhiệm được giao, nay được nghỉ hưu hoàn toàn thanh thản.

Tôi đã nói lên niềm vui và tự hào vì tự nhìn lại mình một cách nghiêm túc, tôi có thể khẳng định: Từ khi vừa tròn 18 tuổi, được đứng trong đội ngũ chiến đấu của Đảng, “tôi đã luôn luôn phấn đấu, rèn luyện theo tiêu chuẩn đảng viên, nỗ lực làm tròn mọi nhiệm vụ Đảng giao phó, cố gắng thực hiện lời dậy của Bác Hồ “ cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”. Sai lầm, thiếu sót, khuyết điểm, nhược điểm, yếu kém… đều có. Nhưng tôi cảm thấy hoàn toàn thanh thản vì đã không hề làm điều gì vi phạm tư cách, phẩm chất người đảng viên, ảnh hưởng tới thanh danh của Đảng”.

Tôi cũng đã nói “cùng với lòng Biết ơn vô hạn đối với Đảng, với Bác Hồ, niềm tự hào về truyền thống vẻ vang của Đảng, tự hào là một đảng viên chân chính, tôi cũng thật buồn trước thực trạng của Đảng ta, của đất nước ta, của xã hội ta hiện nay mà các nghị quyết của Đảng đã thừa nhận”.

“Đảng ta là một đảng tiên phong, đảng cách mạng… Cũng như tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng đã vượt lên chính mình, đã chiến thắng tư duy giáo điều, bảo thủ, lạc hậu trong lãnh đạo kinh tế, để thừa nhận và vận dụng vào nước ta kinh tế thị trường, thành tựu chung của loài người cho đến giai đoạn hiện nay, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, thì giờ đây, đã đến lúc Đảng phải thay đổi có tính cách mạng tư duy chính trị, phải đoạn tuyệt mô hình quản lý đất nước và xã hội bảo thủ, giáo điều mà thực tế lịch sử các nước XHCN trên thế giới cũng như diễn biến tình hình của Đảng và đất nước ta một phần tư thế kỷ qua chứng minh là đã lạc hậu, là cội nguồn sâu xa nhất, cơ bản nhất dẫn đến thực trạng đáng buồn của Đảng, đất nước và xã hội ta hiện nay, để tiếp thu và vận dụng sáng tạo vào đất nước ta thành tựu chung của loài người trên phạm trù này mà tuyệt đại đa số các nước trên thế giới đã và đang thực hiện. Đó là mô hình thực sự phát huy được dân chủ, một nhà nước pháp quyền, thực sự của dân, do dân, vì dân; thực hiện hòa giải dân tộc thực sự và xã hội dân sự. Chỉ như vậy mới xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực sự, mới phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân; và trên cơ sở đó, hòa nhịp bước cùng thế giới, mới thực hiện được tốt nhất việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Chỉ có như vậy mới thực hiện được lý tưởng của Đảng, cũng là ước vọng bao đời nay và là quyền chính đáng của nhân dân ta: xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai cùng các nước tiên tiến trên thế giới.”

Hôm nay, nhận Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng, những tình cảm, suy tư nói trên của tôi lại càng sâu đậm, mãnh liệt hơn. Đặc biệt là mong muốn cháy bỏng của tôi về đổi mới mô hình quản lý đất nước hiện nay mà tôi muốn khẳng định lại chính “là cội nguồn sâu xa nhất, cơ bản nhất dẫn đến thực trạng đáng buồn của Đảng, đất nước và xã hội ta hiện nay” và tôi đã chờ đợi là Đảng ta sẽ thực hiện tại Đại hội XII , cơ hội lịch sử thực sự để làm điều đó, vì theo Điều lệ Đảng, Đại hội toàn quốc là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng có quyền quyết định tất cả, như tại Đại hội VI, dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Trường Chinh, đã quyết định thực hiện đổi mới về kinh tế, thực chất là thay đổi triệt để quan điểm và chủ trương của Đảng về kinh tế thị trường, mà trước đó Đảng coi là một bản chất của chủ nghĩa tư bản, hoàn toàn đối lập với CNXH. Nhưng thực buồn là Đảng đã bỏ mất cơ hội lịch sử đó!” (hết trích).

Và, Đại hội XIII vừa qua lại là một cơ hội lịch sử nữa Đảng cũng bỏ lỡ!

Diễn biến tình hình Đảng, đất nước và thế giới 5 năm qua, từ khi tôi phát biểu những lời vừa trích dẫn, đặc biệt, cuộc chiến đấu vô cùng cam go chống đại dịch cúm Tàu, một thách thức chưa từng thấy, đang diễn ra, như một cuộc đại giải phẫu, phơi bầy tất cả các mặt mạnh – yếu, tốt – xấu, tích cực – tiêu cực, hay – dở, ưu – nhược, nhất là các góc khuất, khuyết tật, bệnh hoạn, ung nhọt đang di căn của Đảng và xã hội ta, càng chứng minh hùng hồn và càng đòi hỏi cấp bách Đảng phải thực hiện đổi mới chính trị toàn diện và triệt để, như tôi đã bầy tỏ khi nhận Huy hiệu 50 năm, 55 năm và xin thống thiết nhắc lại nhân dịp nhận Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng lần này. Đó cũng là điều không ít lãnh đạo và nguyên lãnh đạo các cấp, đảng viên, trí thức trong và ngoài nước từ nhiều năm qua đã mạnh mẽ kiến nghị.

Đã 35 năm rồi Đảng mở đầu công cuộc đổi mới về kinh tế, tiếp đó là về đối ngoại. Nhưng về chính trị thì trì hoãn quá lâu, nay phải kiên quyết thực hiện để hoàn tất công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ theo đúng nghị quyết của Đảng.

Đó là con đường duy nhất để đưa Đảng và đất nước thoát khỏi thực trạng rất đáng buồn và lo ngại hiện nay, bảo vệ và phát huy được các thành tựu, tranh thủ được các thuận lợi, nắm bắt được thời cơ đang xuất hiện, bước vào một kỷ nguyên mới, thực sự độc lập, tự chủ, phát triển rực rỡ, hùng cường; dân giầu, tự do, hạnh phúc; nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; đồng thời, mới bảo vệ được toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, hải đảo, biển, trời của Tổ quốc đã và đang bị Trung Quốc xâm chiếm ngày càng nghiêm trọng ở biển Đông, cũng như trước các nguy cơ hiện hữu khác trong thế giới đang biến động khôn lường; nâng cao được danh dự, vị thế quốc gia, sánh vai với các nước tiên tiến; đóng góp xứng đáng cho nhân loại.

Chỉ như vậy Đảng mới không phụ lại sự hy sinh và cống hiến như trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của các lãnh đạo tiền bối cũng như của hàng triệu anh hùng, liệt sỹ, cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và đồng bào ta đã một lòng theo Đảng, suốt chặng đường đấu tranh quyết liệt từ khi Đảng ra đời; mới xứng đáng với truyền thống oai hùng mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của Dân tộc Việt Nam ta”.

BÊNH VỰC VIỆC LÀM HỢP ĐẠO LÝ

NGUYỄN ĐÌNH CỐNG/ BVN 18-11-2021

Đó là việc ông Nguyễn Đình Bin công bố bài “Nhận huy hiệu 60 năm tuổi đảng và suy ngm..” trình bày những tâm tư về hiện tình của Đảng và Đất nước, việc ông Mạc Văn Trang đăng bài “ Nguyễn Đình Bin- Một đảng viên mà tôi quý trọng” trình bày tình cảm và nhận xét về ông Bin.

Tôi hưởng ứng, đánh giá cao việc làm của hai ông, nghĩ rằng đó là việc hợp đạo lý. Chắc rằng nhiều người cũng nghĩ như vậy.

Tôi bênh vực vì có người chống lại với giọng điệu quá khích. Chống lại ý kiến người khác bằng phản biện là bình thường, đáng hoan nghênh, nhưng quá khích thì có hại cho cả hai bên. Tôi nói đến vài ý kiến của Tue-Hai Nguyen (THN) nhận được qua thông tin của bạn bè.

THN phê phán Mạc Văn Trang đánh giá nhầm ông Bin và cho rằng việc ông Bin “Học theo lời dạy của Bác Hồ” là sai lầm. THN viết: “Như thế, tôi sắp anh (MV Trang) và NĐ Bin vào hạng QUYẾT TÂM NGU, chẳng có gì OAN cho 2 người cả”.

Rồi THN còn mỉa mai: “Nếu quý trọng đảng viên Bin, ông Trang có thể nhờ ông Bin giới thiệu tái gia nhập đảng”. THN còn viết: “Rất thẳng thắn, Ông Trang nên bình tâm mà suy ngẫm”.

Viết bài này tôi xin dùng câu của ông THN để tự nhắc mình và nhắc ông, rằng “Ông Tue-Hai Nguyen nên bình tâm mà suy ngẫm”.

Tôi đoán THN là người chống cộng, chống Hồ rất kiên quyết và đang ở nước ngoài vì thế chưa thông cảm được với chúng tôi, những người đang đấu tranh chống độc tái toàn trị để dân chủ hóa đất nước. Biết chống ai là quan trọng, nhưng quan trọng hơn là biết phải làm gì, có thể làm được gì và làm như thế nào.

Trước hết nói về đảng viên. Trong họ có hai con người chung sống. Con người chính trị và con người công dân. Trong khi con người chính trị bắt họ phải kiên trì Mác Lê, trung thành với lý tưởng cộng sản, phải phục tùng mệnh lệnh của lãnh đạo đảng, biến họ thành công cụ đắc lực thì con người công dân hướng họ tới những việc lương thiện, tử tế, vì nước vì dân.

Xin đừng đánh đồng tất cả các đảng viên đều giống nhau. Hãy phân biệt họ và tin cậy vào những ai mà con người công dân còn chiếm ưu thế, họ có lương tri, biết phân biệt phải trái, tuy có bị nhồi sọ về đấu tranh giai cấp, về chủ nghĩa Mác Lê nhưng họ vẫn giữ được bản chất lương thiện, tử tế. Bản chất đó có thể đã bộc lộ, đang còn bị ẩn giấu, sẽ bộc lộ khi gặp điều kiện thuận tiện. Trong tập hợp đảng viên có một số ngu trung, cuồng tín, tôn thờ khẩu hiệu “còn đảng còn mình”, nhưng đó chỉ là số ít.

Trong dân gian có câu “Người ấy là đảng viên nhưng mà tốt” đã thể hiện cách đánh giá công bằng đối với những đảng viên còn giữ được sự lương thiện, tử tế.

Mạc Văn Trang đã tự tuyên bố bỏ đảng. Ông là một trong những người có giác ngộ và dũng cảm. Ông quý trọng đảng viên Nguyễn Đình Bin là quý trong phần con người công dân của ông ta chứ không phải quý trọng gì con người chính trị. Thế mà THN mỉa mai rằng ông Trang có thể nhờ ông Bin giới thiệu để tái gia nhập đảng. Đó là lời xúc phạm.

Để đấu tranh cho dân chủ hóa bằng con đường hòa bình cần tập hợp lực lượng. Lực lượng đó cần hiểu biết. Sự hiểu biết chủ yếu đến từ những người có khả năng nâng cao dân trí về chính trị, về nhân quyền, về dân quyền và hoạt động cho các việc đó.

Ở trong nước Việt bây giờ, những người như Mạc Văn Trang, Nguyễn Đình Bin được xem là đang có vai trò trong hoạt động nâng cao dân trí. Đành rằng các ông chưa thật hoàn hảo, còn có vài nhược điểm nào đó, nhưng bảo hai ông không chỉ ngu mà QUYẾT TÂM NGU thì những người chưa theo kịp hai ông là loại gì, như tôi đây là loại gì. Tôi viết là bênh vực việc làm của hai ông, đồng thời cũng để tự bênh vực.

THN tập trung ý kiến phê phán ông Hồ. Việc phê phán là được, nhưng quan trọng cần giữ khách quan, trung thực. Tôi từng viết một số bài phản biện việc học tập ông. THN kể ra một số việc liên quan đến ông Hồ chủ yếu là nói theo người khác cộng với suy diễn chứ không được như những người đã có nhiều tiếp xúc trực tiếp với ông ấy như Vũ Thư Hiên, Bùi Tín, Trần Đĩnh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Đăng Mạnh... Mà nghe kể và suy diễn thì dễ bị “tam sao thất bản”. Tôi không tôn sùng và bênh vực ông Hồ, nhưng theo chỗ tôi biết thì THN đã kể ra một số việc có thật về hình thức, nhưng quy kết về bản chất khác với điều tôi rút ra được qua dày công suy ngẫm..

Trong vụ Trần Dân Tiên, có khả năng ông Hồ bị oan vì lỗi của Tuyên huấn và Hội đồng lý luận khi cho rằng đó là một bút danh của ông. Đã có nghiên cứu cho rằng Trần Dân Tiên chính là Đặng Thái Mai (nhưng cũng chỉ là nghiên cứu).

Về danh xưng “cha già dân tộc”, đầu tiên không phải ông tự xưng mà do bọn nịnh hót. Tuy vậy ông có lỗi là không phản bác, không cải chính mà tự nhận. Về Nguyễn Thị Năm, Nhân văn Giai phẩm, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường và các trí thức, về cái chết của cô Xuân. Đúng là ông phải chịu trách nhiệm, nhưng quy kết như THN là có phần không được công bằng.

Ông Hồ có những ràng buộc, những hạn chế do đó đã phạm phải một số sai sót về công việc và đạo đức cá nhân, người ta đã lợi dụng ông sau khi ông chết để bày ra trò học tập này nọ. Một số người vì quen mồm hoặc vì một lý do nào đó mà nói rằng ‘Học theo lời dạy của Bác Hồ”. Điều này trong nhiều trường hợp có thể lượng thứ.

Xét một con người, như ông Trang, ông Bin khi các ông đã trên dười 80 tuổi, nên quan tâm đến quá trình và bản chất. Tôi bênh vực việc làm của hai ông, cho rằng nó hợp đạo lý chứ không phải như Tue-Hai Nguyên vội vàng kết luận.

N.Đ.C.

Tác giả gửi BVN

LỊCH SỬ 'DƯ LUẬN VIÊN'

NGUYỄN VĂN TUẤN/ BVN 22-11-2021


Mạ Thủ 罵手

Tôi mới học được một danh từ mới: mạ thủ. Một cách ngắn gọn, mạ thủ là một kẻ chuyên nghề chửi, giống như “dư luận viên” ngày nay. Lịch sử ra đời của mạ thủ vẫn còn mang tính thời sự ngày nay.

Có thể là tranh biếm họa về văn bản

“Mạ Thủ” - Theo tác giả Huy Phương (báo Người Việt), danh từ này xuất phát từ thời Hán Sở tranh hùng và Tam Quốc Chí bên Tàu. Thời đó, nhà cầm quyền huy động những người có lá phổi lớn, tiếng nói vang, và có cách chửi độc địa để làm ‘mạ thủ’. Mạ thủ chỉ có một việc đơn giản là chửi bới đối phương. Họ trong tư thế trần truồng, xông lên phía trước, sát cổng thành của đối phương, và tung ra những lời chửi bới tục tĩu và dơ bẩn nhất nhắm vào đối phương. Mục đích là hạ nhục và khiêu khích đối phương bằng cách thoá mạ ông bà tổ tiên của đối phương, sao cho họ mở cửa thành để lính xông vào. Điều trớ trêu là mạ thủ là những người bị chết đầu tiên vì họ không có vũ khí khi xông trận. Họ có thể xem như là những con chốt thí cho bọn cầm quyền.


Tàu ngày xưa là nơi sản sinh ra những mạ thủ, thì Tàu ngày nay cũng có những đội quân mạ thủ, nhưng họ mang một danh xưng văn hoa hơn: dư luận viên. Tiếng Hoa là "wumao". Báo chí phương Tây gọi họ là "50 cent Army" ("Lực lượng 50 cent"). Tại sao là '50 cent'? Tại vì mỗi mạ thủ được trả lương 50 cent cho mỗi 'bình luận' họ viết trên mạng.

Ai là những mạ thủ thời nay? Theo nghiên cứu của GS Gary King (ĐH Harvard), họ là những nhân viên, cán bộ của Nhà nước. Nhưng họ không phải cán bộ bình thường, mà phải qua một quá trình tẩy não sao cho họ không còn khả năng suy nghĩ một cách logic. Nói tóm lại, bọn mạ thủ là những kẻ không có khả năng đánh giá đúng sai, họ chỉ đơn giản là những cái máy phun ra những câu chữ mà có khi họ không hiểu.

Theo ước tính của GS King [1], Tàu có chừng 500,000 đến 2 triệu mạ thủ, túc trực 24/24 trên mạng để theo dõi và ... chửi. Chiến trận của họ là trên mạng. Phương tiện của họ không còn là tiếng nói mà là chữ viết. Mỗi năm, đội quân phi chính thống này tung lên mạng 450 triệu thông tin giả. Họ đặc biệt nhắm đến thoá mạ những cá nhân và nhóm chỉ trích đảng cộng sản Tàu. Họ tận dụng nguỵ biện tối đa để tấn công đối phương, thay vì bàn luận. Thật ra, mạ thủ không có khả năng nghị luận, vì mục đích tồn tại của họ đơn giản là chửi bới và nhục mạ đối phương. Họ trong thực tế là những tên hề rẻ tiền, những kẻ tâm bệnh.

Bọn mạ thủ cũng rất thích làm ra vẻ 'worldly' bằng những bình luận về quan hệ quốc tế. Đối với họ, biến cố Thiên An Môn là không có thật, mà chỉ là sản phẩm tưởng tượng của bọn phản động phương Tây. Đài Loan phải là của Tàu. Biển Đông là của Tàu, còn bọn “nước nhỏ” như Việt Nam và Phillipine chỉ là đám thừa cơ hội gặm nhấm lãnh hải của Đại Quốc.

Ngoài chửi, các mạ thủ cũng có khi tung ra những thông tin đánh trống tinh thần quốc gia và giấc mơ một Trung Hoa Vĩ Đại. Họ rất thích chỉ trích nhạo báng các nền dân chủ phương Tây, các giá trị phương Tây, nhưng hết lời ca ngợi các lãnh đạo cộng sản Tàu. Họ cũng thích lan truyền những bản tin về hoạt động thường ngày của các cấp cán bộ cộng sản như là những kẻ yêu nước thương dân. Những bài viết ca ngợi cán bộ cộng sản và quảng bá sự tiến bộ của Tàu chiếm chừng 60% tổng số tin tức do bọn mạ thủ tung ra.

Phải nói rằng sự ra đời của mạ thủ 罵手 hay wumao 五毛 là một quái thai xã hội. Thử tưởng tượng một thể chế như chính phủ Úc mà tung tiền ra để tổ chức và mướn những kẻ hạ cấp và những lưu manh mạng chỉ để tung ra những lời ca ngợi mình và tấn công đối phương. Một viễn cảnh không thể nào xảy ra, vì người dân sẽ nổi giận với chính phủ dùng tiền thuế của họ cho chuyện ... tào lao. Chỉ có những chính phủ bất tài và thiếu tự tin, những chính phủ hắc ám biết mình làm điều ác với xã hội mới có những đội quân wumao, bởi nếu chính phủ chánh nghĩa và có thực tài thì cần gì đến bọn hạ cấp đó. Mà, thực ra, một chính phủ được những kẻ hạ cấp ca ngợi thì chính phủ đó cũng thuộc loại hạ cấp mà thôi. Thành ra, sự hiện diện của đội quân mạ thủ hay wumao không chỉ là một căn bệnh ung thư xã hội, mà còn là tín hiệu mạnh nhất về một chính phủ bất chính và bất tài.

N.V.T

[1] Nghiên cứu về đội quân wumao - mạ thủ:

https://gking.harvard.edu/files/gking/files/50c.pdf

“Mạ Thủ” theo Báo Người Lao động, Thanh Niên

 Các báo này cũng nói về "Mạ thủ" nhưng tránh nhắc đến đội quân "Mạ thủ" VN ăn lương hoặc phụ cấp ngày nay

Đọc Tam quốc chí [diễn nghĩa] hay Hán Sở tranh hùng của văn học cổ Trung Quốc, người đọc không thể không tức cười về một thứ quân đặc biệt luôn luôn có trong bất cứ một đội quân nào của những phe phái khác nhau.

Mạ thủ

Người ta chọn ra những sĩ tốt có buồng phổi to, tiếng nói khỏe và đặc biệt là có “kiến thức” về những câu chửi bới thô lỗ, tục tĩu nhất. Cánh quân ấy chuyên ra trận để... chửi bên địch. Những sĩ tốt này được phong một danh hiệu khá lạ lùng là “Mạ thủ”. Vậy mạ thủ là những tên quân ra trận không dùng đao thương, chỉ chuyên chửi bới, thóa mạ kẻ địch; chửi cho sướng miệng mình và vui dạ tướng chỉ huy của mình.

Khi tướng thủ thành hoặc nhà vua bên địch tự cảm thấy thế lực của mình yếu, bèn đóng cửa thành, treo miễn chiến bài (bảng không đánh nhau nữa). Viên tướng chỉ huy phe bên công thành muốn đánh cho nhanh, bèn đưa quân mạ thủ ra “chiến đấu”. Thông thường thì các mạ thủ này mặc áo quần tử tế, cũng có khi theo lệnh tướng chỉ huy, họ phải... ở truồng để lâm trận. Cứ vậy, họ đưa “bộ đồ nghề” ra tô hô, tiến sát cửa thành phía bên địch; hoặc đứng, hoặc nằm, hoặc ngồi; cùng kêu tên nhà vua hay tướng chỉ huy thành bên địch ra mà chửi bới.

Về hình thức, đây là một thứ tâm lý chiến, phải ngoác miệng ra mà chửi, chửi làm sao cho có ca có kệ, có vần có điệu theo cái kiểu hợp xướng một giọng cho phía bên kia nghe được. Thời ấy làm gì có loa phóng thanh cho nên các mạ thủ phải học “bài bản” cho thuộc, chửi lên cùng một giọng càng lớn càng tốt để nhà vua hay tướng thủ thành bên kia thủng màng nhĩ.

Về nội dung, bài chửi làm sao phải đạt yêu cầu “đào mồ cuốc mả” của kẻ địch, đem hết cái xấu, cái dơ, cái bẩn trút lên đầu lên cổ người ta. Tất nhiên, những bài chửi này có quyền xuyên tạc, vu khống, đục cây tra cành để lung lạc lòng sĩ tốt bên địch. Nhà vua hoặc tướng thủ thành bên địch nghe chửi nín nhịn không nổi, phải mở cửa thành nhảy ra đánh nhau. Nhiệm vụ của mạ thủ được coi là thành công. Món võ ấy được gọi là võ lưỡi (thiệt chiến).

Mạ thủ là một loại chiến tranh đặc biệt của người Trung Quốc xưa, một hình thái chiến tranh mà không quốc gia nào học tập và làm theo. Sách vở Trung Quốc cũng ghi nhận nếu nhà vua hay tướng thủ thành bên kia đột ngột mở của thành xông ra đánh thì quân mạ thủ ưu tiên... chết trước. Bởi vì bọn họ phải áp sát cửa thành bên địch mà chửi nên chạy không kịp về trận địa của mình. Cho nên những chiến sĩ ấy cơ bản là “dũng cảm hy sinh”, chỉ tội nghiệp là có người hy sinh khi đang lõa lồ thân thể, thành thử hoàn cảnh của các mạ thủ nói riêng và chiến trường nói chung là rất lu bu.

Thế kỷ 20, Kim Dung viết Lộc đỉnh ký. Bộ tiểu thuyết này có mấy chương thuật lại cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Nga La Tư. Vua Khang Hy dặn tư lệnh Vi Tiểu Bảo: “Ngươi biết nhiều trò huê dạng, phải làm sao để quân ta từ trên xuống dưới đều khinh khi quân man tử”. “Quân man tử” ở đây là sĩ quan và binh lính của Sa hoàng Nga. Để đám tướng sĩ Thanh binh có thể khinh khi người Nga, Vi Tiểu Bảo áp dụng mọi cách làm nhục tướng sĩ của Sa hoàng Nga, trong đó có vai trò chửi bới của quân mạ thủ.

Vi Tiểu Bảo học cách của người xưa, cho quân mạ thủ Trung Quốc chửi bới tư lệnh quân Nga là A Lịch Tư Đồ Nhĩ Bố Thanh (Alexei Tolbusin) đang đồn trú tại thành Nhã Tác Khắc (Nertohinsk). Bọn mạ thủ này chửi bằng tiếng... quan thoại mà người Nga thì không biết thứ tiếng này. Vi Tiểu Bảo bắt được một số quân Nga, buộc họ phải làm mạ thủ chửi lại Đồ Nhĩ Bố Thanh. Hàng binh và tù binh Nga ra trước thành chửi bới nhưng họ lại khiến Vi Tiểu Bảo thất vọng tràn trề. Lý do là ngôn ngữ chửi bới của người Nga rất nghèo nàn, quanh đi quẩn lại chỉ có mấy câu “Ngươi là đồ heo, đồ chó”; hoàn toàn thua xa “bài bản” lâm ly biến ảo của mạ thủ Trung Quốc! Vi Tiểu Bảo nghiệm ra chỉ có người Trung Quốc chửi bới mới nghe... được.

Đó là chuyện của mạ thủ cổ điển, chỉ chửi bới trên trận địa cho kẻ thù nghe. Trong 40 năm qua, Trung Quốc đã có hành động xâm lấn, gây hấn vùng lãnh thổ và biển đảo của Việt Nam. Năm 1974, họ đánh chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Năm 1979, họ gây ra cuộc chiến tranh biên giới. Năm 1988, họ tiến đánh đảo Gạc Ma. Lần nào cũng như lần nào, các mạ thủ đời mới ở Trung Quốc cũng có những bài bình luận đao to búa lớn, ngôn ngữ thóa mạ hằn học khiến người tự trọng nghe qua phải nổi da gà.

Trong vòng nhiều năm liên tiếp trở lại đây, Trung Quốc không ngừng gây ra những sự cố tranh chấp với các lân bang Hàn Quốc, Nhật Bản, Philippines, Việt Nam. Hết đòi đảo, họ đơn phương công bố đường “lưỡi bò” chín đoạn trên biển Đông. Sau đường “lưỡi bò”, họ đơn phương công bố khu vực nhận diện phòng không trên biển Hoa Đông.

Ngày 1.5.2014, lợi dụng những ngày nghỉ lễ 30.4 và 1.5 của Việt Nam, họ rê giàn khoan Hải Dương 981 vào đặt ngay trong vùng biển Việt Nam, chỉ cách đảo Lý Sơn của Việt Nam 117 hải lý. Cùng với giàn khoan, Trung Quốc cho máy bay, tàu hải giám, hải cảnh, tàu quân sự hù dọa, o ép, va đâm, xịt vòi rồng vào các lực lượng thi hành pháp luật trên biển của Việt Nam và ngư dân Việt Nam đang đánh bắt hải sản trên ngư trường Hoàng Sa truyền thống.

Cái lạ của Trung Quốc là họ ngang nhiên tấn công ngư dân, đâm chìm ghe cá, phá hoại tài sản đánh cá của ngư dân, khiêu khích các lực lượng thực thi pháp luật của Việt Nam mà không hề nhớ rằng họ đã thò tay ký vào các công ước quốc tế như Công ước luật Biển năm 1982.

Cùng với những hành động sai trái, ngang ngược trên hiện trường, lực lượng mạ thủ của họ mà đặc biệt là tờ Global Times đưa ra những thông tin xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc sự thật, chửi bới các lân bang, trong đó ưu tiên chửi Việt Nam. Cứ theo cái anh mạ thủ to mồm này thì Trung Quốc đang bị các lân bang xâm lược, Trung Quốc đang là nạn nhân của sự xâm lấn bởi nhiều nước nhỏ ở khu vực Đông Nam Á, thật là kỳ.

Trong Đối thoại Shangri-La mới đây ở Singapore, tướng Vương Quán Trung - Phó tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc đã to tiếng... xái bạc lớn ngay cả với Thủ tướng Abe của Nhật Bản và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel. Bỏ hẳn bài diễn văn được soạn trước, ông Vương đã ứng khẩu độc diễn lên án Mỹ và Nhật “có hành động khiêu khích với Trung Quốc” khi hai vị này lên tiếng cảnh báo những nguy hiểm mà Trung Quốc đang thể hiện trên vùng biển Việt Nam.

Vui nhất là chuyện ông Vương nói đường “lưỡi bò” chín đoạn trên biển Đông đã có từ 2.200 năm trước (thời nhà Hán) nhưng đến năm 1947 Trung Quốc mới công bố. Trong khi đó, ông Chu Thành Hổ - một thành viên khác của Trung Quốc trong đối thoại này, tỏ ra rất hiếu chiến khi nói “Nếu Mỹ coi Trung Quốc là kẻ thù thì Trung Quốc sẽ trở thành kẻ thù của Mỹ”.

Nhìn một cách nào đó thì hai vị này cũng là... mạ thủ đời mới, với một thứ ngôn ngữ ngoại giao quái chiêu, nặng về khiêu khích. Thương thay, họ đã... nói ngọng trước Đối thoại Shangri-La, khiến các phái đoàn quốc tế phì cười. Nhà phân tích chiến lược quốc tế Bonnie Glaser nhận định: “Có lẽ phần tuyên bố của ông Vương chủ yếu nhắm vào khán giả trong nước Trung Quốc nhiều hơn... Ông ta dành mười phút nói vòng vo về đường chín đoạn nhưng cuối cùng cũng không giải thích được nó là cái gì”.

(Vũ Đức Sao Biển)

https://tinnong.thanhnien.vn/giai-tri/ma-thu-9803.html

Báo Người Lao động, Thanh Niên cũng nói về "Mạ thủ" nhưng tránh nhắc đến đội quân "Mạ thủ" ăn lương hoặc phụ cấp ngày nay

Sách vở ghi lại nhiều tích bên Trung Hoa, thời Tam Quốc, khi các vương triều tranh đoạt cương thổ, quyền lực đã biết dùng đến "mạ thủ".

"Mạ thủ" là đội quân chuyên về chửi bới đối phương, kiểu như tâm lý chiến, để đối phương tức giận dẫn tới ra quyết định sai hoặc xuống tinh thần, dễ thua cuộc. Lực lượng "mạ thủ" thường đóng vai trò tiền quân khi công đồn, vây thành. Trong "Tam thập lục sách" - tập hợp 36 kế sách quân sự của Trung Hoa cổ đại - có đúc kết chuyện Tào Tháo sử chiêu khi đánh Viên Thuật thành kế thứ 26 là "Chỉ tang mạ hòe" (chỉ cây dâu mà mắng cây hòe, nghĩa khác: chỉ chó nhưng mắng mèo), nhờ đó mà thắng. Ấy cũng từ "mạ" mà ra. Tóm lại, từ xưa, chửi càn đã được sử dụng như là một thứ vũ khí.

Ở xứ ta, lấy chửi bới để ăn thua đủ, công kích hay hạ bệ người khác cũng là chuyện phổ biến. Dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945 có nhân vật Chí Phèo ("Chí Phèo" - Nam Cao) gắn chặt với hình ảnh tiêu cực "Hắn vừa đi vừa chửi"; hay nâng tầm lên thành "nghệ thuật" là bài chửi mất gà có lớp lang, vần điệu của bà mụ nhà quê trong "Bước đường cùng" (Nguyễn Công Hoan). Học giả Nguyễn Văn Vĩnh, trong bài "Ăn nói thô tục", đăng Đông Dương tạp chí năm 1914, đã thở dài về một thói xấu của người Việt: "... Lắm câu chửi rủa của ta, không tiếng nước nào dịch nổi..."!

Tất nhiên, đã là thói xấu thì phải phê phán, không học theo. Nếu thành cố tật thì phải gắng tìm mọi cách tẩy trừ nó khỏi đời sống cộng đồng. Trong xã hội văn minh, chửi là hành động phản cảm, đi ngược lại toàn bộ các giá trị cao đẹp chung mà cộng đồng đang xây dựng, hướng về.

Nhưng bao giờ cũng vậy, cuộc sống muôn mặt, bên cạnh cái tốt đẹp và thiện lành vốn chiếm ưu thế thì con người - không còn cách nào khác - buộc phải chung sống với cái xấu, cái ác. Nó là một phần của xã hội, thời nào cũng thế.

Sống chung nhưng không có nghĩa là chấp nhận chịu đựng mãi mãi, mà phải chế ngự, đấu tranh và đẩy lùi nó. Không lên án hành vi xấu, như vô cớ lăng nhục người khác, tức là sống thiếu trách nhiệm; hào hứng đón nhận, hùa theo đám đông hoặc cá nhân nào đó để thóa mạ tha nhân, cũng là một kiểu sống xấu, sống ác. Thực tế, đã có không ít nạn nhân tự kết liễu đời mình vì không chịu nổi sức ép từ sự miệt thị của đám đông, trong đó có những trường hợp bị chửi bới, lên án một cách oan ức.

https://nld.com.vn/.../thoi-xau-chui-can...

Nguồn: FB Hoàng Hưng BVN bổ sung chữ Hán.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét