Thứ Tư, 10 tháng 11, 2021

20211111. PHÂN LOẠI TRÍ THỨC

 ĐIỂM BÁO MẠNG  

TRÍ THỨC CẬN THẦN VÀ TRÍ THỨC ĐỘC LẬP

GIÁP VĂN DƯƠNG/ Blog HỮU NGUYÊN 27-10-2021

Bài học lớn nhất mà chúng ta học được từ Nguyễn Trường Tộ chính là sự thất bại của ông trong việc kiến nghị những giải pháp canh tân đất nước với tư cách một trí thức. Từ đó thấy rằng, chỉ khi nào người trí thức tự giác tránh con đường cụt mang tên "Trí thức cận thần" để đi trên con đường mới - con đường trí thức độc lập, trí thức dấn thân - thì đất nước mới có thể tránh được nguy cơ trở thành "đất nước cận thần" và giữ được nền độc lập đúng nghĩa.



                                                             Fukuzawa Yukichi

Mỗi khi nói về sự canh tân của nước Nhật, ta không khỏi nghĩ đến Fukuzawa Yukichi.

Mỗi khi nghĩ đến Fukuzawa Yukichi, ta không khỏi nghĩ đến Nguyễn Trường Tộ.

Cả Fukuzawa Yukichi và Nguyễn Trường Tộ đều là là những nhà tư tưởng về cải cách, sống cùng giai đoạn


lịch sử. Nhưng một người thành công, một người thất bại.


Câu hỏi đặt ra là: Vì sao Fukuzawa Yukichi thành công, còn Nguyễn Trường Tộ thì thất bại?

Một phần của câu trả lời đến từ sự khác nhau trong cách tiếp cận của hai người.


                                                        Nguyễn Trường Tộ

Trí thức độc lập

Sau khi tiếp thu nền văn minh phương Tây, và nhận thấy cần phải tiến hành cải cách để canh tân đất nước nhằm giữ nền độc lập, vươn lên sánh vai cùng các cường quốc phương Tây, Fukuzawa Yukichi tiến hành chương trình hành động của mình.

Các việc làm của Fukuzawa Yukichi tương đối phong phú, nhưng có thể khái quát ngắn gọn như sau: mở trường dạy học, dịch sách, viết sách, làm báo để truyền bá văn minh phương Tây cho trí thức và dân chúng Nhật Bản.
Ảnh minh họa.

Ông tìm cách khai sáng cho dân chúng và trí thức Nhật Bản, lúc đó còn chìm đắm trong lối học từ chương ảnh hưởng của Nho giáo Trung Hoa, thông qua việc cổ vũ lối thực học của phương Tây; xây dựng hình mẫu trí thức độc lập và chủ trương "độc lập quốc gia thông qua độc lập cá nhân".


Bản thân ông cũng hành động như một hình mẫu của trí thức độc lập, không phục thuộc vào giới cầm quyền.

Ông kêu gọi trí thức Nhật Bản lúc bấy giờ hãy "coi trọng quốc gia và coi nhẹ chính phủ", tự tin vào sức mạnh và vị thế độc lập của mình. Từ đó dấn đến niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh của tri thức và nền văn minh mới mẻ có tác dụng giải phóng tư duy và bồi đắp sự độc lập của cá nhân.

Khi trường Đại học Keio do ông sáng lập có nguy cơ phải đóng cửa vì nội chiến, chỉ còn 18 học sinh, nhưng ông vẫn tin tưởng: "Chừng nào ngôi trường này còn đứng vững, Nhật Bản vẫn sẽ là quốc gia văn minh trên thế giới".

Fukuzawa Yukichi sống và làm việc như một trí thức độc lập điển hình.

"Trí thức cận thần"

Khác với Fukuzawa Yukichi, Nguyễn Trường Tộ, sau khi tiếp thu văn minh phương Tây, không truyền bá để khai sáng cho đại chúng mà dành phần lớn tâm sức cho việc viết tấu trình gửi nhà Vua. Tất cả các bản tấu trình và điều trần của ông đều không được đưa ra sử dụng, dù hơn ai hết, ông biết được giá trị thật của chúng: "Tế cấp luận thâu tóm trí khôn của thiên hạ 500 năm nay... Bài Tế cấp luận của tôi nếu đem ra thực hành hàng trăm năm cũng chưa hết".

Bằng cách đó, ông đã phụ thuộc tuyệt đối vào nhà cầm quyền, đánh mất vị thế độc lập của người trí thức. Nói cách khác, ông hành xử như một "trí thức cận thần": Viết tấu trình và chờ đợi sự sáng suốt của nhà Vua.


Như thế, ông đã tự tước đi cơ hội của chính mình, và rộng ra là của cả dân tộc, vì trong suốt lịch sử, số lượng các minh quân vô cùng ít.

Những kiến nghị cải cách của ông, dù đúng đắn và có tầm vóc thời đại, nhưng rốt cuộc lại trở nên vô dụng.

Do hành xử như một "trí thức cận thần", không có được sự độc lập cho bản thân mình, dẫn đến không có đóng góp gì đáng kể vào sự hình thành giới trí thức đúng nghĩa, nên sau khi ông mất đi, không có người tiếp nối. Tư tưởng canh tân đổi mới của ông vì thế bị chìm vào quên lãng.

Bài học cho hậu thế

Sự thất bại của Nguyễn Trường Tộ chính là bài học lớn nhất dành cho hậu thế. Tiếc rằng, bài học này, dù phải trả học phí rất đắt bởi không chỉ Nguyễn Trường Tộ mà còn cả dân tộc, không được sử dụng.

Những người có trách nhiệm thậm chí còn cổ vũ và yêu cầu trí thức phải đi theo lối con đường "trí thức cận thần" của Nguyễn Trường Tộ khi cho rằng: Trí thức muốn kiến nghị hay phản biện xã hội, cần gửi cho các cơ quan hữu trách trước khi phổ biến ra ngoài xã hội.

Lịch sử đã chứng minh: Đi theo còn đường đó là đi vào ngõ cụt. Làm theo cách đó là kéo lùi bước đi của dân tộc.

Trước tình cảnh đó, không còn cách nào khác, người trí thức phải tự giác tránh con đường cụt đó, con đường "trí thức cận thần", để đi con đường mới: con đường trí thức độc lập, trí thức dấn thân.

Chỉ khi đó, đất nước mới tránh được nguy cơ trở thành "đất nước cận thần", và giữ được nền độc lập đúng nghĩa.

Việc Quốc hội lắng nghe tiếng nói của những trí thức độc lập trong thời gian gần đây cho thấy con đường trí thức độc lập đã được khai mở, chỉ chờ người dấn bước.


________________________

Ghi chú:

1. Trái với dự đoán, sau khi kiểm tra tôi thấy: cụm từ "trí thức cận thần" chưa phổ biến, và chưa thấy xuất hiện trên mạng internet.

2. Tôi được biết cụm từ này trong một thảo luận với một người bạn, TS. Nguyễn Đức Thành, vào khoảng đầu tháng 5/2010. Theo anh Thành, cụm từ này được hình thành trong một thảo luận của anh với một người bạn khác, TS. Nguyễn An Nguyên. Tuy nhiên, anh cũng không rõ đã có ai sử dung cụm từ này trước đó hay chưa.

3. Có một cụm từ khác có nghĩa gần tương tự với "trí thức cận thần", đó là "trí thức phò chính thống", do nhà văn Phạm Thị Hoài nêu ra. Tuy nhiên, theo tôi, nội hàm của hai cụm từ này có nhiều điểm khác biệt khá tinh tế.

4. Nếu ai đã thấy văn bản nào có cụm từ này rồi thì vui lòng báo cho tôi biết. Cá nhân tôi thấy cụm từ này có một nội hàm đáng suy ngẫm.

Fukuzawa là nhà giáo dục và học giả có thể nói là người ở bên ngoài chính quyền Nhật Bản có ảnh hưởng nhất trong giai đoạn cuộc Canh Tân Minh Trị, lật đổ chế độ Tokugawa năm 1868. Ông lãnh đạo cuộc đấu tranh học tập những ý tưởng của phương Tây nhằm xây dựng "một nước Nhật Bản hùng mạnh và độc lập".

Fukuzawa đã viết trên 100 cuốn sách giải thích và biện minh cho thể chế chính quyền nghị viện, giáo dục phổ thông, cải cách ngôn ngữ và quyền của phụ nữ.

Trong tác phẩm Phúc ông Tự truyện viết năm 1901, trước khi mất ít lâu, Fukuzawa tuyên bố việc xoá bỏ mọi đặc ân phong kiến của triều đại Minh Trị và chiến thắng chế độ phong kiến Trung Hoa trong cuộc chiến tranh Trung - Nhật năm 1894-1895 để hình thành một nhà nước Nhật Bản hiện đại chính là ước mơ suốt cuộc đời ông.

Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1828 trong một gia đình Công giáo, quê làng Bùi Chu (nay thuộc xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An).

Từ nhỏ ông đã được Giám mục Ngô Gia Hậu (Gauchier) dạy tiếng Pháp cùng với các môn khoa học thường thức của Tây phương. Ông lại được cho đi du học ở nhiều nơi như Singapore, Malaisia, Pháp, La Mã... Trong những chuyến đi đó, ông đã tìm tòi và lĩnh hội được nhiều tri thức khoa học mới, trong lòng nung nấu đem những điều mình đã học hỏi được về phục vụ cho lợi ích nước nhà.

Tháng 5 năm 1863 ông đã soạn xong ba văn bản để gửi lên Triều đình Huế: bản thứ nhất là Tế cấp luận, bản thứ hai là Giáo môn luận, bản thứ ba là Thiên hạ phân hợp đại thế luận. Trong ba bản đó, bản Tế cấp luận là văn bản quan trọng nhất. Nội dung của bản này đề cập đến việc canh tân và phát triển đất nước.

Sau ba bản điều trần trên, Nguyễn Trường Tộ liên tục gửi nhiều bản khác lên Triều đình Huế (có 58 di thảo gửi cho Triều trình, liên tục trong vòng 10 năm). Những bản điều trần của ông là những đề nghị tâm huyết nhằm góp phần xây dựng đất nước, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng phong bế, lạc hậu và tạo nên sự thay đổi lớn lao bên trong, đánh đuổi giặc ngoại xâm. Nhìn vào nội dung các bản điều trần, chúng ta nhận thấy Nguyễn Trường Tộ đã đi trước, và vượt lên trình độ của các tầng lớp trí thức nho sỹ đương thời.

Song thật tiếc, những dòng tâm huyết ấy lại không được chấp nhận do hạn chế của thời đại.

GÓP Ý VỚI TS GIÁP VĂN DƯƠNG

NGUYỄN ĐÌNH CỐNG/ TD 4-11-2021

Tôi vừa đọc bài Trí thức cận thần và trí thức độc lập, của TS Giáp Văn Dương. Đó là một bài hay, rất đáng cho các trí thức tham khảo để chọn con đường hành động, sao cho có hiệu quả cao trong mục tiêu ích nước lợi dân. Tuy vậy, tôi cũng có một ý kiến nhỏ, xin bàn thêm cho rõ vấn đề về vai trò của trí thức trong cải cách xã hội.

Một quốc gia, một tổ chức cần cải cách khi lâm vào tình trạng trì trệ, yếu kém. Cải cách có thể đến từ phía trên hoặc phía dưới. Phía trên được đại diện bởi những người có quyền cao nhất. Phía dưới được đại diện bởi những phần tử tinh hoa trong quần chúng mà chủ yếu là trí thức.

Cải cách từ trên xuống khi một số người có quyền cao nhất giác ngộ được tình hình, đứng ra kêu gọi cải cách và tổ chức thực hiện. Lúc này vai trò người đứng đầu rất quan trọng. Một việc dù hay đến đâu, tốt đến đâu, chỉ có thể thành công khi nó biến thành nhận thức và tình cảm của người lãnh đạo cao nhất.

Cải cách từ dưới lên khi quần chúng thấy quá cần thiết, tập họp lại để đấu tranh mà một số trường hợp đạt đỉnh cao là cách mạng.

Sẽ là đẹp nhất khi hai phía thống nhất quan điểm, hợp tác với nhau, ý của lãnh đạo hợp với lòng dân. Dù cho theo cách nào thì vai trò của trí thức trong công cuộc cải cách cũng rất quan trọng.

TS Dương đưa ra hai loại: Trí thức cận thần và trí thức độc lập.

Trí thức cận thần là người thấy rõ việc cần cải cách, lập ra đường lối và kế hoạch rồi dâng trình lên cho người cầm quyền. Đại diện là Nguyễn Trường Tộ ở VN, dưới thời vua Tự Đức. Nguyễn Trường Tộ đã thất bại.

Trí thức độc lập là người thấy rõ công việc cần cải cách, đã hoạt động để nâng cao dân trí và quan trí, tạo sự thay đổi về nhận thức, để từ đó tiến hành cải cách. Đại diện là Fukuzawa Yukichi ở Nhật dưới thời Minh trị Thiên Hoàng. Yukichi đã thành công.

Ý của tôi là không nên phân ra hai loại trí thức như vậy, vì rằng một người trí thức có thể vừa thuộc loại này vừa thuộc loại kia. Nên phân thành hai loại hành động: Hành động Tâu trình và Hành động Khai phóng.

Tâu trình là việc viết thư, báo cáo, góp ý, kiến nghị lên cấp trên cho đến người cao nhất. Trong mấy chục năm qua trí thức, cán bộ và người dân Việt Nam rất hay dùng loại này, nhưng chỉ có những ý kiến hợp lỗ tai của cấp trên mới được để ý, còn phần lớn những lời góp ý chân thành đều bị vứt bỏ. Có thể kể ra một vài trường hợp, như là: Thư của ông Chu Đình Xương gửi Trung ương Đảng, thư của ông Võ Văn Kiệt, ông Võ Nguyên Giáp gửi Bộ Chính trị, kiến nghị của 61 đảng viên (tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đứng đầu) gửi Đại hội 12 ĐCSVN, thư của cựu đại sứ Nguyễn Trung gửi lãnh đạo Đảng, kiến nghị của 72 nhân sĩ trí thức (do cựu Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc đứng đầu) gửi Quốc hội, kế hoạch Cải cách toàn diện để phát triển của 14 nhà khoa học Việt kiều gửi Đảng, Chính phủ và Quốc hội, trong đó có TS Giáp Văn Dương (ngoài ra còn các vị như Hồ Tú Bảo, Trần Hữu Dũng, Phạm Trọng Yêm v.v…).

Những tâu trình như thế, một số là của trí thức cận thần, phần khác là của trí thức độc lập. Chúng không lọt được vào đầu những người bị nhồi sọ bởi nhiều điều kinh viện hoặc vì để bảo vệ quyền lợi cá nhân đã chiếm đoạt được.

Khai phóng (hoặc khai trí) là việc mà nhiều trí thức đang dấn thân nhằm nâng cao dân trí về chính trị cho đại đa số người dân, để họ biết về Nhân quyền, Dân quyền, Hiến pháp và những điều liên quan. Đó là hoạt động đang bị chính quyền ngăn cấm nhằm làm ngu dân cho dễ thống trị. Những hoạt động này tuy chưa đủ mạnh, nhưng vẫn đang được tiến hành, lớp trước như Tần Huỳnh Duy Thức, Phạm Chí Dũng, Phạm Thành, Phạm Đoan Trang và rất nhiều người khác bị tù tội, bị khủng bố thì đã có nhiều người kế tiếp, đặc biệt là các bạn trẻ, tiếp bước.

Tôi biết một số trí thức trong nước đang khắc phục nhiều khó khăn trở ngại để  làm việc khai phóng này, từng chút một, từng bước một. Họ vừa làm vừa sẵn sàng tâm thế bị bắt, bị khủng bố không biết khi nào. Tôi cũng biết một số trí thức Việt kiều đã về nước (sau khi nghỉ hưu) để đóng góp cho sự khai phóng này, tuy gặp nhiều trở ngại, nhưng cũng đã gặt hái được một số thành công. Thật đáng quý.

TS Dương viết: Sự thất bại của Nguyễn Trường Tộ chính là bài học lớn nhất dành cho hậu thế. Tiếc rằng, bài học này, dù phải trả học phí rất đắt bởi không chỉ Nguyễn Trường Tộ mà còn cả dân tộc, không được sử dụng. Những người có trách nhiệm thậm chí còn cổ vũ và yêu cầu trí thức phải đi theo lối con đường “trí thức cận thần” của Nguyễn Trường Tộ khi cho rằng: Trí thức muốn kiến nghị hay phản biện xã hội, cần gửi cho các cơ quan hữu trách trước khi phổ biến ra ngoài xã hội. Lịch sử đã chứng minh: Đi theo còn đường đó là đi vào ngõ cụt. Làm theo cách đó là kéo lùi bước đi của dân tộc”.

Phải chăng TS Dương tỉnh ngộ ra sau khi cùng 13 nhà khoa học Việt Kiều bỏ nhiều tâm sức và thời gian viết ra được bản kiến nghi “Cải cách toàn diện để phát triển”, rồi gửi về cho lãnh đạo nhà nước? Nhiều người trong nước xem đó là một báu vật, nhưng nhiều lãnh đạo cộng sản lại xem là luận điểm của “thế lực thù địch”.

Biết thế, nhưng xin đừng chùn bước. Xin hãy tin rằng, chính thể độc tài toàn trị chỉ là tạm thời. Dân tộc Việt sẽ không chịu mãi cảnh lầm than tăm tối, đúng như câu kết bài viết của TS. Việc Quốc hội lắng nghe tiếng nói của những trí thức độc lập trong thời gian gần đây cho thấy con đường trí thức độc lập đã được khai mở, chỉ chờ người dấn bước”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét