Thứ Hai, 22 tháng 11, 2021

20211123. THUỐC CHỮA CHO BỆNH 'HỌC THÊM-DẠY THÊM' ?

ĐIỂM BÁO MẠNG  

'GIẤY PHÉP KINH DOANH CÓ ĐIỀU KIỆN' 

KHÔNG PHẢI LÀ THUỐC CHỮA BỆNH DẠY THÊM CHO NGÀNH GIÁO DỤC

NGUYỄN NGỌC CHU/ BVN 16-11-2021



Có thể là hình ảnh về văn bản cho biết 'Công annhândân ONLINE Đề xuất đưa day thêm vào danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện 09:15 11/06/2020 CAND Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã có công văn gửi Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Bộ Kế hoạch Đầu tư về việc đưa dịch vụ dạy thêm, học thêm văn hóa theo chương trình giáo dục phổ thông vào danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện.'

Không trực tiếp nghe Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn trả lời chất vấn của ĐBQH hôm 11/11/2021, nhưng được biết từ truyền thông về đề xuất “Đưa dạy thêm vào danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện”. Vậy nên xin nêu vài lưu ý như dưới đây.

1. SỢ LÀ CẤM

Đã hơn nửa thế kỷ người Việt Nam quen với các biện pháp “không quản được thì cấm”,“sợ là cấm”. Sợ nghe đài nước ngoài là cấm (tháo cả băng sóng ngắn). Sợ làm giả dấu đỏ thì cấm nhập máy in laser màu. Có người toan tính cấm cả cả internet lẫn mạng xã hội.

Bất cứ hiện tượng gì cũng có hai mặt. Không hiểu đúng quy luật phát phát triển của tự nhiên, không nắm được tính biện chứng của sự việc - thì mọi sự cấm đoán không chỉ thất bại mà trở thành rào cản của tiến bộ, để cuối cùng bị tiến bộ loại bỏ.

Từ ngàn xưa, về cơ bản, sự dạy và học xa lạ với buôn bán. Nay lấy sự dạy học thêm làm nghề kinh doanh đặc biệt, có điều kiện với mục đích để hạn chế sự dạy thêm, học thêm - một biểu hiện của sự cấm, thì thật ngỡ ngàng.

2. HỌC THÊM, DẠY THÊM LÀ NHU CẦU KHÁCH QUAN

Ai cũng phải mở rộng kiến thức. Vì thế không ngừng học thêm. Có người học thêm thì có người dạy thêm. Học thêm, dạy thêm là nhu cầu khách quan. Không thể cấm. Không thể loại bỏ.

Vì thế từ xưa, người đi học phải tìm học hết trường này sang trường khác, học hết sách này sang sách khác, học hết thầy này sang thầy khác. Tìm thêm sách hay mà học. Tìm thêm trường tốt mà học. Tìm thêm thầy giỏi mà học. “Tầm sư học đạo” đã trở thành một phương châm hiển nhiên của sự học và sự dạy. Nhờ khát khao học thêm là một nhu cầu tất yếu mà xuất hiện các trường học danh tiếng, các bộ sách danh tiếng và những người thầy danh tiếng. Và hệ quả là xuất hiện những học trò xuất sắc với tài năng lỗi lạc làm thay đổi xã hội, có các phát minh sáng chế vĩ đại đưa đến những tiến bộ vượt bậc cho nhân loại. Thí dụ thì rất nhiều. Chỉ điểm qua một số trường hợp.

Ở nước ta những người thầy nổi danh như Lê Văn Hưu, Chu Văn An, Trần Ích Phát, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trương Văn Hiến … đều có nhiều học trò xuất sắc theo học. Trong đó thầy Trần Ích Phát có đến 74 học trò đỗ tiến sĩ (3 người là trạng nguyên), thầy Trương Văn Hiến có 3 học trò là hoàng đế và vương là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ.

Ở bên tầu xa xưa, Khổng Tử có 3000 học trò theo học. Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Tô Tần, Trương Nghi tìm đến theo học Quỷ Cốc tiên sinh.

Ở phương Tây, các nhà bác học vĩ đại gần đây như Henri Poincaré, Neils Bohr, Albert Einstein, Max Planck, Dmitri Mendeleev, Marie Curie, Ivan Pavlov, Kurchatov, Cergei Korolev, … nổi danh đều nhờ được theo học thầy giỏi, làm việc nơi có nhiều người giỏi, và đều có nhiều học trò giỏi.

Trong điều kiện cạnh tranh việc làm trên toàn cầu mỗi ngày một khốc liệt như trong thời đại ngày nay, thì phải học thêm mới có cơ hội tranh dành được việc làm. Không phải cấm đoán học thêm, mà ngược lại phải khuyến khích học thêm. Vậy học thêm như thế nào? Và trường hợp nào thì phải cấm học thêm, dạy thêm?

3. CẤM DẠY THÊM TRONG TRƯỜNG HỢP NÀO?

Giáo dục Việt Nam hiện nay đang đối mặt với tình trạng trong đó tồn tại các trường hợp mà sự học thêm và dạy thêm gây ra hậu quả tai hại. Không phải bản chất của sự học thêm và dạy thêm có hại mà cách thức tiến hành sự học thêm dạy thêm có hại. Vì thế phải định nghĩa và khoanh vùng cách thức học thêm và dạy thêm có hại này. Chứ không phải vì những trường hợp này mà cấm đoán sự học thêm và dạy thêm trong toàn ngành giáo dục. Xin chỉ ra vài trường hợp mà dạy thêm mang đến hậu quả có hại.

1. Dạy thêm chỉ vì mục đích để giáo viên có thêm thu nhập.

2. Dạy thêm vì lợi ích nhóm.

3. Dạy thêm dẫn đến xếp hạng sai năng lực học sinh và kéo theo các hệ quả xấu.

4. Dạy thêm đưa đến sự lãng phí thời gian, công sức và tiền bạc của một bộ phận học sinh và của toàn xã hội.

5. Dạy thêm làm lệch hướng mục đích giáo dục và làm lựa chọn sai nghề nghiệp.

4. “GIẤY PHÉP KINH DOANH CÓ ĐIỀU KIỆN” CÓ GIÚP CHẤM DỨT TÌNH TRẠNG DẠY THÊM CÓ HẠI?

Những trường hợp dạy thêm trong mục 3 vừa nêu tạm gọi chung là các trường hợp dạy thêm có hại. Vậy thì đưa dạy thêm vào danh mục “ngành nghề kinh doanh có điều kiện” có giúp chấm dứt được các trường hợp dạy thêm có hại? Câu trả lời dứt khoát là không. “Ngành nghề kinh doanh có điều kiện” hoàn toàn không chống được các trường hợp dạy thêm có hại.

Phải nhìn vào thực tế, ở Việt Nam hiện nay, “ngành nghề kinh doanh có điều kiện” nào cũng có thể lấy được giấy phép kinh doanh. Vấn đề là mất bao nhiêu tiền, bao nhiêu quan hệ và bao nhiêu công sức. Ở phương diện này thì đưa dạy thêm vào “ngành nghề kinh doanh có điều kiện” nhất định sẽ thúc đẩy tiêu cực trong cấp phép kinh doanh, trong thanh tra dạy thêm. Nhưng tai hại hơn, nó sẽ cản trở sự học thêm và dạy thêm chính đáng trên toàn quốc.

Cũng cần nhắc lại trường hợp buôn thuốc giả ở Bộ Y tế để thấy được “giấy phép kinh doanh có điều kiện “ không phải là phép màu.

5. HỌC THÊM NHƯ THẾ NÀO?

Chương trình giáo dục phổ thông, tuy nói là phổ thông, nhưng lại phục vụ cho các đối tượng có nhu cầu kiến thức khác nhau. Để đáp ứng được các nhu cầu kiến thức khác nhau thì phải có chương trình khác nhau. Học thêm chính là cách thức thay đổi chương trình để đáp ứng nhu cầu kiến thức khác nhau.

Lấy thí dụ về môn toán. Vai trò quan trọng của toán không phải bàn cãi. Ai cũng cần đến toán. Nhưng mức độ cần toán của mỗi người cho cuộc đời mình lại khác nhau. Thế mà từ lớp 1 đến lớp 12 chúng ta dạy toán cho mọi học sinh theo một chương trình. Chấm điểm và đánh giá theo một thang bậc như nhau. Thi tốt nghiệp THPT quốc gia cùng một đề. Đó là tai biến (catastrophe).

Người đi theo nghiệp văn, thanh nhạc, thể thao… không cần đến những phương trình lượng giác ngoằn nghèo, cả đời không bao giờ dùng đến. Nếu khi cần đến thì cũng dễ dàng có được sau vài lần chạm tay trên máy tính bảng. Thế mà bắt những học sinh cả đời sau này không cần dùng đến các phương trình lượng giác phải hao tâm tổn lực vì nó. Một sự lãng phí trí óc, thời gian, tiền bạc to lớn xót xa.

Tai hoạ không chỉ vậy. Cùng một đề toán thì em học sinh theo nghiệp toán được điểm 10, em học sinh không cần toán bị điểm 1. Phụ huynh của em học sinh bị điểm 1 toán có cảm giác con mình không có khả năng học tập hay lười học - vừa thất vọng, quát mắng con và bắt con học thêm. Học thêm không cần thiết bắt đầu từ đó. Bản thân em học sinh không thích toán, không cần toán, lại tự ti về năng lực toán của mình, càng học thêm càng chán toán. Tương tự như vậy là đối với các môn học khác.

Cùng một chương trình, cùng một mặt bằng thang điểm, cùng thước đo, cùng một đề thi cho toàn bộ hơn 1 triệu học sinh THPT trên toàn quốc, với hơn 1 triệu nghề nghiệp và số phận cùng năng lực khác nhau là một sai lầm lớn.

Vậy giải quyết vấn đề vừa nêu như thế nào?

Người thầy giỏi là mỗi học sinh một giáo án, đề thi riêng, thang điểm đánh giá riêng. Điều này không xa lạ với những ai đào tạo các ngành chuyên nghiệp, trong đó có khoa học, thể thao, thanh nhạc… Cùng được điểm 7 môn toán, nhưng chương trình dạy toán và đề thi toán của em theo nghiệp toán khác với em theo nghiệp thanh nhạc.

Đó là cách tiếp cận khoa học. Các em toán và thanh nhạc ở khác đấu trường, và không cạnh tranh với nhau. Cách dạy học và thi cử của chúng ta hiện nay biến toàn bộ học sinh phổ thông trên toàn quốc cùng cạnh tranh nhau trong một đấu trường. Điều này là không công bằng, không khoa học và dẫn đến sai lầm trầm trọng trong đánh giá năng lực, dẫn đến sai lầm trong xác định nghề nghiệp.

Từ xa xưa cha ông đã dạy: “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Nghề nào cũng phải “nhà nghề”,“chuyên nghiệp”. Chuyên nghiệp từ bé. Bởi thế, bắt đầu từ trung học cơ sở, một bộ phận học sinh phải được đăng ký học thêm một số môn tự chọn theo sở trường. Còn từ trung học phổ thông thì hoàn toàn phải chia theo sở trường.

Quay lại vấn đề dạy thêm. Ở nhiều nước tiên tiến, ngay từ trung học cơ sở, các em thích học toán được đăng ký học với thầy giáo toán riêng. Việc học toán của các em thích học toán không ảnh hưởng đến toàn bộ số học sinh còn lại, bao gồm cả xếp hạng năng lực học sinh trong lớp. Đến trung học phổ thông, khi các thầy giáo toán không còn đủ khả năng truyền đạt kiến thức, các em thích học toán có thể đăng ký học thêm toán ở các chương trình toán của các đại học. Bởi thế có các em chưa tốt nghiệp THPT mà kiến thức toán thì đã tốt nghiệp đại học. Không phải bây giờ mà cả thế kỷ trước đã như vậy. Với toán có rất nhiều ví dụ, như trường hợp của nhà toán học Gelfand của Liên Xô trước đây chẳng hạn.

Các môn học khác cũng tương tự. Đó là cách dạy thêm. Đó là cách dạy chuyên. Chứ không phải cứ tập trung thành trường chuyên mới là dạy chuyên. Bởi thế, ở nhiều nước có nền giáo dục tiên tiến, tuy không thấy trường chuyên tập trung mà lại có trường chuyên khắp mọi nơi, không dạy thêm mà được dạy thêm mọi lúc.

6. BIỆN PHÁP NÀO ĐỂ CHỐNG CÁC TRƯỜNG HỢP DẠY THÊM CÓ HẠI?

Từ cách dạy thêm nêu ở mục 5 cũng đã có thể nhìn thấy một số biện pháp chống các trường hợp dạy thêm có hại. Ngoài ra, còn các biện pháp khác nữa. Rất muốn đề xuất thêm các biện pháp chống các trường hợp dạy thêm có hại, nhưng e rằng lại thêm một lần thất vọng, nên khất lại chờ một dịp phù hợp hơn.

Bạn chỉ có thể đưa ra tư vấn cho người thực sự muốn nghe bạn tư vấn. Điều đó vẫn chưa đủ. Bạn chỉ đưa ra tư vấn cho ai đánh giá được giá trị tư vấn của bạn thì điều bạn tư vấn mới có ý nghĩa. Các bậc minh chủ có nhiều mưu sĩ giỏi là bởi vì họ giỏi hơn các mưu sĩ.

Tục ngữ Việt Nam có câu “ngứa một nơi, gãi một chốn”. “Đưa dạy thêm vào danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện” không phải là giải pháp để chống lại các trường hợp dạy thêm có hại. Giáo dục Việt Nam mỗi ngày càng thêm nhiều bệnh trầm trọng, là bởi suốt mấy chục năm qua chỉ chữa bệnh ngoài da mà không chữa bệnh tâm can.

N.N.C.

Tác giả gửi BVN



DẠY THÊM-HỌC THÊM,

 BỘ GIÁO DỤC ĐỪNG ĐÁ QUẢ BÓNG VÀO CHÂN NGƯỜI KHÁC

THÁI HẠO/ TD 21-11-2021



Trên diễn đàn Quốc hội ngày 11/11, vấn đề dạy thêm học thêm một lần nữa nóng lên, sau đề nghị của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT “đưa dạy thêm vào danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện”. Nhiều người tỏ ra bất mãn, bức xúc với đề xuất này, tuy nhiên tôi lại thấy vấn đề phức tạp hơn nhiều.

Học thêm là một nhu cầu có thật; và cấm là việc không dễ cũng như không hẳn là hợp lý. Chính vì thế, đề xuất của Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn (đưa dạy thêm học thêm vào danh mục kinh doanh có điều kiện) theo chúng tôi là đúng và thậm chí còn là một yêu cầu cần được thực hiện nếu như muốn quản lý được vấn đề phức tạp này. Tuy nhiên đó là câu chuyện phía sau.

Qua tham khảo nhiều bài viết, dù rất chất lượng và rất khó để bác bỏ thì chúng tôi vẫn thấy nổi lên một vấn đề cơ bản chưa được giải quyết: động cơ học thêm. Nhu cầu thì rõ rồi, nhưng tính chất của nhu cầu ấy, và nhất là nguyên nhân phía sau đã sinh thành, thúc đẩy và nuôi lớn cái nhu cầu ấy là gì thì dường như chưa thấy ai đề cập đến. Cơ bản, các ý kiến mới chỉ tập trung vào phần lý luận, mà nếu nhìn sâu thì mang tính chất của một trò chơi tư biện với những khái niệm nhiều hơn là y cứ trên thực tiễn giáo dục Việt Nam.

Thực tiễn đó là gì? Là để vượt qua các kỳ thi! Chính yêu cầu thi cử đã tạo ra nhu cầu học thêm; chứ chưa hẳn là do lòng hiếu tri hay định hướng nghề nghiệp của học sinh (nhu cầu này là có, nhưng không phổ biến và không lớn mạnh, nếu không nói là rất thiểu số).
Đến đây, toàn bộ việc xem xét để đi đến kết luận cho việc dạy thêm học thêm chỉ còn quy về hai câu hỏi: thi cái gì và thi để làm gì. Thi kiến thức phổ thông trong chương trình phổ thông mà phải đi học thêm mới thi được thì không ổn, vì như thế đồng nghĩa với việc thừa nhận sự thất bại của giáo dục phổ thông. Đến câu hỏi “thi để làm gì?”, thi là để biết mà học tiếp. Còn thi mà chỉ để coi như xong việc và vuốt mồ hôi để rồi không học nữa thì kỳ thi ấy hỏng. Đáng tiếc, hiện nay vế sau đang chiếm ưu thế và áp đảo.

Tạo ra các kỳ thi rồi từ những kỳ thi ấy mà làm nảy sinh nhu cầu học thêm chỉ để đối phó với thi cử thì đây chính là điển hình của một cái vòng luẩn quẩn; nó y như việc liên tục uống thuốc giảm cân để được ăn uống thả sức hơn vậy. Đó là bệnh, bệnh của tư duy. Và từ đây mà có thể phá hủy cả cơ thể vật lý của con người.

Cần học thêm cái gì? Học cái không được dạy trong chương trình phổ thông và học để theo đuổi năng khiếu chuyên biệt khi “tính phổ thông” của chương trình hiển nhiên là không đáp ứng được. Không ai lại phải đi học thêm để học lại cái mà nhà trường đã dạy cả, như thế là hệ thống giáo dục đã tự đánh mất vai trò của mình.

Còn nói rằng học thêm là để nâng cao những kiến thức đã được dạy cơ bản trong chương trình thì vẫn là bất ổn. Vì nếu chương trình không đáp ứng được nhu cầu học chuyên sâu của người học thì chứng tỏ bản thân nó (chương trình) đang bị lỗi. Một chương trình tốt phải đáp ứng được không những nhu cầu, mà còn tư chất, sở trường, thiên hướng của người học. Nghĩa là nó phải có sự phân luồng, phân cấp để thực hiện tinh thần của giáo dục cá biệt hóa. Không thể đồng ý với một chương trình giáo dục cào bằng, vì như thế là vừa tạo ra gánh nặng cho người này nhưng lại không đáp ứng được nhu cầu của người kia, với nhóm này thì thừa nhưng lại thiếu với nhóm khác. Mà tình trạng này lại đang tồn tại.

Tạo ra một nhu cầu giả/vô lý/vô ích (là các kỳ thi có tính đối phó và nặng bệnh thành tích) để làm nảy sinh và biện minh cho dạy thêm học thêm là không thể chấp nhận được.

Như vậy, việc đưa dạy thêm vào danh mục một ngành nghề kinh doanh là cần thiết, nhưng chỉ sau khi đã giải quyết những vấn đề cơ bản của dạy và học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Bộ giáo dục hay ngành giáo dục không thể đặt nhu cầu học cơ bản và định hướng nghề nghiệp lên vai các trung tâm dạy thêm để rồi tự mình không phải làm cái việc mà dứt khoát là thuộc về mình là phụng sự người học. Bộ GD đừng đá quả bóng trách nhiệm vào chân người khác.

Tóm lại, trước khi bàn đến chuyện cấm hay không cấm dạy thêm học thêm thì cần phải trả lời rõ ràng, dứt khoát câu hỏi “học thêm để phục vụ cho cái gì (có “Học để biết, học để làm việc, học để chung sống và học để khẳng định mình” như UNESCO đề xướng không, hay là học để thi)”? Chỉ sau đó thì mọi câu trả lời mới có giá trị thực tiễn trong việc giải quyết vấn đề phức tạp này.

Và theo chúng tôi, học thêm về thể thao, về ngoại ngữ (không phải để thi như hiện tại), về âm nhạc, về hội họa v.v., tóm lại là thuộc về năng khiếu, đó là những nhu cầu chính đáng thật sự cần được khuyến khích và bảo vệ. Những đòi hỏi về việc học nâng cao phải cơ bản được giải quyết trong nội bộ hệ thống giáo dục bằng một chương trình tiên tiến.

Thái Hạo

TĂNG LƯƠNG CÓ GIẢI QUYẾT ĐƯỢC NẠN DẠY THÊM, HỌC THÊM 

HAY KHÔNG ?

THÁI HẠO/ TD 22-11-2021



Quan điểm của tôi là KHÔNG.

Khi chúng ta quan niệm rằng vì lương thấp nên mới có nạn dạy thêm thì cũng đồng nghĩa với việc cho rằng tăng lương thì sẽ giải quyết được tình trạng ấy. Nhận thức như vậy liệu đã thỏa đáng?

Trước tiên, phạm vi bài viết không bàn đến những trường hợp dạy thêm – học thêm chính đáng do những nhu cầu như phát triển tài năng hay năng khiếu, và cũng loại trừ cả những hình thức dạy thêm phi lợi nhuận (không thu tiền). Như thế, sẽ còn lại hai trường hợp chính sau đây:

Một là, nhu cầu có thật của người học để được phụ đạo, bồi dưỡng, nâng cao. Câu hỏi đặt ra đối với trường hợp này là: liệu có cách nào khác để đáp ứng các nhu cầu ấy, thay vì học thêm? Con đường của thế giới để giải quyết bài toán này chính là phân luồng, phân ban, định hướng nghề nghiệp sớm (học ít môn, và học theo hướng phân ban chuyên sâu từ sớm); không cào bằng, không có tham vọng “giỏi toàn diện” mà chỉ có tinh thần giáo dục toàn diện mà thôi. Và như thế đối với họ, dạy thêm – học thêm không phải là lựa chọn, vì nội tại hệ thống giáo dục và chương trình đã tự đáp ứng được yêu cầu.

Hai là, dạy thêm vì lương giáo viên không đủ sống. Không có logic mang tính bản chất nội tại nào giữa việc kiếm sống và dạy thêm cả; vì hai vấn đề này hoàn toàn không có bất kỳ mối quan hệ hữu cơ nhân quả nào. Nói nhẹ thì đó là tư duy ngụy biện, mà nặng thì chính là hành vi gian dối. Việc thiếu tiền mà ép học sinh học thêm, so với hành vi ăn cắp, tham ô, lừa đảo về bản chất không có khác nhau. Nếu thu nhập không đủ sống thì giáo viên phải tranh đấu đòi quyền lợi, đòi chủ sử dụng lao động tăng lương chứ không thể quay lại bắt nạt nạn nhân là người học như thế được.

Đó là hành vi vừa thể hiện sự hèn nhát, vừa thất đức. Nói cách khác, lối dạy thêm như thế không phải là vì gánh nặng mưu sinh mà vì sự xuống cấp của nhân cách và đạo đức. Con người thế nào thì hành xử thế ấy; với những người như thế, nếu một khi thu nhập có ổn thỏa thì cũng không thể kỳ vọng ở họ được. Tại sao mỗi năm có cả ngàn cán bộ đủ mọi cấp vào tù vì tội tham nhũng, dụ họ đã rất giàu có? Nếu với cái logic “có tiền rồi thì không tham nữa” thì đáng lý ra những cán bộ ấy sẽ không chiếm đoạt hàng trăm, thậm chí hàng ngàn tỉ đồng chứ?

Không có chuyện đảm bảo cho một xã hội vận hành và phát triển lành mạnh chỉ bởi vì mọi người trong xã hội ấy đã có đời sống kinh tế khá giả. Đất nước Bhutan nghèo, rất nghèo nhưng họ thuần phác, tốt lành hơn rất nhiều quốc gia có GDP cao hơn gấp nhiều lần, là vì sao? Chỉ có cách thức tổ chức quản lý xã hội một cách khoa học và nền tảng văn hóa đạo đức vững vàng mới là chỗ dựa cho sự văn minh.

Nói như thế không phải là để chấp nhận và tự ru mình trong lối nghĩ “hàn nho phong vị phú”, mà là để khẳng định rằng, muốn chữa bệnh thì dứt khoát phải tìm ra căn nguyên gây bệnh. Dạy thêm – học thêm có lý do là chương trình lạc hậu, và sự xuống cấp của đạo đức nhà giáo. Chỉ có đoạn được hai cái nguồn cơn này thì mới có thể trị dứt căn bệnh dạy thêm học thêm tràn lan gây nhức nhối cho toàn xã hội suốt hàng thập kỷ qua.

Tăng lương cho giáo viên là bài toàn phải có lời giải, nhưng không thể đặt nó trong mối quan hệ với dạy thêm – học thêm, vì như thế là đánh tráo bản chất của vấn đề. Mà một khi đã “hiểu lầm” thì tăng lương xong rồi nhưng vấn nạn vẫn sẽ còn nguyên ở đó. Tăng lương cho giáo viên là trách nhiệm mà chính phủ dứt khoát phải thực hiện để nhà giáo có thể “sống được bằng lương”, nhưng nếu nhầm sang chuyện chữa bệnh dạy thêm thì chúng ta sẽ lại lỡ một nhịp nữa. Lương cần phải tăng nhưng đồng thời phải thực hiện song song với những cải cách về chương trình, về quản lý hành chính nhà nước. Và tuyệt đối không thể đánh đồng hai câu chuyện này với nhau.

Vì sao lương không chữa được bệnh dạy thêm học thêm nhưng vẫn phải tăng? Vì sứ mệnh của giáo dục là để phát triển con người. Khi giáo viên không đủ sống như hiện nay thì sao họ có thể toàn tâm toàn ý với công việc giáo dục thế hệ trẻ? Thế là họ phải làm các nghề tay trái để phụ thêm thu nhập, sao nhãng, làm việc cầm chừng v.v.. Một tình trạng như thế thì nếu có thay đổi chương trình mà dẹp được nạn dạy thêm thì cũng chưa chắc chất lượng giáo dục sẽ được cải thiện.

Hiện nay rất nhiều nhà trường đang tổ chức dạy học buổi thứ hai có thu tiền mà về thực chất là dạy thêm. Nếu tăng lương thì các nhà trường ấy có bỏ buổi dạy thứ hai kia hay không? Không, vì chương trình quá nặng, học sinh không tiếp thu tốt được kiến thức trong một buổi; mà áp lực thành tích lại là một gánh nặng sống còn của nhà trường. Cho dù nhà trường có đủ dũng khí bỏ dạy thêm thì người học (và phụ huynh) cũng sẽ đề nghị và yêu cầu được học. Áp lực thi cử buộc học sinh phải đi học thêm; nếu nhà trường không dạy thì các em cũng sẽ đến trung tâm hoặc năn nỉ thầy cô của mình dạy thêm. Một ví dụ như thế thôi đủ để chúng ta thấy mối quan hệ giữa lương và dạy thêm không phải là nhân quả, càng không phải là logic có tính bản chất.

Để thấy rõ điều này, ta thử giả định rằng nếu tăng lương mà chương trình và phương pháp kiểm tra đánh giá, kiểm định… không thay đổi thì nhu cầu học thêm của học sinh vẫn còn đó. Thầy cô có không còn nhu cầu dạy thêm để kiếm sống nữa thì dạy thêm sẽ vẫn phải tiếp tục. Có cầu thì có cung. Còn nếu chương trình đã thay đổi thì nhu cầu học thêm của học sinh cơ bản không còn; tuy nhiên giáo viên vẫn đói. Và tất nhiên họ phải kiếm sống bằng những cách khác nhau, và không thể đầu tư chuyên môn đến nơi đến chốn được. Như thế, tăng lương đồng nghĩa với việc nâng cao chất lương giáo dục chứ không phải để chấm dứt nạn dạy thêm học thêm. Chúng ta cần phân biệt rõ điều này.

Tóm lại, có 2 việc hệ trọng phải được thực hiện: tăng lương để nâng cao chất lượng giáo dục nói chung bằng cách nâng cao đời sống của giáo viên; và thay đổi chương trình để giải quyết nạn dạy thêm (và nhiều vấn đề nhức nhối khác nữa, cũng có quan hệ mật thiết với chất lượng giáo dục). Còn riêng việc giải quyết bài toán dạy thêm – học thêm là trách nhiệm của Bộ GD-ĐT trong việc xây dựng chương trình, tổ chức kiểm tra đánh giá…, chứ không phải là việc của Bộ Tài chính.

Thái Hạo

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét