Thứ Ba, 16 tháng 2, 2021

20210217. QUANH VẤN ĐỀ TỰ CHỦ ĐẠI HỌC

 ĐIỂM BÁO MẠNG

TỰ CHỦ ĐẠI HỌC TỪ GÓC NHÌN CỦA CƠ QUAN LẬP PHÁP, GIÁM SÁT

THÙY LINH/ GDVN 16-2-2021

Tuy nhiên, trong thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều vấn đề lúng túng, vướng mắc cả về thể chế, cơ chế và năng lực thực hiện tự chủ; tồn tại “một khoảng cách lớn giữa chính sách và thực tiễn triển khai tự chủ trong giáo dục đại học ở Việt Nam”.

Trước thực tế này, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với Đại biểu Quốc hội Phạm Tất Thắng - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội xung quanh vấn đề tự chủ nhìn nhận từ quy định pháp luật và thực tiễn triển khai qua hoạt động giám sát thực thi pháp luật của Ủy ban.

Đại biểu Phạm Tất Thắng

Phóng viên: Nhiều chuyên gia cho rằng dù tự chủ đại học đã được đề cập đến từ sớm trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam song trên thực tế, vẫn tồn tại một khoảng cách giữa tự chủ trên văn bản với thực tiễn thi hành. Từ góc nhìn của cơ quan lập pháp, giám sát, Đại biểu đánh giá sao về quan điểm trên?

Đại biểu Quốc hội Phạm Tất Thắng: Đúng là nhận thức về tự chủ đại học và các nội dung tự chủ đại học đã được đề cập đến trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam từ khá sớm.

Cụ thể, Điều 55 Luật Giáo dục 1998 đã có quy định về quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường đại học, cao đẳng về hoạt động chuyên môn, về tổ chức bộ máy và về huy động các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục.

Nội dung này tiếp tục được cụ thể hóa hơn tại Điều 60 Luật Giáo dục (sửa đổi) năm 2005 liên quan đến hoạt động chuyên môn.

Tuy nhiên, việc tự chủ của các trường phải tuân thủ “theo quy định của pháp luật và theo điều lệ nhà trường”.

Vì vậy, trên thực tiễn các cơ sở giáo dục đại học vẫn ít được trải nghiệm trong việc tự điều hành hoặc theo đuổi các mục tiêu riêng biệt bởi Nhà nước vẫn giữ quyền kiểm soát gần như toàn bộ.

Sau đó, nội dung tự chủ đại học đã dần được mở rộng và cơ chế tự chủ ngày càng được cụ thể hóa. Năm 2012 Luật Giáo dục đại học được Quốc hội thông qua.

Tuy nhiên, thực tế triển khai tự chủ đại học còn nhiều vướng mắc, hạn chế, đặc biệt là đối với cơ sở giáo dục đại học công lập do nội hàm khái niệm tự chủ cũng như cơ chế thực hiện theo quy định của Luật còn chưa được chi tiết hóa; đồng thời, các quy định của hệ thống pháp luật liên quan đến nội dung tự chủ còn chưa được đồng bộ, thống nhất nên đã tạo thành những rào cản đối với việc triển khai tự chủ đại học trong thực tiễn.

Năm 2014, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017 để tạo cơ chế, hành lang pháp lý thí điểm thuận lợi hơn giúp các cơ sở giáo dục đại học có thể thực hiện tự chủ thực chất, đúng nghĩa hơn. Nhưng thí điểm tự chủ theo Nghị quyết 77 lại nặng về khía cạnh tài chính, mức độ tự chủ gắn với mức độ tự lo kinh phí.

Đến năm 2018, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật số 34/2018/QH14) với nội dung cốt lõi là mở rộng và nâng cao hiệu quả thực hiện tự chủ đại học.

Tuy vậy, hành lang pháp lý cho hoạt động tự chủ đại học vẫn còn có những bất cập, thiếu đồng bộ. Bên cạnh Luật Giáo dục đại học, hoạt động của cơ sở giáo dục đại học còn chịu sự điều chỉnh trực tiếp của nhiều đạo luật chuyên ngành khác như Luật Viên chức, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách,… với nhiều quy định mang tính ràng buộc, cần phải tiếp tục sửa đổi để tạo sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật, phù hợp với tinh thần tự chủ đại học.

Một số quy định của Luật vẫn còn mang tính khái quát và phải chờ có văn bản hướng dẫn thi hành để có thể đưa quy định của Luật vào thực tiễn cuộc sống.

Đại biểu Phạm Tất Thắng tham dự hội thảo VEC 2020

Phóng viên: Nhìn lại hành trình từ năm 2014 đến nay, Chính phủ đã quyết định thí điểm tự chủ cho 23 trường đại học theo Nghị quyết 77/NQ-CP của Chính phủ. Đánh giá về thực tiễn triển khai tự chủ đại học thời gian qua thì ông nhận thấy có những nội dung gì nổi bật?

Đại biểu Quốc hội Phạm Tất Thắng: Tôi cho rằng, việc thực hiện tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học bước đầu đạt được một số kết quả đáng khích lệ, mang lại nhiều chuyển biến tích cực cả về nhận thức lẫn công tác tổ chức thực hiện và thành quả đã đạt được.

Cơ quan quản lý nhà nước đã tiến hành xây dựng hệ thống văn bản triển khai tự chủ theo tinh thần của Luật Giáo dục đại học sửa đổi.

Tự chủ đại học giúp nâng cao ý thức về cạnh tranh, tăng cường trách nhiệm của lãnh đạo và đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên góp phần phát huy tính năng động, sáng tạo của đơn vị trong tổ chức, quản lý và các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ.

Các trường tự chủ đã chủ động rà soát, kiện toàn lại tổ chức bộ máy và nhân sự, theo hướng hiệu quả hơn; tăng lực lượng lao động trực tiếp, giảm đội ngũ lao động gián tiếp; đồng thời, thu hút đội ngũ giảng viên, chuyên gia giỏi tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học với mục tiêu góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.

Mặc dù đã có chuyển biến trong nhận thức về vai trò của tự chủ đại học, tuy nhiên quan điểm về tự chủ đại học vẫn còn chưa thống nhất.

Nhiều cơ sở giáo dục đại học cho rằng tự chủ đại học là bản chất, là thuộc tính và là quyền đương nhiên mà cơ sở giáo dục đại học phải được hưởng, theo đó, nhà trường cần phải được tự chủ hoàn toàn trong việc quyết định sự vận hành của đơn vị và cần xóa bỏ hoàn toàn cơ chế chủ quản đối với các trường đại học.

Cũng không ít đơn vị thấy rằng tự chủ không có nghĩa là thoát khỏi chủ sở hữu, theo đó, tự chủ không phải là xóa bỏ “chủ quản”, buông lỏng quản lý mà quan trọng là thay đổi hình thức quản lý, thay đổi cách thực thi quyền sở hữu của cơ quan nhà nước thông qua đại diện chủ sở hữu là thiết chế Hội đồng trường cũng như tăng cường sự minh bạch thông qua chế độ báo cáo, thanh tra cũng như chịu sự giám sát của xã hội.

Ngược lại, cũng có những cơ sở còn “ngại” đổi mới, không muốn thay đổi phương thức truyền thống gắn với sự bao cấp của Nhà nước mà không hào hứng nhiệt tình với tự chủ.

Về phía cơ quan quản lý nhà nước, vẫn nặng về cách tiếp cận từ góc độ tài chính thông qua mức độ tự bảo đảm kinh phí hoạt động mà chưa có căn cứ, nguyên tắc chung để trao quyền tự chủ cũng như trao quyền tự chủ ở mức độ khác nhau phù hợp với năng lực của từng đơn vị liên quan đến công tác tổ chức, nhân sự, quản trị, tiềm lực và kinh nghiệm về đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ cũng như các điều kiện cần thiết khác.

Ngoài ra, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động liên quan đến các nội dung tự chủ của cơ sở giáo dục đại học còn thiếu đồng bộ, chưa rà soát được các luật liên quan đến tự chủ đại học, tác động đến hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học.

Côngtác chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn thực hiện và quản lý của cơ quan thẩm quyền còn chưa theo kịp yêu cầu mới của thực hiện tự chủ.

Các nghị định và văn bản hướng dẫn luật ban hành chậm và vẫn còn thiếu đồng bộ.

Việc quản lý hệ thống vẫn còn chồng chéo giữa các cơ quan, đơn vị cấp trên nhà trường; sự phối hợp trong quản lý vẫn mang tính hình thức do chưa có sự rõ ràng về trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành, cơ quan chủ sở hữu.

Cơ chế cơ quan chủ quản vẫn còn nặng nề làm hạn chế tính đổi mới, sáng tạo của đơn vị cơ sở.

Thậm chí, cơchế cho việc thực hiện các nội dung tự chủ còn nhiều hạn chế, cụ thể:

Về chuyên môn học thuật: Theo quy định của Luật, việc tuyển sinh, tổ chức, quản lý đào tạo và cấp bằng là thuộc trách nhiệm của cơ sở đào tạo song các quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành (như quy chế tuyển sinh, quy chế đào tạo…) còn áp đặt nhiều quy định của cơ quan quản lý, chưa thực sự tôn trọng quyền tự chủ cao của các đơn vị.

Về cơ chế tài chính đại học: Khả năng tự chủ tài chính của các trường công lập tự chủ còn thấp; trách nhiệm của Nhà nước trong đầu tư nguồn lực cho giáo dục đại học còn chưa rõ ràng.

Về công tác tổ chức và nhân sự còn vướng mắc. Việc tuyển dụng, sử dụng, luân chuyển, bổ nhiệm, chấm dứt hợp đồng lao động đối với cán bộ, viên chức ở các trường công lập phải thực hiện theo thủ tục, quy trình quy định của pháp luật về viên chức và về lao động, thậm chí là những quy định nội bộ của cơ quan chủ quản…

Điều này làm hạn chế khả năng của cơ quan sử dụng lao động trong việc tuyển dụng, sử dụng những người có năng lực phù hợp với yêu cầu của vị trí việc làm.

Đặc biệt, nhận thức về vai trò, chức năng của Hội đồng trường trong hoạt động quản trị cơ sở giáo dục đại học còn chưa được đề cao; thiết chế Hội đồng trường của nhiều cơ sở giáo dục đại học vẫn còn mang nặng tính hình thức, không hiệu quả.

Ảnh minh họa

Phóng viên: Trên cơ sở thực tiễn giám sát về triển khai tự chủ đại học thời gian qua, ông đã nêu ra nhiều nguyên nhân “cản trở” việc đẩy mạnh tự chủ các trường đại học. Vậy theo ông, đâu là những nội dung lớn cần quan tâm giải quyết triệt để trong giai đoạn hiện nay để tạo thuận lợi cho các cơ sở giáo dục đại học thực hiện tự chủ?

Đại biểu Quốc hội Phạm Tất Thắng:

Thứ nhất, việc rà soát, đồng bộ hóa quy định pháp luật để tạo cơ sở pháp lý thống nhất và vững chắc cho việc thúc đẩy thực hiện tự chủ đại học là một yêu cầu quan trọng.

Tuy nhiên, giải pháp khả thi cho việc này như thế nào khi quá trình tự chủ đang được triển khai quyết liệt trên thực tế, phải chăng cần thiết xây dựng một đề án tổng thể, có sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ về tự chủ đại học, để giải quyết đồng bộ các vấn đề đặt ra.

Thứ hai, nếu không làm rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý trực tiếp, nếu Hội đồng trường không được giao thực quyền, chế độ minh bạch thông tin chưa được thiết lập, thì hiệu quả quản trị nhà trường, chất lượng giáo dục đại học và công bằng xã hội khó có thể được cải thiện, thậm chí công sản đã đầu tư vào các đại học công lập có nguy cơ bị khai thác vì lợi ích riêng. Do đó cần xác nhận tường minh để tạo cách hiểu và nhìn nhận thống nhất về tự chủ.

Từ đó, việc giao thực hiện tự chủ cho các trường đại học có cần đánh giá, xác nhận năng lực, điều kiện tự chủ hay không, tự chủ đến đâu và phương thức thực hiện việc giao kết này ra sao?

Có nên xây dựng nhiều mô hình tự chủ phù hợp với từng nhóm trường đại học khác nhau hay không cũng là một câu hỏi đặt ra.

Thứ ba, nâng cao năng lực thực hiện tự chủ của cơ sở giáo dục đại học. Theo đó, việc nâng cao năng lực quản trị của cơ sở giáo dục đại học trên cơ sở củng cố và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hội đồng trường; nâng cao trách nhiệm, kỹ năng cho các thành viên hội đồng trường…, bảo đảm đây là một thiết chế quyền lực thực sự trong nhà trường cũng như xử lý hài hòa mối quan hệ giữa hội đồng trường với các thiết chế quyền lực khác cũng là một yêu cầu đặt ra.

Thứ tư, trên cơ sở làm rõ vai trò, trách nhiệm của Nhà nước đối với phát triển giáo dục đại học của đất nước, khi đẩy mạnh thực hiện tự chủ đại học, cùng lúc xác nhận trách nhiệm đầu tư của nhà nước, cần làm rõ nội dung và quyền hạn trong tự chủ tài chính của cơ sở giáo dục đại học, trong hệ thống văn bản pháp lý và quản lý nhà nước, trong mối quan hệ của cơ quan quản lý trực tiếp với trường đại học.

Thứ năm, việc thực hiện quyền tự chủ gắn liền với tăng cường trách nhiệm giải trình, công khai minh bạch thông tin là vấn đề quan trọng để bảo đảm việc triển khai thực hiện tự chủ có hiệu quả.

Đồng thời, các thiết chế, thói quen và văn hóa giám sát đại học để bảo đảm tính thực chất và chính xác của các thông tin giải trình cũng cần được hình thành và phát triển để bảo đảm tính công bằng, khách quan và trung thực.

Nội dung, cơ chế, phương thức triển khai được quy định hay hướng dẫn và giám sát như thế nào, có những quy định nguyên tắc bắt buộc ra sao cũng là những vấn đề cần có quy định, hướng dẫn cụ thể.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Đại biểu.

Thùy Linh
ĐỪNG HIỂU TỰ CHỦ LÀ NHÀ NƯỚC CẮT HẾT NGÂN SÁCH
ĐỖ THƠM /GDVN 14-2-2021

Cả nước hiện có gần 2.000 cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Trong số đó, hơn 1.500 trường trung cấp, cao đẳng nghề thuộc diện công lập. Tự chủ được Tổng Cục Giáo dục Nghề nghiệp (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội) khẳng định là chìa khóa để đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp.

Trong đó, Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội đang được coi là điểm sáng trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp. Được biết, đến thời điểm hiện tại, trường đã tự chủ được 50% chi thường xuyên.

Đây là ngôi trường chất lượng cao luôn đóng góp sinh viên xuất sắc đại diện cho sinh viên Việt Nam tham dự kỳ thi kỹ năng nghề các cấp và thế giới.

Trường được kiểm định quốc tế công nhận thí điểm theo tiêu chuẩn của Anh và Đức.

Năm nay, thủ khoa đầu vào của trường là 27,8 điểm. Á khoa là em có số điểm 26,7 điểm. Sinh viên nhập học năm 2020 đến từ 40 tỉnh thành trong cả nước.

Ông Đồng Văn Ngọc - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội. Ảnh: NTCC

Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với ông Đồng Văn Ngọc – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội về bước đi để hướng tới tự chủ thành công của nhà trường.

Phóng viênThời gian vừa qua, tự chủ trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp là một vấn đề được nhiều trường quan tâm, đặc biệt là việc triển khai trong thực tiễn. Vậy theo ông, cần phải hiểu như thế nào về việc tự chủ ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp?

Ông Đồng Văn Ngọc: Tự chủ là một xu thế tất yếu. Đó cũng là xu thế chung trên toàn thế giới chứ không chỉ riêng ở Việt Nam. Cũng như tại thời điểm này, vấn đề tự chủ ở các trường cao đẳng và các trường cao đẳng thuộc lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp cần phải làm rõ khái niệm. Hầu hết, hiện nay rất nhiều người, thậm chí là cả chính lãnh đạo các trường đều hiểu tự chủ nghĩa là nhà nước cắt ngân sách, phần tài chính, ngân sách chi thường xuyên cho các trường. Đây là nhận thức không đúng.

Nghị định 16/2015/NĐ-CP, quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập hướng đến có 3 nội dung Nhà nước đang giao tự chủ. Thứ nhất là tự chủ tài chính. Thứ hai là tự chủ tổ chức bộ máy, nhân sự. Thứ ba là nhiệm vụ. Nghị định này đang được sửa đổi thay bằng nghị định mới tăng tính tự chủ trong đó.

Về tài chính, Nhà nước chắc chắn phải thay đổi cách thức, ngân sách đầu tư cho hệ thống giáo dục công lập, đặc biệt với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đào tạo nghề. Việc này theo tôi chắc chắn Nhà nước không bao giờ buông được. Bởi các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đào tạo nhân lực. Nhân lực là một trong yếu tố quyết định năng suất làm ra của cải trực tiếp cho xã hội và lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp sẽ đóng góp nhân lực rất nhiều. Việc đào tạo nhân lực ở lĩnh vực này, Nhà nước chắc chắn sẽ không thể cắt mà thay thế bằng các hình thức khác như đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ.

Nhà nước sẽ tổ chức đấu thầu chọn ra đơn vị nào cung ứng được dịch vụ Nhà nước yêu cầu một cách tốt nhất, với giá thành chi phí hợp lý nhất. Hoặc có thể Nhà nước sẽ đặt hàng, doanh nghiệp đặt hàng các cơ sở đào tạo. Những ngành nghề không thể đấu thầu, đặt hàng được thuộc lĩnh vực đặc thù thì chắc chắn Nhà nước phải giao nhiệm vụ.

Ví dụ đào tạo cho những người yếu thế hoặc nghề đặc thù như ngành nghề liên quan văn hóa, nghệ thuật…Ba hình thức này, Nhà nước sẽ giao cho lãnh đạo các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có quyền nhiều hơn để tổ chức bộ máy nhân sự, chi trả tiền lương, khoản lương tăng thêm, phụ cấp cho người lao động làm thế nào linh hoạt, thúc đẩy cho người lao động làm việc hiệu quả nhất. Tiếp đó là tự chủ nhân sự và thực hiện nhiệm vụ. Ứng với các vị trí công việc trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, người đứng đầu sẽ có quyền lựa chọn nhân lực nào, chứ không phải gò bó đi xin Nhà nước năm nay xin vài chỉ tiêu hay xin Nhà nước cho tuyển viên chức.

Hiệu trưởng trường sẽ chủ động thực hiện dưới cơ chế giám sát của các đơn vị chức năng trong trường. Nếu lãnh đạo tuyển một cách bừa bãi thì lấy tiền đâu mà trả? Nếu họ tuyển các nhân sự không làm được việc thì cơ sở đó sẽ đào thải, người đó sẽ bị tự đào thải. Nó tạo thành sức ép, sự canh tranh rõ ràng. Chúng ta nói đến đào tạo linh hoạt và mở. Nếu nói về linh hoạt, thì phải giao quyền tự chủ cho người đứng đầu cơ sở giáo dục đào tạo.

Ví dụ hôm nay, hiệu trưởng thương thảo hợp tác đào tạo với một doanh nghiệp A xong, họ đặt hàng Trường Cao đẳng cơ điện Hà Nội đào tạo một nhóm đối tượng ngành nghề với chuẩn đầu ra, đầu vào cụ thể… 2 bên công bố công khai và giám sát. Nhưng ngành nghề đó lại phải đi xin cơ quan quản lý Nhà nước. Để có được giấy phép đào tạo này thì có khi phải mất một tháng, một tháng này, doanh nghiệp có khi họ không cần nữa. Rõ ràng, cần phải giao quyền tự chủ cho người đứng đầu. Họ chịu trách nhiệm trước pháp luật, chịu trách nhiệm giải trình. Theo tôi, khái niệm tự chủ cần phải được hiểu theo nghĩa rộng đó là tăng quyền tự chủ cho người đứng đầu ở tất cả các lĩnh vực Nhà nước sẽ giao quyền.

Thủ tướng thăm gian hàng của Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội tại Diễn đàn “Nâng tầm kỹ năng lao động Việt Nam” tổ chức vào tháng 11/2019. Ảnh: NTCC

Phóng viên: Được biết, đến thời điểm hiện tại, trường đã tự chủ được 50% chi thường xuyên. Đặc biệt, Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội là một thương hiệu uy tín thu hút học sinh, tạo được niềm tin với doanh nghiệp. Ông có thể chia sẻ kinh nghiệm của trường?

Ông Đồng Văn Ngọc: Muốn phát triển một cơ sở giáo dục và đích đến là tự chủ được thì chất lượng đào tạo của nhà trường phải đảm bảo. Khi chất lượng của nhà trường định vị tạo thành một thương hiệu, khẳng định được vị thế trong xã hội, với doanh nghiệp thì người học, nhà trường, doanh nghiệp, xã hội đều được hưởng lợi. Cụ thể, người học không bị thất nghiệp. Bởi nhà trường đã gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp. Doanh nghiệp tham gia vào tất cả quá trình đào tạo của nhà trường. Với các sinh viên học ở trường tốt nghiệp, không những các em có việc mà còn có quyền lựa chọn vị trí việc làm có thu nhập cao và cơ hội thăng tiến nghề nghiệp tốt.

Đối với doanh nghiệp, họ không phải lãng phí thời gian đào tạo bổ sung hay đào tạo lại. Họ phối hợp với nhà trường đào tạo ngay trong nhà trường.

Đối với nhà trường khi thương hiệu được khẳng định, người học, xã hội, doanh nghiệp thừa nhận thì việc tuyển sinh, nâng cao chất lượng đầu vào sẽ rất đơn giản. Việc tuyển sinh ổn định, các hoạt động đào tạo đa dạng thì nguồn thu của trường sẽ được đảm bảo.

Nhiều sinh viên của Trường đạt giải cao trong các kỳ thi tay nghề. Ảnh: NTCC

Phóng viên: Nguồn thu được xem là bài toán nan giải khi các cơ sở giáo dục tự chủ. Trường đã giải quyết bài toán này khá hiệu quả, thưa ông?

Ông Đồng Văn Ngọc: Nguồn thu của nhà trường được đảm bảo từ 2 kênh. Thứ nhất là từ học phí người học, hai là nhà nước đầu tư theo kênh đấu thầu, đặt hàng như đã nói ở trên. Có nguồn thu ổn định, trường hoàn toàn có thể tự chủ được theo cách thức Nhà nước đang định hướng. Kinh nghiệm từ Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội, chúng tôi hiểu rằng, không phải nói một câu “đây là trường chất lượng cao” mà trở thành trường chất lượng cao”. Chất lượng cao phải do người học, doanh nghiệp, xã hội công nhận, không phải ông hiệu trưởng nói hay tự nhận mà được. Việc này cũng phải do các tổ chức kiểm định trong nước và quốc tế vào kiểm định theo một kênh độc lập và công nhận.

Định vị thương hiệu là cả một quá trình, giữ được thương hiệu và nâng tầm thương hiệu là một nỗ lực rất lớn. Chúng tôi hiểu được điều đó, vì vậy toàn thể cán bộ, giảng viên nhà trường đều không ngừng nỗ lực. Khi đã xây dựng mục tiêu là định vị thương hiệu ở một vị trí nào đấy thì phải tính đến việc làm liên tục, cần mẫn từ việc nhỏ nhất đến việc vĩ mô của trường. Từ việc nhỏ nhất như vệ sinh môi trường học tập, chúng tôi cũng quan tâm thực hiện liên tục. Chất lượng được nhà trường khẳng định ở việc sinh viên tham gia các cuộc thi trong nước và quốc tế, giảng viên của nhà trường cũng vậy. Tổng hợp các giá trị của tất các hoạt động để tạo nên thương hiệu nhà trường, định vị nó ở phân khúc đào tạo chất lượng cao. Như kinh nghiệm của Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội, phân khúc và định vị thương hiệu của trường là trường chất lượng cao. Mọi việc phải hướng đến chất lượng cao và hiệu quả. Có 4 cụm từ mà chúng tôi đang duy trì và làm theo là “Chất lượng, hiệu quả, nâng tầm, hội nhập”. Làm việc gì cũng phải hướng tới chất lượng nếu không sẽ tự mình đào thải. Chất lượng mà không mang lại hiệu quả thì là vu vơ. Phải hiệu quả thì mới tự chủ được. Đã hiệu quả thì phải nâng tầm nó lên. Nếu không sẽ là thụt lùi. Xã hội chúng ta hội nhập, nền kinh tế hội nhập rất sâu rộng. Nếu đào tạo nhân lực cho nền kinh tế mà không hội nhập thì cũng không thể phát triển được. Vì thế, chúng tôi chọn 4 cụm từ trên làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình.

Sinh viên của Trường được đào tạo trên các thiết bị tiên tiến. Ảnh: NTCC

Sinh viên của Trường tham dự kỳ thi nghề. Ảnh: NTCC

Phóng viên: Ông có thể tiết lộ về tỷ lệ sinh viên có việc làm và mức thu nhập của sinh viên tốt nghiệp của trường?

Ông Đồng Văn Ngọc: Ngay từ trước khi tổ chức thi tốt nghiệp, tôi có tổ chức một buổi đối thoại với sinh viên xem các em có nhu cầu sao, cần nhà trường hỗ trợ gì về việc làm không, các em ký cam kết việc làm có vướng mắc gì không, thì không có một cánh tay nào giơ lên cả. Lúc đó, chúng tôi tổ chức thi tốt nghiệp. Sinh viên tháng 9 ra trường, tháng 10/2020, trường có tổ chức khảo sát, lần vết. Theo kết quả thì 100% sinh viên có việc làm.

Về phổ thu nhập, số lượng sinh viên vừa ra trường có thu nhập ở mức thấp là từ 7-8 triệu đồng/tháng. Phổ thu nhập trung bình là 10-12 triệu đồng/tháng. Mức cao vọt lên 15-18 triệu đồng/tháng chiếm khoảng 10%. Mức lương của sinh viên ra trường trong 1 năm đầu có thể đạt được 10 triệu đồng/tháng. Với mức lương này, tôi tin các em có thể yên tâm đảm bảo cuộc sống và có thể khởi nghiệp được.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông.

Đỗ Thơm (thực hiện)
ĐẠI HỌC TỰ CHỦ RỒI, BAO GIỜ ĐẾN CAO ĐẲNG ?
PHẠM MINH/ GDVN 13-2-2021

Tự chủ trong giáo dục là mối quan tâm đặc biệt đối với các trường đại học, cao đẳng hiện nay.

Trong lĩnh vực giáo dục đại học, những "nút thắt" đang dần được tháo gỡ, các hành lang pháp lý hỗ trợ cho cơ chế tự chủ từng bước được xây dựng, được áp dụng, và được cụ thể hóa trong Luật Giáo dục Đại học sửa đổi năm 2018.

Tuy nhiên, trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, dù đã có những quy định trong Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014 thì các trường cao đẳng hiện nay vẫn gặp phải nhiều rào cản, vướng mắc từ cơ chế xin cho.

Xoay quanh vấn đề này, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Lê Trường Tùng - Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học cao đẳng Việt Nam, Thành viên Hội đồng Quốc gia về Giáo dục và Phát triển nhân lực, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học FPT.

Tiến sĩ Lê Trường Tùng cho rằng, các trường cao đẳng vẫn chưa có hành lang pháp lý đủ rộng để thực hiện tự chủ, vẫn phải áp dụng cơ chế xin - cho (Ảnh: Thùy Linh)

Phóng viên: Thưa Tiến sĩ, thời gian gần đây dư luận đặc biệt quan tâm và tranh luận khá nhiều về tự chủ trong giáo dục. Ông có thể cho biết vì sao lại xảy ra tranh luận nhiều như vậy?

Tiến sĩ Lê Trường Tùng: Có lẽ trước hết cần thống nhất cách hiểu về bản chất của tự chủ trong giáo dục. Bản chất của tự chủ trong giáo dục không phải là tự túc (tự đảm bảo tài chính) giống như cơ chế tự chủ đang áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp, cũng không phải là tự trị muốn làm gì thì làm, vì giáo dục là một lĩnh vực phức tạp, cần có khuôn khổ pháp lý chặt chẽ, các trường cần có trách nhiệm giải trình, và cần có sự giám sát, kiểm tra, điều phối từ các cơ quan quản lý và từ xã hội.

Bản chất của tự chủ trong giáo dục là xóa bỏ cơ chế dưới đề xuất - trên phê duyệt (còn gọi là cơ chế xin-cho), từng bước thay thế cơ chế này bằng cơ chế các trường được tự quyết trong hành lang pháp lý phù hợp, các trường tự vận động trong hành lang pháp lý đó. Vai trò của cơ quan quản lý nhà nước thay từ xem xét phê duyệt chuyển sang hậu kiểm. Mức độ tự chủ của các trường phụ thuộc vào các hành lang pháp lý nhiều hoặc ít (tự chủ trong nhiều lĩnh vực hay ít lĩnh vực), rộng hay hẹp (rộng thì các trường được chọn cách xoay xở sáng tạo, hẹp quá thì chỉ có một cách đi giống nhau).

Trong thời gian vừa qua có khá nhiều ý kiến về tự chủ trong giáo dục vì ba lý do. Thứ nhất, đây là lĩnh vực mới, nếu các hoạt động dịch vụ sản xuất đã chuyển sang cơ chế tự chủ từ 30 năm nay thì giáo dục đi sau 20 năm, vẫn hoạt động chủ yếu theo cơ chế hành chính kế hoạch hóa và mới bắt đầu nhúc nhích tự chủ những năm gần đây. Vì mới, nên có nhiều ngỡ ngàng, mò mẫm cả từ phía các trường lẫn phía cơ quan quản lý nhà nước.

Thứ hai là trào lưu tự chủ trong giáo dục lại song hành với một trào lưu cũng gọi là tự chủ áp dụng riêng cho các cơ quan sự nghiệp công lập, với cơ chế tự chủ xây dựng trên nền tảng tự chủ tài chính (tự chủ dựa trên mức độ tự túc) gây nhầm lẫn giữa hai trào lưu cùng thời, cùng tên gọi nhưng khác biệt về bản chất. Thứ ba hệ thống giáo dục gồm cả trường công và trường tư, về góc độ chuyên môn nghiệp vụ nói chung giống nhau, nhưng góc độ tài chính tài sản và tổ chức nhân sự khác nhau rất nhiều – một hành lang pháp lý áp dụng phù hợp cho khối trường công có thể không phù hợp với trường tư và ngược lại.

Phóng viên: Hiện nay các trường đại học và các trường cao đẳng hoạt động theo hai luật khác nhau (Luật Giáo dục Đại học và Luật Giáo dục Nghề nghiệp), và do hai bộ khác nhau quản lý (Bộ Giáo dục Đào tạo và Bộ Lao động Thương binh Xã hội). Khác nhau về luật và về cơ quan quản lý có dẫn đến các khác biệt về tự chủ cho các trường đại học và cao đẳng không thưa ông?

Tiến sĩ Lê Trường Tùng: Luật Giáo dục Đại học 2012, Luật Giáo dục Nghề nghiệp 2014 nêu rõ các cơ sở giáo dục đại học và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp – trong đó bao gồm các trường đại học, cao đẳng – được tự chủ trong chuyên môn học thuật, tài sản tài chính và tổ chức nhân sự.

Trong lĩnh vực giáo dục đại học, các hành lang pháp lý hỗ trợ cho cơ chế tự chủ từng bước được xây dựng, được áp dụng, và được cụ thể hóa trong Luật Giáo dục Đại học sửa đổi năm 2018. Từ tháng 7 năm 2019, các trường đại học khi đáp ứng được các yêu cầu đảm bảo chất lượng thì được tự chủ hoàn toàn trong việc mở ngành đào tạo, trong xác định chỉ tiêu tuyển sinh và trong liên kết hợp tác liên kết quốc tế.

Trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, mặc dù Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014 quy định rõ “cơ sở giáo dục nghề nghiệp tự chủ trong các hoạt động thuộc các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo và công nghệ, hợp tác quốc tế… theo quy định của pháp luật” (điều 25), nhưng rất tiếc là đến nay đã bước sang năm thứ 7 vẫn chưa xây dựng được hành lang pháp lý cho cơ chế tự chủ, và vẫn áp dụng cơ chế xin-cho. So với các trường đại học thì các trường cao đẳng đúng là bị nhiều ràng buộc hạn chế và chịu nhiều thiệt thòi.

Phóng viên: Ông có thể chia sẻ rõ hơn về những bất cập với các trường cao đẳng khi các trường vẫn còn chịu nhiều sự ràng buộc trong thực hiện tự chủ không ạ? Cụ thể, đối với vấn đề mở ngành, vấn đề chỉ tiêu tuyển sinh thì sự ràng buộc đó được biểu hiện như thế nào?

Tiến sĩ Lê Trường Tùng: Nghị định 143/2016/NĐ-CP của chính phủ, sửa đổi bởi Nghị định 140/2018/NĐ-CP về điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp quy định chi tiết về thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký lần đầu và đăng ký bổ sung hoạt động giáo dục nghề nghiệp.

Đây là một dạng giấy phép con. Sau khi thành lập, các trường cao đẳng cần làm thủ tục đăng ký về ngành nghề, chỉ tiêu, địa điểm với cơ quan quản lý nhà nước. Trong quá trình hoạt động, các trường cao đẳng thường xuyên phải làm thủ tục đăng ký bổ sung hoạt động giáo dục nghề nghiệp với những hoạt động lẽ ra thuộc quyền tự chủ của các trường theo quy định của Luật Giáo dục Nghề nghiệp về tự chủ trong chuyên môn học thuật, ví dụ như thay đổi chỉ tiêu tuyển sinh hoặc mở ngành đào tạo mới. Các trường cao đẳng nếu lỡ “tự chủ” không làm thủ tục đăng ký bổ sung có thể sẽ bị cơ quan quản lý nhà nước chế tài theo Nghị định 75/2015/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp.

Phóng viên: Thưa ông, còn việc liên kết hợp tác quốc tế thì còn chịu sự ràng buộc nào không, trong khi chúng ta đang phát triển theo xu hướng giáo dục mở, nâng cao chất lượng đào tạo, hội nhập quốc tế về giáo dục đào tạo?

Tiến sĩ Lê Trường Tùng: Theo Nghị định 15/2019/NĐ-CP của chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Giáo dục Nghề nghiệp, việc hợp tác liên kết giáo dục nghề nghiệp với nước ngoài của các trường cao đẳng vẫn phải do cơ quan nhà nước cấp phép (điều 24).

Phóng viên: Theo ông, những quy định xin-cho như trên đang gây khó khăn, tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hoạt động đào tạo cũng như việc nâng cao chất lượng và sự phát triển nói chung của các trường cao đẳng như thế nào?

Tiến sĩ Lê Trường Tùng: Cơ chế xin-cho ảnh hưởng đến mức độ thích ứng nhanh của các trường trong việc đáp ứng sự thay đổi rất nhanh chóng của xã hội trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hiện nay, khi không phải mạnh được yếu thua, mà ai nhanh người đó sẽ chiến thắng.

Cơ chế xin cho cũng không phải là môi trường khuyến khích sáng tạo đổi mới – khi đây lại đang là một yếu tố cơ bản định hình và phát triển đất nước hiện nay. Nhưng điều lo ngại nhất là các trường hoạt động trong cơ chế xin-cho sẽ có các lãnh đạo với tư duy xin-cho, có các cán bộ giảng viên với tư duy xin-cho, và cuối cùng đào tạo ra những con người với tư duy xin-cho.

Phóng viên: Ông có thể đề xuất một số giải pháp nhằm gỡ bỏ những vướng mắc trong quá trình thực hiện tự chủ ở các trường cao đẳng hiện nay không?

Tiến sĩ Lê Trường Tùng: Vấn đề quan trọng nhất là các cơ quan chức năng cần nhận thức việc triển khai cơ chế tự chủ cho các trường cao đẳng là rất quan trọng. Hiện đã sang năm thứ 7, và tiếp tục “treo” cơ chế tự chủ sang năm thứ 8 kể từ khi có quy định tự chủ trong Luật Giáo dục Nghề nghiệp 2014 là khó chấp nhận được.

Thay đổi nhận thức là việc khó, còn thực hiện thì đơn giản. Chỉ cần Bộ Lao động Thương binh Xã hội soạn thảo sửa đổi các Nghị định 143/2016/NĐ-CP, 140/2018/NĐ-CP, 15/2019/NĐ-CP theo hướng bỏ đi những gì mang tính xin-cho và thay bằng bằng hành lang pháp lý cùng cơ chế giải tình, cơ chế hậu kiểm – có thể tham khảo các quy định tự chủ cho các trường đại học - rồi trình chính phủ ký là xong. Tuy nhiên việc này phải khẩn trương thỉ mới kịp để áp dụng cho năm học 2021-2022, còn nếu cứ túc tắc đến đâu thì đến thì cơ chế tự chủ cho các trường cao đẳng tiếp tục “treo” sang năm thứ 8 là hiện thực có thể nhìn thấy trước.

Trân trọng cảm ơn ông!

Phạm Minh
NẾU KHÔNG GIẢI QUYẾT ĐƯỢC VẤN ĐỀ TỰ CHỦ, ĐẠI HỌC VIỆT NAM KHÔNG THỂ CẤT CÁNH
THÙY LINH/ GDVN 12-2-2021

Vừa qua Đại hội toàn thể lần thứ II (nhiệm kỳ 2020-2025) của Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đã bầu Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Ủy viên trung ương Đảng, nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương làm Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam.

Tại Đại hội, Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng khẳng định, một trong những nhiệm vụ mà Hiệp hội đề ra trong nhiệm kỳ này là nỗ lực góp phần thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước về tự chủ đại học.

Trước quyết tâm của tân Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với ông xung quanh vấn đề tự chủ đại học.

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng được bầu làm Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam. Ảnh: Tùng Dương

Phóng viên: Nhiều chuyên gia nhận định, tự chủ là một đặc trưng cơ bản của quản trị đại học, ông nghĩ sao về điều này?

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Thủa xưa, khi mới ra đời, các đại học đầu tiên phần nhiều là của tôn giáo hoặc của nhà nước để đào tạo ra những con người truyền đạo hoặc làm công chức nhà nước. Ngày đó đại học chưa có tự chủ.

Sau này đại học được thế tục hóa, phục vụ mục tiêu phát triển con người và sự phát triển của xã hội nói chung.

Từ đó đại học có nhu cầu tự chủ, tạo ra một bước tiến lớn trong phát triển giáo dục đại học nói riêng và phát triển xã hội nói chung.

Đại học gắn với tự chủ, đương nhiên là tự chủ, quan niệm hiện đại là vậy. Do đó nếu chưa tự chủ thì chưa phải là đại học theo đúng nghĩa của nó.

Đại học gắn với tự chủ, phân biệt với phổ thông cấp 4. Mà trong tương lai, ngay cả trung học phổ thông (cấp 3) rồi cũng phải tự chủ dần vì phổ thông cơ bản cũng sẽ kết thúc ở trung học cơ sở. Còn phổ thông trung học là giai đoạn bắt đầu hướng vào nghề nghiệp. Trong đó, sẽ có tự chủ về chương trình, lúc đầu là một nửa sau là toàn bộ.

Đại học không chỉ là nơi truyền thụ kiến thức đã có, mà quan trọng hơn thế, còn là nơi sản sinh ra tri thức mới. Mà để có thể sản sinh ra tri thức mới thì bản thân công việc đó đòi hỏi sự năng động, sáng tạo rất nhiều. Không có tự chủ sẽ không thể làm tốt.

Tính đa dạng của con người và nghề nghiệp đòi hỏi quản trị phải phù hợp với đối tượng. Tự chủ đáp ứng kịp thời hơn so với không được tự chủ. Ngày nay thế giới thay đổi, khoa học – công nghệ phát triển rất nhanh, càng đòi hỏi sự ứng phó linh hoạt, năng động.

Đại học phải tập trung cho phát triển năng lực. Mà năng lực trước tiên là năng lực tư duy độc lập. Khả năng tư duy độc lập là dấu hiệu và biểu hiện của sự trưởng thành. Không thể tạo ra sản phẩm tư duy độc lập khi mà nhà trường và thầy cô giáo không được tự chủ trong đào tạo.

Mặt khác, cơ chế bộ chủ quản như ở Việt Nam thì phần nhiều là một cơ quan hành chính hay đoàn thể, không phải đơn vị sự nghiệp đào tạo, về mặt chương trình và quản trị đào tạo, sẽ không có chuyên môn sâu, không thể giỏi bằng tập thể một trường đại học trên phương diện đó.

Vì thế, cơ chế tự chủ thay cho cơ chế chủ quản là khách quan, chỉ trừ trường hợp đối với các trường thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Công an vì tính đặc thù (đào tạo riêng cho ngành đó sử dụng, có yêu cầu quản lý đầu vào, đầu ra và xây dựng môi trường, tác phong quân sự).

Ảnh: Tùng Dương

Phóng viên: Nhìn lại chặng đường vừa qua, ông đánh giá như thế nào về tình hình tự chủ đại học ở nước ta và trên thế giới?

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Ở nước ta, trước đây khoảng vài chục năm hầu như chưa nói gì đến tự chủ, thậm chí nghe quá mới và xa lạ. Cá biệt còn kiêng dè, cảnh giác.

Mấy năm gần đây đã bắt đầu nói nhiều. Theo nghĩa ấy đã có tiến bộ về tư duy, nhận thức. Rồi đến một lúc nữa nó sẽ là đương nhiên trong nhận thức chung của cả xã hội như ở nhiều nước có nền giáo dục tiên tiến.

Chủ trương của Đảng và Nhà nước cơ bản đã có, khá rõ ràng, đầy đủ và đồng bộ. Nghị quyết của Đảng, Luật của Quốc hội, Nghị định của Chính phủ, Thông tư, Hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tất nhiên vẫn cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện.

Trong khi đó, thế giới thì phần lớn đã thực hiện từ lâu, trước chúng ta khá xa thậm chí hơn nửa thế kỷ.

Ở Việt Nam đã có chủ trương về cơ bản là rất đúng đắn nhưng tổ chức thực hiện thì còn nhiều khó khăn, lúng túng, dập dừng.

Đã có một số kết quả tốt ở một số cơ sở đào tạo, đủ để khẳng định sự đúng đắn của chủ trương tự chủ đại học. Hai đại học quốc gia không có chủ quản là hai đại học mạnh nhất. Tuy nhiên khó khăn vẫn còn nhiều, thậm chí các khó khăn ấy đang thử thách ý chí và năng lực đổi mới của chúng ta, thử thách cả việc tổ chức thực hiện thành công hay thất bại đối với chủ trương quan trọng này.

Sự lúng túng đó thể hiện ở việc:

Thứ nhất, cơ quan chủ quản vẫn còn, trong khi tự chủ là tự nhà trường làm chủ lấy.

Thứ hai, Hội đồng trường là cơ quan quyền lực cao nhất nhưng trên thực tế thì chưa được (do cơ quan chủ quản và hiệu trưởng chi phối ngược).

Thứ ba, xem xét đúng sai của nhà trường thì trên cơ sở những quy định cũ, khi chưa tự chủ.

Thứ tư, Hội đồng trường quyết định ai là hiệu trưởng nhưng thực chất thì ngược lại, hiệu trưởng quyết định hội đồng trường.

Thứ năm, Luật pháp quy định việc chọn hiệu trưởng hay cách chức, cho thôi chức hiệu trưởng là việc của hội đồng trường, nhưng có cơ quan chủ quản vẫn tự quyết định thôi chức, cách chức hiệu trưởng và bổ nhiệm người khác thay thế.

Thứ sáu, lại có tình trạng song song tồn tại hai cơ chế, tự chủ và chủ quản, cũng có nghĩa là tự chủ và không tự chủ.

Thứ bảy, sau khi có chủ trương thì Chính phủ đã cho thí điểm tự chủ. Thí điểm đã sáu năm rồi nhưng tổng kết toàn diện và chỉ đạo tiếp theo thì chưa mạnh mẽ, rõ ràng. Trong khi đang có sự giằng co về quyền và lợi ích giữa các bên. Ngược lại cũng có trường hợp lãnh đạo nhà trường không muốn tự chủ.

Tôi có băn khoăn, phải chăng cơ chế bao cấp đã tạo thành nếp nghĩ và sự lười biếng trong động não, hay là cán bộ chưa đủ năng lực để tự chủ. Nếu do không đủ năng lực mà không thực hiện tự chủ thì bao giờ mới biết tự chủ? Trong trường hợp này tốt nhất là bố trí lại cán bộ. Có nơi chỉ xin tự chủ về tài chính (trong khi tự chủ chương trình là lý do chính để tự chủ các mặt khác).

Vì sao vấn đề tự chủ lại khó khăn như vậy, kể cả khi đã có chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Bởi đây thực chất đằng sau nó là vấn đề phân chia quyền lực, tranh giành quyền lực. Sự tranh giành ấy có nhiều trường hợp liên quan trực tiếp vấn đề “lợi ích nhóm” và các nhóm lợi ích, họ lại có sức mạnh của đồng tiền kết hợp với quyền lực trong tình trạng thoái hóa.

Trường Đại học Tôn Đức Thắng là một trong 23 cơ sở giáo dục đại học thực hiện tự chủ theo Nghị quyết 77.

Phóng viên: Từ những nguyên nhân “cản trở” tự chủ đại học như vậy thì theo ông, tới đây Nhà nước cần tiếp tục làm gì để thực hiện thành công chủ trương này?

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Theo tôi, để thực hiện thành công chủ trương tự chủ đại học cần tiếp tục nhận thức cho sâu sắc tầm quan trọng lớn lao của vấn đề này và ý nghĩa của nó đối với tương lai của dân tộc và đất nước. Trong đó phải bám chắc mục tiêu chất lượng đào tạo. Tự chủ là để có chất lượng cao hơn. Nếu để chệch khỏi mục tiêu này thì sẽ sai lầm.

Nếu không giải quyết được vấn đề tự chủ thì đại học Việt Nam không thể cất cánh, sẽ tiếp tục lúng túng và dễ dẫn đến khủng hoảng.

Do vậy, các cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Nhà nước cần khẩn trương đi sâu để tổng kết đánh giá kết quả làm thí điểm vừa qua, kiến nghị rõ ràng các giải pháp cần bổ sung và sự chỉ đạo quyết liệt để thực hiện thành công chủ trương tự chủ. Tổng kết nói ở đây là để đi tiếp một cách mạnh mẽ và vững vàng, chứ không phải để kết luận làm hay không, tiến hay lùi.

Vấn đề tự chủ đại học đang liên quan đến quyền và lợi ích của nhiều bộ ngành, nhiều cơ quan và cấp chủ quản, nên khi thực hiện sẽ có đụng chạm về quyền lực. Vì vậy, cần có sự chỉ đạo tập trung của Thường trực Chính phủ và Thường trực Ban bí thư.

Phải bảo vệ kiên quyết chủ trương tự chủ đại học và những vấn đề có tính nguyên tắc, cốt lõi của tự chủ như:

Tự chủ đầy đủ cả 4 mặt về chương trình, nhân sự, tài chính và quản trị, trong đó, việc tự chủ chương trình là quan trọng nhất và chi phối các mặt tự chủ kia;

Quyền tự chủ được giao cho tập thể hội đồng trường (chứ không phải cho cá nhân hiệu trưởng hay bí thư đảng ủy) và hội đồng ấy được hình thành trên cơ sở bầu chọn theo cơ cấu thành phần do pháp luật quy định;

Không còn cơ quan chủ quản từ khu vực hành chính như lâu nay;

Hội đồng trường là cơ quan quyền lực cao nhất, hội đồng trường quyết định chọn hiệu trưởng;

Tự chủ gắn với trách nhiệm xã hội, trách nhiệm giải trình và sự minh bạch thông tin: gắn với cơ chế tự kiểm tra, kiểm soát và xử lý các vi phạm trong nội bộ nhà trường, hội đồng trường và hiệu trưởng có nghĩa vụ tuân theo pháp luật chung, về quản lý xã hội và quản lý giáo dục.

Đặc biệt, việc vi phạm các quy định về tự chủ phải được phê phán mạnh mẽ và xử lý trách nhiệm bằng hành chính và luật pháp.

Những gì đã sai luật về tự chủ đại học thì phải quay về đúng luật rồi đi tiếp theo luật, nếu không nghiêm thì cũng có nghĩa là không có tự chủ, quy trở về với cơ chế cũ.

Đề nghị Chính phủ và các bộ liên quan sớm có quy định và hướng dẫn việc chuyển từ cơ chế có chủ quản sang cơ chế tự chủ của các trường đại học, giải quyết các vấn đề vướng mắc liên quan đến tài chính và nhân sự để bảo đảm cho các trường được vận hành bình thường và thông suốt.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông.

Thùy Linh
ĐỂ TỰ CHỦ ĐẠI HỌC THÀNH CÔNG: THU NHẬP GIẢNG VIÊN PHẢI Ở MỨC 50 TRIỆU ĐỒNG /THÁNG
TS PHẠM LONG/ GDVN 12-2-2021

Tiếp tục chuỗi chủ đề hướng tới tự chủ đại học thành công, nhân dịp đầu năm mới 2021, Tiến sĩ Phạm Long - Giảng viên Đại học Louisiana (Mỹ) đã đặc biệt dành bài viết tâm huyết nhấn mạnh đến yếu tố giảng viên, một trong những chủ thể quan trọng tại các trường đại học.

Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam xin trân trọng đăng tải.

Tự chủ giáo dục đại học ở Việt Nam, có thể được xem như một cuộc cách mạng, cách tân, đổi mới, hay Khoán 10 trong giáo đục đại học, để giải phóng nguồn lực nội tại và huy động nguồn lực bên ngoài, phục vụ cho sự phát triển, hòa nhập của các trường đại học vào khu vực và thế giới.

Tiến sĩ Phạm Long - Giảng viên Đại học Louisiana (Mỹ). Ảnh: Tiến sĩ Phạm Long cung cấp

Một trong những chủ thể quan trọng, cấu thành trực tiếp trường đại học đó là các giảng viên – những người giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Tự chủ giáo dục đại học được kỳ vọng sẽ nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, thể hiện ở chỗ đa số giảng viên cơ hữu có bằng cấp cao nhất trong chuyên ngành, việc giảng dạy dựa trên tài liệu, kiến thức chuẩn, hiện đại, đáp ứng được đòi hỏi của thực tế, để thỏa mãn nhu cầu học tập của sinh viên, giúp sinh viên tự tin xin việc và thành công sau khi tốt nghiệp đại học.

Hơn nữa, tự chủ giáo dục đại học tạo ra động lực để giảng viên có được những công trình nghiên cứu chất lượng, ít nhất là hướng tới tiệm cận ở một mức độ nào đó của các trường đại học trên thế giới.

Nhấn mạnh vai trò quan trọng của giảng viên để khẳng định rõ hơn rằng nếu giảng viên thờ ơ với định hướng tự chủ giáo dục đại học, hay đích đến của tự chủ giáo dục đại học không làm cho cuộc sống của giảng viên tốt hơn, tự chủ giáo dục sẽ có thể "chết yểu" khi đang manh nha ở dạng ý tưởng.

Có nhiều khía cạnh liên quan khi nói về cuộc sống của giảng viên, nhưng có lẽ trực diện nhất chính là thu nhập hàng năm và lương hưu kỳ vọng. Nếu mức thu nhập không giúp giảng viên có một cuộc sống ổn định, thì có tuyên truyền về tự chủ giáo dục đại học như thế nào đi nữa, họ cũng không chủ động tham gia vào quá trình này.

Cá nhân tôi thấy rằng điều này hoàn toàn dễ hiểu, tự chủ hay không tự chủ, nếu cuộc sống của giảng viên không tốt hơn, thu nhập không bắt nhịp được với những biến chuyển của các mức giá cả trên thị trường, thì không có ý nghĩa hay giá trị nào biện minh cho việc triển khai tự chủ giáo dục đại học.

Đã có nhiều bài báo phân tích làm thế nào để nâng cao hơn nữa thu nhập hay đời sống của giảng viên, tuy nhiên vẫn chỉ là mang tính định tính, cái chúng ta cần để kiến nghị các cấp liên quan ban hành chính sách đó là một bức tranh cụ thể về cuộc sống tốt hơn của giảng viên.

Bức tranh đó là gì và đâu là những mảng quan trọng trong bức tranh? Mảng quan trọng nhất không gì khác, chính là thu nhập hàng tháng (năm) của một giảng viên. Giả sử nhìn một cách tổng thể nhất, không đi vào chi tiết, thì lương hàng tháng của một tiến sĩ theo thông tin tôi có được là ở mức trên dưới 10 triệu đồng.

Với 10 triệu đồng thì không biết có đủ trang trải các chi phí đi lại, ăn sáng, ăn trưa, và hiếu hỷ hay không? Chưa nói đến không may ốm đau bệnh tật thì thế nào? Hơn nữa, nếu giảng viên tiến sĩ này có gia đình với người bạn đời thu nhập không cao và hai con đang tuổi ăn tuổi học, thì cuộc sống của gia đình giảng viên hẳn sẽ khó khăn vất vả.

Các cụ đã đúc kết câu nói nổi tiếng “Phi thương bất phú”, đúng là như vậy, muốn giàu thì phải làm kinh doanh. Tuy nhiên, những giảng viên có bằng tiến sĩ đang đảm nhận sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, phải xứng đáng hưởng một cuộc sống trung lưu vì mồ hôi, nước mắt đã rơi trong quá trình hoàn thiện bản thân.

Thông tin về giá cả trung bình trên các thị trường ở Việt Nam cho chúng ta thấy: một lít xăng, gần 20.000 đồng; một tô phở, 50.000 đồng; một mớ rau muống, 10.000 đồng; một cân thịt lợn, 150.000 đồng; một cân thịt bò, 170.000 đồng; một cân thịt gà ta, 120.000 đồng; tiền thuê nhà cho một gia đình 4 thành viên, 7.000.000 đồng; chi phí khám chữa bệnh một lần cùng thuốc bổ (bệnh không nan y), 2.000.000 đồng – 5.000.000 đồng; chi phí học tập trường công lập và các chi phí liên quan khác cho một con một tháng: 7.000.000 đồng – 10.000.000 đồng, v.v.

Với những con số trung bình này, chúng ta có thể kết luận rằng lương một giảng viên tiến sĩ 10 triệu đồng không khác gì muối bỏ bể, nếu người bạn đời của giảng viên đó ở tình trạng tương tự. Một số giảng viên khác có thể may mắn hơn khi được cho nhà hay sống chung cùng bố mẹ. Tuy nhiên, sự may mắn này chỉ giúp giảm bớt gánh nặng chi phí một phần, và nhìn chung cuộc sống trung lưu đích thực chỉ là giấc mơ với họ.

Mặc dù thang bảng lương đều hiển thị con số vô cùng nhỏ bé đối với giảng viên nói chung và giảng viên có bằng tiến sĩ nói riêng, ai cũng biết rằng các con số trong thang bảng lương này khó mà có thể đảm bảo cuộc sống cá nhân và gia đình cho giảng viên. Tuy nhiên, đã từ lâu lắm rồi, và hiện tại cũng vậy, tất cả chúng ta, cũng như các giảng viên vẫn đi qua năm tháng. Điều đó nói lên một sự thật rằng luôn có các thị trường ngách giúp chúng ta, hay các giảng viên tồn tại qua thời gian. Thị trường ngách trong một trường đại học được biểu hiện như thế nào?

Rất đơn giản, đó là việc các giảng viên phải lao vào giảng thêm các lớp ngoài định mức được phân công, phải tham gia cạnh tranh để có được các đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, và tham gia hướng dẫn luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ.

Tất cả những hoạt động này đều mang lại thu nhập, thậm chí cao hơn nhiều so với mức lương chính thức của một giảng viên tiến sĩ. Đặc biệt nếu giảng viên tiến sĩ tham gia ngồi hội đồng chấm bảo vệ luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, thì thu nhập có thể cao hơn đáng kể.

Lưu ý, không phải giảng viên có bằng tiến sĩ nào cũng có nhiều cơ hội tham gia các hội đồng, tùy thuộc vào năng lực cũng như các mối quan hệ mà mức độ tham gia của từng giảng viên là khác nhau.

Các trường đại học có tính đa dạng, có trường đào tạo thạc sĩ/tiến sĩ, có trường không; có trường chỉ là cao đẳng hay trung cấp; hay ngay trong các trường đại học có đào tạo thạc sĩ/tiến sĩ, có giảng viên với nhiều cơ hội làm đề tài hay ngồi hội đồng, có giảng viên ít cơ hội hơn, thậm chí có giảng viên hầu như không có cơ hội, nhưng họ vẫn phải tồn tại, mặc cho mức lương chính thức của họ thấp.

Họ tồn tại bằng cách nào? Theo hiểu biết của tôi, có nhiều cách, trong đó làm thêm liên quan đến lĩnh vực giáo dục, làm thêm không liên quan đến lĩnh vực giáo dục, thậm chí có thể có chút tiêu cực trong các mối quan hệ giữa giảng viên và sinh viên. Chúng ta hay xã hội đều hết sức đồng cảm, tất cả là vì cuộc sống mưu sinh, và hầu hết mọi người cũng thế thôi, giảng viên không là ngoại lệ, không tham gia thị trường ngách, thì sống sao đây, đó chính là nỗi khổ tâm của chính các giảng viên.

Hướng tới tự chủ giáo dục đại học thì các trường đại học phải “được” làm gì? Muốn thành công, các trường đại học phải được làm nhiều thứ, trong đó phải được trao quyền thực sự để góp phần phát triển đội ngũ giảng viên trở thành giai tầng trung lưu trong xã hội.

Hơn nữa, các trường đại học phải được trao quyền để chính thức chuyển đổi toàn bộ các thị trường ngách thành một thị trường duy nhất, ở đó thượng tôn pháp luật là bắt buộc, nỗ lực phấn đấu của giảng viên luôn được ghi nhận, thành quả trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học được tôn vinh, mức lương và lợi ích chính đáng được tôn trọng và phản ánh chỉ trong một thị trường – thị trường chính thức.

Câu hỏi đặt ra là mức lương trung bình bao nhiêu đối với một giảng viên là con số thể hiện sự hội tụ về một mối từ toàn bộ các thị trường ngách? Khó có thể có một con số chính xác, vì mỗi ngành, lĩnh vực, người giảng viên có mức thu nhập khác nhau, phụ thuộc vào tín hiệu thị trường và nhu cầu của xã hội đối với vị trí của người giảng viên trong quá trình đào tạo ra nguồn nhân lực theo từng ngành nghề cho đất nước.

Tuy nhiên, về mặt tổng quan, nếu tính tới toàn bộ các thị trường ngách và kỳ vọng hướng tới là thành viên của giai tầng trung lưu, lương trung bình một tháng (năm) của một giảng viên phải đảm bảo rằng họ có thể sống thoải mái theo nghĩa chi tiêu “hợp lý” với một gia đình gồm vợ chồng và 2 con đang tuổi ăn học tại trường công. Hơn nữa mức lương đó phải giúp được người giảng viên mua được nhà riêng trong phân khúc nhà ở cho giai tầng trung lưu. Vì trở thành thành viên của giai tầng trung lưu mà gia đình không sở hữu được ngôi nhà trong phân khúc này thì vẫn chỉ là hư danh.

Thị trường bất động sản và thị trường nhà ở đang phát triển đa dạng. Một ngôi nhà (hay căn hộ) trong phân khúc của giai tầng trung lưu có giá khoảng bao nhiêu là hợp lý? Đương nhiên câu trả lời thông mình nhất là tùy, nhưng cá nhân tôi luôn hướng tới một đáp án cụ thể và cho rằng khoảng trên dưới 5 tỷ đồng. Vậy cần một mức lương trung bình để phản ánh rằng với mức lương này, một giảng viên tiến sĩ có thể “lo toan” được cho gia đình và sở hữu được một ngôi nhà trị giá trên dưới 5 tỷ đồng, với tư cách là một thành viên của giai tầng trung lưu.

Tôi cho rằng mức lương trung bình cho một giảng viên vào khoảng 50 triệu đồng một tháng là có cơ hội biến các ước mơ của người giảng viên thành hiện thực. Tất nhiên, mỗi lĩnh vực giảng dạy, và ngành nghề khác nhau, con số trung bình là khác nhau, cao hay thấp hơn 50 triệu đồng.

Chúng ta có thể có bằng chứng rằng, xét về bản chất, ở không ít các trường đại học, tổng thu nhập một tháng của không ít giảng viên tiến sĩ từ cả thị trường lương chính thức và toàn bộ các thị trường ngách có thể hơn 50 triệu đồng một tháng, nhưng bên cạnh đó cũng còn nhiều giảng viên không có cơ hội tiếp cận các thị trường ngách thì tổng thu nhập của họ một tháng còn thấp hơn con số 50 triệu đồng rất nhiều, và cần phải có giải pháp riêng cho nhóm này.

Hướng tới tự chủ giáo dục đại học có thể phải thực hiện một số theo trình tự hay đồng thời các giải pháp, ví dụ đưa việc xét phong giáo sư/phó giáo sư về các trường đại học, dỡ bỏ thang bảng lương tuyến tính, đi theo tiếng gọi của thị trường trong nhiều lĩnh vực, kể cả các chuyên ngành đào tạo, tuyển dụng giảng viên giỏi theo cơ cấu tối ưu bao gồm bao nhiêu có bằng tiến sĩ và bao nhiêu có bằng thạc sĩ, cơ cấu lại các phòng ban và các khoa/viện đào tạo chuyên môn trong trường, huy động các nguồn lực tài trợ từ bên ngoài, xây dựng các mức học phí phù hợp.

Tuy nhiên, nếu chỉ thực hiện các giải pháp đó là chưa đủ, mà còn cần những cải cách mang tính cách mạng và những chiến lược ở tầm vĩ mô, của nhiều ngành liên quan đến giáo dục đại học.

Chúng ta cần có một hệ thống ngân hàng, tài chính, đầu tư và bảo hiểm đa dạng hơn nữa. Nói về thị trường đầu tư và bảo hiểm ở Việt Nam, chúng ta chưa có nhiều sản phẩm liên quan đến giáo dục đại học, mà cụ thể là các sản phẩm liên quan đến hưu trí của các giảng viên.

Các giảng viên khi về hưu thường hẫng hụt vì lương hưu hiện tại thấp hơn nhiều so với trước khi về hưu. Khi triển khai tự chủ giáo dục đại học, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa trường đại học và các công ty hoạt động trong lĩnh vực đầu tư, đặc biệt là các quỹ đầu tư chuyên cung cấp các sản phẩm “tài chính” chuyên biệt trong lĩnh vực giáo dục, để thiết lập các danh mục đầu tư trên cơ sở đóng góp hàng tháng (năm) của Trường và các giảng viên, sao cho vào thời điểm nghỉ hưu, mức lương hưu của các giảng viên được thanh toán từ các quỹ đầu tư này tương đương với mức lương trước khi nghỉ hưu, đảm bảo duy trì cuộc sống cho giảng viên.

Cải cách hệ thống tài chính ở Việt Nam cần hướng tới xây dựng và ban hành các luật giúp những người lao động nói chung và đội ngũ giảng viên nói riêng có khả năng tiếp cận, mua và sở hữu nhà ở, theo từng phân khúc, phụ thuộc vào thu nhập của từng người lao động.

Muốn thế, các luật được xây dựng và ban hành phải điều tiết hệ thống ngân hàng thương mại cung cấp các sản phẩm tín dụng mua nhà với mức lãi suất thấp hơn so với lãi suất của các khoản vay khác. Đã là luật thì đòi hỏi tất cả các ngân hàng thương mại phải tuân thủ, và chỉ có cách thông qua luật này, ước mơ của những người có công ăn việc làm ổn định, bao gồm cả các giảng viên về việc sở hữu một căn nhà sẽ thành hiện thực.

Cụ thể hóa hơn nữa, nếu mức lương trung bình của một giảng viên là 50 triệu đồng một tháng và lãi suất cho vay mua nhà là 5% - 7%/năm, các giảng viên hoàn toàn có thể mua nhà trả góp trong vòng 15 hay 20 năm. Vào thời điểm họ nghỉ hưu, ngôi nhà đã thuộc sở hữu của họ và cộng với lương hưu từ các quỹ đầu tư do trường đại học và giảng viên đóng góp trong suốt quá trình công tác, cuộc sống của giảng viên sẽ được đảm bảo tương đối.

Trở lại câu chuyện về tuyển dụng giảng viên, trong các bài phân tích trước, tôi cho rằng khi tuyển dụng một giảng viên có bằng tiến sĩ về trường đại học, nếu thực sự trường đại học là “tự chủ” theo đúng nghĩa của thuật ngữ, lương của giảng viên này có thể cao hơn các phó giáo sư và giáo sư trong trường, vì lương là theo tín hiệu của thị trường, phụ thuộc vào cung cầu, và chuyên môn ngành nghề của giảng viên tại thời điểm đó. Các phó giáo sư hay giáo sư cũng hoàn toàn có thể thăm dò thị trường lao động, và nếu có cơ hội, có thể xin sang trường khác với mức lương cao hơn.

Tuy nhiên, khi các phó giáo sư hay giáo sư đã công tác ở một trường đại học trong một khoảng thời gian nhất định, họ cũng đã quen với trường, môi trường sống, và bản thân họ cùng với trường đã đóng góp một khoản đáng kể vào các quỹ đầu tư cho việc hưởng lương hưu sau này, quan trọng hơn nếu đã công tác ở trường được trên dưới 10 năm, họ cũng đã chuẩn bị hoàn thành nghĩa vụ vay trả góp và sở hữu toàn bộ ngôi nhà đã mua, do đó, thông thường họ cũng không muốn chuyển công tác sang trường khác. Còn những giảng viên mới đến trường, trước mắt họ còn nhiều khó khăn thử thách, trong cả công việc cũng như cuộc sống với nhiều áp lực về tài chính vì các mức giá cả có xu hướng gia tăng, lương của họ có cao hơn so với các phó giáo sư hay giáo sư đương nhiệm cũng là lẽ thông thường, vì lương là theo tín hiệu thị trường.

Nói tóm lại trên bước đường hướng tới tự chủ giáo dục đại học ở Việt Nam, chúng ta còn nhiều việc phải làm, ở cả cấp độ vĩ mô, vi mô, cơ quan chủ quản, và bản thân trường đại học. Có nhiều tiêu chí được xem xét và đánh giá, và một trong những tiêu chí quan trọng nhất đó là phải phát triển đội ngũ giảng viên đại học chính thức trở thành giai tầng trung lưu trong xã hội.

Giai tầng trung lưu trong xã hội luôn vận động theo thời gian với tiêu chí đo lường cũng có thể thay đổi theo thời gian, tuy nhiên, những biểu hiện quan trọng trong ngắn hạn, ví dụ mức thu nhập một tháng vào khoảng trên dưới 50 triệu đồng, mức lãi suất vay mua nhà trả góp (nếu có luật) 5% - 7% một năm, mức đóng góp của trường đại học và bản thân người giảng viên vào các quỹ đầu tư chuyên biệt, để đảm bảo mức lương hưu không khác biệt so với mức lương trước khi nghỉ hưu.

Với tư cách là giai tầng trung lưu trong xã hội, các giảng viên sẽ hoàn toàn yên tâm công tác, vì họ không chỉ lo toan được cuộc sống cho bản thân họ, mà còn các thành viên trong gia đình, do đó, chúng ta hoàn toàn kỳ vọng chất lượng giảng dạy và nghiên cứu của giảng viên được nâng cao.

Hướng tới tự chủ giáo dục đại học là một quá trình vô cùng gian nan, đòi hỏi sự đồng bộ về tư tưởng, tư duy chiến lược, phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan tổ chức (cả vĩ mô và vi mô), sự bắt sóng cộng hưởng của các thị trường tài chính, ngân hàng, và bảo hiểm. Hơn nữa, minh bạch hóa các hoạt động của trường đại học là rất quan trọng, để đảm bảo rằng chỉ có một thị trường lương chính thức và không có bất cứ thị trường ngách nào tồn tại biệt lập, hay nói cách khác các thị trường ngách trong trường đại học phải được minh bạch hóa vào thị trường lương chính thức. Dù khó khăn đến mấy, chúng ta luôn tin tưởng nếu thực sự triển khai tự chủ giáo dục đại học, các trường đại học sẽ hội nhập tốt hơn vào nền giáo dục đại học của khu vực và thế giới.

Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả.

Tiến sĩ Phạm Long

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét