Thứ Năm, 26 tháng 10, 2023

20231027. BÀN VỀ BÓI KIỀU VÀ ĐỐ KIỀU

 ĐIỂM BÁO MẠNG

BÓI KIỀU ĐÂU CHỈ NGÀY XƯA

VƯƠNG TRỌNG/ FB 23-10-2023



Bói Kiều là một hiện tượng sinh hoạt "văn hoá - tâm linh" vô cùng kỳ lạ ở nước ta, và tin chắc rằng trên thế giới khó tìm được một tác phẩm văn học nào có được hiện tượng đó, khi người ta dùng từng câu, từng dòng để đoán về tương lai, vận mệnh của con người. Người phản đối thì coi đó là chuyện mê tín, người ủng hộ thì coi là chuyện tâm linh, mà đã là tâm linh thì không thể giải thích được bằng kiến thức khoa học thông thường. Mê tín, hay tâm linh? Điều đó tôi không có ý định phân giải trong bài viết ngắn ngủi này, mà chỉ muốn chuyển tới bạn đọc một số mẩu chuyện Bói Kiều đã thu gom được.
Những người thích bói Kiều thường nhắc tới sự kỳ diệu của tác phẩm này, có những điều không thể giải thích nổi. Ví như câu thứ 1954 trong "Truyện Kiều" là " Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai", ứng với năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ giữa ta và Pháp ký kết, nước ta tạm thời phải chia đôi! Mặc dù câu thơ trên ở trong Truyện Kiều, là lời của Thúc Sinh nói rằng mình đành phải đoạn tuyệt Thuý Kiều trong nỗi đau xót, nhưng nếu viết về nước ta đành phải chịu cảnh chia đôi vào năm 1954, thì khó có một câu thơ nào hay hơn "Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai".
Từ yêu đến tin rồi tín ngưỡng Truyện Kiều như tín ngưỡng một loại tôn giáo, nhiều người tìm thấy ở tác phẩm này niềm an ủi, sẻ chia, và xa hơn, là dự báo trước những chuyện trong tương lai. Không ai nói được đích xác hiện tượng Bói Kiều có từ khi nào, nhưng biết là có từ rất lâu, có lẽ ngay sau khi "Truyện Kiều" chiếm được niềm tin yêu của đông đảo bạn đọc. Trước Cách mạng tháng Tám khá lâu, chuyện bói Kiều đã phổ biến trong dân gian, và nhà văn Ngô Tất Tố đã đưa vào trong tiểu thuyết "Lều chõng". Khi Vân Hạc đi thi, vợ là cô Ngọc muốn biết trước kết quả nên đã dùng "Truyện Kiều" để bói và được bốn câu:
Bó thân về với triều đình
Hàng thân lơ láo, phận mình ra đâu
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau
Vào luồn, ra cúi công hầu mà chi?
"Cứ trong ý tứ mà suy", cô Ngọc biết chồng sẽ hỏng thi, nếu như đậu thì sẽ làm quan, là người của triều đình, trái với ý của bốn câu thơ trên. Vân Hạc học giỏi, khi thi hỏng, rất buồn, nhưng vợ không buồn và lựa lời an ủi chồng rằng chẳng qua vì cái số, đã được báo trước trong "Truyện Kiều"!
Nhà thơ Tế Hanh đã mê Kiều từ thời còn học sinh. Ông bảo rằng, muốn hiểu được cái hay của Truyện Kiều thì khi đọc cần thắp hương, để khói hương đưa người về cõi tâm linh thanh tịnh. Đã nhiều lần ông bói Kiều và cảm thấy rất nghiệm. Ông kể rằng, năm 1942, ông thi tú tài phần thứ nhất, lần đầu thi vào tháng 5, lần hai vào tháng 8. Lần đầu, sau khi đậu phần thi viết, bước vào thi vấn đáp ông bắt thăm được câu hỏi về Napoléon, ông trả lời lúng túng bị bà giáo người Pháp tên là Alada cho điểm thấp nên bị trượt. Trước khi thi lần hai, Tế Hanh bói Kiều, đúng hai câu:
Khi nên trời cũng chiều người
Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau.
Ông rất mừng, nhưng vẫn chăm chỉ ôn tập vì nhớ tới lời nhắc nhở của Nguyễn Du là "Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều".
Lần thi ấy, sau khi đậu thi viết, vào phần vấn đáp, ông lại bắt được câu hỏi về Napoléon như lần thứ nhất. Do lần trước bị hỏng, về nhà, ông đọc lại thật kỹ lịch sử về Napoléon, nên lần này trả lời không những đầy đủ mà còn hết sức khúc chiết, được thầy giáo người Pháp Bourotts cho điểm rất cao. Thế là lần ấy ông đỗ, hoàn toàn ứng với câu "Nhẹ nhàng nợ trước, đền bồi duyên sau"!
Nhiều khi Bói Kiều được những câu dễ hiểu, nhưng có khi được những câu mới đọc qua chẳng thấy gì liên quan tới điều mình muốn biết, cần phải luận mới hiểu được nội dung. Cũng theo nhà thơ Tế Hanh, ông Phạm Liệu, thân sinh nhà thơ Phạm Hầu, quê ở xã Trường Giang, huyện Diên Phước, Quảng Nam, từng làm Thượng thư dưới triều Nguyễn. Hồi còn đi học, ông ra Huế dự kỳ thi hương. Trước lúc lên đường đi thi, ông Bói Kiều, đúng hai câu:
Dưới cờ gươm tuốt nắp ra
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.
Kỳ thi ấy ông đỗ thủ khoa, ứng với chính danh thủ phạm. Kỳ diệu hơn nữa, về sau ông làm Thượng thư bộ Binh, ứng với Dưới cờ gươm tuốt nắp ra!
Trong hồi ký của Trần Trọng Kim có kể lại một chuyện liên quan tới bói Kiều. Năm 1944, vì sợ bọn Pháp bắt mất một số người tin cậy của mình, Nhật đã bố trí cho Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc, Trần Văn Ân, Đặng Văn Ký... "sơ tán" sang Singapore một thời gian. Khi các ông ở Singapore, do ăn uống quá kham khổ, thuốc thang không có, bệnh tật liên miên, nên ai cũng muốn trở về nước. Một hôm, Dương Bá Trạc nói vời mọi người rằng sắp được về rồi, mọi người hỏi nguốn tin ở đâu, thì ông Trạc chỉ vào hai câu Kiều vừa bói được:
Việc nhà đã tạm thong dong
Tinh kỳ giục giã đã mong độ về.
Ông Kim cùng những người khác không tin, không ngờ ít hôm sau mọi người được về nước thật, chỉ trừ ông Dương Bá Trạc đã "về" theo nghĩa khác, vì ông mất ở Singapore!
Bà Minh Mị, đã ngoài 90 tuổi, với biệt danh Hà Thành độc giả, một người thuộc lòng Truyện Kiều từ nhỏ và cũng đã từng Bói Kiều khi còn học sinh. Bà kể rằng, lần ấy sau khi thi xong, vì nóng lòng muốn biết kết quả nên đã bói Kiều. Kết quả được hai câu:
Có cổ thụ, có sơn hồ
Cho nàng ra đó giữ chùa, chép kinh.
Bà không hiểu ý nghĩa ra sao, được thân sinh bà kết luận rằng bà sẽ đậu. Bà đọc hai câu thơ rồi hỏi lại:" Thế sau này con đi tu hở bố?". Ông cụ cười và giải thích rằng:" Không phải thế! Trước khi bói, con đã khấn xin để biết được kết quả kỳ thi này của con, nên không thể hiểu như vậy được, Trong "Truyện Kiều", hai câu này nói rằng Hoạn Thư chấp nhận nguyện vọng của Thuý Kiều "Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa không", thì ở đây người ta cũng chấp nhận nguyện vọng của con, tức là con đỗ thi". Và đúng như vậy, kỳ thi đó bà trúng tuyển.
Sinh thời, nhà thơ Gia Ninh kể chuyện đi công tác cùng nhà thơ Xuân Diệu ở tỉnh Nghệ An trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Vì phương tiện giao thông không có, hai ông phải đi bộ liên tục nên xế chiều muốn dừng lại nghỉ ở một làng cạnh quốc lô. Bà con người làng khuyên các ông nên đi thêm mấy cây số nữa lại nghỉ, vì ở đây máy bay Pháp thường bắn phá. Hai ông đang chần chừ chưa biết quyết định ra sao, thì Xuân Diệu mở túi dết, lấy "Truyện Kiều" ra bói, và được hai câu:
Rạng ra gửi đến xuân Đường
Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia.
Hai nhà thơ quyết định đi ngay vì ba chữ thúc, vội giục, đó là chưa kể chàng ninh gia là chàng Gia Ninh nói ngược. Đi được chừng ba bốn cây số ngoảnh lại thì thật hú vía: máy bay Pháp đang bắn phá ngôi làng hai nhà thơ định nghỉ lại. Xuân Diệu nói với Gia Ninh:" Cô Kiều cứu chúng mình đấy!"
Hồi tôi còn nhỏ, nghe kể chuyện ở quê có một học sinh học thật xuất sắc, trên đường đi thi bị chết đuối, mất tích, người ta nhắn tin về cho ông bố, nhưng để ông đỡ choáng, họ bảo rằng anh ta bị cảm hiện đang nằm ở trạm xá nọ. Khi nghe người đưa tin nói vậy, ông bố nói:" Đừng giấu tôi nữa, thằng con tôi chết đuối rồi! Thôi, để tôi đi tìm xác con tôi". Sau khi thi thể kẻ xấu số đã được tìm thấy và chôn cất tử tế, người ta hỏi sao ông biết trước chuyện này, ông bảo rằng, khi con đi thi, ông Bói Kiều và được hai câu:
Đành thân cát lấp, sóng vùi
Tiếc công cha mẹ, thiệt đời thông minh".
Và ông đã thốt lên: "Thôi còn chi nữa mà mong/ Đời người thôi thế là xong một đời", nên sẵn sàng đón tin dữ.
Hồi phong trào sinh đẻ có kế hoạch mới được vận động, một ông chồng vốn nhà con một, vợ sinh hai lần được hai "thị mẹt", đứa thứ hai đã đi học, thế mà không chửa đẻ gì thêm để cho ông hy vọng người "nối dõi tông đường", trong khi ông vẫn trẻ khoẻ, vợ ông vẫn phây phây ra chứ đau ốm gì đâu. Vốn dòng nhà Nho, ông mê "Truyện Kiều" và thỉnh thoảng có Bói Kiều, nhân khi vợ đi họp đại hội phụ nữ toàn xã, ông ở nhà tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo mới, thắp nén hương thơm và đem "Truyện Kiều" ra bói.
Ông ngồi xếp bằng, đối diện với bát hương, hai tay chắp lại, kẹp "Truyện Kiều" ở giữa và nâng lên khấn: " Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thuý Kiều...tên con là...năm nay ...tuổi. Chúng con mới được hai mụn con gái, muốn có đứa con trai nối dõi tông đường, nhưng hơn mười năm nay, không hiểu sao vợ con không chửa đẻ gì cả. Cho con xin một quẻ để biết được nguyên nhân. Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thuý Kiều, hãy cho con bốn câu, từ câu thứ... trang bên phải." Xong, ông mở ra đọc:
Bây giờ tình mới tỏ tình
Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai
Chước đâu có chước lạ đời
Người đâu mà lại có người tinh ma.
Khi luận được nội dung lời bói, mặt ông đỏ lên như gấc chín vì giận, nhưng vốn con nhà nho, đợi đến tối hôm đó, khi cơm nước xong xuôi, ông mới hỏi vợ:
- Bà trốn tôi đi đặt vòng từ khi nào?
Bà vợ hết sức ngạc nhiên vì chuyện đó bà giấu ông và đã xẩy ra ngót chục năm trời, sao ông nay ông mới động tới.
- Ba tưởng giấu được tôi mãi chăng? Ba giấu nhưng "Truyện Kiều" mách tôi. Bà đọc đi ... Rồi ông gí bốn câu thơ trên vào sát măt bà, sát đến nỗi bà phải ngửa người lùi ra mới đọc được. Bà chả hiểu gì ý nghĩa, ông giải thích:
- "Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai", nghĩa là bà đã đặt vòng, có nơi gọi vòng là vành, phải không? Đặt vòng là cái "chước lạ đời", bà giấu tôi để làm việc đó "là người tinh ma", bà hiểu chưa?
Bà vợ không nói lại một câu nào, chỉ thầm nghĩ, không ngờ trong quyển "Truyện Kiều" hàng ngày ông vẫn đọc lại chứa đựng những khả năng kỳ diệu như thế?
Không hiểu những chuyện bói Kiều tôi vừa thu gom được, độ tin cậy đến đâu?

ĐỐ KIỀU CÓ LẮM ĐIỀU HAY
VƯƠNG TRỌNG/ FB 22-10-2023

Trong lịch sử văn học Việt Nam, không có một tác phẩm nào có tính phổ cập rộng lớn như "Truyện Kiều" của Đại thi hào Nguyễn Du. Không thể thống kê hết số người thuộc toàn bộ 3254 câu, và khó tìm được một người dân Việt Nam mà không thuộc một vài đoạn, một vài câu Kiều. Thế kỷ này qua thế kỷ khác, dân ta mê rồi nghĩ ra các cách thưởng thức "Truyện Kiều". Nếu như Vịnh Kiều, Bình Kiều là công việc của giới nhà Nho, trí thức, thì Ngâm Kiều, Lẩy Kiều, Bói Kiều... và đặc biệt là Đố Kiều được quần chúng bình dân tham gia rộng rãi.
Đố Kiều là một trò chơi văn nghệ dân gian dưới hình thức đối đáp, nghĩa là một bên hỏi, một bên trả lời, mỗi bên thường là một nhóm, một đội...Có điều đặc biệt là khi chơi trò Đố Kiều, cả người ra đố và giải đố thường dùng thơ, chủ yếu là thể lục bát, để chuyển tải ý của mình. Trò chơi Đố Kiều xẩy ra nhiều nơi, dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng ở vùng quê Nghệ Tĩnh trước đây chủ yếu diễn ra trong các cuộc hát Phường vải. Hát Phường vải là hình thức hát đối đáp gồm hai nhóm người, một bên là các cô gái địa phương ngồi quay xa dệt vải, một bên là các chàng trai tứ chiếng tụ tập lại. Nội dung hát đố, giải trong hát Phường vải gồm nhiều đề tài khác nhau, nhưng Đố Kiều luôn luôn chiếm một vị trí quan trọng. Điều khó của người giải đố là sau khi nghe đố xong, chỉ một thời gian thật ngắn phải có lời đáp. Bởi vậy trò chơi này đòi hỏi những người tham gia không những thuộc, hiểu "Truyện Kiều", mà phải có phản ứng nhanh trong việc diễn tả ý của mình dưới thể thơ lục bát, đồng thời cần có giọng ngâm, giọng hát hay. Sự thật khó tìm được một người toàn tài như vậy, mà trong các bên dự thi Đố Kiều phải phân công nhau, để cho từng người thể hiện sở trường của mình. Thông thường trong thành viên mỗi đội, ngoài số nam thanh nữ tú ra, mỗi bên còn mời một vài người không phân biệt tuổi tác, thường là cụ đồ Nho hoặc cậu tú, cậu cử...thông thuộc "Truyện Kiều", gánh vác nhiệm vụ mách lời, các chàng trai, cô gái tốt giọng có khi chỉ là người "phát ngôn"!
Nội dung đầu tiên các câu hát Đố Kiều quan tâm là thử thách sự thông thuộc, hiểu biết của người giải đố về "Truyện Kiều". Loại câu đó ấy thường ngắn gọn buộc người giải đố phải tìm một câu, một đoạn nào đó có ý theo yêu cầu của người đố. Có khi bản thân câu đố không khó nhưng vì phải trả lời ngay nên đến cả những nhà "Kiều học" cũng phải lúng túng. Sau đây là một số ví dụ.
Đố: "Truyện Kiều" anh đã thuộc lòng
Chỗ nào tơ liễu mà không buông mành?
Ở câu này, người ra đố đi từ nhận xét rằng, không ai mê Truyện Kiều mà không thuộc câu "Lơ thơ tơ liễu buông mành/ Con oanh học nói trên cành mỉa mai", nên hễ nhắc hai chữ tơ liễu là thế nào buông mành cũng hiện lên. Vả lại, trong "Truyện Kiều" có rất nhiều từ liễu, từ tơ nhưng tơ liễu thì chỉ xuất hiện ba lần, "tơ liễu mà không buông mành" chỉ có hai lời giải:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha!
Và: Chừng xuân tơ liễu còn xanh
Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân.
Trong trò chơi đố Kiều, loại câu đố mà lời giải là một câu Kiều là rất phổ biến:
Đố: "Truyện Kiều" anh đã thuộc làu
Đố anh kể được một câu năm người?
Giải: "Này chồng, này mẹ, này cha
Này là em ruột, này là em dâu"!
Đố: "Truyện Kiều" anh đã thuộc lòng
Đố anh đọc được một dòng toàn Nho?
Giải: "Hồ công quyết kế thừa cơ
Lễ tiên, binh hậu khắc cờ tập công"!...
Nhưng có nhiều câu đố đòi hỏi lời giải không phải là một câu Kiều, mà là sự tổng hợp của những câu, những đoạn khác nhau. Cái khó của lời giải loại này là không chỉ thống kê các câu Kiều, mà phải xử lý vần để lời giải là một đoạn thơ:
Đố: Nàng Kiều lưu lạc gian truân
Với người tình, đã mấy lần chia tay?
Giải:
" Ngại ngùng một bước một xa"
Chia tay Kim Trọng châu sa đẫm ngày
"Chén đưa nhớ buổi hôm nay"
Chia tay chàng Thúc hẹn ngày năm sau
"Đành rằng chờ đó ít lâu"
Chia tay Từ Hải, lòng đau nhớ nhà
Chiếc thân bèo nổi, sóng sa
Ba lần ly biệt xót xa, tội tình!
Cũng có khi người ra đố không chỉ dùng một vài lời ngắn gọn, mà dùng nhiều câu dắt dẫn, đưa đẩy để giới thiệu mình hoặc để tỏ tình, trước khi vào nội dung cần đố:
Nữ:
"Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông"
Phải đâu mèo mả, gà đồng
Thuyền quyên muốn hỏi anh hùng trước sau:
"Ba quân chỉ ngọn cờ đào
Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri"
Thế còn một đạo làm chi?
Trai anh hùng giải được, gái nữ nhi chịu tài.
Nam:
Vì ai chiếc lá lìa cành
Khi săn như chỉ, khi mành như tơ
Trót công rày đợi mai chờ
"Phải người trăng gió vật vờ hay sao"
"Ba quân chỉ ngọn cờ đào
Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri"
Ắt còn một đạo binh uy
Ở nhà giữ chốn biên thuỳ cho nghiêm
Anh hùng tỏ với thuyền quyên
"Chữ tình càng mặn, chữ duyên càng nồng"!
Trong loại câu đố này, người ra đố và giải đố dùng những câu Kiều nguyên vẹn hoặc lẩy Kiều để chuyển tải ý mình, và hình như đây không chỉ đố giải Kiều mà còn đối đáp tỏ tình. Một đặc điểm cũng cần lưu ý, là cả người đố và giải đều đùa với ngôn ngữ trong Truyện Kiều, cụ thể ở đây là chữ Ba quân. Họ đều thừa hiểu rằng ba quân là tiếng chỉ quân đội nói chung, thế mà giả vờ như không hiểu để mà đố, mà giải! Chúng ta biết rằng, trong các câu đố về Truyện Kiều, những câu đố vui đùa theo kiểu chơi chữ chiếm một tỷ lệ rất lớn. Loại câu đố này chỉ mượn "Truyện Kiều" để mang lại tiếng cười sảng khoái như nghe chuyện tiếu lâm. Đó là "Truyện Kiều" của những người thích đùa"!
Hỏi: Tiện đây hỏi một hai điều
Thiếp tôi chưa rõ nàng Kiều ai sinh?
Đáp:
"Hổ sinh ra phận thơ đào
Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong"
Khái ( hổ) sinh Kiều, thật lạ lùng
Trả lời như rứa thoả lòng em chưa?
Hỏi:
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê
Nghe đâu Kiều có làm nghề tráng gương?
Đáp:
"Mười lăm năm, bấy nhiêu lần
Làm gương cho khách hồng quần thử soi!"
Hỏi: Nổi danh tài sắc đủ điều
Tại sao lại bảo nàng Kiều sứt răng?
Đáp:
"Hở môi ra những thẹn thùng"
Sứt răng nàng sợ chúng trông, bạn cười!
Hỏi:
"Song thu đã khép cánh ngoài"
Nàng Kiều chung chạ có thai bao giờ?
Đáp:
"Lỡ từ lạc bước bước ra"
"Thất kinh nàng chửa biết là làm sao!"
Hỏi:
Đến đây hỏi khách cựu giao
Chàng Kim đau bụng thế nào chàng ơi?
Đáp:
"Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày!"
Hỏi:
Sinh ra thời buổi chiến chinh
Thuý Kiều có lấy thương binh không chàng?
Đáp:
Một tay trời bể ngang tàng
Chồng Kiều, Từ Hải rõ ràng thương binh!
Hỏi:
Thời Kiều đã có ngân hàng
Em đây chưa tỏ nhờ chàng chỉ cho?
Đáp:
"Nhà băng đưa mối rước vào..."
Tiền nong thanh toán việc nào chẳng xong!
Còn một nội dung đố Kiều khác nữa, là người đố dùng những câu Kiều hoặc lẩy Kiều để đố xem ý câu đó nói gì. Với nội dung này, người giải phải có óc suy xét, phán đoán mới giải được. Và lạ thay, có nhiều câu có lời giải có vẻ thật chính xác! Và ở loại này, người ta thường trả lời trực diện mà ít dùng thơ.
Đố:
"Trên vì nước, dưới vì nhà"
"Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng".
(Là cái gì?)
Giải: Cái máng nước (nằm giữa hai mái nhà)
Đố: " Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song".
(Là cái gì?)
Giải: Sáo diều đêm trăng!
Đố: "Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông?"
(Là nghề gì?)
Giải: Người đan bồ! (khi đan bồ, phải đan đáy hình vuông trước, rồi sau đó mới đan tròn phía trên và vật liệu đan bồ là nưá phải lầy từ rừng về).
Đố Kiều là một trò chơi tao nhã có từ lâu đời, nhưng tiếc rằng hơn nửa thế kỷ qua hầu như ít xuất hiện trong đời sống tinh thần của công chúng. Đó là một thiếu sót trong công việc bảo tồn vốn cổ của ngành văn hoá.Trong hai năm 2002 – 2009, Đài Tiếng nói Việt Nam có một chương trình khá hoành tráng về việc đưa "Truyện Kiều" đến với thính giả bằng cách giới thiệu toàn bộ "Truyện Kiều", từ đầu đến cuối qua giọng ngâm của các nghệ sĩ nổi tiếng nhất, đồng thời trong mỗi đoạn có sự phân tích, giảng giải của các chuyện gia về "Truyện Kiều". Cũng trong chương trình này, Đài còn tổ chức mỗi tháng một câu Đố Kiều với thính giả rộng rãi trong cả nước. Việc làm này của Đài Tiếng nói Việt Nam không những đem lại hứng thú cho người nghe mà còn làm sống lại một trò chơi văn hoá có nguy cơ mai một.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét