Thứ Hai, 16 tháng 10, 2023

20231017. BÀN VỀ NHỮNG SAI LẦM VIẾT SÁCH GIÁO KHOA

    ĐIỂM BÁO MẠNG


HỌC SINH BỊ TÂM THẦN: VÌ AI GÂY DỰNG CHO NÊN NỖI NÀY?
CHU MỘNG LONG/FB/TD 14-10-2023


Tôi nói tôi dừng lại việc phơi bày cái sai trong sách giáo khoa phổ thông không có nghĩa là dừng lại hoàn toàn. Dừng lại vì trong cái thì hiện tại đang tiếp diễn, phơi bày bộ sách này thì đám Diều hâu ở bộ sách khác có lợi trong cuộc cạnh tranh bẩn thông qua giới truyền thông bẩn, truyền thông ngụy biện.
Một quan chức ở nhà xuất bản tâm sự với tôi. Rằng anh phê phán đúng, dù gai góc nhưng đối với các giáo sư, tiến sĩ viết sách chỉ là muỗi đốt gỗ. Họ rất lì, ngụy biện để che đậy cái sai, thậm chí còn lôi cả Hội đồng thẩm định, lôi cả người ký duyệt sách là Bộ trưởng ra làm lá chắn. Trong khi chết là chết nhà xuất bản. Muốn hay không nhà xuất bản phải tồn tại như một cơ sở kinh doanh. Đó là điều rất dễ cảm thông và chia sẻ.
Sự thật, cái sai từ cái gốc của Chương trình mới kéo theo cái sai của Sách giáo khoa. Điều này tôi đã lên tiếng trong nhiều bài nhân vụ sách Cánh Diều. Sai từ hoang tưởng phát triển toàn diện cho học sinh đủ "năm phẩm chất, mười năng lực cốt lõi". Sai từ cách hiểu dạy học tích hợp, biến các môn học thành món lẩu thập cẩm. Ông Thuyết, ông Thống vừa làm Chủ biên Chương trình vừa làm Chủ biên sách Cánh Diều, ắt sách Cánh Diều phải sai nhiều hơn các bộ sách khác. Bởi lẽ đơn giản. tư tưởng thế nào, thực hiện thế ấy.
Riêng môn Ngữ văn, chỉ vì một môn học mà phải phát triển toàn diện, cho nên, ngoài việc học Văn kết hợp với học Ngữ, người làm Chương trình và Sách giáo khoa buộc học sinh phải học cả những văn bản ngoài Văn. Bài này tôi chỉ nói ba ý:
Một là, việc sắp xếp văn bản theo chủ đề + thể loại, làm cho hệ thống bị rối loạn về mặt thời gian - lịch sử. Họ cho trẻ em học văn học hiện đại trộn lẫn với văn học cổ trung đại và dân gian. Học sinh chẳng biết kiến tạo văn hóa-nghệ thuật của nhân loại bắt đầu từ đâu. Nhiều văn bản được gọi là hiện đại với thứ ngôn từ nhảm nhí đặt bên cạnh cái mẫu mực của văn học cổ điển, cứ như là khỉ ở với người. Chỉ nhìn vào hệ thống văn bản đã loạn não.
Vì buộc phải có đủ chủ đề + thể loại, cho nên nhà làm sách lúng túng khi lựa chọn văn bản. Các văn bản phải mang tính minh họa cho chủ đề + thể loại, cho nên nhà làm sách buộc phải đưa những văn bản không phù hợp với trẻ em, thậm chí phán giọng đạo đức, chính trị rất "hôi" cho trẻ em ngửi. Không ngẫu nhiên mà sách Cánh diều, mới chỉ học lớp Một mà trẻ em phải học mấy chục ngụ ngôn của người lớn.
Hai là, văn bản rất đa tạp, văn không ra văn. Cách gọi tên thể văn rối mù, bất nhất, cấp học dưới gọi là "Văn bản thuyết minh", đến cấp học cao hơn gọi là "Văn bản thông tin". Gán ghép khái niệm "thông tin" vào đó, học sinh dễ nhầm tưởng những thể loại giàu tính nghệ thuật khác là "phi thông tin". Nghiêm trọng hơn, trong các bộ sách, phần này toàn những tác phẩm khô khan, phản nghệ thuật. Có văn bản chép sống sượng từ điển Wikipedia, chỉ sửa đổi một số từ (nếu cãi, tôi sẽ phơi ra luôn!).
Tôi hiểu, ông Thuyết, ông Thống đưa vào loại văn bản này để thực hiện tích hợp: trong Văn có Sinh, có Lịch sử, có Địa lý... Hậu quả, ngoài tạo ra sự chồng chéo các môn học, còn do Văn không ra Văn, Sinh không ra Sinh, Sử không ra Sử, Địa không ra Địa, nhiều kiến thức trong sách Ngữ văn mâu thuẫn với bài học Sinh, Sử, Địa. Học sinh không loạn não mới lạ!
Ngay cả tích hợp đạo đức trong văn cũng rất khiên cưỡng. Cho nên mới có chuyện nhiều bài thơ không có hình tượng sống động, gợi cảm mà toàn điều răn, điều cấm khô khan, sáo rỗng. Nhà làm sách không hiểu Văn thực hiện chức năng Thẩm mỹ (Aesthesis), nghĩa gốc là sự rung động, nhạy cảm (chứ không phải cái hình thức đèm đẹp chung chung), và chính sự rung động, nhạy cảm đã chi phối các chức năng khác như nhận thức, giáo dục, giao tiếp, giải trí. Học mà lú lẫn giữa Văn với Sinh, Sử, Địa thì, nói như trẻ teen, không "xoắn não" là gì?
Ba là, ngay cả việc tích hợp Văn với Ngữ không đúng cũng làm loạn não trẻ em. Người chủ biên Chương trình và làm Sách giáo khoa chỉ hiểu học văn là học từ ngữ, học biện pháp tu từ, cho nên hệ thống câu hỏi chỉ hỏi về thể thơ như một hình thức trống rỗng, chủ yếu hỏi cách dùng từ ngữ, ngữ nghĩa và biện pháp tu từ. Phần bài tập kỹ năng thì không đánh thức, giáo dưỡng tâm hồn trẻ mà chỉ động não một cách lý tính về nghĩa của từ, cú pháp câu, biện pháp tu từ như một nhà ngôn ngữ học. Nghiêm trọng hơn là phần Đọc văn bản thì toàn lựa chọn những văn bản không chuẩn, câu chữ lôm nhôm, nhảm nhỉ, tiếng địa phương, tiếng lóng, tiếng phiên âm giọng bồi kì cục tràn ngập; nhưng phần Bài tập thực hành thì đòi hỏi dùng từ, đặt câu chuẩn, chữa lỗi câu từ, lỗi diễn đạt. Hậu quả, trẻ em không biết đâu là chuẩn và ắt loạn chuẩn.
May mà đa số trẻ em học theo bài mẫu như cái máy chứ những em biết động não, động tâm, ắt loạn não, loạn tâm. Đài báo nhà nước thừa nhận trẻ em mắc triệu chứng tâm thần ngày một đông lên, nhưng lại đổ lỗi do Internet, do game. Trong khi, theo tìm hiểu của tôi thì là do chuyện học hành. Ngoài áp lực thành tích, trẻ em loạn não, loạn tâm bắt đầu từ những bài học trong sách giáo khoa. Không ngẫu nhiên mà một số bác sĩ tâm lý chia sẻ với tôi, rằng số học sinh loạn não, loạn tâm không phải do các em lười học suốt ngày lên mạng hay chơi game mà là các em học sinh học giỏi. Loại học sinh học giỏi này mang nghĩa không phải là điểm mười nhờ giỏi chép/thuộc sách mẫu như vẹt mà chúng biết động não, động tâm!
Cứ nhìn mặt trẻ em học sáng, học chiều, học tối với đủ các loại kiến thức, bài tập hổ lốn, mặt đứa nào cũng thất thần, phờ phạc, đủ hiểu các giáo sư, tiến sĩ đã làm gì con em chúng ta!
Biết là nói nhẹ nhàng hay gai góc thì cũng chỉ là muỗi đốt gỗ đối với người làm sách, nhưng phải nói để các bậc phụ huynh cảnh giác và phản ứng kịp thời. Triệu chứng tâm thần tiềm tàng ngay trong từng nhà, ở trong chính vòng tay của các bậc phụ huynh có con em đang đi học. Nếu trẻ đã mắc rồi thì rất khó điều trị. Con em chúng ta gánh lấy bệnh tật suốt đời, chúng ta phải đối mặt với đau khổ, đắng cay. Còn nhà làm Chương trình và Sách giáo khoa thì phủi mồm, phủi tay và tẩu thoát!
Chu Mộng Long
-----
Vì viết nhanh nên tôi chỉ vạch ra lỗi có tính hệ thống, không dẫn chứng cụ thể, tiểu tiết. Dư luận vạch ra cũng đã đủ hình dung. Nếu cãi chày cãi cối, tôi sẽ dẫn cụ thể từng ý, từng bài trong Chương trình và Sách giáo khoa!

KHÔNG CÓ TRIẾT LÝ VỀ "TRÍ DỤC" VÀ "ĐỨC DỤC" THÌ ĐỪNG VIẾT
SÁCH GIÁO KHOA!
MAI BÁ KIẾM/ FB/ TD 14-10-2023
Hỗm rày, theo dõi các bài phản biện về kiểu biện bạch của GS Nguyễn Minh Thuyết trong việc lạm dụng phương ngữ và ngụ ngôn trong sách Tiếng Việt 1 - bộ Cánh Diều, tôi ngộ ra Nguyễn Minh Thuyết chủ biên và các GS viết sách không có một chút triết lý sư phạm gì ở trong đầu họ!
GS Thuyết nói các bài “Lừa và ngựa”; “Ve và gà”; “Cua, cò và đàn cá”, đều phỏng theo tác phẩm của các tác gia lớn La Fontaine, Lev Tolstoy. Sở dĩ, phải "phỏng" ngụ ngôn "Ve và kiến" ra "Ve và gà" là vì HS mới học vần "à" chưa học vần "iến", nên thay kiến bằng gà!
Như vậy, GS Thuyết không biết cách dàn dựng tuyến nhân vật trong ngụ ngôn của phương Tây. Đó là các con vật theo mối quan hệ giống loài một cách hợp lý. Ví như con ve và kiến - đều là côn trùng (theo sinh học là những "con tương cận") cùng giống, loài, nhưng dị biệt về tập quán kiếm ăn, giao phối (kiến tha mồi suốt ngày thì ve đực mải gọi bạn tình). Cái tương phản đó làm nên ngụ ngôn.
Tiếng Việt 1 – bộ Cánh Diều lại xào xáo những "con tương cận" thành những "con cận chiến" (còn gọi là thiên địch) như ve với gà, quạ và chó! Cái tương phản "một mất một còn" giữa 2 con không thể làm nên một ngụ ngôn đạo đức!
Thậm chí cùng loài như “Hai con ngựa” nhưng ngụ ngôn chỉ xúi người khác làm bậy! Tôi khẳng định chủ biên Nguyễn Minh Thuyết và đám giáo sư viết sách không biết triết lý về "trí dục" và " đức dục"!
Viết đến đây, tôi nhớ cố GS Nguyễn Chung Tú (1922-2014, cựu Khoa trưởng Khoa học Đại học đường Sài-gòn). Khoảng năm 2000, UB MTTQ TPHCM lấy ý kiến góp ý Luật Giáo dục, GS Tú đề nghị Bộ ấn định khung thời lượng dạy Trí Dục (kiến thức), Đức dục (đạo đức) và Thể dục. Thí dụ, bậc tiểu học: 30% trí dục, 50% đức dục, 20% thể dục. Bậc THCS: 50% trí dục, 30% đức dục...
Có người hỏi trí dục là những bài học cụ thể về ngữ vựng, văn phạm, chánh tả, tập đọc, tập làm văn, còn 50% đức dục gồm những bài gì mà thời lượng nhiều vậy? GS Tú nói ngoài các bài ca dao tục ngữ, ngụ ngôn, đức dục phải lồng trong các bài tập đọc, học thuộc lòng, sử ký (noi gương tiền nhân), địa lý (yêu đất nước, thiên nhiên), vạn vật (yêu loài vật), công dân (tuân theo PL)...
Năm 1960, GS Tú tốt nghiệp TS vật lý về “Hiện tượng phát huỳnh quang của CdI2(Pb)” tại Đại Học Rennes (Pháp) hạng tối danh dự! Là nhà quang học hàng đầu miền Nam, GS Tú có triết lý sư phạm cấp cơ sở, nhưng không viết sách tiểu hoc như GS Thuyết!
P/S: Xin tạ lỗi hương linh GS Nguyễn Chung Tú, vì con so sánh với GS Thuyết là so sáng không cùng đại lượng!

NHỮNG SAI LẦM MANG TÍNH NGUYÊN TẮC TRONG BIÊN SOẠN SÁCH GIÁO KHOA MỚI
NGUYỄN NGỌC CHU/FB/ BVN 15-10-2023
BVN: Tiến sĩ N.N.Chu viết: “Những điều in trong sách giáo khoa phải chính xác. Những bài thơ đưa vào sách giáo khoa phải thuộc hàng xuất sắc. Xin chia sẻ lại bài viết về sách giáo khoa đăng 3 năm trước”.
Vâng, từ 3 năm (thậm trí còn từ lâu hơn), giới trí thức VN đã báo động về sự nguy cấp của hệ thống quản lý giáo dục nước nhà, trong đó có việc biên soạn SGK.
“Giáo dục quan trọng đến mức từ thường dân cho đến người đứng đầu quốc gia – đều không thể ngủ”. Vậy mà hôm nay nó vẫn nguyên xi những điều nhức nhối. Nên những tiếng nói phản biện vẫn phải sôi sục.
Bauxite Việt Nam
*
15 tháng 10 năm 2020
Những điều viết dưới đây là đề cập chung cho các bộ sách giáo khoa (SGK) mới, chứ không chỉ riêng cho bộ sách Cánh Diều hay bộ Kết nối trí thức với cuộc sống; và liên quan đến tất cả các môn, chứ không riêng gì Tiếng Việt hay Toán.
Mục đích bài viết không phải để chỉ trích cá nhân hay bộ SGK cụ thể, mà là để rút kinh nghiệm cho tương lai, mong có được các bộ sách giáo khoa mới tốt hơn. Tốt hơn theo 5 phương diện:
1. Học ít mà biết nhiều.
2. Biết những điều quý giá hữu ích.
3. Không mất nhiều thời gian.
4. Không tốn nhiều công sức.
5. Không mất nhiều tiền bạc.
Vì hạn chế về đề tài, dung lượng, và thời gian, nên bài viết còn những điều khiếm khuyết. Do vậy, bài viết không cạnh tranh về tính đầy đủ và tính đúng đắn. Bài viết cũng không toan tính áp đặt quan điểm của người viết cho người khác.
I. NHỮNG NGUYÊN NHÂN HỆ THỐNG ẢNH HƯỞNG XẤU LÊN CHẤT LƯỢNG CỦA SGK
Trước khi các bộ SGK mới ra đời đã xuất hiệu nhiều phản biện gay gắt của xã hội trên truyền thông về hai phương diện: chất lượng và chi phí. Và nay, ngay khi vừa đưa các bộ SGK mới vào giảng dạy đã bộc lộ những sai sót nghiêm trọng. Những sai sót của SGK mới là hậu quả tất yếu từ những sai lầm mang tính nguyên tắc về cách tiếp cận trong thiết lập cơ chế soạn SGK. Sau đây đề cập đến 6 nguyên nhân chính, đều có nguồn gốc sâu xa từ một nguyên nhân thống soái.
1. Hạn chế chỉ một chương trình khung và chỉ một tổng chủ biên
Trong vũ trụ không có thứ gì là độc nhất. Vũ trụ biến hoá đa dạng không ngừng. Tiến bộ nhân loại là một phần tiến hoá của vũ trụ. Bởi vậy nó chịu sự chi phối của quy luật vũ trụ. Hơn 200 quốc gia trên thế giới không chung một khung chương trình giáo dục. Quy định một bộ khung chương trình duy nhất cho giáo dục là ràng buộc tiến hoá. Tự do học thuật cần nhiều chương trình. Rõ ràng khi có 2 chương trình khung là có nhiều lựa chọn hơn cho người dùng, chắc chắn tốt hơn khi chỉ có 1 chương trình khung.
Ngay cả chỉ có 1 chương trình khung thì cũng không thể chỉ có 1 tổng chủ biên. Quy định này trói buộc khả năng tự do toả sáng của các tổng chủ biên. Giống như thiết kế, cùng là thiết kế máy bay, nhưng mỗi tổng công trình sư có một thiết kế khác. Hạn chế chỉ có 1 tổng chủ biên cho SGK mới đã ngăn cản đường sáng tạo của các tổng chủ biên khác. Giá mà có 2 tổng chủ biên, thì tình trạng SGK mới đã không rơi vào hoàn cảnh hiện nay.
2. Chọn tổng chủ biên chưa phù hợp
Các tổng chủ biên dù bác học đa ngành đến đâu cũng không thể đứng đầu được ở nhiều môn học khác nhau.
GS Nguyễn Minh Thuyết có chuyên môn về tiếng Việt nên có thể tham gia soạn thảo SGK môn tiếng Việt. Nhưng đặt GS Nguyễn Minh Thuyết vào vị trí tổng chủ biên chương trình khung bao gồm các môn toán, lý, hoá, sinh, địa, sử, ngoại ngữ… là quá sức của GS Nguyễn Minh Thuyết. Thực tế việc GS Nguyễn Minh Thuyết – Chủ biên môn tiếng Việt lớp 1 trong nhóm Cánh Diều đã bộc lộ năng lực hạn chế của GS Nguyễn Minh Thuyết ngay trong môn tiếng Việt lớp 1, chứ chưa nói đến vị trí tổng chủ biên của toàn bộ chương trình cải cách SGK mới. Việc để xảy ra những sai sót mang tính nguyên tắc, không riêng gì trong môn tiếng Việt, mà ở các môn khác, đều có trách nhiệm lớn ở tổng chủ biên chương trình khung.
3. Chọn các tác giả viết SGK mang tính khép kín
Nhìn vào chủ nhân của các bộ SGK và các tác giả SGK, thì biết đây là sân chơi khép kín của một nhóm người chơi. Đây là rào cản đối với tự do học thuật, mà hệ quả là không cho ra đời được những bộ SGK tốt.
4. Tập thể viết sách giáo khoa
Không có sách giáo khoa xuất sắc nào được viết bởi 5 hay 7 tác giả. Những bộ sách giáo khoa xuất sắc nhất, tuyệt đại đa số là của 1 tác giả, một số rất ít có 2 tác giả.
Hổ không ngồi chung với sư tử. Nếu đã có hổ thì báo, chó sói, cáo cũng không thể cùng chung chuồng.
Không ai soạn nhạc cho học sinh thì phải đưa cho học sinh nghe rồi sửa theo ý thích học sinh. Không ai vẽ tranh cho thiếu nhi phải đưa cho thiếu nhi xem rồi sửa lại. Không nhà văn nào viết truyện lại đi đọc cho khắp các tầng lớp người nghe để tiếp thu ý kiến, sửa rồi mới in. Không công trình kiến trúc nổi tiếng nào lại có thợ sơn, thợ nề, thợ mộc, thợ điện, thợ nước… đứng chung tên là tác giả.
Các tác phẩm văn học vĩ đại, các bức tranh nổi tiếng, những tuyệt tác âm nhạc – chỉ có 1 người đứng tên. Các giáo trình vĩ đại ở đại học đều được tác giả viết mà không cần biết đến ý kiến sinh viên và người dạy.
Một loạt tác giả đứng tên viết giáo trình có nghĩa là:
(1) Không ai trong số các tác giả có đủ khả năng một mình viết giáo trình đó.
(2) Không phân biệt được công lao đóng góp của mỗi người.
(3) Với xác suất lớn, những người đứng trong nhóm cuối mới là những tác giả lao động nhiều nhất.
(4) Chất lượng của giáo trình được quyết định bởi tác giả có chất lượng thấp nhất.
Trong sáng tạo, càng tập hợp được trí tuệ của nhiều người càng tốt. Nhưng là để phản biện chứ không phải là đồng tác giả. Nếu theo ý kiến mọi người mà sửa tác phẩm của mình thì đó là “đẽo cày giữa đường”. Tai hoạ của SGK mới là quá nhiều tác giả đứng tên trong một cuốn sách giáo khoa phổ thông cho một môn của một lớp.
5. Chưa thử nghiệm đã đưa ngay vào giảng dạy
Covid 19 làm thiệt mạng hàng triệu người, mà không ai dám đốt cháy giai đoạn về sử dụng vaccine mới sáng chế. Thế mà bộ SGK vừa được biên soạn, chưa hề được thử nghiệm, đã đưa ngay vào giảng dạy chính thức.
Có phải nóng vội vì tài chính? Đây là một sai lầm không thể chấp nhận được của Bộ GD&ĐT.
6. Lợi ích kinh tế
Tất cả các nguyên nhân trên đều chịu sự điều phối của nguyên nhân bao trùm là lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế mới là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Chính lợi ích kinh tế đã đưa SGK mới đến tình trạng hiện nay.
Nhưng cả 6 nguyên nhân trên đều có chung một gốc xuất xứ. Tất cả các nguyên nhân nêu trên đều là “con đẻ” của cơ chế độc quyền.
II. NHỮNG SAI LẦM TRONG THỰC HIỆN NỘI DUNG
Về thực hiện nội dung, tuy mức độ có khác nhau, nhưng các bộ SGK mới đều có chung những sai lầm. Sau đây là một số sai lầm chính.
1. Chạy theo thị hiếu trẻ em
Những tác giả viết SGK Tiếng Việt lớp 1, vì đua tranh thị trường, nên chạy theo thị hiếu trẻ em. Họ chọn hình ảnh, màu sắc, và thú vật làm 3 cột sống chủ đạo để mong sự ưa thích của trẻ em mà chiếm được thị trường. Họ thấy điều hiển hiện trên bề mặt mà quên mất điều sâu xa là nội dung phải giảng dạy.
2. Xác định chưa đầy đủ mục đích của giáo dục
Viết và đọc chỉ là công cụ để tiếp thu tri thức và sáng tạo tri thức. Tiếp thu tri thức và sáng tạo tri thức mới là mục đích chính của giáo dục. Cho nên dạy viết và dạy đọc không thể rời xa mục đích chính của giáo dục là cung cấp tri thức cho học sinh và dạy cho học sinh cách sáng tạo tri thức.
Lớp 1 là khởi đầu. Dạy viết đọc cho Lớp 1 là một mục tiêu quan trọng. Nhưng quan trọng không kém là dạy cho các em thành người. Vì thế phải xác định mục tiêu giảng dạy ở môn Tiếng Việt 1 ngoài viết và đọc là gì? Từ đó mà chọn nội dung các bài học liên quan đến viết và đọc.
Hàng triệu người dân bao đời không biết đọc biết viết mà họ vẫn tiếp thu được tri thức và sáng tạo được tri thức. Họ ngâm thơ, hát, kể chuyện… và sáng tác mà không biết đọc biết viết. Họ nên người mà không biết đọc biết viết.
Xa rời mục đích chính của giáo dục đã làm các tác giả sa vào mua vui cho trẻ em trong dạy viết dạy đọc. Họ đã sai lầm trong chọn lựa các nội dung để dạy viết và dạy đọc.
3. Chọn sai đối tượng làm bài học. Chọn quá nhiều thú vật và chuyện ngụ ngôn
Vì quên mục đích chính của giáo dục, sa vào mua vui, nên các tác giả đã chọn thú vật làm đối tượng đưa vào nội dung các bài dạy viết dạy đọc. Vì chọn thú vật nên phải lệ thuộc vào chuyện ngụ ngôn. Cho nên chuyện ngụ ngôn tràn lan trong SGK Tiếng Việt 1. Dạy người thì phải đưa người ra làm đề tài để dạy. Dạy người mà lấy thú ra làm đề tài dạy là “vi phạm tiên đề”. Dạy người mà ít hình người, toàn hình thú thì trong đầu chỉ nghĩ về thú. Chuyện ngụ ngôn lại nặng về tiểu xảo, liên quan đến điều tốt lẫn thói hư tật xấu, thành ra các yếu tố xấu sẽ ảnh hưởng tiêu cực lên trẻ em.
Bộ não của Trẻ em lớp 1 hoàn toàn mới mẻ. Nên phải dạy các em những điều trượng nghĩa, làm những việc cái thế, chứ không dạy tiểu xảo, thói hư tật xấu. Tâm hồn các em thơ ngây thánh thiện, nên phải chú trọng dạy việc thiện, chứ không dạy điều ác. Điều tốt nhanh quên, điều xấu nhớ lâu.
4. Sửa văn của người khác và tự đưa văn của mình vào SGK
Sửa văn của người khác là đại kỵ. Càng không bao giờ được đặt bút sửa văn của các văn hào. Không phải các văn hào không có lỗi. Nhưng sửa văn của văn hào phải là những người đủ trí tuệ tương đương. Người thường tuyệt nhiên tránh.
Để tránh bị phê phán, các tác giả chọn truyện ngụ ngôn của các nhà văn nước ngoài. Nhưng chuyện ngụ ngôn nước ngoài không phù hợp cho nội dung dạy viết và đọc, nên các tác giả phải gọt đẽo. Và phạm vào đại kỵ. Làm hỏng cả truyện của các văn hào.
Cả SGK Tiếng Việt 1 của Cánh Diều lẫn SGK Tiếng Việt 1 của Kết nối trí thức với cuộc sống đều có nhiều văn tự viết của tác giả, cũng như những đoạn văn không xứng đáng được đưa vào sách giáo khoa lớp 1 (Không tiện dẫn thí dụ cụ thể ra đây, vì làm bài viết quá dài).
Có biết bao nhiêu bài thơ hay, có biết bao nhiêu áng văn đẹp, có bao nhiêu câu chuyện thành điển tích mà không đưa vào sách giáo khoa, sao phải dùng đến văn của các tác giả soạn sách giáo khoa làm bài học? Phải có cách để cấm tuyệt đối các tác giả không được đưa những đoạn văn hay câu chuyện tự sáng tác của mình vào sách giáo khoa.
5. Xu hướng lạm dụng cách chọn trắc nghiệm
Từ mấy năm nay, cách thi trắc nghiệm đã ảnh hưởng sang cả môn Văn. Một bài thơ, bài văn, một bức tranh… có muôn vàn tư tưởng. Có những tư tưởng người đọc người xem thấy, mà tác giả không thấy. Đó là sự mầu nhiệm của văn thơ nghệ thuật.
Nay cách chọn trắc nghiệm lại xâm chiếm tràn ngập sang môn Văn, và sang cả dạy viết và đọc ở lớp 1. Bắt đánh dấu vào các ô tương thích với ý của các đoạn văn là điều không khuyến khích trong dạy văn. Đó là bắt đầu gò bó trí tuệ sáng tạo của trẻ em đi vào tiểu tiết, đi vào cụ thể, của tác giả, của giáo viên, rồi bắt các em xa lánh trí tưởng tượng phóng khoáng của các em. Trẻ em có thể tưởng tượng ra những điều kỳ thú ngoài bài viết. Đó mới là nguồn cơn của sáng tạo.
Không phải cứ tác giả bài viết là có tầm nhìn đại bàng. Không phải cứ giáo viên là có tầm nhìn đại bàng. Trong số các em thơ, tuổi lớp 1 có các em có tầm nhìn đại bàng. Không gò ép tầm nhìn đại bàng vào tầm nhìn của các loài chim khác.
Liệt kê ra các sai lầm trên đây là để tránh nó trong tương lai.
III. ĐÔI ĐIỀU VỀ SÁCH TOÁN LỚP 1
Xem qua sách Tiếng Việt 1, thuận tay cầm đến sách Toán 1. Giật mình sửng sốt.
Chỉ có 10 con số, từ số 0 cho đến số 9 mà có thể biểu diễn bất cứ con số lớn ngàn vạn ức tỷ nào. Và với các phép cộng trừ nhân chia thì thế giới các con số biến hoá khôn lường. Sự mầu nhiệm của toán học nằm trong sự tối giản và phép biến hoá.
Thế mà sách giáo khoa Toán 1 đang đi lệch hướng tối giản và hiệu quả của toán học.
1. Mất quá nhiều giấy tờ cho một nội dung nhỏ
Chỉ dạy các số từ 0 đến 9 và phép cộng trừ đến 100, người nghèo ngày xưa dùng mấy nét vẽ, xoá đi xoá lại trên cát, người nghèo gần đây, cần vài chục trang giấy với mươi buổi học. Còn SGK Toán 1 mới thì sao?
Toán 1 bộ sách Cánh Diều dày 172 trang với cơ man rừng rừng các hình vẽ. Ngoài ra, còn có sách “Bài tập Toán 1”,“Bài tập Toán 2” dày cũng tương tự . Còn nữa, 1 tập 36 bài phiếu thực hành cuối tuần.
Toán 1 của bộ sách Kết nối trí thức với cuộc sống thì chia thành 2 tập, tập 1 dày 114 trang, tập 2 dày 106 trang, tổng thể là 220 trang. Chưa nói đến sách bài tập và bổ trợ.
Chỉ xem ngày giờ, tìm hiểu độ dài, làm quen các hình và dạy cộng trừ đến số 100 mà trình bày đến 200 trang sách. Quả là giàu có về giấy vở và thời gian cho một nội dung bé xíu.
Có người biện hộ, sách bài tập, sách bổ trợ không ai bắt buộc mua. Nhưng tính thi đua của các bậc cha mẹ, không muốn để cho con bị thua thiệt, mong cho con mình hơn người, sẽ thôi thúc các bậc phụ huynh mua sách, nhịn ăn nhịn mặc để cho con không thua kém bè bạn.
2. Thực hành bài tập nhiều quá mức cần thiết
Hết thảy các con số từ 1-100 đều phải thực hành các phép cộng trừ với cơ man nào là hình vẽ. Trong sách đã nhan nhản các bài tập, lại còn bài tập thêm về nhà, còn cả phiếu thực hành cuối tuần. Đó là sự thực hành quá mức cần thiết. Nếu phải thực hành hết các phép tính trong sách giáo khoa và trong sách bài tập thì đúng là “bỏ tù các em trong bài tập toán”.
Không có nhà toán học vĩ đại nào trên thế giới, ở tuổi thơ tương ứng, phải làm nhiều phép tính cộng trừ dưới 100 như các em học sinh Việt Nam phải học sách Toán 1 năm nay. Phép cộng trừ dưới 100 không làm nên Acsimet.
3. Sử dụng quá nhiều hình ảnh màu mè
Ai cũng biết trẻ em thích hình ảnh và màu sắc. Nhưng con số nào cũng bằng hình ảnh, phép tính nào cũng bằng màu sắc thì dẫn đến loạn thị. Phép tính giản đơn đang biến thành phép tính rối màu. Đó là sự lạm dụng màu sắc. Đúng là vẽ ra mà dạy!
4. Kéo dài quá trình tiếp thu tri thức
Như đã nói ở trên, học xem ngày giờ, làm quen với độ dài và hình vẽ, học phép cộng trừ cho đến 100, không cần đến nhiều trang sách, nhiều bài tập, và nhiều hình vẽ như trong sách Toán 1.
Người viết sách giỏi là viết dễ hiểu hơn, viết ngắn hơn người viết trước, chứ không phải viết dài hơn, nhiều hình vẽ hơn, nhiều màu sắc hơn, rối rắm hơn người viết trước.
Nhưng nguy hại của viết dài, rối rắm nằm ở điểm khác. Đó là kéo dài quãng đường tiếp nhận tri thức. Nó đi ngược với bản chất toán học.
Điều may mắn của bạn khi được học với thầy giỏi là thầy đưa điều phức tạp về đơn giản, thầy diễn giải cái khó hiểu thành cái dễ hiểu, thầy cho bạn con đường ngắn nhất đến tri thức. Bạn thật không may mắn khi gặp người thầy làm điều ngược lại.
Với đà này thì Toán 2, Toán 3… Toán 12 sẽ thế nào đây? Học thì phải mua sách, phải trả học phí. Sách in càng dày càng đẹp thì càng nhiều tiền. Người nghèo sẽ ra sao đây?
Đừng khoác áo các lý thuyết cao siêu. Đơn giản chỉ có 2 phép tính cộng trừ. Đừng vin vào hình ảnh đẹp và sách in đẹp bắt mắt. Các bậc phụ huynh và trẻ em sẽ thích điều đó. Nhưng sự tiến bộ của công nghệ in ấn về hình thức không phải là lý do để làm quanh co nội dung. Sự yêu thích màu mè và hình khối của trẻ em không thể là lý do kéo dài hành trình tiếp nhận kiến thức. Nếu các phụ huynh biết rằng, chỉ cần không đầy một nửa thời gian của 105 tiết học, con của họ vẫn thông thạo phép tính cộng trừ đến số 100, nếu phụ huynh biết rằng, chẳng cần phải ngàn hình vẽ màu mè, chỉ mươi trang sách giản đơn, con của họ vẫn thông thạo phép tính cộng trừ đến số 100, thì họ sẽ nhận ra rằng con họ đã học toán ngược với bản chất của toán học là tối giản và hiệu quả.
5. Hoang phí bộ nhớ trẻ em
Các tác giả soạn SGK Toán 1 vì muốn cung cấp cho học sinh nhiều thí dụ, với những hình vẽ nhiều màu sắc hấp dẫn tuổi thơ, mà vô tình đã phạm sai lầm là đã hoang phí bộ nhớ và thời gian của trẻ nhỏ.
Bộ nhớ của mỗi người có hạn, chứa điều này thì thôi chứa điều khác. Bộ óc của trẻ em lớp 1 còn trắng tinh, thông tin lần đầu sẽ được lưu giữ khó quên, nên phải đưa những thông tin quý, cần thiết, nhớ mãi cả cuộc đời vào bộ nhớ của các em. Nhưng các nhà soạn SGK Toán 1 đưa cả hàng ngàn hình vẽ với nhiều màu sắc của cả 200 trang sách, chỉ để dạy phép cộng trừ cho đến số 100, trải dài trong suốt 105 tiết học, không tính thời gian làm bài tập thêm ở nhà, hỏi có phí phạm bộ nhớ và thời gian của các em không? Hỏi có bao nhiêu hình vẽ đó hữu ích cho cuộc đời sau này của các em? Hỏi sau 50 năm có bao nhiêu hình vẽ đó còn lưu giữ trong trí nhớ của các em? Những bức tranh vô thưởng vô phạt đó không thể lưu giữ trong trí nhớ của các em, vì nó phải nhường chỗ để lưu giữ thông tin hữu ích khác.
Cũng là trí nhớ tinh khôi của em bé 6 tuổi, chân trần, lưng trần, đầu trần, ngó lên bầu trời sao. Em bé 6 tuổi đó biết tìm sao Bắc cực để xác định hướng đi trong đêm. Em biết sao Hôm, sao Mai để xác định thời gian. Em biết các chùm Đại Hùng Tinh, Tiểu Hùng Tinh, Thần Nông, Kim Ngưu, Tua Rua, Ngưu Lang, Chức Nữ… Em nhìn lên sao mà biết thời tiết. Những chùm sao thức dậy trong em sự tò mò về vũ trụ bao la, không bao giờ bị xoá khỏi trí nhớ em cho đến cuối cuộc đời. Đó là những lưu giữ đầu đời quý giá.
Phải biết quý trọng mỗi micron thể tích bộ nhớ tinh khôi của trẻ em. Không thể đưa vào bộ nhớ của các em hàng ngàn hình ảnh màu mè rồi phải xoá. Không thể bắt bộ nhớ của các em phải lặp đi lặp lại những phép tính thường nhật nhàm chán, cộng trừ của tất cả các số từ số 1 cho đến số 100, những phép tính mà toán học đã chỉ ra, là chỉ cần làm thí dụ và suy ra, chứ không phải thực hành tất cả. Thực hành sao hết vô tận các số. Phải dành thời gian và trí não của các em cho tiếp nhận và lưu giữ những tri thức quý giá khác.
6. Quá nhiều tác giả
Một điều sửng sốt khác, là để viết sách Toán lớp 1 dạy 2 phép toán cộng trừ đến số 100, thì sách Toán 1 của Cánh Diều có 5 tác giả và Toán 1 của Kết nối trí thức với cuộc sống có đến 6 tác giả. Thậm chí Toán 1 để cho giáo viên của Kết nối trí thức với cuộc sống dày 118 trang nhưng có đến 7 tác giả. Dạy cho học trò xem ngày giờ, dạy cho học trò cộng trừ cho đến số 100 mà phải viết sách riêng để dạy cho giáo viên!
Sách giáo khoa Toán lớp 1 lần này gọi nhớ lại thời sinh viên, khi học đại học ở Liên Xô. Thuở đó được học giáo trình kinh điển Giáo trình phép tính vi phân và tích phân (Курс дифференциального и интегрального исчисления) gồm 3 tập khoảng 2000 trang của GS Fichtengolz (фихтенгольц) – chỉ duy nhất một người viết. Và dạy cho sinh viên năm thứ nhất là các thầy giáo đầu ngành, lâu năm, giỏi nhất.
Chừng nào mà sách giáo khoa còn được viết bởi một lô ‘xắc xông’ các tác giả 5 - 7 người như hiện nay, thì chừng đó đừng mong có được bộ sách giáo khoa xuất sắc. Và chừng nào còn đếm trang để tính kinh phí thì sách giáo khoa còn bị tiếp tục vẽ rồng vẽ rắn.
Nếu bất bình thì xin hỏi, ở cơ chế của các nước Âu Mỹ, các tác giả hiện đang viết SGK có viết SGK cùng nhau một tập thể như thế này không? Có bán được SGK như thế này không?
Tiếp nhận sự chỉ trích là một đẳng cấp. Chỉ những nhân cách lớn mới biết chấp nhận và tận dụng được chỉ trích.
IV. TẠI SAO LẠI XẢY RA TÌNH TRẠNG NHƯ VẬY?
TẠI CƠ CHẾ.
Cơ chế đẻ ra con người như vậy. Cơ chế đẻ ra dự án như vậy. Con người và dự án đẻ ra bộ SGK như vậy.
V. AI CÓ LỖI LỚN NHẤT?
Các tác giả SGK không thể chối bỏ trách nhiệm về các lỗi nghiêm trọng của SGK. Nhưng họ không phải là người có lỗi duy nhất.
Trách nhiệm lớn hơn thuộc về ông Bộ trưởng Bộ GD&ĐT. Trách nhiệm lớn không kém thuộc về ông Phó Thủ tướng phụ trách ngành giáo dục. Và còn trách nhiệm của những người khác nữa.
VI. ĐỀ XUẤT
Bộ GD&ĐT cần thay đổi quy trình viết SGK hiện nay, khởi đầu lại một giai đoạn mới bằng một quy trình khác. Đừng sợ bị chê là thất bại.
Trong hoàn cảnh hiện nay, chưa thể chống được lợi ích nhóm, thì chỉ cần 2, 3 bộ SGK. Càng nhiều bộ SGK càng phí phạm thêm tiền bạc của nhân dân, mà chưa nâng cao được chất lượng.
Phải cách mạng cách lựa chọn tác giả viết SGK. Phải thay đổi cơ chế viết SGK. Phải bắt buộc thực nghiệm trước khi đưa vào sử dụng.
2 - 3 bộ SGK cũng có tính cạnh tranh, tuỳ thuộc vào cơ chế chọn lựa tác giả viết sách như thế nào. Mỹ chỉ có 2 ứng viên cho chức tổng thống mà không ai có thể chê bai về tính cạnh tranh và chất lượng các ứng viên.
Đây là thời điểm cần quyết định từ cấp trên của Bộ GD&ĐT. Giáo dục quan trọng đến mức từ thường dân cho đến người đứng đầu quốc gia – đều không thể ngủ.
N.N.C.
Tác giả gửi BVN

SAI TÊN TÁC GIẢ
FB Đỗ Trung Quân/ BVN 15-10-2023
Nhân ồn ào vụ sách giáo khoa Lớp 1 của ê kíp ông Nguyễn Minh Thuyết nhiều người gọi tên tôi báo chuyện này và hỏi “ông Q có biết không?”. Xin thưa tôi biết từ hơn 20 năm trước và 20 năm sau nó vẫn y như cũ.
Khi ấy chưa có Internet, Email, tôi gửi thư tay và đến tận nơi chi nhánh của Nhà Xuất bản Giáo dục ở Sài Gòn với thái độ nhã nhặn và chỉ một đề nghị duy nhất: sửa lại cho đúng vì tác giả chưa … qua đời. Câu trả lời là phương pháp cũ: “để báo lên trên”, và cuối cùng sách vẫn hàng năm tái bản vẫn cứ sai như cũ.
Nếu tôi nhớ không lầm thì báo Tuổi Trẻ cũng từng có loạt bài về Sách giáo khoa và sự kiện này cũng được đặt ra nhưng câu trả lời là “những người chủ biên CÓ QUYỀN sửa chữa cho phù hợp với phương pháp và học sinh …”. (Vậy thử sửa cho “phù hợp” với thứ thơ máu lửa của Tố Hữu hay những bài toán “giết vài tên lính Mỹ …” cho thiếu nhi xem sao?! Tôi thách!).
Tôi biết mình đã chạm vào bức tường thành kiêu căng của bộ máy, của thể chế và lợi nhuận quá lớn chưa kể thái độ ngầm “được vào sách giáo khoa, chưa “lại quả” còn muốn cái gì?
Có người lại hỏi: thế họ (sách giáo khoa) có trả nhuận bút cho tác phẩm được chọn trích in không? Câu trả lời của tôi là: cá nhân tôi chưa từng nhận một xu nhuận bút, nếu đi đòi thì lại hệt “đáo tụng đình”, “được vạ thì má cũng sưng”, lại mất thời gian bỏ biết bao việc cần làm, đang làm… Vả lại, nếu họ bảo, ông nói không phải thơ ông, không đúng thơ ông cũng không có tên ông mà đòi là đòi cái gì thì có mà xấu hổ [tôi đến giờ vẫn còn biết xấu hổ nếu lỡ làm gì sai đấy].
Vậy nên, thưa các anh chị em đã gọi tên tôi, đã thông báo cho tôi, tuy vậy xin thưa rằng chuyện này với tôi không mới. Mong ước của tôi bây giờ là được họ loại khỏi sách giáo khoa bởi lẽ với nền giáo dục chỉ muốn biến con người thành con vật, trộm cắp, dối trá, ác độc… ngay từ khi ngồi ghế nhà trường mà hệ quả nó đang rành rành hiển hiện mỗi ngày trong xã hội, tôi không vinh dự gì nếu không muốn nói là xấu hổ ngồi trong nền giáo dục ấy qua sách giáo khoa.

TRIẾT LÝ VỚ VẨN!
MẠC VĂN TRANG/FB/TD 16-10-2013
Lâu nay trên mạng xã hội, nhiều ý kiến phê phán, tranh cãi về Sách giáo khoa (SGK) Cánh Diều. Tôi không ý kiến gì vì không có cuốn sách nào trong tay, cũng chả đi mua sách làm gì, vì không có cháu nào là học sinh.
Nay đọc báo Tiếng Dân thấy bài của Mai Bá Kiếm: “Không có triết lý về 'trí dục' và 'đức dục' thì đừng viết sách giáo khoa”! Tôi thấy tác giả phê phán một số điểm trong SGK Cánh Diều là đích đáng.
Nhưng tôi chú ý đến cái slogan trên “biển quảng cáo”: “Mang cuộc sống vào bài học - Đưa bài học vào cuộc sống”, trong buổi GS Nguyễn Minh Thuyết trình bày gì đó.
Tôi tìm trên mạng thì thấy VOV quảng cáo: “Đây cũng là bộ sách giáo khoa duy nhất đến lúc này được tổ chức biên soạn theo hình thức xã hội hóa theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Tư tưởng xuyên suốt của bộ sách là 'Mang cuộc sống vào bài học - Đưa bài học vào cuộc sống'.”
Tôi xin nói ngay cái “Tư tưởng xuyên suốt của bộ sách” là “Mang cuộc sống vào bài học - Đưa bài học vào cuộc sống” là sai căn bản, rất nhảm nhí. Từ cái “tư tưởng xuyên suốt” tào lao nên sách mới lắm chuyện nhảm nhí như nhiều người đã phê phán. Tôi tin rằng cái “tư tưởng xuyên suốt” đã vớ vẩn thì trong sách hẳn còn nhiều cái nhăng nhít nữa.
Cái câu này là thó từ câu của Đảng: Đưa cuộc sống vào Nghị quyết và đưa Nghị quyết vào cuộc sống. Tưởng trưng cái khẩu hiệu của Đảng ra thì sách đặc quánh “tính đảng”, chả thằng nào, con nào còn dám chê nữa. Nhưng chính cái đó mới dẫn đến sai lầm căn bản.
Đảng quen làm Nghị quyết duy ý chí, trong phòng máy lạnh, quan liêu, nên nay mới nhấn mạnh “phải đưa cuộc sống vào Nghị quyết” cho sát với đời sống xã hội; xong rồi phải tuyên truyền, vận động, chỉ đạo quyết liệt để "đưa Nghị quyết vào cuộc sống", như Nghị quyết về “phòng chống tham nhũng tiêu cực” chẳng hạn. Khẩu hiệu của Đảng như vậy cũng còn có lý.
Còn “mang cuộc sống vào bài học” là cuộc sống nào? Cuộc sống xã hội ngày xưa thì lạc hậu, cuộc sống xã hội hiện tại thì hỗn độn, đầy những cái nhố nhăng… Mang cái gì vào?
Giáo dục phổ thông là chọn lọc những giá trị tinh túy của dân tộc và nhân loại đã được minh định để đưa vào cho học sinh học như những món ăn bổ dưỡng để các em phát triển lành mạnh. Mà những giá trị đó mang bản chất là Chân, Thiện, Mỹ, Ích. Sao lại mang cái linh tinh từ cuộc sống nhố nhăng vào bài học?
Rồi “đưa bài học vào cuộc sống” là ai đưa? Đưa vào cuộc sống nào? Láu cá. Đảng đưa Nghị quyết vào cuộc sống, thì đây “đưa bài học vào cuộc sống”? Nghe ghê chửa? Bắt học sinh lớp Một “đưa bài học vào cuộc sống” xã hội à?
Cuộc sống của xã hội người lớn là sản xuất, buôn bán, chiến đấu, cạnh tranh, họp hành, yêu đương, tình dục, lừa lọc, đấu đá, đàn áp, bắt bớ, xét xử… Đưa những cái này vào bài học à? Rồi bắt trẻ em đưa những bài học đó vào cuộc sống này à?
Trẻ em có cuộc sống riêng của nó. Ngay ở gia đình cũng thường bảo, trẻ con ra ngoài kia chơi để người lớn nói chuyện.
Ở các nước văn minh, nhà trường là thế giới riêng của trẻ em; cuộc sống của học sinh là học hành, vui chơi, giao tiếp, ăn uống, sinh hoạt được tổ chức phù hợp với mỗi lứa tuổi để các em được sống tươi vui và phát triển tự nhiên, lành mạnh theo lứa tuổi của mình, trong môi trường văn hoá học đường.
Các hàng quán cấm không được bén mảng trước cổng trường; những sinh hoạt nhậu nhẹt, karaoke, cà phê đèn mờ, cá độ… của đời sống xã hội phải tránh xa đời sống nhà trường. Học sinh dưới 18 tuổi cấm bén mảng đến cửa hàng thuốc lá, bia, rượu; nhòm ngó vào những chỗ “đèn mờ”, “đèn đỏ” là xấu hổ, phải tránh xa. Các chương trình Tivi, thông tin trên mạng internet, người ta luôn có thông báo, cái gì không nên cho trẻ em xem.
Trẻ em là trẻ em; trẻ em có cuộc sống riêng của trẻ em, sao lại đi bắt chước Đảng: Tư tưởng xuyên suốt của bộ sách là “Mang cuộc sống vào bài học - Đưa bài học vào cuộc sống”? Nhảm nhí, vớ vẩn!
Giáo dục có nghĩa là gia đình, nhà trường, xã hội phải biết tổ chức cuộc sống của trẻ em mang tính giáo dục. Cuộc sống của trẻ em là ăn uống, ngủ nghỉ, vệ sinh, vui chơi, giao tiếp, học hành, tập luyện… tất cả đều chứa đựng nội dung giáo dục; tức là hướng dẫn học sinh hiểu biết và làm những cái đó cho đúng, cho đẹp, thành thục theo những chuẩn mực văn minh. Giáo dục chính là cuộc sống của học sinh, còn “mang vào”, “đưa ra” gì nữa? Đừng ngụy biện nữa!
Giáo dục vừa bảo đảm cái chung phù hợp với mỗi lứa tuổi trẻ em, nhưng lại phải tôn trọng đặc điểm của mỗi cá nhân để mỗi em phát triển, lớn khôn trở thành chính mình. Mỗi cá nhân là một cá thể độc đáo, có một không hai (trừ những em sinh đôi cùng trứng). Bắt em này phải “phấn đấu” giống như em kia, không được sống cuộc sống thực là mình, đó là dã man, vô nhân đạo. Xin các vị phụ huynh và các nhà giáo nhớ cho!
Người lớn đừng có “mang” ý muốn chủ quan của mình áp đặt vào trẻ em, rồi bắt trẻ em “đưa” cái mình muốn vào “cuộc sống”. Hạnh phúc của trẻ em là, mình có thế nào (dù khuyết tật, kém thông minh) thì từ đó mình phát triển lên, thấy mình khôn lớn, trưởng thành, thích ứng được với đời sống xã hội đương thời, đó là hạnh phúc. Chưa hẳn một học sinh xuất sắc toàn diện, cháu ngoan Bác Hồ rồi sẽ có cuộc sống hạnh phúc hơn một học sinh trung bình toàn diện.
Giáo dục là đem lại hạnh phúc cho mỗi trẻ em. Dù con nhà nghèo hay trẻ khuyết tật, nhưng được giáo dục mà thấy mình được tôn trọng, được khôn lớn lên, trưởng thành lên. Đó là hạnh phúc của đứa trẻ.
Cầu xin các bậc cha mẹ, các nhà quản lý giáo dục, các nhà viết sách, các thầy, cô đừng vì cái tham, sân, si của người lớn mà làm khổ trẻ em! Xin đừng tước đoạt tuổi thơ của con em chúng ta!

MẤY TRAO ĐỔI NHỎ VỚI TIẾN SĨ NGUYỄN NGỌC CHU VỀ VẤN ĐỀ SÁCH GIÁO KHOA MỚI
THÁI HẠO/ FB/TD 17-10-2023

Trên trang Facebook cá nhân của mình, tiến sĩ Toán học Nguyễn Ngọc Chu có bài “Những sai lầm mang tính nguyên tắc trong biên soạn sách giáo khoa mới”. Xét thấy bài viết đề cập và mổ xẻ một vấn đề quan trọng trong bối cảnh nền giáo dục đang tròng trành này, với tư cách là một người quan tâm đến giáo dục, tôi cũng nhân đây mà mượn sự trao đổi với TS Chu để nói lên quan điểm của mình.
Bàn về sách giáo khoa mới, bài viết của TS Chu có 5 mục lớn, nhưng tựu trung có thể khái quát lại trong 3 nội dung: Thực trạng, nguyên nhân và đề xuất giải pháp. Tình thần của bài viết là Sách giáo khoa mới “bộc lộ những sai sót nghiêm trọng. Những sai sót ấy “là hậu quả tất yếu từ những sai lầm mang tính nguyên tắc về cách tiếp cận trong thiết lập cơ chế soạn SGK”.
Bài viết của tác giả khá dài, đề cập đến nhiều nội dung phong phú, vì thế sẽ bất tiện nếu bám theo từng câu chữ để trao đổi. Cho nên, tôi sẽ lảy ra những nội dung mà mình cho là cốt lõi, từ đó sẽ trình bày quan điểm về những vấn đề có liên quan cũng như nêu nhìn nhận chung của bản thân về nội dung được đề cập.
***
Trước tiên, cũng như TS Nguyễn Ngọc Chu, tôi thấy sách giáo khoa mới, ít nhất là trong môn Tiếng Việt và Ngữ văn vốn thuộc chuyên ngành của tôi, còn có những hạn chế, những ‘hạt sạn’. Điều này vừa khó tránh khỏi nhưng cũng là điều phải hết sức tránh và cần hoàn thiện ngay trong lần tái bản gần nhất.
Tuy nhiên, trong những trình bày của tác giả, có những điểm tôi thấy vẫn cần phải được xem xét lại một cách thận trọng hơn.
I. Về mấy nội dung cụ thể
1. Trong phần nêu hạn chế, TS Chu đưa ra nhận định đầu tiên: “Hạn chế chỉ một chương trình khung và một tổng chủ biên”. Ông viết “Quy định một bộ khung chương trình duy nhất cho giáo dục là ràng buộc tiến hoá. Tự do học thuật cần nhiều chương trình”.
Giáo dục Mỹ có bao nhiêu chương trình? Thực ra dùng chữ “chương trình” trong trường hợp này cũng không chính xác lắm vì Mỹ gọi là “Tiêu chuẩn học tập”, nghĩa là nó “lỏng lẻo” và đơn giản hơn “chương trình” nhiều. Ở Mỹ có bao nhiêu bang thì có bấy nhiêu Tiêu chuẩn học tập!
Tuy nhiên vấn đề không chỉ có thế. Đến năm 2012, sau suốt quá trình lịch sử độc lập về Tiêu chuẩn học tập giữa các bang, thì trước sự bộc lộ những bất cập quá lớn của nó, một “Tiêu chuẩn cốt lõi” đã ra đời. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ, hơn 40 bang đã theo cùng các tiêu chuẩn học tập trên toàn quốc, thay vì tự mình lập nên tiêu chuẩn riêng. Trong cuộc tranh cử tổng thống, ông D. Trump tuyên bố sẽ xóa bỏ cái Tiêu chuẩn cốt lõi này. Tuy nhiên ông đã không làm được điều đó trong suốt nhiệm kỳ của mình.
Nghĩa là gì? Ngay cả Hoa Kỳ, một quốc gia vốn theo nhiều “chương trình” nhưng đến hiện tại lại đi ngược để về chỗ một chương trình. Lý do là gì? Viết hết ra thì dài, nhưng tựu trung là nó chống được sự “thống trị” của các bang lớn lên vấn đề nội dung sách giáo khoa lẫn giá cả của chúng và nhiều vấn đề khác nữa.
Như vậy, đề xuất nhiều chương trình khung của TS Nguyễn Ngọc Chu cũng rất cần sự tham chiếu để thấy chiều đi của các nước văn minh.
2. Vấn đề hạn chế vì chỉ có một tổng chủ biên. Theo tôi, không một người nào có thẩm quyền chuyên môn trong cả mười mấy môn học, đó là chưa kể trong mỗi môn lại có những phân ngành mà không phải nhà khoa học nào cũng am tường tất cả. Cho nên, nếu muốn tìm một tổng chủ biên bách khoa, e khó hơn lên trời.
Vậy, nên giải quyết vấn đề này thế nào? Phân công nhiệm vụ. Tổng chủ biên không phải người sẽ can thiệp vào tri thức chuyên ngành của từng môn học, mà ông ta sẽ thiết kế cái khung chung nhất dựa trên các tri thức về Giáo dục học chứ không phải kiến thức chuyên ngành. Như vậy, nhà chuyên môn cần đặt vào vị trí tổng chủ biên là một nhà Giáo dục học chứ không phải một nhà bách khoa. Còn việc GS Nguyễn Minh Thuyết có đủ năng lực để đứng ở vị trí tổng chủ biên ấy hay không, tôi xin phép không lạm bàn.
3. Hạn chế thứ ba mà TS Chu nêu lên là “Nhìn vào chủ nhân của các bộ SGK và các tác giả SGK, thì biết đây là sân chơi khép kín của một nhóm người chơi. Đây là rào cản đối với tự do học thuật, mà hệ quả là không cho ra đời được những bộ SGK tốt”.
Sách giáo khoa mới được viết trên tinh thần xã hội hóa, nghĩa là do tư nhân soạn, tư nhân bán, còn Bộ GD-ĐT là người duyệt, quyết định chúng có được ra thị trường và được phép sử dụng hay không. Nghĩa là về mặt nguyên tắc thì đây không phải là sân chơi khép kín của một nhóm người.
Tôi không biết có vấn đề lợi ích nhóm gì trong các mối quan hệ này hay không, vì không có thông tin xác thực, tuy nhiên với tinh thần “Một chương trình, nhiều bộ sách” thì nó có nghĩa là mọi người đều có thể viết sách, chỉ cần sách được duyệt và một nhà xuất bản đồng ý hợp tác in. Duy chỉ có điều đáng tiếc nhất ở đây, là tinh thần “Một chương trình, nhiều bộ sách” này đã bị thực hiện không trọn vẹn, thay vì “nhiều” thì cuối cùng chỉ chốt lại có 3 bộ. Đó có lẽ là một thất bại hay một bước lùi trên con đường hiện đại hóa giáo dục Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, tôi vẫn hi vọng rằng, trong tương lai, cái chữ “nhiều” ấy sẽ được mang đúng ngữ nghĩa của nó, là mỗi nhà giáo đều có quyền viết và bán sách của mình, mọi vấn đề còn lại là do chất lượng sách và thị trường quyết định.
4. Hạn chế thứ tư mà tác giả nêu lên, là bởi vì cả một tập thể viết sách giáo khoa cho nên dẫn đến việc cho ra đời những bộ sách dở. Vì, theo ông, “Không có sách giáo khoa xuất sắc nào - được viết bởi 5-7 tác giả. Những bộ sách giáo khoa xuất sắc nhất - tuyệt đại đa số là của 1 tác giả, một số rất ít có 2 tác giả”.
Theo tôi, nhận định này của tác giả cần được kiểm chứng. Ví dụ, như ở Úc, thì thấy số sách giáo khoa do một tác giả độc lập biên soạn chiếm khá nhiều, tuy nhiên Sách vỡ lòng tập đọc cho lớp 1 của Nxb HMH được sử dụng ở nhiều học khu nước Mỹ có tới 15 tác giả.
Hình do gs Trần Quốc Anh cung cấp
Đáng chú ý hơn, cuốn Toán lớp 3 ở Nhật, theo một hình chụp danh sách tác giả, chúng tôi đếm được tới 94 cái tên! Cuốn Quốc văn cũng tương tự. Mà chắc hiếm ai nói giáo dục Nhật Bản hay sách giáo khoa của quốc gia này hỏng cả. Đáng tiếc là hiện chúng tôi chưa liên hệ lại với được với người cung cấp để xin ảnh trang bìa của sách, nên chưa tiện đưa hình lên. Chúng tôi sẽ cập nhật khi có thêm thông tin.
Một ví dụ khác, dẫn từ status của GS Hoàng Dũng, cuốn "World History: Patterns of Interaction" (Lịch sử Thế giới: Mô hình Tương tác). Đây là cuốn giáo khoa về lịch sử thế giới, dùng để dạy cho lớp 9 hoặc lớp 10 của bậc trung học phổ thông tại Hoa Kỳ, được sử dụng rất rộng rãi và được đánh giá cao.
Cuốn sách có năm tác giả. Ngoài ra, còn có các nhà tư vấn về nội dung (9 người), về đa văn hóa (5 người), một đội ngũ các thầy cô đọc góp ý (22 người); các thầy cô tư vấn (38 người), thậm chí huy động cả học sinh (27 em) đọc giúp.
Như thế, đội ngũ tham gia đông đảo và không chỉ là tác giả cuốn sách.
Tất nhiên, không thiếu những cuốn sách giáo khoa mà tác giả chỉ có một hai người. Nhưng những cuốn được viết bởi năm bảy tác giả không phải là không có. Và đánh giá chất lượng sách thì phải căn cứ vào nội dung của chính cuốn sách” (hết trích).
Cuốn "World History: Patterns of Interaction" (Lịch sử Thế giới: Mô hình Tương tác)
Xin dẫn them sách Toán của Mỹ. Hình dưới là hai cuốn, đều các nhóm tác giả lần lượt là 4 và 5 người biên soạn. Đó là chưa kể những thành phần khác không xuất hiện trên bìa sách.
Hình do thầy giáo dạy Toán-Mỹ Võ Quốc Vương cung cấp
Và nói đâu xa, bộ sách Quốc văn giáo khoa thư của Việt Nam do nhóm 4 tác giả Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thuận biên soạn, đến nay đã gần 100 năm nhưng vẫn được coi như mẫu mực.
Vậy, câu chuyện là phải xem lại cái logic giữa chất lượng sách giáo khoa và số lượng tác giả, ở đây rõ ràng nó không phải mối quan hệ nhân quả kiểu tỉ lệ nghịch. Mỗi lựa chọn đều có ưu và nhược riêng, vì thế, có lẽ vấn đề nằm ở chỗ khi làm việc nhóm thì sự lên kế hoạch, phân công và hợp tác là quan trọng, chứ không phải cứ mỗi người viết một cuốn thì tốt hơn nhiều người cùng viết!
5. Hạn chế thứ năm mà tác giả nêu lên là sự chi phối của lợi ích kinh tế. Tác giả viết “Tất cả các nguyên nhân trên đều chịu sự điều phối của nguyên nhân bao trùm là lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế mới là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Chính lợi ích kinh tế đã đưa SGK mới đến tình trạng hiện nay”. Quan điểm này của tác giả còn được lặp lại nhiều lần dưới những cách nói khác nhau, như “chừng nào còn đếm trang để tính kinh phí thì sách giáo khoa còn bị tiếp tục vẽ rồng vẽ rắn”.
Đầu tiên, cần nhắc lại một lần nữa rằng, sách giáo khoa cho Chương trình giáo dục mới (2018) là được biên soạn trên nguyên tắc xã hội hóa. Vì thế, ngoài vấn đề tri thức và giáo dục ra, nó tất yếu phải vận động theo quy luật thị trường, đó là vấn đề không cần bàn cãi.
Ở Mỹ sách giáo khoa có giá cả thế nào? Trung bình khoảng 100 đôla/quyển! So với Việt Nam khoảng trên dưới 20 nghìn đồng thì có nghĩa là sách giáo khoa ở Mỹ đắt gấp trăm lần. Và nó dày, rất dày, một cuốn sách Toán phổ thông có thể lên đến cả nghìn trang, gấp nhiều lần sách của Việt Nam.
Vậy khác nhau chỗ nào? Đắt đỏ như vậy nhưng may, học sinh Mỹ không phải tự bỏ tiền mua sách. Sách là do nhà trường/ địa phương mua và cho học sinh mượn. Sách để tại trường, không đem về nhà. Học sinh chỉ phải đền tiền nếu làm mất hoặc hỏng sách.
Ngành sách giáo khoa ở Mỹ là một ngành kinh doanh béo bở với thị trường như năm 2017, chỉ riêng sách giáo khoa từ mầm non đến hết lớp 12 đã tạo ra doanh thu 3,62 tỉ đôla cho các nhà xuất bản. Lưu ý, đó là sách cũ còn dùng lại được vì học sinh học xong thì trả lại, nghĩa là chỉ tính phần mua mới, mua thêm mỗi năm.
Còn về chuyện TS Chu cho rằng các tác giả Việt Nam cố tình viết cho dài để bán đắt thì cũng xin lưu ý một nguyên tắc chi trả nhuận bút như sau: Nhuận bút được trả theo số tiết chứ không theo số trang. Nghĩa là với cách trả tiền ấy, viết càng dài thì càng...dại, chứ chả được lợi lộc gì.
6. Về việc sửa văn của người khác. Đối với vấn đề này, tôi nghĩ tiện nhất có lẽ là tham khảo bài viết của GS Hoàng Dũng đã đăng trên FB cách đây 2 năm. Ông viết: “Thực tế cho thấy khó lòng tìm được một văn bản truyện (với thơ thì khác) vừa đúng với ý đồ biên soạn của các tác giả sách giáo khoa, vừa không quá khó đối với trình độ học sinh, lại vừa trong phạm vi độ dài quy định. Cho nên, đối với phần lớn các văn bản truyện, bộ sách giáo khoa nào cho cấp Tiểu học, nhất là các lớp đầu cấp, cũng phải cắt gọt, chỉnh sửa. Việc dạy nguyên bản (không chỉnh sửa) các văn bản truyện chỉ khả thi đối với sách giáo khoa cho cấp Trung học. Nếu không cắt gọt, chỉnh sửa thì các tác giả sách giáo khoa Tiểu học chỉ còn một cách: tự mình viết văn bản. Mà cách này chưa nói chuyện bất khả thi, chắc gì đã tốt hơn!” Tôi còn nói thêm: “Những ai đã quen thuộc với cách biên soạn sách giáo khoa đều hiểu như thế”.
Mời đọc bài đầy đủ của GS Hoàng Dũng ở đây.
Còn một số nội dung khác mà tôi cũng chưa hoàn toàn nhất trí với tác giả Nguyễn Ngọc Chu, tuy nhiên vì bài viết đã quá dài, nên xin tạm gác lại, hoặc nếu sau này có điều kiện sẽ trao đổi sau.
II. Mấy suy nghĩ về sách giáo khoa mới
1. Về nguyên tắc chung
Theo tôi, sách giáo khoa được biên soạn trên tinh thần xã hội hóa, đó là một bước đi đúng. Hãy để tư nhân làm sách, phá thế độc quyền, thị trường sẽ tự vận động theo quy luật cung cầu và quy luật giá trị khách quan vốn có của nó.
Điều này không những là một bài toán kinh tế hợp lý mà hơn thế, nó kích thích sáng tạo, tạo ra đa dạng sự lựa chọn cho người dạy và người học, giúp đào thải các bộ sách kém chất lượng theo đúng quy luật khách quan một khi sự cạnh tranh lành mạnh được đảm bảo.
Xin nói rộng thêm về cách làm của Mỹ đối với việc viết sách, bán sách, mua sách và dùng sách giáo khoa. Sách do nhiều nhà xuất bản tư nhân ấn hành, nội dung các sách thường không giống nhau – tất nhiên rồi, còn việc chọn in của tác giả/ nhóm tác giả nào đó là việc riêng giữa họ (NXB) và tác giả.
Sau khi sách đã “tràn ngập thị trường” thì các nhà trường hoặc hoặc sở/ hạt giáo dục địa phương sẽ tiến hành mua. Đầu tiên là sẽ có một nhóm chuyên gia đứng ra chọn, sau đó đưa lên cho công chúng xem, ai có ý kiến gì thì nêu ra, sau một thời gian ấn định nếu những sách ấy được chấp nhận thì nhà nước sẽ quyết định mua, và giao về cho nhà trường quản lý. Đến lượt mình, nhà trường sẽ cho học sinh mượn, học xong, cuối ngày để lại trường, hết năm thì trả lại.
Sách giáo khoa ở Mỹ “thay đổi xoành xoạch”, bởi như đã nói, trước 2012 thì mỗi tiểu bang có một bộ Tiêu chuẩn học tập riêng và các nhà xuất bản thì thay mới sách liên tục, vì thế các nhà trường cũng sẽ phải cập nhật. Sau 2012, dù đã có bộ Tiêu chuẩn cốt lõi nhưng không phải dành cho tất cả các môn học, và nó cũng không cứng nhắc cho nên sách cũng vẫn thay đổi luôn luôn.
Một điều nữa, là ở Mỹ, sách giáo khoa tuy đã có nhiều bộ nhưng chính nó lại cũng chỉ là một trong các loại học liệu rất đa dạng và phong phú được tập hợp trong thư viện. Và học sinh Mỹ có thể cả tháng trời không hề đụng tới sách giáo khoa!
Như vậy, cái mà chúng ta cần “bắt chước” các nước tiên tiến, là hãy để thị trường tự vận động, viết hay viết dở gì kệ họ, nhưng chọn là quyền của nhà nước/ nhà trường/ và người dân. Như vậy, vừa không phải nhọc công can thiệp vào việc viết lách của tư nhân mà vừa chọn được những bộ sách tốt do sự đa dạng của thị trường mang lại. Thứ nữa, là nhà nước nên đầu tư mua sách giáo khoa và cho học sinh mượn/ thuê với giá rẻ, không bắt các em phải tự bỏ tiền mua sách nữa. Làm như thế vừa đỡ lãng phí một nguồn lực quốc gia khổng lồ mỗi năm, vừa dạy được cho học sinh cách bảo quản và trân trọng sách vở, giúp giảm gánh nặng cho người dân.
2. Về những điểm sáng của sách giáo khoa mới
Tôi là người trực tiếp học chương trình giáo dục và sách giáo khoa cũ, lúc đi dạy thì dạy bộ sách giáo khoa mới hơn (bộ 2000), cho đến nay thì tôi đang được cầm bộ sách giáo khoa mới nhất trên tay. Xin có mấy nhận xét như sau.
Sách giáo khoa cũ (2000) trong “Yêu cầu cần đạt” ghi ngay trong sách Ngữ văn 10-tập Hai, bài đầu tiên, Phú sông Bạch Đằng: Qua những hoài niệm về quá khứ, thấy được niềm tự hào về truyền thống của dân tộc và tư tưởng nhân văn của tác giả với việc đề cao vai trò, vị trí của tác giả trong lịch sử; Nắm được đặc trưng cơ bản của thể phú về các mặt kết cấu, hình tượng nghệ thuật, lời văn, đồng thời thấy được những đặc sắc nghệ thuật của Phú sống Bạch Đằng (hết). “Thấy được”, “nắm được”, tức là chỉ có yêu cầu về mặt kiến thức. Cũng có nghĩa, nó lấy kiến thức làm mục tiêu gần như duy nhất của môn học.
Điều này có lẽ không còn phải bàn cãi nhiều nữa, đó là một sự lạc hậu và hạn chế quá lớn. Một lần có người muốn test trí thông minh của Einstein, và hỏi ông về vận tốc của âm thanh. Ông trả lời, Cái này có trong sách mà!
Ngày nay, với sự hỗ trợ của máy tính và mạng internet, dù kiến thức chưa bao giờ bị coi nhẹ nhưng nó đã tìm được một kho lưu trữ vạn năng và tiện lợi hơn rất nhiều so với việc chất tất cả vào đầu óc con người. Giáo dục, lúc này, cần dạy con người ta biết cách tư duy (chứ không phải chỉ ghi nhớ), và từ đó “phát triển phẩm chất và năng lực” như chương trình và sách giáo khoa 2018 đang đề ra và theo đuổi. Tôi cho rằng, cách đặt mục tiêu giáo dục của chương trình mới (được cụ thể qua sách giáo khoa) là đúng đắn, tiến bộ.
3. Về mấy điểm tiến bộ trong chương trình mới
Thứ nhất là Chương trình giáo dục phổ thông được xây dựng theo hướng mở. Nó không quy định quá chi tiết, để từ đó, tạo điều kiện cho giáo viên phát huy tính chủ động, sáng tạo trong giảng dạy. Chưa bao giờ giáo viên có nhiều “quyền bính” trên bục giảng như bây giờ.
Nếu trước kia giáo viên cơ bản chỉ là người thuộc bài trước học trò, đi dạy là nói lại sách giáo khoa như người truyền thánh chỉ thì nay họ đã có quyền thiết kế lại bài học, tự mình xây dựng ngữ liệu, được tự chủ trong kiểm tra đánh giá... Địa vị chuyên môn của người thầy được nâng lên chưa từng thấy.
Thứ hai, đối với môn Ngữ văn, việc thi ngữ liệu ngoài sách giáo khoa là một thay đổi lớn và có ý nghĩa nhiều mặt. Một khi việc học là để phát triển phẩm chất và năng lực (chứ không phải thuộc bài) thì thi bên ngoài sgk sẽ giúp đắc lực trong việc tiêu diệt văn mẫu, kích thích học thật, giá trị thật; tạo tiền đề cho con người suy nghĩ độc lập và hướng đến làm người tự do.
Chương trình được thiết kế theo các mạch chính tương ứng với các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe. Đây là mục tiêu và cách thức tổ chức đúng đắn, vì học môn Ngữ văn là học tiếng Việt, trong đó có tiếng Việt văn chương. Nếu còn sa đà vào việc ê a ngâm ngợi thơ phú thì môn học sẽ còn đi chệch hướng, biến môn Ngữ văn trở thành một môn bình văn, và đẩy đi xa hơn nữa là một môn phê bình văn học.
Còn nhiều lý do nữa khiến tôi ủng hộ chương trình này, nhưng tạm nêu ra chừng ấy đã. Tất nhiên vẫn có những hạn chế, những "hạt sạn" khó tránh khỏi, tuy nhiên trong hoàn cảnh trước mắt, chúng ta cần nắm lấy những mặt tích cực căn bản ấy, và tận dụng hết mức có thể đồng thời không ngừng hoàn thiện những hạn chế.
III. Tạm kết
Khi đi dạy, vì đã quá chán ngán với lối dạy - học cũ mang tính văn mẫu, thuộc lòng và trì trệ, tôi thúc đẩy và bắt tay vào thay đổi, nhưng cũng ngay lúc đó tôi nhận ra, có nhiều lực cản hơn tôi tưởng, mà trong đó chính giáo viên và ngay cả những người đang kêu gào đối mới mới là những người sợ hãi cái mới nhiều nhất. Rất khó để đẩy họ bước đi. Họ không có niềm tin, một phần; phần khác là lười; và phần lớn hơn là tìm cách chạy trốn.
Nhiều người nói phải “xóa bài làm lại”, tôi chẳng tin. Tôi chẳng tin khi cơ hội được trao vào tay và đang khá an toàn như thế này mà họ còn bỏ chạy thì trước một đống đổ nát, họ sẽ xông vào dọn dẹp và nhặt từng viên gạch để xây nên tòa nhà mới sao? Khó tin!
Chương trình giáo dục mới đang trao những cơ hội mới vào tay mỗi giáo viên và cũng là cơ hội cho cả xã hội, khước từ và quay lưng thì dễ, bắt tay vào với từng chút vôi vữa, gạch ngói, đó mới là việc khó làm. Nhưng phải làm, nếu muốn những đổi thay trong giá trị làm người, làm nghề.

Thái Hạo


https://www.facebook.com/profile.php?id=100059910855657&__cft__[0]=THAIHAO

Tiếng Dân News


https://www.facebook.com/tiengdanbao

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét