Doanh nghiệp và doanh nhân

Mỗi doanh nghiệp là một thiết chế kinh tế, với chức năng số một là sản xuất, kinh doanh để đáp ứng các nhu cầu đa dạng của con người. Xã hội càng hiện đại thì các loại hình doanh nghiệp càng trở nên phong phú, phạm vi hoạt động ngày càng rộng, và chức năng ngày càng đa dạng. 

Những người nắm quyền sở hữu, quản lý, điều hành doanh nghiệp được coi là các doanh nhân. Nguyên lý căn bản trong hoạt động của doanh nghiệp và doanh nhân là phải tạo ra giá trị thặng dư, hay “có lãi”.

Ở bất cứ xã hội nào và giai đoạn phát triển nào, cấu trúc xã hội phân chia theo tiêu chí nghề nghiệp đều phản ánh trình độ phát triển của mỗi nền kinh tế-xã hội. Việt Nam vốn là một nền kinh tế nông nghiệp, lực lượng lao động chủ yếu là “nông dân”. Hoạt động kinh doanh, thương mại kém phát triển khiến cho số lượng những người được coi là “doanh nhân” còn ít. 

Cũng vì thế, cho đến trước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, doanh nhân vẫn chưa được coi trọng cho nên được xếp ở vị trí cuối cùng trong số “tứ dân” gồm: “Sỹ, nông, công, thương”.

Trong gần một thế kỷ bị thực dân Pháp đô hộ, lực lượng doanh nhân người Việt cũng xuất hiện nhưng luôn bị chèn ép từ phía các doanh nhân đến từ chính quốc, cũng như chính quyền thuộc địa. 


Thủ tướng Phạm Minh Chính trao đổi với các doanh nhân tại buổi gặp mặt vào chiều 11/10/2023. Ảnh: VGP

Ba thập kỷ chiến tranh (1945-1975) và chủ trương xây dựng nền kinh tế XHCN theo mô hình cổ điển sau khi đất nước thống nhất (1975-1985) đã khiến các yếu tố kinh tế thị trường không thể phát triển, kèm với đó là sự vắng bóng của các “doanh nhân”. 

Bước sang thập niên thứ ba của thế kỷ 21, sự phát triển của lực lượng doanh nhân Việt Nam vẫn chưa như kỳ vọng. Theo thống kê, với gần 1 triệu doanh nghiệp (chủ yếu quy mô vừa và nhỏ), gần 30 nghìn hợp tác xã và trên 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, dự kiến đến năm 2025 sẽ có khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp. 

Như vậy, số lượng doanh nhân thực sự ở nước ta hiện nay chỉ chiểm tỷ lệ rất thấp trong cơ cấu dân số, khoảng 2 triệu người.

Từ năm 2011, Nghị quyết số 09-NQ/TW về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đã nhận định: đội ngũ doanh nhân nước ta “mới hình thành và phát triển, chưa có tích lũy nhiều về vốn, tri thức, công nghệ và kinh nghiệm, truyền thống kinh doanh”.

Thực tế nêu trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có vấn đề về nhận thức, như đã được chỉ ra trong Nghị quyết số 09-NQ/TW: “Ở một số nơi, sự quan tâm của cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đối với doanh nhân còn hạn chế, chưa có được sự thống nhất nhận thức về vai trò của doanh nhân trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”.

Vị thế của doanh nhân

Vị thế của cá nhân hay nhóm trong xã hội không chỉ phản ánh chỗ đứng của cá nhân/nhóm trong hệ thống phân tầng xã hội, mà còn cho thấy mức độ thừa nhận từ phía xã hội đối với vai trò, thể hiện qua những giá trị mà họ đóng góp cho cộng đồng. 

Tại các quốc gia thịnh vượng, lực lượng doanh nhân luôn được coi trọng, có vị thế cao, và doanh nhân trở thành một giá trị xã hội được nhiều người đề cao.

Theo quy luật phát triển trong lịch sử nhân loại, để cải thiện vị thế xã hội của doanh nhân thì không chỉ gia tăng số lượng, mà quan trọng hơn là phải tạo điều kiện để họ ngày càng đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước. 

Một điều kiện then chốt cho sự trưởng thành của lực lượng doanh nhân là phải thiết lập được nền kinh tế thị trường hiện đại, với những đặc trưng như: mở rộng tự do kinh tế, quyền tài sản được bảo vệ, cạnh tranh bình đẳng, quản lý Nhà nước công khai, minh bạch.

Ban hành ngày 10/10/2023, Nghị quyết số 41-NQ/TW tiếp tục khẳng định quan điểm coi trọng vị thế và vai trò của lực lượng doanh nhân nước ta trong thời kỳ mới. Doanh nhân được xác định là “một trong những lực lượng nòng cốt” trong tiến trình hiện thực hóa tầm nhìn lãnh đạo: đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. 

Để trở thành những “doanh nhân dân tộc”, đội ngũ doanh nhân Việt Nam cũng được yêu cầu phải “có tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, khát vọng cống hiến, thượng tôn pháp luật”, coi trọng những giá trị đạo đức, văn hóa và văn minh trong sản xuất, kinh doanh. 

Bên cạnh các định hướng giải pháp tiếp tục hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nghị quyết số 41-NQ/TW khẳng định những quan điểm ủng hộ tự do sản xuất, kinh doanh, giới hạn mức độ can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế như: “không hình sự hóa quan hệ kinh tế…bảo đảm khuôn khổ pháp luật ổn định, đồng bộ, thống nhất, minh bạch, bình đẳng”.

Được xác định là một chủ thể “nòng cốt” trong tiến trình phát triển đất nước, Nghị quyết số 41-NQ/TW khẳng định quan điểm tôn trọng và bảo vệ quyền, tiếng nói, lợi ích của đội ngũ doanh nhân. Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam được xác định là “tổ chức chính trị - xã hội – nghề nghiệp, đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của doanh nhân, doanh nghiệp”.

Nghị quyết số 41-NQ/TW cũng nêu ra những định hướng nhằm tiếp tục cải thiện vị thế của lực lượng doanh nhân trong các quá trình chính trị và thực thi chính sách, như: “tạo điều kiện để đội ngũ doanh nhân có đại diện tham gia trong các cơ quan dân cử, các tổ chức chính trị - xã hội, và các tổ chức hợp pháp khác có liên quan”. “Nhà nước nghiên cứu, tạo điều kiện cho các tổ chức đại diện doanh nhân tham gia cung cấp một số dịch vụ công phù hợp”.


Khái niệm “quản trị” trong văn kiện đại hội Đảng đã cho thấy tư duy mới.

Doanh nhân và quản trị quốc gia

Báo cáo chính trị của BCH TW khóa XII trình đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm và đột phá chiến lược của nhiệm kỳ là: “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả”. 

Việc sử dụng khái niệm “quản trị” trong văn kiện đại hội Đảng đã cho thấy tư duy mới, chuyển dần từ tư duy “quản lý” trong các xã hội truyền thống đến tư duy “quản trị” trong xã hội hiện đại.

Quản trị, có thể hiểu một cách khái quát, là cách thức “chèo lái, dẫn dắt” một cộng đồng xã hội, cách thức vận hành xã hội dựa trên sự dung hòa và giải quyết các lợi ích cạnh tranh nhau giữa các nhóm xã hội khác nhau. Khác với tư duy quản lý vốn chỉ nhấn mạnh vai trò trung tâm của chính quyền/Nhà nước, các cấu trúc quản trị hiện đại bao gồm cả các chủ thể, thể chế tồn tại bên ngoài khu vực Nhà nước.

Cụ thể hơn, các cấu trúc quản trị không chỉ bao gồm các thể chế chính thức như chính quyền, luật pháp, nguyên tắc & quy định hành chính… mà còn nhấn mạnh vị thế và vai trò của các chủ thể tư nhân, các tổ chức xã hội, tổ chức phi lợi nhuận, các định chế khu vực và quốc tế, cũng như tính tích cực và chủ động của mỗi công dân. Mối quan hệ giữa các chủ thể quản trị trong thế giới đương đại được hình thành theo chiều ngang, có tính chất đối tác, hợp tác, và bình đẳng hơn.

Trong một khung khổ quản trị đa chủ thể như vậy, lợi ích công không còn là cơ sở duy nhất cho các quyết định chính sách. Thay vào đó, các mong đợi lợi ích của các chủ thể quản trị có vai trò quan trọng đối với quy trình quản lý, điều hành nền kinh tế - xã hội. Các chính sách có xu hướng bị chi phối nhiều hơn bởi lợi ích của các chủ thể chứ không phải chỉ lợi ích công. 

Vì thế, thách thức lớn nhất trong quá trình xây dựng nền quản trị hiện đại là thiết lập các điều kiện thể chế vững chắc để các cam kết đa chủ thể có thể thực thi nghiêm túc. 

Quản trị quốc gia đề cập đến các hệ thống kinh tế - chính trị gắn với những không gian lãnh thổ có chủ quyền, quyền lực quản trị được phân bố cho các chủ thể cả trong và ngoài nhà nước. 

Như vậy, cấu trúc quản trị quốc gia bao gồm các cơ chế, quá trình, và thể chế qua đó công dân và các nhóm xã hội khớp nối các lợi ích đa dạng, thực thi các quyền pháp lý của họ, hoàn thành bổn phận của họ, và điều hòa sự khác biệt cả về quan điểm và lợi ích.

Hoạt động quản trị quốc gia là việc các chủ thể cùng thực thi quyền lực chính trị, kinh tế, và hành chính để giải quyết các vấn đề mang tính tập thể ở mọi cấp độ. Với tư duy quản trị, phát triển đội ngũ doanh nhân người Việt là nhu cầu tất yếu trong tiến trình hiện thực hóa mục tiêu “quốc gia phát triển” vào năm 2045.

TS Nguyễn Văn Đáng

Nghị quyết 41 và vị thế của doanh nhân trong quản trị quốc gia 

TẢN MẠN NGÀY DOANH NHÂN

ĐẬU ANH TUẤN*/KTSG 13-10-2023

(KTSG) – Sự phát triển bền vững của quốc gia phải dựa trên một nền kinh tế mạnh và tự chủ, trong đó trụ cột chính phải là lực lượng doanh nhân nội địa…

Cách đây gần 20 năm, chúng tôi bắt đầu thực hiện chương trình Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), một bộ chỉ số đánh giá chất lượng điều hành của chính quyền địa phương, xếp hạng các tỉnh, thành phố dựa trên kết quả điều tra doanh nghiệp. Tôi nhớ mãi lúc đó có một số lãnh đạo địa phương chất vấn tôi rằng doanh nghiệp tư nhân lấy tư cách gì, “biết gì” mà đánh giá chính quyền! Trong con mắt của nhiều lãnh đạo địa phương lúc đó thì đây là một thành phần không phải quan trọng. Họ cần chính quyền giúp đỡ hơn là chính quyền cần họ.

Còn khi đến trụ sở của nhiều cơ quan chính quyền, xe biển xanh của cơ quan nhà nước thì được qua cổng vào tận sảnh, xe biển trắng của doanh nghiệp tư nhân và người dân thì phải dừng ở ngoài cổng và tự đi bộ vào. Dường như có một thứ bậc rõ ràng, khoảng cách vô hình giữa chính quyền và doanh nghiệp tư nhân. Tại một hội nghị, trong bài trình bày tôi có nói về quan hệ đối tác giữa chính quyền và doanh nghiệp, giờ giải lao có một chủ doanh nghiệp ra bảo tôi rằng, làm gì có đối tác ở đây khi chính quyền và doanh nghiệp đâu có bình đẳng, ngang hàng, một bên (tự nhận) là cửa trên và một bên (bị định) là cửa dưới thì còn lâu mới có được quan hệ đối tác. Đó là quan hệ ban phát, xin cho, chạy chọt mà thôi!

Ở góc nhìn ngược lại, có lãnh đạo chính quyền địa phương cách đây nhiều năm tâm sự với tôi rằng cũng muốn hỗ trợ doanh nghiệp lắm nhưng có một tâm lý rất phổ biến là cứ lãnh đạo nào gặp gỡ thường xuyên doanh nghiệp thì thường phải đón nhận sự nghi ngờ từ nhiều người khác, từ cả hệ thống chính trị về quan hệ không trong sáng giữa lãnh đạo đó với giới tư nhân. Thế nên có tâm lý xa cách, ngại ngần!

Có một điều tra tại Việt Nam cách đây xấp xỉ 20 năm của Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC) về những nghề nghiệp mà người trẻ sẽ lựa chọn sau khi tốt nghiệp. Phần lớn thanh niên Việt Nam giai đoạn đó muốn vào làm trong bộ máy nhà nước, chỉ một phần rất nhỏ muốn làm ở khu vực tư nhân. Điều này có thể hiểu được khi thời đó doanh nhân trong con mắt báo chí, truyền thông, phim ảnh vẫn thường bị gọi là “con buôn”, “con phe”, “gian thương”. Trên các phim truyền hình chiếu hàng tối thì những chủ doanh nghiệp thường là nhân vật béo ú, có đầu hói, bên cạnh luôn là cô thư ký xinh đẹp và thường ông chủ doanh nghiệp này luôn có những ứng xử kém đạo đức…

Theo thời gian thì vai trò, vị trí của doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam đã cải thiện rất nhiều. Năm 2011 lần đầu tiên có Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về doanh nhân, năm 2017 lần đầu tiên Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết 10 về kinh tế tư nhân – những dấu mốc quan trọng. Doanh nghiệp, doanh nhân cũng được nhắc tên trong Hiến pháp 2013. Việt Nam đã có nhiều đạo luật quan trọng cho sự phát triển doanh nghiệp như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa… Giới doanh nghiệp, doanh nhân cũng đã có một ngày riêng của mình là ngày 13-10 hàng năm theo quyết định từ năm 2004 của Thủ tướng Phan Văn Khải.

Giờ thì tại nhiều nơi, không còn sự băn khoăn, nghi ngại về vai trò, tầm quan trọng của doanh nghiệp tư nhân nữa. Thay vì xin được gặp chính quyền như trước, đã có nhiều lãnh đạo tỉnh chủ động tìm đến, đặt lịch làm việc với các nhà đầu tư tư nhân để mời gọi đầu tư vào địa phương. Tôi để ý tại các hội thảo, hội nghị đối thoại với doanh nghiệp, doanh nhân ở rất nhiều tỉnh, thành phố, những vị trí ngồi trang trọng nhất đã được dành cho doanh nhân. Và không chỉ có thái độ trọng thị với những chủ doanh nghiệp lớn, nhiều địa phương còn xây dựng hẳn mô hình cà phê doanh nhân, nơi mà những chủ doanh nghiệp siêu nhỏ hay nhỏ có thể trực tiếp gặp mặt, đối thoại với những lãnh đạo cao nhất của địa phương.

Trong xây dựng chính sách hiện nay, việc thảo luận, tham vấn, lấy ý kiến doanh nghiệp đã được chú trọng hơn trước. Trong quá trình xây dựng rất nhiều dự thảo luật, nghị định, các ban soạn thảo đã thường xuyên tổ chức lấy ý kiến doanh nghiệp và các ý kiến từ khu vực này là những ý kiến quan trọng mà các ban soạn thảo phải cân nhắc, xem xét.

Tất nhiên, vẫn còn đó những định kiến, những khoảng cách về niềm tin của một số cán bộ nhà nước với doanh nghiệp, doanh nhân nhưng dường như đang trở thành thiểu số. Doanh nhân đã trở thành một bộ phận quan trọng của quá trình phát triển tại các địa phương cũng như quốc gia.

Lãnh đạo một địa phương miền núi phía Bắc chia sẻ với tôi rằng khi ông làm lãnh đạo huyện thì ông đã nhận ra một điều là phát triển doanh nghiệp không chỉ quan trọng ở các trung tâm kinh tế mà còn rất quan trọng với sự phát triển kinh tế, bảo vệ rừng và công tác an sinh xã hội tại các địa phương miền núi. Huyện miền núi nơi ông từng làm lãnh đạo có bà con dân tộc, trước đây mỗi năm địa phương phải dồn rất nhiều nguồn lực để xóa đói, giảm nghèo, để cấp cây giống, con giống… cho đồng bào có cái ăn, đặng kêu gọi họ giữ rừng. Thế nhưng, bằng việc chào mời một doanh nghiệp chế biến dược liệu đến làm ăn, mở nhà máy, sản phẩm địa phương có đầu ra ổn định, tự khắc bà con hồ hởi trồng dược liệu, tự mình khôi phục lại rất nhiều diện tích rừng, cuộc sống trở nên ổn định, sung túc hơn nhiều. Người dân có cái ăn, rừng được giữ, thậm chí phát triển hơn và Nhà nước cũng đỡ bao nhiêu nguồn lực… chu cấp như trước. Tôi tin chắc còn nhiều trường hợp như vậy.

Điều tôi đã thấy và tự hào là hiện nay nhiều doanh nhân Việt Nam có khát khao và mong muốn cháy bỏng không chỉ về sự phát triển của doanh nghiệp mình, không chỉ là lợi nhuận của riêng mình mà còn cho sự phát triển của đất nước, mang lại lợi ích cho cộng đồng.

Có một doanh nhân rất thành công, là chủ một tập đoàn có hàng chục công ty con nhưng nguyện dành phần lớn tài sản và thời gian của mình để phát triển Vovinam, một môn võ dân tộc như là một cách đưa giá trị văn hóa Việt Nam ra toàn thế giới. Dù tập đoàn này có tốc độ phát triển 56% bình quân hàng năm trong suốt 25 năm qua nhưng người đứng đầu lâu giờ vẫn ở trong căn nhà nhỏ trong hẻm tại một thành phố nhỏ và vẫn thường đi máy bay hạng phổ thông. Có doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực cơ khí rất trăn trở và đau đáu về việc phát triển đội tàu của Việt Nam, tự đặt câu hỏi tại sao một quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam mà không thể vươn ra biển, kinh doanh từ biển. Dù cá nhân từng vướng vào vòng lao lý từ việc sử dụng công nghệ mới của ngành đóng tàu, gặp nhiều khó khăn trong công việc kinh doanh tại địa phương nhưng những điều đó không làm doanh nhân này sờn chí, mỗi lần nói chuyện tôi lại thấy sự cháy bỏng nhiệt huyết trong anh. Tôi cũng rất xúc động khi có dịp đến một doanh nghiệp may nhỏ, chủ doanh nghiệp đã sử dụng hàng chục người lao động khuyết tật, đã đầu tư hẳn một không gian và tạo điều kiện để những người khuyết tật có công ăn việc làm ổn định… Cho dù việc này tiêu tốn của doanh nghiệp này khá nhiều thời gian, không mang lại lợi nhuận, thậm chí có giai đoạn ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh nhưng chị vẫn kiên định cho rằng đây là trách nhiệm mà mình phải làm cho xã hội…

Sự phát triển bền vững của quốc gia phải dựa trên một nền kinh tế mạnh và tự chủ, trong đó trụ cột chính phải là lực lượng doanh nhân nội địa. Tôi tin rằng cho dù thế giới có thay đổi như thế nào thì không ai khác, chính doanh nhân trong nước mới là người gắn bó ruột thịt với đất nước này. Tôi thích từ doanh nhân dân tộc. Từ này là sự ghép nối, thể hiện sự gắn bó và kết nối của hai từ: doanh nhân và dân tộc. Doanh nhân phát triển để dân tộc phát triển và ngược lại đất nước, dân tộc phải giữ được, thúc đẩy được sự phát triển của doanh nhân. Nó là một định hướng quan trọng để mỗi doanh nhân khi tự hào về mình thì không chỉ về thành tích kinh doanh mà còn vì những điều hữu ích và quý giá mình đã làm, đã cống hiến cho dân tộc và đất nước này.

(*) Phó tổng thư ký VCCI

Tản mạn ngày doanh nhân

CHỈ CẦN NGHỊ QUYẾT LÀ... 'NGANG TẦM THẾ GIỚI' 

TRÂN VĂN/VOA/TD 13-10-2023

Ông Nguyễn Phú Trọng vừa thay mặt Bộ Chính trị đảng CSVN ban hành Nghị quyết 41/NQ-TW. Nghị quyết này nhằm “xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới” và đang được ca ngợi là “món quà đặc biệt” cho doanh giới, là “luồng gió mới” cho kinh tế Việt Nam.
Theo nghị quyết vừa kể thì dù đã phát triển mạnh mẽ về số lượng và chất lượng nhưng đội ngũ doanh nhân Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới, phần lớn doanh nghiệp có quy mô nhỏ, năng lực kinh doanh, kỹ năng quản trị còn hạn chế. Số doanh nghiệp quy mô lớn, có năng lực dẫn dắt các chuỗi cung ứng còn ít. Mặt khác, một bộ phận doanh nhân còn vi phạm pháp luật, cấu kết với cán bộ suy thoái, chạy theo lợi ích cá nhân, gây thiệt hại cho nhà nước.
Do vậy, Bộ Chính trị xác định, đến 2030 Việt Nam phải phát triển đội ngũ doanh nhân có quy mô, năng lực và trình độ, nhiều doanh nghiệp đạt tầm khu vực, thế giới. Trong đó, một số doanh nghiệp lớn có vai trò dẫn dắt trong các ngành, lĩnh vực then chốt, chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu và làm chủ một số chuỗi giá trị công- nông nghiệp. Tới 2045, doanh nghiệp Việt Nam phải có vị thế, uy tín khu vực và quốc tế. Một bộ phận doanh nghiệp có thương hiệu thế giới, dẫn dắt một số chuỗi cung ứng, giá trị toàn cầu (1).
Với cung cách quản trị, điều hành quốc gia như đã biết, liệu hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam có thể tạo ra được đội ngũ doanh nhân là chủ những doanh nghiệp “đạt tầm khu vực, thế giới vào năm 2030” và là chủ “một bộ phận doanh nghiệp có thương hiệu thế giới, dẫn dắt một số chuỗi cung ứng có giá trị toàn cầu vào năm 2045”?
***
Trên thực tế, Nghị quyết 41/NQ-TW của Bộ Chính trị đảng CSVN khóa 13 chẳng có gì... mới. Cách nay 12 năm, vào tháng 12/2011, Bộ Chính trị đảng CSVN khóa 11 đã từng ban hành nghị quyết tương tự (Nghị quyết 09/NQ-TW nhằm “xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”). Cần lưu ý là Nghị quyết 09/NQ-TW cũng do ông Nguyễn Phú Trọng thay mặt Bộ Chính trị ký (2).
Sau 12 năm, “món quà đặc biệt” cho doanh giới, “luồng gió mới” cho kinh tế Việt Nam đã tạo ra kết quả được Bộ Chính trị đảng CSVN khóa 13 vừa ghi nhận: Phần lớn doanh nghiệp có quy mô nhỏ, năng lực kinh doanh, kỹ năng quản trị còn hạn chế. Số doanh nghiệp quy mô lớn, có năng lực dẫn dắt các chuỗi cung ứng còn ít. Mặt khác, một bộ phận doanh nhân còn vi phạm pháp luật, cấu kết với cán bộ suy thoái, chạy theo lợi ích cá nhân, gây thiệt hại cho nhà nước.
Cứ nhìn vào các đại án liên quan đến doanh nhân, doanh nghiệp như “giải cứu”, “Việt Á”, “FLC”,... thì sẽ nhận ra vì sao “đội ngũ doanh nhân Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới. Chỉ trích “một bộ phận doanh nhân còn vi phạm pháp luật, cấu kết với cán bộ suy thoái, chạy theo lợi ích cá nhân, gây thiệt hại cho nhà nước” đã không sòng phẳng lại còn thiếu lương thiện. Khó mà đếm xuể sau Nghị quyết 09/NQ-TW có bao nhiêu nghị quyết, văn bản lập pháp, văn bản lập quy, chỉ thị, công điện nữa của Quốc hội, chính phủ, tỉnh ủy, chính quyền các địa phương yêu cầu “xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho doanh nghiệp”...
Tuy nhiên tháng 4 vừa qua, khi Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2022, có tới, 72% doanh nhân xác định họ là nạn nhân nhũng nhiễu. Có lẽ không ngoa khi bảo rằng, không những không “xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”, Nghị quyết 09/NQ-TW còn góp phần khiến tình trạng nhũng nhiễu gia tăng (tỉ lệ doanh nghiệp xác nhận bị nhũng nhiễu qua PCI 2019 – 2020 là 54,1%, đã tăng lên 57,4% qua PCI 2021 và đến PCI 2022 vọt lên đến 72%) [3].
Năm 2016 – năm năm sau ngày Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 09/NQ-TW, trong Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam năm 2015, VCCI cảnh báo “quy mô doanh nghiệp đang nhỏ dần cho thấy dấu hiệu của sự phát triển thiếu bền vững. Số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động, giải thể sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế trong trung và dài hạn” (4). Mười năm sau Nghị quyết 09/NQ-TW, có thêm vô số doanh nghiệp... “siêu nhỏ” sánh duyên với “kinh tế thị trường theo định hướng XHCN” và các chuyên gia dự báo, “đến 2030, Việt Nam sẽ có khoảng 2,4 triệu doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ” (5). Vì sao? Theo các chuyên gia và viên chức hữu trách thì do “doanh nghiệp ngại lớn” (6)!
Sau Nghị quyết 09/NQ-TW, các Bộ Chính trị của đảng CSVN khóa 11, 12, 13 đã làm những gì để “xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”? Thực tế cho thấy, cách tổ chức – điều hành quốc gia vẫn thế, thậm chí còn tệ hơn, vừa rút và trút gần như toàn bộ nội lực cho khối doanh nghiệp nhà nước để tạo thêm các khoản thua lỗ, nợ nần tính bằng ngàn tỉ, ký kết hàng loạt hiệp định thương mại tự do mà không hề cân nhắc đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, không chỉ không được hỗ trợ, doanh nghiệp tư nhân không chết hàng loạt thì cũng ngắc ngoải vì bị chèn ép trong đối xử...
Chú thích

Tiếng Dân News

https://www.facebook.com/tiengdanbao?__cft__[0]=

NHÂN NGÀY 13...
LÊ HUYỀN ÁI MỸ/FB/TD 13-10-2023


Năm 2024, Nhật Bản sẽ chính thức lưu hành tờ giấy bạc có mệnh giá cao nhất (10.000 yen) in chân dung Shibusawa Eiichi - “ông tổ của chủ nghĩa tư bản Nhật Bản”.
Thành tựu mà Shibusawa Eiichi để lại cho hậu thế không phải chỉ là thiết lập hệ thống ngân hàng hiện đại, các công ty dẫn đường cho lĩnh vực dệt vải, đóng tàu, bảo hiểm, hàng hải… mà còn; và chính yếu là ông đề cao đạo đức trong kinh doanh. “Nhà kinh doanh phải là người yêu nước và có hoài bão đem năng lực cải tiến xã hội, góp phần vào việc xây dựng đất nước và làm cho đồng bào mình được ấm no”. (Theo giáo sư Trần Văn Thọ - Kinh tế Nhật Bản).
Tinh thần ấy được lớp hậu bối của Shibusawa kế thừa rực rỡ. Đó là một Matsushita Konosuke, người sáng lập và điều hành công ty tổng hợp điện và điện từ Matsushita - mà ngày nay được biết đến với tên gọi Panasonic. Khi bắt tay sản xuất chiếc tivi kiểu mới, ông tình cờ nghe bài Quốc tế ca - International phát trên đài, tìm hiểu thì được biết từ “nation” có nghĩa “dân tộc”, “quốc dân”, thế là ông đặt luôn loại thiết kế tivi mới là Nation với suy nghĩ sản phẩm làm ra trước hết phải phục vụ tốt nhất cho dân mình.
Đó là “cặp đôi” Ibuka Masaru và Morita Akio - cha đẻ của đế chế Sony mà ngay trong diễn từ sáng lập công ty năm 1946, Ibuka đã nêu rõ “cần dùng sức mạnh của công nghệ để góp phần vào việc phục hưng kinh tế cho Tổ quốc của chúng ta”.
Và “ông tổ thời trung hưng Toyota” - Toyoda Eiji đã hiện thực hóa tâm huyết “Công ty Toyota được lớn mạnh như hiện nay là nhờ ân huệ của môi trường xã hội. Do đó, điều quan trọng là công ty phải đáp đền ân huệ đó đối với xã hội”.
Sự đáp đền ấy là: Một người Nhật - mang tên Toyoda Eiji đã được đưa vào Điện Ô tô ở Mỹ, được tôn vinh, ghi nhớ vĩnh viễn là người có công phát triển ngành ô tô.
Những doanh nhân vĩ đại ấy, họ mang theo một tinh thần doanh nghiệp (bao gồm nỗ lực tìm kiếm công nghệ mới, thị trường mới; tích cực đầu tư, tinh thần mạo hiểm, sẵn sàng chịu đựng rủi ro; mưu tìm lợi nhuận chứ không mưu tìm đặc lợi - theo GS Trần Văn Thọ) và họ được lớn lên, nuôi dưỡng, kích thích và bảo vệ bởi một bộ máy quan chức nhà nước có tinh thần dân tộc cao, được đào tạo, tuyển chọn, sử dụng thực chất, minh bạch và đặc biệt liêm chính.
“Song song với một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh làm hạn chế những quyết định thiếu công minh của quan chức, sự giám sát, phê phán của xã hội đối với quan chức nhà nước rất chặt chẽ, nghiêm khắc làm cho quan chức nhà nước phải hết sức giữ gìn, thận trọng”.
Đến đây, lại nhớ cái cảnh cười ra nước mắt ở phiên tòa “giải kíu ngạo nghễ” hôm nào được tường thuật trên báo: “Bị cáo Dương thấy bị cáo Kiên quát tháo: 'Tôi biết các anh nộp 150 triệu mỗi chuyến cho anh Tuấn (bị cáo Vũ Anh Tuấn, Cục Quản lý XNC) thì các anh cũng nộp cho tôi 150 triệu đồng, các anh nộp cho Tuấn cả 300 triệu đồng rồi anh Tuấn đưa lại cho tôi hoặc đưa cho tôi rồi tôi đưa anh Tuấn. Nếu không nộp thì không được cấp phép'."
Đến đây lại lướt báo tung hoa ngày 13.10 năm nay, thấy con số mà VCCI vừa công bố “10% người Việt là doanh nhân. Nếu tính cả người làm kinh doanh, hộ kinh doanh cá thể, đội ngũ doanh nhân Việt Nam có thể đạt con số 10 triệu”.
Mừng đến lã chã nước mắt. Thật.
Đã thế, lại còn mong muốn Chính phủ "đã yêu thương doanh nghiệp thì yêu thương nhiều hơn, đã tháo gỡ khó khăn thì tháo gỡ hơn nữa, đã hạ thuế, phí thì hạ sâu hơn".
“Doanh nghiệp mong Chính phủ là điểm tựa những lúc 'tụt huyết áp'…"
Không đọc nữa.
Không đọc nổi.
Ảnh:
Các doanh nhân tham dự cuộc gặp với Thường trực Chính phủ chiều 11/10. Nguồn: VGP
Lật sách, bắt gặp mấy dòng này trong cuốn “Dấu ấn khơi dòng văn hóa Việt” của ông anh Lê Minh Quốc ghi lại, chuyện hơn trăm năm trước, doanh gia Gilbert Trần Chánh Chiếu, người sáng lập tập đoàn kinh tế đầu tiên ở Nam Kỳ, đã âm thầm ủng hộ chủ trương xuất dương cứu nước của cụ Phan Bội Châu. Ngày 20.6.1908, ông đích thân tiễn các du học sinh và dặn dò:
“Mai đây hừng đông các trò từ giã Nam Việt, xa cha mẹ thân bằng, cùng ba triệu đồng bào mà ra đi, trong ba triệu đồng bào ấy có nhiều người dốt nát và quê mùa lắm, vì không có thể đi học như các trò, các trò hằng ngày hãy nhớ đến sự ấy luôn… Phải ráng nên người xứng đáng với thế gian là học làm quan bác vật, học cơ xảo, học đại thương… chúc các trò đi thuận buồm xuôi gió, học hành cho mau thông thái, đặng về giúp quê hương”.
https://www.facebook.com/huyenaimy.le.9?__cft__[0]=

Tiếng Dân News

https://www.facebook.com/tiengdanbao?__cft__[0]=

THƯƠNG NHÂN Ư, CŨNG CHỈ LÀ CAM VẮT
(Nhân cái gọi là Ngày doanh nhân 13.10)
NGUYỄN THÔNG/ FB/TD 13-10-2023


KỲ 1
Xứ này có rất nhiều ngày vinh danh dành cho từng loại đối tượng. Tôi mày mò tìm tra trên Gu gồ, thấy chưa đâu lắm ngày này ngày nọ như nước An Nam ta. Một kiểu tự sướng và khoái màu mè hình thức. Chỉ những anh đội cái bệnh hình thức lên đầu đi ngênh ngang giữa đường mới khoái kiểu vậy. Ngày nghiếc cũng là thứ bệnh, bệnh nặng, cùng khối u với bệnh ưa cờ quạt, băng rôn, khẩu hiệu. Vừa lừa dối, vừa mị dân.
Kể từ năm 2004, ông Phan Văn Khải thay mặt nhà nước ký quyết định chọn ngày 13.10 là ngày doanh nhân Việt Nam. Tới nay đã tròn chẵn 19 năm bởi hôm nay là 13.10.
Thời xưa, lẩu lầu lâu rồi, các cụ xứ ta nhấn đến 4 tầng lớp-hạng người đáng để ý nhất trong xã hội, đời sống, là “sĩ nông công thương”. Khi cộng sản làm cách mạng, họ đặt ra mục đích “trí phú địa hào - đào tận gốc trốc tận rễ” (trí thức, phú nông, địa chủ, cường hào). Chả hiểu sao người ta lại thích số 4 đến thế.
Tới khi cướp được chính quyền, phe cách mạng đưa lên ban thờ nhóm ngôi vị độc tôn gồm “công nông binh”, chỉ 3 thành phần thôi, mãi về sau họ giật mình khi nghe thiên hạ, nhất là những anh có chữ có học eo xèo xì xào nên bổ sung “trí” cho thành bộ tứ “công nông binh trí” nhưng bắt trí đứng ở cuối hàng. Những người còn lại trong xã hội chỉ là công dân hạng 2, “bắt phong trần phải phong trần/ Cho thanh cao mới được phần thanh cao”, đâu có doanh diếc gì.
Có một giai đoạn rất dài dưới sự cai trị của nhà nước công nông, khi khai lý lịch mà khai thành phần gia đình hoặc cha mẹ là buôn bán, tiểu thương, thương nhân, kinh doanh, làm ăn cá nhân… thì không khác chi hạ dấu chấm hết cho tương lai mình. Trong con mắt nhà cai trị, đó là đối tượng, thành phần bóc lột, cùng duộc với bọn tư sản. Cộng sản cực kỳ ghét tư sản, nếu bắn nghìn viên đạn vào đầu thằng tư sản họ cũng bắn, cũng không tiếc đạn. Dẫn chứng chả khó kiếm.
Bà Nguyễn Thị Năm không phải chỉ là địa chủ mà còn là doanh nhân cực kỳ tài giỏi, nổi tiếng khắp trong nam ngoài bắc. Bà đã chết bởi những viên đạn thù của đám khố rách áo ôm nắm quyền, bởi chúng ghét người giàu.
Gần hơn nữa, thời thập niên 80 còn mấy ai tài giỏi hơn ông Nguyễn Văn Chẩn, được tôn là vua, vua lốp. Giỏi, lại biết làm giàu. Dù ông làm giàu một cách cực kỳ chính đáng, đáng được trân trọng, tôn vinh, nhưng những kẻ ngu muội đã hành ông lên bờ xuống ruộng, bắt giam ông hết đợt này đến lần khác, tịch thu tài sản, tịch biên kê biên nhà xưởng, máy móc.
Vua Chẩn tội gì? Không hề phản động, thù địch, chống đối gì sất. “Tội” của ông và gia đình là biết làm giàu, làm ra sản phẩm phục vụ đời sống. Tôi đâu dám kể đơn sai. Con cái ông còn sống sờ sờ ra kia, họ là nhân chứng.
Nếu ai muốn biết thêm, lên mạng tìm đọc ký sự “Vua lốp” của nhà văn Trần Huy Quang (người đã viết những tác phẩm lừng danh, trong đó có truyện ngắn “Linh nghiệm” và ký sự “Lời khai của một bị can”).
Làm văn, văn nghiệp phải như Trần Huy Quang, bênh vực con người, phụng sự công lý, đạo lý, chứ không phải xun xoe dùng chữ nghĩa ve vuốt nịnh bợ, viết thứ văn cờ xí khẩu hiệu nhan nhản trong làng văn xứ này.
KỲ 2
Trong suốt quá trình tồn tại và chiếm đoạt vị trí cai trị, từ khi nắm quyền tới nay, nhất là sau 1954 ở miền Bắc, rồi sau 1975 trên cả nước, chính quyền cộng sản chỉ chú trọng, đề cao công nông binh, gần như gạt hẳn tầng lớp, đội ngũ doanh nhân ra khỏi hệ thống của họ. Họ chủ trương làm ăn tập thể, như ông Lê Duẩn từng nhận định “làm chủ tập thể là phát minh vĩ đại”, công hữu hóa, bài trừ tư sản, diệt lối làm ăn tư hữu cá nhân… nên doanh nhân không có đất để tồn tại. Chỉ cần hé ra, lộ ra cách làm ăn riêng lẻ, dù hiệu quả tới mấy đi chăng nữa, cũng bị tiêu diệt.
Nói đâu xa, chính trong đội ngũ của họ, cái gì đi chệch hướng đường lối của chủ nghĩa xã hội đều phải lên đoạn đầu đài. Dù hợp tác xã nông nghiệp - biểu tượng của lối làm ăn tập thể ở nông thôn chỉ sau gần chục năm tồn tại đã ngày càng thể hiện sự lạc hậu, phi lý, cản trở quá trình phát triển nhưng họ vẫn ngu dốt, cố tình, nhắm mắt nhắm mũi duy trì. Chuyện ông Kim Ngọc (Kim Văn Nguộc) ở Vĩnh Phú xé rào đường lối, “chống lại trung ương”, tiến hành khoán hộ, làm thay đổi cơ bản cuộc sống nông dân, nông nghiệp, nông thôn theo hướng đi lên, thoát khỏi nghèo đói nhưng vẫn bị các đồng chí của ông, cấp trên ông hành lên bờ xuống ruộng thì đủ biết họ bảo thủ ngu dốt thế nào. Họ chỉ cần cái gọi là chủ nghĩa xã hội tồn tại, còn bất kỳ thứ nào khác đều không có giá trị.
Sau này, khi bị dồn vào chân tường, thấy rõ nếu không thay đổi thì sẽ chết, nói theo kiểu Fidel “đổi mới hay là chết”, họ lại quay ngoắt nhận công lao về mình, tụng ca đổi mới, như chính họ là người mở đường. Suốt nửa thế kỷ, đưa đất nước, xã hội, nền kinh tế lên bờ thì ít mà xuống ruộng thì nhiều, tận diệt biết bao tinh hoa làm ăn, cuối cùng họ lại thành người có công. Cứ mỗi lần tới dịp này dịp nọ ngày sinh tháng đẻ, ngày giỗ ngày cúng, họ lại tâng bốc những Lê Duẩn, Trường Chinh, Đỗ Mười… lên tận mây xanh, như đuốc soi đường, như cứu tinh, thánh sống.
Với lề thói làm ăn ấy, thì dạng xé rào Kim Ngọc hay Nguyễn Văn Chẩn vua lốp chỉ là tội đồ, chưa bị bắn như bà Nguyễn Thị Năm là may. Có thời gian rất dài, họ nhét vào đầu óc đám học trò chúng tôi những hình ảnh Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Trịnh Đình Kính… dù làm ăn rất tài giỏi nhưng bản chất là kẻ bóc lột, thậm chí còn quy thành tư sản mại bản cần phải đánh đổ, tiêu diệt. Nhà xưởng, cơ ngơi, tài sản của doanh nhân tư sản bị họ tịch thu, được gọi bằng cái tên mỹ miều “công hữu hóa”. Ở miền Bắc sau 1954 không một doanh nhân nào thoát khỏi tay họ trong cuộc càn quét tiêu diệt tàn bạo ấy.
Cứ tưởng sự ngu dốt, ấu trĩ của đám cai trị cầm quyền chỉ diễn ra nhất thời trong buổi mông muội, lúng túng ngơ ngác ban đầu, nhưng không phải, nó còn kéo dài, lặp đi lặp lại rất nhiều lần qua những cuộc “đánh tư sản”, “cải tạo công thương nghiệp” ở cả hai miền Nam, Bắc. Thủ phạm vẫn không ai khác, mà chính là họ. (còn tiếp)

Nguyễn Thông

https://www.facebook.com/profile.php?id=100024722048900&__cft__[0]=

Tiếng Dân News

https://www.facebook.com/tiengdanbao?__cft__[0]=