Thứ Hai, 9 tháng 10, 2023

20231010. KỶ NIỆM 69 NĂM TIẾP QUẢN THỦ ĐÔ

  ĐIỂM BÁO MẠNG


CUỘC HÀN HUYÊN ĐẶC BIỆT Ở  HỎA LÒ CỦA 2 NHÂN CHỨNG 

'GIẢI PHÓNG THỦ ĐÔ'

TRẦN THƯỜNG/VNN 10-10-2023

Sáng mùa thu tháng 10, trong tiết trời nắng vàng hiu hiu gió, người đàn ông mái tóc bạc trắng, lưng còng, chậm rãi bước từ căn nhà nhỏ nằm sâu trên phố Hàng Bài (Hà Nội) ra đường lớn bắt xe đến nhà tù Hỏa Lò. Tại nơi từng là “địa ngục trần gian” giữa Thủ đô, ông Nguyễn Đình Tân (87 tuổi, Hoàn Kiếm, Hà Nội) tay bắt mặt mừng gặp lại những người bạn, người đồng đội từng tham gia đoàn học sinh, sinh viên kháng chiến Hà Nội cách đây hơn 70 năm.

Nhà tù Hỏa Lò còn trở thành nơi lưu giữ đặc biệt, ông thường xuyên lui tới mỗi khi có dịp kỷ niệm hay trưng bày triển lãm. Trong thâm tâm, đây như là “trường học cách mạng” lưu giữ về nơi mà người anh trai của ông – liệt sĩ Nguyễn Sỹ Vân cũng từng bị giam cầm ở đây.

               Ông Nguyễn Đình Tân

Ngay từ khi còn là học sinh cấp 2 trường Nguyễn Trãi rồi lên cấp 3 học Chu Văn An, ông Nguyễn Đình Tân đã tham gia những hoạt động sôi nổi của Đoàn học sinh kháng chiến Hà Nội như rải truyền đơn, tổ chức bãi khóa phản đối việc bắt bớ học sinh, tổ chức lễ truy điệu học sinh Trần Văn Ơn bị kẻ địch sát hại trên đường phố Sài Gòn…

Ông Tân có anh trai là liệt sĩ Nguyễn Sỹ Vân từng bị giam cầm ở nhà tù Hỏa Lò. Chiến sĩ Nguyễn Sỹ Vân cùng với 2 đồng đội khác đã bơi ra Tháp Rùa cắm lá cờ đỏ sao vàng năm 1948 nhân kỷ niệm sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lần đầu tiên cờ Tổ quốc hiên ngang tung bay giữa lòng Hà Nội kể từ ngày Trung đoàn Thủ đô rút lên chiến khu, đã trở thành sự kiện gây tiếng vang lớn.

Những ngày chờ đoàn quân trở về là những ngày vô cùng rộn ràng, bởi người dân Hà Nội đã trong ách kìm kẹp của thực dân Pháp suốt 80 năm. Những lệnh giới nghiêm rồi những cuộc vây bắt, đàn áp khiến bao năm Hà Nội lặng lẽ, phố xá buồn bã, nhà nhà đóng cửa. Nhưng khi liên tiếp đón nhận tin chiến thắng từ chiến trường Điện Biên Phủ, từ bàn ngoại giao, không khí trong lòng Thủ đô đã náo nức niềm tin, hy vọng, mong chờ ngày những người con anh hùng của Hà Nội.


Người dân tập trung ở ngã năm Bờ Hồ (nay là quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục) chờ đoàn quân tiến về. Ảnh tư liệu

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, đúng theo Hiệp định Geneva, Pháp phải rút quân khỏi Hà Nội và các thành phố của Việt Nam. Đầu tháng 10/1954, đội hành chính và đội trật tự đã bàn giao các cơ quan công sở, công trình công cộng. Ngày 8/10, tiểu đoàn Bình Ca là đơn vị đầu tiên quay trở về thủ đô. 214 chiến sĩ đã cùng canh gác với binh lính Pháp tại 35 địa điểm trọng yếu như: Dinh Quốc trưởng (nay là Phủ Chủ tịch), tòa án Hà Nội (nay là TANDTC), Nha Công an Bắc Việt (nay là trụ sở Sở Công an TP), nhà tù Hỏa Lò…

CẢ HÀ NỘI HÂN HOAN NIỀM VUI NGÀY GIẢI PHÓNG

Ông Tân kể lại, từ trước đó vào các ngày 7-8-9/10 Thủ đô đã “rậm rịch” với các quân đoàn của ta dần dần tiến vào thành phố. “Những đoàn quân này vào những địa điểm quan trọng nhưng vẫn án binh chưa phải chính thức, nhiều người dân háo hức quá mang cờ ra vẫy chào đón ở Phố Huế, Hàng Bài. Sau đó các chiến sĩ đã phải mời bà con cất cờ đi vì vẫn chưa đến thời điểm, có thể gây ra xáo trộn”, ông Tân nhớ lại.

16h ngày 9/10, tốp lính Pháp cuối cùng rút qua cầu Long Biên, quân dân ta hoàn toàn kiểm soát thành phố. Ngày 10/10, Trung đoàn Thủ đô dẫn đầu trong Đại đoàn quân Tiên phong 308 tiếp quản Thủ đô.

Thời khắc đó, ông Tân còn là một thanh niên 18 tuổi hòa trong dòng người đón đoàn quân chiến thắng trở về.


Thiếu nữ Hà Nội chào đón Thiếu tướng Vương Thừa Vũ bên hồ Hoàn Kiếm. Ảnh tư liệu

5h sáng ngày 10/10/1954, lệnh giới nghiêm vừa hết, cả thành phố Hà Nội náo nhiệt hẳn lên. Nhà thờ mở cửa chào đón ngày mới, phố xá được trang điểm thêm bằng cờ, biểu ngữ, cổng chào. Mọi người mặc bộ quần áo đẹp nhất, đường phố sạch sẽ tinh tươm đón đoàn quân chiến thắng trở về. Cờ đỏ sao vàng, băng rôn, khẩu hiệu giăng khắp phố phường. Cả Hà Nội hân hoan trong niềm vui giải phóng.

8h sáng, các đơn vị trong Đại đoàn 308 quân phục chỉnh tề, huy hiệu “Chiến sĩ Điện Biên Phủ” cài trên ngực áo trở về trong sự đón mừng nồng nhiệt của đồng bào. “Ngày đó không ai bảo ai, tất thảy người Hà Nội đều đổ ra đường, học sinh sinh viên thì mặc chỉnh tề, chị em phụ nữ trường Trưng Vương và nhiều trường mặc áo dài, người ôm hoa, người ôm đàn mang ra kéo các bài hát kháng chiến. Khung cảnh rầm rộ, phấn khởi, vui lắm, không thể tưởng tượng được. Nhìn thấy đoàn của Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, mọi người chạy ào ra tặng hoa”, ông Tân xúc động kể.

Dẫn đầu đội hình cơ giới là đoàn xe com-măng-ca mui trần. Trên xe đầu tiên, Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Tư lệnh Đại đoàn 308, Chủ tịch Ủy ban Quân chính TP, giơ tay chào đồng bào. Tiếp đó là xe của bác sĩ Trần Duy Hưng, Phó Chủ tịch Ủy ban Quân chính, rồi đến xe của Bộ Tư lệnh Đại đoàn.

Sau đoàn Molotova chở bộ binh là đội hình pháo binh. Những khẩu đội pháo cao xạ nòng súng vươn thẳng hướng lên trời cao với các chiến sĩ ngồi nghiêm trang trên mâm pháo.


Thiếu tướng Vương Thừa Vũ và bác sĩ Trần Duy Hưng cùng toàn quân nghiêm trang làm lễ chào cờ. Ảnh tư liệu

Đoàn quân đi đến đâu là tiếng reo hò nổi lên như sóng dậy. Đường phố rực màu cờ, chật ních người. Những gương mặt rạng rỡ, nụ cười, tay vẫy và cả những giọt lệ.

Buổi chiều là lễ chào cờ lịch sử. Lá cờ chiến thắng của Tổ quốc tung bay trên đỉnh Cột Cờ. Đúng 15h, còi Nhà hát Lớn nổi lên một hồi dài, toàn thành phố hướng về thành Hoàng Diệu.

Trong đoàn quân trở về Thủ đô năm đó có bà Đỗ Hồng Phấn, bà vẫn không sao quên được những ký ức ngày tháng 10 lịch sử. Tại nhà tù Hỏa Lò, bà Phấn và ông Tân cùng hàn huyên lại những câu chuyện xưa cũ cách đây 69 năm.

Cô nữ sinh Đỗ Hồng Phấn trường Chu Văn An khi đó, tuy trẻ tuổi, dáng người nhỏ nhắn nhưng vô cùng gan dạ, hăng hái hoạt động tham gia vào các phong trào như: Đưa thư vận động bãi khóa, in truyền đơn, ném truyền đơn và hoạt động tích cực trong đoàn học sinh kháng chiến, và còn phụ trách một tổ nữ sinh trường Chu Văn An.

Tuy là học lớp 2B đệ nhị, chuyên khoa toán trường Chu Văn An (lớp 11 trung học phổ thông ngày nay) nhưng bà đã được Thành Đoàn tin tưởng phân công làm Bí thư Chi đoàn học sinh Kháng chiến Trường nữ sinh Trưng Vương, vì bà từng là cựu học sinh của trường và lúc này trường Trưng Vương chỉ có cấp cơ sở, học sinh còn ít tuổi cần có người hướng dẫn.


Bà Đỗ Hồng Phấn.

Nhân sự kiện chiến dịch Biên Giới giành thắng lợi vang dội, bà đã có sáng kiến vận động các bạn học, treo một lá cờ đỏ sao vàng to bằng vải trong khuôn viên trường Trưng Vương, kết hợp ném truyền đơn và đốt pháo ăn mừng. Khi thấy lá cờ đỏ sao vàng tung bay, cả sân trường lúc bấy giờ đồng thanh lên hát bài Tiến Quân Ca. Biết tin, thực dân Pháp ngay lập tức ra tay khủng bố, bắt hàng loạt nữ sinh tại trường.

Bà Đỗ Hồng Phấn bị chúng bắt, đánh đập, tra tấn bắt bà phải khai ra những người liên quan đến phong trào, nhưng bà quyết giữ vững ý chí, kiên quyết không khai.

Để bảo toàn khí tiết của mình và không muốn liên lụy đến bất cứ ai, khi bị giam vào xà lim, bà đã đập vỡ chiếc bát ăn cơm, viết lên tường xà lim bốn khẩu hiệu: Cách mạng vô sản thế giới thành công muôn năm! Kháng chiến thành công muôn năm! Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm! Rồi sau đó tự cắt mạch máu tay của mình.

Sau hơn 2 tháng bị giam tại nhà tù Hỏa Lò, thực dân Pháp đã trả tự do cho bà vào ngày 21/1/1951, do bà chưa đủ 18 tuổi. Ngay sau khi được thả, bà đã tìm cách liên lạc và quay trở lại tổ chức Đoàn và được gọi ra vùng tự do kháng chiến. Tháng 8/1952, Thành đoàn gọi bà ra vùng tự do.

Sau ngày giải phóng Thủ đô 10/10/1954, bà trở về với phong trào và trường học Hà Nội.

Bài viết có sử dụng tư liệu của Di tích lịch sử Nhà tù Hỏa Lò

Cuộc hàn huyên đặc biệt ở Hỏa Lò của 2 nhân chứng 'giải phóng Thủ đô'


CẦN BIẾT LẮNG NGHE VÀ SỬA SAI 

NGUYỄN THÔNG/ FB/TD 10-10-2023


Bác sĩ Trần Duy Hưng, Chủ tịch Ủy ban Hành chính Hà Nội trở về tiếp quản thủ đô trong sự chào đón nồng nhiệt của dân chúng, dĩ nhiên không một tiếng súng, và không phải là hành vi giải phóng - Nguồn: Tư liệu internet

Cách nay 69 năm, ngày 10.10.1954, những người lính Pháp cuối cùng xếp hàng ngay ngắn rời khỏi Hà Nội, theo lối cầu Long Biên do chính họ xây dựng, để về Hải Phòng tập kết 300 ngày chờ rút hết về nước. Nay ở bãi biển Đồ Sơn vẫn còn di tích bến Nghiêng, nơi quân Pháp xuống tàu hồi hương.
Pháp rút, quân ta vào tiếp quản thủ đô Hà Nội trong sự chào đón của nhân dân. Đoàn xe chở tướng Vương Thừa Vũ - Chủ tịch Ủy ban quân chính (quân quản) Hà Nội, bác sĩ Trần Duy Hưng - Chủ tịch Ủy ban hành chính Hà Nội đã cùng bộ đội vào nội thành qua 5 cửa ô một cách hòa bình, không một tiếng súng nổ nào. Nhạc sĩ Nguyễn Thành và thi sĩ Tạ Hữu Yên viết "Khi đoàn quân tiến về mùa thu ấy/Nhịp trống rung ba mươi sáu phố phường". Trống vang như ngày hội lớn chứ đâu phải vào để đánh nhau. Ngày 10.10 được lịch sử gọi bằng cái tên chính xác với thực tế, “ngày tiếp quản thủ đô”. Lứa chúng tôi khi học phổ thông (từ lớp 1 tới lớp 10) sách giáo khoa và lời thầy cô, lời cán bộ đều ghi rõ, nói rõ là “ngày tiếp quản thủ đô 10.10”.
Chả hiểu do đâu, và cũng không biết từ khi nào, người ta, vốn quen xuyên tạc lịch sử, kiêu ngạo cộng sản, háo thắng, ngạo nghễ, đã đổi lát cắt lịch sử ấy thành “ngày giải phóng thủ đô”, “ngày thủ đô giải phóng”. Cả Hải Phòng cũng vậy, khi quân Pháp ở đó 300 ngày kể từ khi đình chiến để lần lượt rút về nước, người dân sống chung với những kẻ trước kia là quân xâm lược trong gần 1 năm hòa bình, không hề gây gổ. Làng tôi là nơi tạm trú kiểu KT3 của gần tiểu đoàn Pháp, họ đóng ở đình làng và lập doanh trại gần đó, họ khoan giếng máy lấy nước dùng, cho cả dân dùng, khi kéo nhau ra bến Nghiêng Đồ Sơn còn bàn giao đầy đủ, không phá bỏ thứ gì. Thày tôi kể, dân làng giao dịch buôn bán hàng tạp hóa với họ, họ dạy trẻ con tiếng Pháp, cho nông dân những hạt giống rau quả su hào, súp lơ, cà chua… từ Pháp gửi sang để bà con mình trồng trọt. Nói chung là chả đánh nhau, chẳng giải phóng giải phiếc gì. Nhưng rồi cũng theo trào lưu mới tự sướng/xuyên tạc lịch sử, người ta cũng gọi ngày 13.5.1955 là “ngày Hải Phòng giải phóng”, “ngày giải phóng Hải Phòng”, mỗi năm đến ngày này cứ um cả lên. Ông anh tôi có lần bảo, có đánh nhau đếch đâu mà giải mí chả phóng.
Giải phóng là gì? Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ do GS Hoàng Phê chủ biên, giải phóng là hành động làm cho được tự do, cho thoát khỏi tình trạng bị nước ngoài chiếm đóng; giải thoát con người bị kiềm chế, giam cầm. Giải phóng hoàn toàn khác sự tiếp quản, nhận những thứ được bàn giao. Cũng không thể lý sự rằng trước đó quân ta đã đánh nhau, đã chiến thắng, đã có trận Điện Biên nên Pháp bị thua, ta tiến vào thủ đô thì cũng là giải phóng. Vậy thì nên xóa những sự kiện lịch sử, như Hội nghị Geneve (Geneva), hội nghị Trung Giã ra khỏi biên niên sử dù nó có ý nghĩa lập lại hòa bình, chấm dứt đánh nhau.
Vẫn biết việc tôn trọng lịch sử khách quan và việc thực hiện ý đồ chính trị luôn chỏi nhau, luôn xung khắc, thậm chí lịch sử chịu thua trong những chặng nhất định, nhưng không thể vì thế mà cứ im lặng mãi. Hỡi các nhà viết sử mậu dịch, các vị chắc đều biết tích anh em nhà Thái Sử Bá thời Chiến quốc chép sử thế nào. Nhà viết sử chân chính, chết còn không sợ, vậy các vị sợ cái gì mà không dám lên tiếng, hay là nghề sử chỉ để ấm thân mình.
KỲ 2
Ở phần 1, nhân việc cả hệ thống chính trị, trong đó nhất là khi tuyên giáo, truyền thông, báo đài mậu dịch ra rả kỷ niệm “ngày giải phóng thủ đô 10.10”, nhà cháu đề nghị cần bỏ ngay cái thói tự sướng và cố tình làm sai lệch lịch sử ấy, cần gọi lại cho đúng thực tế lịch sử khách quan như nó diễn ra, là “ngày tiếp quản thủ đô”. Vậy nhưng vẫn có những dư luận viên nhảy vào cãi lấy được. Điều này không có gì lạ, bởi họ ăn cây nào rào cây ấy, cứ cãi, cứ hung hăng, chả cần đúng sai.
Chuyện đúng-sai trong cuộc sống, trong xã hội đầy, nơi nào, thời nào cũng thế. Nó là một cặp phạm trù, như nhiều cặp khác, chẳng hạn cao-thấp, hay-dở, tốt-xấu, trắng-đen, vui-buồn... Đời thế mới sinh động, cựa quậy, phát triển. Mỗi người một kiểu nhìn nhận, suy nghĩ, chả ai ép buộc được ai. Bách nhân bách tính, các cụ xưa bảo vậy. Chỉ có điều sai thì phải sửa, nhất là những điều sai lè lè. Thói cố chấp của nhà cai trị đã biến nhiều chuyện thành trò cười, sự khinh bỉ, xem thường.
Xứ này nhiều chuyện như thế. Tôi chỉ nhặt ra vài ví dụ.
Giới lãnh đạo nước ta, đặc biệt là ông to bà nhớn, rất khoái trồng cây cụ cây già, dân gian gọi là cổ thụ. Trồng cây là điều tốt, làm cho cuộc sống xanh mát hơn (đúng nghĩa đen), sinh sắc hơn. Chẳng ai hơi đâu chê nếu cây trồng là cây non, cây nhỏ. Đằng này họ trồng như phá, như hại cây giết cây. Bứng cái cây to cả vòng tay ôm, tuổi vài chục năm, chặt trụi rễ, từ chỗ này cắm vào chỗ khác, cũng gọi là trồng. Nói trắng phớ, diễn là chính, phá hoại. Hầu như ai cũng thấy điều đó, kể cả đứa trẻ con. Riêng họ thì không, họ cứ diễn, cứ trồng phá, năm này qua năm khác, rất chướng. Từ “nhà vua” trở xuống đám quan chức địa phương, rất lì lợm, khó bảo, quyết không nhận sai, không chịu sửa. Họ ra rả kêu gào học tập làm theo cụ Hồ (một tấm gương về trồng cây) nhưng nói một đằng, làm một nẻo.
Chuyện nữa, bệnh hình thức, hoang phí. Nhìn ra thế giới, không nơi đâu sính cờ quạt, băng rôn, khẩu hiệu, lễ lạt như xứ này, có khi còn hơn cả Triều Tiên, Cuba, Trung Quốc những người anh em bị bệnh mạn tính. Quanh năm suốt tháng đỏ ối phố phường lẫn làng quê. Ném vào trò này biết bao nhiêu tiền của, “trăm nghìn đổ một trận cười như không”. Thói son phấn, trang điểm chỉ tô được cái vẻ lừa dối bên ngoài, che giấu thực chất. Hãy xem, những nước văn minh, hiện đại, dân chủ, dân sung sướng hạnh phúc, có nước nào mê cờ quạt vậy không.
Chuyện lớn chuyện nhỏ sai vô thiên khênh, lớn như đường lối chính sách đang dắt cả dân tộc lao vào, mờ mịt đi không biết bao giờ mới tới nơi (họ đang có quyền, luôn tự cho mình đúng nên khỏi bàn ở đây), nhỏ như cái câu “Sa Vĩ - địa đầu tổ quốc” trên lầu xi măng biển Trà Cổ, Quảng Ninh (trong khi địa đầu phải là Lũng Cú, Hà Giang, cực bắc của đất nước, chứ Sa Vĩ chỉ là cái đuôi (vĩ) cát (sa) của cực ven biển phía bắc), họ hoặc ngu dốt, hoặc cố tình, cứ để ngạo nghễ ngứa mắt… Hoặc họ dạy trẻ con đất nước hình chữ S. Ét đâu mà ét, thế Hoàng Sa, Trường Sa đem bỏ cho ai…
“Thôi kể làm sao hết được anh/Buồn vui muôn nỗi của quê mình”, ông Lành từng viết vậy. Tôi chỉ nhặt tạm ra đây để nói với nhà cai trị rằng, điều gì đúng hẳn có lợi cho dân cho nước cứ thế làm, nhưng thứ gì sai, sai rõ ràng, dân phản ứng chê cười thì hãy sửa, cúi đầu nhận lỗi trước dân. Cũng là cách thực hiện lời ông Tổng bí thư hôm tiếp xúc cử tri "Cái gì đúng phải bảo vệ. Cái gì làm không đúng phải phản đối, đấu tranh", hoặc lời ông trẻ Thưởng gặp các nhà văn lão thành hôm 30.9 "Nhân dân, đất nước đang cần tiếng nói của lòng trung thực và sự quả cảm".
Đâu có cái thói điều chi mình làm cũng đúng, không sai. Họa có là thánh.

https://www.facebook.com/profile.php?id=100024722048900&__cft__[0]=NGUYENTHONG
https://www.facebook.com/tiengdanbao

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét