Thứ Tư, 15 tháng 2, 2023

20230216. ĐBQH LÊ THANH VÂN BÀN VỀ CẢI CÁCH THỂ CHẾ

  ĐIỂM BÁO MẠNG

ĐÂU LÀ TRÁCH NHIỆM TẬP THỂ, ĐÂU LÀ TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN ?

TƯ GIANG, LAN ANH  th /TVN 13-2-2023

Chỉ trong lĩnh vực kinh tế, ba vấn đề là chế độ sở hữu, bảo vệ tài sản, bảo vệ hợp đồng đang là những vấn đề cốt tử.

LTSNhiều vụ án liên quan đến các quan chức, công chức hiện nay đặt ra vấn đề, đâu là các cá nhân trục lợi, đâu là những lỗ hổng pháp lý, những điều gì cần khắc phục. Tuần Việt Nam trò chuyện với đại biểu Quốc hội Lê Thanh Vân xung quanh những vấn đề này.

Chế độ sở hữu, bảo vệ tài sản, bảo vệ hợp đồng đều rất yếu và kém tường minh

Thưa ông, nút thắt về thể chế đã được xác định là một trong ba yếu kém cơ bản, cản trở sự phát triển và cần tháo gỡ từ hơn thập kỷ trước. Về góc độ thể chế kinh tế, ông nhìn nhận nút thắt này ra sao khi liên hệ với thực tiễn?

ĐBQH Lê Thanh Vân: Thể chế là nền tảng để vận hành kinh tế xã hội. Mỗi nhà nước đều đặt ra hiến pháp như nền tảng thể chế để quản trị quốc gia. Có những bản hiến pháp quy định chi tiết, có bản hiến pháp quy định mang tính nguyên tắc.

Hiến pháp là văn bản chính trị pháp lý, chỉ đưa ra có tính chất cương lĩnh, định hướng còn sứ mệnh để cụ thể hoá chính là các đạo luật. 


ĐBQH Lê Thanh Vân: ba vấn đề là chế độ sở hữu, bảo vệ tài sản, bảo vệ chế độ hợp đồng đang là những vấn đề cốt tử

Trong hiến pháp của Việt Nam có những định chế được quy định rõ ràng, nhưng có những định chế chỉ mang tính nguyên tắc hay quy phạm chính trị. Quốc hội có nhiệm vụ thể chế hóa các quy định đó bằng văn bản pháp luật cụ thể - là quy tắc xử sự bắt buộc cả xã hội phải tuân theo.

Tuy nhiên, việc thể chế hoá không rõ ràng, thậm chí mâu thuẫn nhau trong không ít trường hợp. Có nhiều nguyên nhân: do hiến pháp quy định không rõ hoặc luật pháp diễn đạt sai các định chế hiến pháp nên mâu thuẫn, xung đột pháp luật đã diễn ra.

Bên cạnh đó, chất lượng các luật phụ thuộc hữu cơ vào chất lượng cán bộ. Nếu với tinh thần quy định của hiến pháp đó nhưng người này chủ trì hiểu theo nghĩa này, người chủ trì khác hiểu theo nghĩa khác thì chất lượng là khác, chưa nói đến bộ, ngành, địa phương can thiệp vào.

Chỉ trong lĩnh vực kinh tế, ba vấn đề là chế độ sở hữu, bảo vệ tài sản, bảo vệ hợp đồng đang là những vấn đề cốt tử, là nền tảng để quy kết trách nhiệm cho những cá nhân sử dụng quyền lực để lộng hành, trục lợi hay giúp ngăn chặn các vi phạm pháp luật, hoặc thúc đẩy/hạn chế các quan hệ kinh tế và thu hút nội lực cho phát triển kinh tế xã hội.

Nhà nước đại diện nhưng Nhà nước là ai?

Ba lĩnh vực ông vừa đề cập đã được xác định là những nền tảng còn rất yếu ở Việt Nam. Xin ông nói rõ từng điểm một, trước hết là chế độ sở hữu trong hoạt động lập pháp cũng như thực tiễn?

Về chế độ sở hữu, trong hiến pháp quy định sở hữu toàn dân, tập thể, sở hữu tư nhân. Riêng sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện, nhưng nhà nước là ai, cách thức sử dụng quyền đại diện của Nhà nước, đại diện cho sở hữu toàn dân thì luật quy định chứ Hiến pháp không quy định.

Chẳng hạn, Luật Đất đai quy định sở hữu toàn dân và Nhà nước là đại diện. Nhà nước là ai, là thiết chế nào? Nhà nước được hiểu là Quốc hội, là cơ quan ban hanh điều lệ; Nhà nước cũng là Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Nhân dân các cấp, các bộ ngành vì đó cũng là các cơ quan Nhà nước sử dụng quyền lực Nhà nước để thực hiện chức năng đại diện cho sở hữu toàn dân.

Bản chất có thật vậy không? Ví dụ, Hội đồng Nhân dân có thẩm quyền quyết định quy hoạch và thay đổi quyền sử dụng đất. Nhưng nếu Hội động nhân dân vận hành theo ý chí cá nhân, chủ quan của một ông Bí thư tỉnh uỷ hay Chủ tịch tỉnh lộng hành quyền lực thì đó không phải là ý chí Nhà nước mà là sự tiếm quyền của cá nhân nhân danh Nhà nước. Khi có sai phạm xảy ra mới xem lại các quy định, thấy có kẽ hở, nhiều điều luật chưa chặt.

Vì thế, phải củng cố làm sao chế độ tập thể ra tập thể, cá nhân ra cá nhân. Ông Bí thư tỉnh uỷ đưa ra đường hướng và chịu trách nhiệm đường hướng đó. Còn đến lúc ông Chủ tịch Ủy ban Nhân dân trình ra Hội đồng Nhân dân thì một mặt ông chịu sự lãnh đạo của Đảng là cấp uỷ. Đừng nghĩ ông ấy tuân thủ chỉ đạo trực tiếp của ông Bí thư mà là của tập thể. Và trong quyết định tập thể đó, mối liên hệ giữa cá nhân ông Bí thư và tập thể như thế nào?


Một loạt vi phạm đất đai vừa rồi là do tiếm quyền cá nhân, lộng hành quyền lực để biến tập thể thành công cụ hợp thức hoá việc trục lợi. Ảnh minh hoạ: Hoàng Hà

Chẳng hạn, Ban thường vụ Tỉnh uỷ ra một nghị quyết sai trái, tính chịu trách nhiệm cá nhân trong tập thể đó phải bóc tách ra. Một người từ đầu phản đối và có cơ chế bảo lưu ý kiến của mình một cách tường minh, sau này người đó không chịu trách nhiệm và thậm chí họ có công chống lại nghị quyết sai trái. Không thể cứ "vơ đũa cả nắm" bắt họ phải chịu trách nhiệm!

Khi làm rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân, lúc đó tính chịu trách nhiệm của tập thể mới chất lượng và không mượn bàn tay tập thể tiếm quyền, hợp thức hoá các quyết định cá nhân.

Một loạt vi phạm đất đai vừa rồi là do tiếm quyền cá nhân, lộng hành quyền lực để biến tập thể thành công cụ hợp thức hoá việc trục lợi. Sau khi điều tra, kiểm tra mới phát hiện ra đã muộn rồi.

Trên thực tế, trong một số vụ án liên quan đến đất đai gần đây, quyết định của tập thể nhưng rồi cá nhân lại chịu trách nhiệm. Ông có thấy sự mâu thuẫn không?

Trong một số vụ án, cơ quan điều tra xác định vai trò, trách nhiệm cá nhân có mục đích, động cơ cá nhân nên họ phải chịu trách nhiệm cá nhân. Trong pháp luật hình sự, yếu tố quan trọng nhất trong xác định yếu tố cấu thành tội phạm là chủ thể mặt chủ quan, khách thể mặt khách quan.

Ví dụ, một ông đứng đầu tỉnh chịu trách nhiệm cá nhân về dấu hiệu cấu thành tội phạm rất rõ ràng. Chủ thể đó là ông ấy có quyền quyết định, chi phối vì có chức vụ. Về mặt chủ quan, ông nung nấu sẵn ý định hoặc nghĩ đến lợi ích nhóm gia đình chi phối. Về mặt khách thể là lợi ích nhà nước bảo vệ, chế độ sở hữu, trật tự quản lí đất đai, là tài sản của Nhân dân và Nhà nước. Khách quan xảy ra, hậu quả có rồi nên dễ dàng quy kết trách nhiệm cá nhân.

Điều phức tạp hiện nay là nhập nhằng giữa cá nhân và tập thể. Kẻ phạm tội dùng quyền lực của mình chi phối áp đặt rất tinh xảo và nếu không dùng nghiệp vụ sắc xảo tinh vi không bóc trần ra được.

Vì vậy, làm nhân sự mà trao nhầm cho những người không đủ tầm tư duy, phẩm chất đạo đức thì nguy cơ cao. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cảnh báo chuyện đó.

Phải bảo vệ tài sản cho dân

Xin ông nói tiếp về cơ chế bảo vệ tài sản – vấn đề cũng còn đang rất yếu hiện nay?

Bảo vệ chế độ tài sản cho các chủ thể có quyền sở hữu tài sản đã được quy định trong Hiến pháp nhưng các Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật liên quan có thể thể hiện nhất quán hay không?

Trên thực tế, làm luật không phải do một chủ thể mà nhiều chủ thể tham gia. Đặc biệt, việc soạn thảo luật lại được giao cho chính cơ quan hành pháp xây dựng để áp dụng trong chính lĩnh vực mình quản lý nên dẫn đến tình trạng chủ quan, cài cắm lợi ích, thu cái lợi cho mình còn đẩy cái khó cho người.

Ví dụ, bảo vệ tài sản là chuỗi tư tưởng nhất quán xuyên suốt, ai cũng phải bình đẳng trước pháp luật, tài sản là mồ hôi xương máu tích tụ nhiều đời phải được bảo đảm.


Tài sản là mồ hôi xương máu tích tụ nhiều đời phải được bảo đảm. Ảnh: Hoàng Hà

Tài sản đất đai hiện nay là giá trị được đong đếm bằng tiền, mảnh đất được quyền sử dụng như đất ở, đất nông nghiệp... đều quy được thành tiền thật. Quyền tài sản đong đếm được bằng tiền, bằng vàng, bằng giá trị cụ thể. Một miếng đất thuộc về quyền sử dụng đất ở. Chúng ta không có sở hữu đất đai, mà có quyền sử dụng đất ở. Khi quy ra tiền ở thời điểm, ví dụ giải phóng mặt bằng, Nhà nước trưng thu bao nhiêu chưa bàn nhưng trước hết phải bảo vệ quyền đó cho dân. Thu hồi, cưỡng chế… chính là quyền tài sản của dân bị xâm hại.

Ví dụ khác, doanh nghiệp bỏ vốn, tài sản đầu tư vào dự án. Nhưng Nhà nước vì lí do khách quan nào đó thay đổi chính sách, quy hoạch, làm méo mó giá trị tài sản đó, làm dự án không triển khai được, vậy làm sao doanh nghiệp họ tin được.

Vì thế, các quy phạm pháp luật về bảo vệ tài sản phải nhất quán, bình đẳng, ngang giá, bảo vệ cho bất kì các chủ thể nào, bất kể là ai.

Vì sao ông Chủ tịch lên sau lại "đòi lại"?

Bảo vệ chế độ hợp đồng, như ông đề cập, đang rất “yếu và thiếu” như nhiều báo cáo trước đó đã nhận định. Xin ông nói rõ hơn điểm này?

Hợp đồng là cam kết của các bên khi tham gia quan hệ kinh tế cụ thể. Chỗ này Nhà nước phải bảo vệ nhưng hiện nay các đạo luật lại quy định thiếu thống nhất.

Ví dụ, một doanh nghiệp đầu tư một dự án trên địa bàn tỉnh A. Trong nhiệm kì này ông Bí thư, Chủ tịch mời họ bằng được để làm và mở tối đa cơ chế ưu đãi, thậm chí cho phép lập dự án triển khai trước khi làm xong các quy trình, thủ tục. Nhưng trong nhiệm kì sau, các ông khác lên thay lại quy doanh nghiệp phạm tội.

Ở đây có câu chuyện hợp đồng không được bình đẳng, không được bảo vệ. Doanh nghiệp ký kết hợp đồng với ông Chủ tịch, vậy ông Chủ tịch đó không phải cá nhân ông ấy mà nhân danh Nhà nước. Tại sao sau đó ông Chủ tịch sau lại đòi lại, hủy hợp đồng? Chả nhẽ lại có mấy Nhà nước, Nhà nước của ông lên sau đúng, Nhà nước của ông trước sai hay sao mà lại đòi hủy hợp đồng Nhà nước đã ký với doanh nghiệp?!

Vì thế, hệ thống pháp luật phải được thiết kế để bảo vệ hợp đồng. Điều này trong Hiến pháp cũng có rồi.

Nếu không có những quy định pháp luật nhất quán, tường minh, nếu hệ thống pháp luật thiếu vắng các quy định chặt chẽ, một mặt các chủ thể pháp nhân có thể tranh thủ đục nước béo cò; nhưng mặt khác, chính các chủ thể đó cũng có thể mắc bẫy, sa chân vào vòng lao lý.

Quan hệ bất bình đẳng

Nhìn ra thế giới, việc bảo vệ chế độ hợp đồng là giá trị pháp lý cực kỳ quan trọng mà nhiều quốc gia đã thực hiện từ lâu. Ở Việt Nam lại khác bởi có không ít loại hợp đồng méo mó lắm?

Trong kì họp thứ 4 của Quốc hội vừa rồi, tôi có trao đổi với Thủ tướng về vấn đề bảo đảm an ninh năng lượng và đề nghị Chính phủ chỉ đạo rà soát cách tính giá điện đầu vào ở các cơ sở sản xuất địên. 

Ví dụ, trong sản xuất điện rác hiện nay có những doanh nghiệp ăn 2 lần trong cả xử lý rác và sản xuất điện. Nhà nước phải chi ngân sách cho việc thu gom xử lí sơ cấp, vận chuyển đến nhà máy nhưng lại bỏ qua chi phí đó khi tính giá thành điện. Chuyện này phải tính toán lại.

Hay là việc thông thầu, chuyển nhượng thầu trái pháp luật. Tình trạng một doanh nghiệp ký hợp đồng với Nhà nước, rồi bán lại cho doanh nghiệp khác hay núp dưới hình thức hợp tác để ăn chênh lệch là không chấp nhận được. 

Cần điều tra, xử lí nghiêm để tạo sân chơi cho doanh nghiệp đủ năng lực tham gia, đẩy nhanh tiến độ thi công, bảo đảm chất lượng, giảm giá thành. Hiệp hội các nhà đầu tư hạ tầng giao thông đã có văn bản kiến nghị Chính phủ. Tôi mới đi khảo sát mấy tuyến thấy có chuyện đó thật. Đây là việc vi phạm chế độ hợp đồng.


Ảnh minh hoạ: Hoàng Hà

Hay một ví dụ khác, có nhà đầu tư thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết với chính quyền địa phương. Uỷ ban Nhân dân tỉnh cũng cam kết rất hay, đưa ra vốn đối ứng 2000 tỷ đồng, cam kết chế độ thu phí, phân luồng giao thông… Tuy nhiên, khi dự án hoàn thành, đường được đưa vào sử dụng thì tỉnh không thực hiện các cam kết, thậm chí gây áp lực với chủ dự án phải cho người tham gia giao thông trên đường đó được đi miễn phí, và bắt gỡ một làn thu phí.

Làm như vậy đã đẩy doanh nghiệp vào chỗ chết. Đó là vi phạm chế độ hợp đồng, sử dụng quyền lực nhà nước bất bình đẳng, khi kí kết, chủ thể ngang bằng nhưng khi điều chỉnh lợi ích lại sử dụng quyền lực nhà nước bắt doanh nghiệp phải gỡ bỏ cam kết đó, đơn phương vi phạm.

Để cán bộ dám làm, dám chịu trách nhiệm

Vậy làm sao khắc phục tình trạng này trong bối cảnh có nhiều lời kêu gọi cán bộ dám làm, dám chịu trách nhiệm?

Ở góc độ hợp đồng, phải có điều khoản bổ sung, hoặc điều khoản về trường hợp bất khả kháng mà khi xảy ra phải thảo luận lại; hay có hợp đồng phụ. Còn ở góc độ Nhà nước, là trao quyền cho nhân sự nắm giữ chức vụ chứ không phải cá nhân đó để họ không tuân thủ hợp đồng.

Về sandbox (chế độ thử nghiệm) cho quy chế bảo vệ những người dám làm, dám chịu trách nhiệm, vì lợi ích chung, chúng ta chưa tổng kết đánh giá chế độ trách nhiệm cá nhân. Trong các văn bản của Đảng có nhắc đến nhưng ở văn bản pháp lý còn thiếu vắng.

Chung nhất, Hiến pháp quy định trách nhiệm của Thủ tướng, Chủ tịch nước; còn luật quy định trách nhiệm của Chủ tịch, Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh và cả cấp huyện xã.

Ở Quốc hội và Hội đồng nhân dân, với chế độ làm việc tập thể, không thể quy định trách nhiệm cá nhân, hay người đứng đầu được vì đều là Đại biểu Quốc hội.

Nhưng Chính phủ có chế độ làm việc tập thể và chế độ làm việc cá nhân.  Hiến pháp và luật quy định rõ thẩm quyền chung là Chính phủ, thẩm quyền riêng là Thủ tướng. Lẽ ra, vị trí Thủ tướng cần sử dụng thẩm quyền riêng của mình nhiều hơn, hiệu quả hơn.

Về nhà nước phải phân biệt chế độ làm việc tập thể phải là tập thể, không nhân danh cá nhân được, trừ một số nhiệm vụ, ví dụ của Chủ tịch Quốc hội. Chúng ta còn lẫn lộn nên dẫn đến danh xưng khác nhau, tác động đến tâm lí chấp hành và tuân thủ pháp luật khác nhau.

Tư Giang – Lan Anh thực hiện

'NHÂN TÀI PHẢI CÓ LỐI ĐI RIÊNG CHO HỌ'

TƯ GIANG, LAN ANH th /TVN 14-2-2023

"Hiện nay ta đang đồng nhất viên chức, công chức với nhân tài. Nhân tài bị trói buộc bởi quy định công chức, viên chức, trong đó trước hết là ngăn chặn độ tuổi. Nhân tài làm gì có tuổi!".

Tuần Việt Nam tiếp tục cuộc trao đổi với đại biểu Quốc hội Lê Thanh Vân.

Các vụ án gần đây đều liên quan đến quan chức Nhà nước, cán bộ của Đảng. Theo ông, nó là vấn đề gì, do con người suy thoái hay thể chế quản lí chưa theo kịp sự phát triển?

Suy cho cùng là thể chế. Nền tảng nhận thức là nền tảng có tính chất bản chất, bản chất thể chế phải làm sao về mặt nhận thức phải nhất quán từ đầu đến cuối, nội hàm ổn định, không thay đổi. Ta chưa làm tốt định hướng chính trị trong hiến văn. Hiến pháp ta có rồi nhưng cụ thể hoá bằng pháp luật làm chưa tốt.

Công tác nhân sự liên quan đến thể chế cán bộ có mấy yếu tố cấu thành:

Thứ nhất, hệ thống văn bản quy định tiêu chuẩn, tiêu chí của cán bộ và phân loại cho từng nhóm cán bộ. Hiện nay, phần lớn các văn bản thiên về hình thức mà chưa chú trọng đến tiêu chí mang tính chất quyết định là thực chứng. Đánh giá cán bộ thường dựa vào các tiêu chí hình thức như trình độ, tín nhiệm, từng trải, chức vụ đảm nhiệm… nhưng chưa coi trọng đến thành quả, chất lượng hoạt động của họ thế nào.


ĐBQH Lê Thanh Vân: Cần có quy định pháp luật về trọng dụng nhân tài rạch ròi

Trung Quốc làm rất tốt công tác cán bộ. Họ đánh giá phạm vi rộng và phát hiện nhân sự từ lựa chọn số đông. Ví dụ, họ quy định bắt buộc là Chủ tịch huyện phải xuất thân từ Chủ tịch xã, rồi Chủ tịch xã nào giỏi được đưa vào sàng lọc rồi mới được làm Chủ tịch huyện.

Còn ở ta, cơ chế luân chuyển cán bộ là luân chuyển luôn các chức vụ chứ không đánh giá họ làm có thành công không. Chọn nhân sự làm Bộ trưởng cứ phải là Uỷ viên Trung ương, trải qua ít nhất vị trí Bí thư Tỉnh uỷ. Công tác cán bộ như vậy thì đơn giản quá. Lẽ ra phải xem con người cụ thể đó đã làm được gì trong kiến nghị chính sách, vận hành chính sách; xem họ đã để lại thành tích gì cụ thể.

Thứ hai, trong thể chế cán bộ, các văn bản liên quan phải quy định tiêu chuẩn cán bộ, phân loại cán bộ vì cán bộ là con người chứ không phải thánh có thể làm được hết các lĩnh vực.

Phải phân ra các nhóm. Dẫn đầu là những người khởi xướng chính sách, các chính trị gia.

Ở một số quốc gia phát triển, các chính trị gia xuất sắc trong Quốc hội được chọn làm ứng cử viên tranh cử Tổng thống vì Quốc hội là nơi tranh cãi về chính sách, thuyết phục chính sách, ai dẫn dắt được thì người đó là ứng cử viên Tổng thống. Còn ta đánh giá cán bộ dựa vào phiếu tín nhiệm, không có thực chứng kiểm tra.

Thứ ba, trong nhóm thể chế cán bộ có cách thức lựa chọn cán bộ qua quy trình năm bước, nhưng nếu cái tâm cán bộ không sáng, biết giấu đi tham vọng thì quy trình tưởng chặt chẽ nhưng lại cong veo.

Cuối cùng, thể chế cán bộ là các quy định về tiêu chuẩn, quy trình về bộ máy và về nhân sự. Công tác nhân sự không thể đứng tách biệt vì nó là lựa chọn con người cụ thể.

Vì sao cha ông ta ngày xưa chọn được người tài giỏi thế? Vua phải chọn người tài. Nên phải học tập cách thức vận hành chế độ quan chế của các triều đại phong kiến để thích ứng với tâm lí chính trị Việt Nam.

Cần tổ chức thi tuyển, đi kèm đó là chế độ hà khắc trong việc trừng trị gian lận thi tuyển. Chọn nhân sự sai, hậu quả lớn hơn nhiều so với tham nhũng. Nên thể chế cán bộ nói chung, đặc biệt công tác nhân sự là yếu tố quan trọng vì cung cấp nhân lực cho việc khởi xướng chính sách, xây dựng thể chế, cụ thể hoá vận hành thể chế. Tất cả do con người mà ra.

Vậy ông suy nghĩ thế nào câu chuyện chảy máu nguồn nhân lực từ công sang tư, như y tế, giáo dục và một số ngành khác?

Ở một kì họp Quốc hội khoá 14, Bộ trưởng Nội vụ Lê Vĩnh Tân trình bày công việc của Bộ Nội vụ đang xây dựng chiến lược sử dụng nhân tài, phấn đấu đến 2026-2030 có 2-5% nhân tài làm lãnh đạo các Bộ. Câu chuyện khá nực cười.

Hoá ra lâu nay nhân tài không được trọng dụng ở các Bộ hay sao?! Đây là cách thừa nhận gián tiếp, lâu nay nhân tài chưa được trọng dụng. Vì sao nhân tài chưa được trọng dụng? Vì có nhân tài mới chọn được nhân tài. Sự thừa nhận của ông Lê Vĩnh Tân chứng tỏ nhân tài trong bộ máy lãnh đạo của ta quá khiêm tốn, mà không có nhân tài sao chọn được nhân tài!


Vì sao chuyện thu hút nhân tài chúng ta cứ nói mãi rồi, từ trung ương đến địa phương, mà rốt cục lại chưa thu hút nhân tài?  

Thứ nhất, chưa có văn bản pháp luật quy định như công việc bắt buộc của cả hệ thống trong việc trọng dụng nhân tài. Hiện nay chỉ có văn bản mang tính chất cương lĩnh, chưa có văn bản pháp lý mang tính chất bắt buộc.

Tôi đã liên tục đề nghị xây dựng Luật trọng dụng nhân tài ở các khoá Quốc hội 13,14 nhưng không được đồng ý. Tôi cho rằng, để tạo cơ sở pháp lý trong sinh hoạt quyền lực phải có Luật trọng dụng nhân tài, trong đó quy định nhân tài là ai, định dạng nó ra.

Các nguyên tắc của Nhà nước đặt ra trọng dụng bảo vệ nhân tài; quy trình, cách thức lựa chọn chế độ tiến cử nhân tài; chế độ trách nhiệm của thể nhân, pháp nhân, trong đó những hành vi ngáng trở, trù dập nhân tài phải trừng trị nghiêm khắc.

Tại sao khi tài sản cụ thể như tài nguyên, đất đai, sông hồ bị phá hoại thì kẻ phá hoại bị pháp luật trừng trị, mà những kẻ phá hoại nhân tài, ngáng trở, bức hại nhân tài là tài nguyên vô giá của đất nước lại không bị trừng trị?!

Tóm lại, phải có quy định pháp luật về trọng dụng nhân tài rạch ròi, trở thành sinh hoạt chính trị, trong đó có khuyến khích, khen thưởng những ai tiến cử nhân tài cho đất nước và trừng trị những ai lợi dụng cơ chế chính sách tiến cử nguỵ nhân tài để đưa vào vì lợi ích nhóm.

Thứ hai, bản thân những người làm công tác lựa chọn nhân sự, người có chức vụ quyền hạn có trách nhiệm tìm người kế nhiệm cho mình mà tâm không sáng, trí không minh làm sao chọn được người tài. Chưa kể tầm của họ không phải người tài làm sao quy tụ được người tài.

Thứ bangười tài thực sự có lòng tự trọng cao, họ không phải là những người sống hai mặt, lươn lẹo, luồn cúi. Nhân tài có lòng tự trọng vì họ có chính kiến, biết đâu là lẽ phải thì tôn thờ lẽ phải, đâu là chính nghĩa thì phụng sự chính nghĩa. Chỉ có nhân tài mới nhìn ra nhân tài được. Trước những vị lãnh đạo thấp kém hơn họ, hèn hơn, thích nịnh bợ thì họ không bao giờ làm vì có lòng tự trọng.


Ông Lê Thanh Vân: Tôi đã liên tục đề nghị xây dựng Luật trọng dụng nhân tài ở các khoá Quốc hội 13,14

Từ xưa cha ông ta đã có chính sách trọng dụng nhân tài. Vua cho sứ giả đi tận hang cùng ngõ hẻm mời người tài ra cứu nước. Trong thần thoại cũng có nhân vật Thánh Gióng được mời ra giúp nước. Các triều Lê, Lý đều có các chiếu cầu hiền. Khi Bác Hồ còn sống cũng có 2 công thư được coi là chiếu cầu hiền các năm 1945 và 1946 cực kỳ gian khó.

Kinh tế đã phát triển rất ngoạn mục và khu vực tư đã phát triển nhanh chóng, đa dạng. Trong khi đó, khu vực công chưa đồng điệu; năng lực và bản lĩnh của không ít cán bộ chưa theo kịp nhu cầu phát triển. Ông nghĩ sao về nhận định này?

Đây là câu chuyện nói mãi không hết. Chúng ta đã xác định ba điểm nghẽn tư duy về kinh tế, đó cũng chính là ba đột phá có tính chất thể chế. Tuy nhiên, giải quyết các điểm nghẽn đó không thể bàn ngọn, mà phải bàn cái gốc ai là người vận hành thể chế đó? Ở đây chính là cán bộ, là công tác nhân sự.

Thứ nhất, chúng ta cần tư duy, thay đổi cách làm bằng cách phải chú trọng đến vấn đề gốc rễ này. Đi cùng với đó là sửa sang luật pháp, cải cách thể chế qua việc chấn hưng công tác cán bộ, thay đổi tư duy về công tác nhân sự. Hiện nay ta đang đồng nhất viên chức, công chức với nhân tài.

Nhân tài bị trói buộc bởi quy định công chức, viên chức, trong đó trước hết là ngăn chặn độ tuổi. Nhân tài làm gì có tuổi! Họ phải vượt qua các quy định, rào cản về tuổi đối với công chức viên chức.

Viên chức, công chức là tuổi lao động của những người bình thường, phải quy định bằng luật pháp để bảo vệ sức khoẻ, thời gian nghỉ ngơi của họ cuối đời nhưng với nhân tài cần có chính sách riêng.

Ta đang đưa nhân tài đi chung đường với những lao động bình thường. Điều này không đúng với nguyên lí.


Cần có cơ chế bảo vệ nhân tài, khi trao cho họ quyền phải cho họ không gian được quyền chủ động sáng tạo.

Thứ hai, vẫn là câu chuyện quy trình lựa chọn nhân tài đặt ra chung chung đồng nhất với các chức vụ lãnh đạo. Cần có thiết chế mới để lựa chọn lãnh đạo quản lí thay vì chủ yếu dựa vào những tiêu chí đánh giá có tính chất định tính hiện nay.

Ví dụ, khi chọn người lãnh đạo, ta so bó đũa chọn cột cờ, phát hiện trong nội bộ trước, bao giờ cũng cho nhân sự tại chỗ. Cách làm này đã giới hạn phạm vi. Phạm vi càng rộng mới phát hiện được nhân tài. Cách bỏ phiếu tín nhiệm để giới thiệu nhân sự cũng không thể chọn được nhân tài. Nhân tài phải có lối đi riêng cho họ.

Thứ ba, cơ chế bảo vệ nhân tài, khi trao cho họ quyền phải cho họ không gian họ được quyền chủ động sáng tạo.

Tôi đánh giá cao Kết luận 14 của Bộ Chính trị mới ban hành năm ngoái. Nó là nội dung quan trọng để trở thành Luật trọng dụng nhân tài, để bảo vệ và phát huy người tài.

Ông có thể nêu một số câu chuyện thực tiễn trong cuộc sống về những điều ông vừa nói?

Câu chuyện ở đại học Tôn Đức Thắng chúng ta đã từng biết. Tôi không bảo vệ cá nhân ông hiệu trưởng mà tôi bảo vệ chính sách tự chủ đại học. Ở đây có 3 góc nhìn: Một là, nhìn vào động cơ họ có phải vì lợi ích chung không, hai là nhìn cách thức họ vận hành, ba là nhìn kết quả của họ. Ba điều đó mà không chi phối bởi lợi ích cá nhân thì phải bảo vệ họ.

Nếu không có cơ chế bảo vệ nhân tài, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung thì không ai dám làm. Bên cạnh xử lí nghiêm khắc các vi phạm pháp luật, phải có cơ chế bảo vệ những cán bộ dám nghĩ, dám làm, bảo vệ người tài.

Chúng ta muốn đột phá để phát triển, để bắt kịp thế giới, phải bắt đầu bằng thể chế, mà lực lượng để đột phá thể chế là nhân sự. Muốn có nhân sự phải thay đổi cách nhìn nhận với người tài.

Trước đây có hai trường hợp là ông Đỗ Mười và Lê Khả Phiêu, một ông vào Trung ương dự khuyết lúc 60 tuổi, một ông vào Trung ương lúc 61 tuổi, hai ông đều trở thành Tổng Bí thư. Lúc đó gần như không có quy định về độ tuổi nghỉ hưu với lãnh đạo, đương nhiên lãnh đạo không đồng nghĩa với nhân tài. Nhưng nếu không gỡ bỏ các quy định độ tuổi thì ta không có các vị Tổng Bí thư đó.

Thứ nữa, quy định tuần tự, làm chức vụ này phải tuần tự trải qua chức vụ kia, đó là chủ nghĩa kinh nghiệm. Trên thế giới chỉ một số nước áp dụng. Ta đang vận hành cơ chế cán bộ đảm nhiệm các chức vụ quản lí hành chính đồng nhất với cán bộ chính trị là chính khách là không đúng.

Với chính khách chỉ có con đường lựa chọn qua tranh cử. Chúng ta hoàn toàn có thể giới thiệu một nhóm nhân sự do Đảng chọn, trong cơ quan bầu họ. Trong lịch sử Đảng ta đã từng làm với ông Võ Văn Kiệt và ông Đỗ Mười.

Thay đổi tư duy chọn người tài. Cách thức lựa chọn tách họ ra quỹ đạo khác, chọn từ số đông và thuyết phục từ số đông bằng lí lẽ, chính sách của mình.

Quy hoạch cán bộ là đúng nhưng có tĩnh có động. Tĩnh trong trạng thái không tìm được ai thì ta sử dụng trong nguồn đó. Mở là lấy người ngoài quy hoạch, mà xin nói thẳng thắn, người ngoài quy hoạch có khi xứng đáng hơn, tài năng hơn.

Tư Giang – Lan Anh thực hiện

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét